Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

(Skkn 2023) sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ngữ văn bậc trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 28 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẠ HÒA
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ LANG SƠN

SÁNG KIẾN
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN
BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ

Họ và tên: Nguyễn Thị Vân Anh
Chức vụ: Giáo viên

MỤC LỤC

Hạ Hòa, năm 2019


MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG

TRANG

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I

Cơ sở lý luận

1

II


Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến

2

III

Mục tiêu

2
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN

I

Nêu vấn đề của sáng kiến kinh nghiệm

4

1

Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề

4

2

Chỉ ra các tồn tại, hạn chế

4

3


Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế

5

4

Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng

6

kiến
II

Giải pháp để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm

6

1

Tìm hiểu về sơ đồ tư duy

6

2

Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt
động dạy học

9


III

Kết quả và khả năng áp dụng, nhân rộng

18

IV

Giải pháp tổ chức thực hiện

20

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT/KIẾN
NGHỊ
I

Kết luận

21

II

Ý kiến đề xuất kiến nghị

21


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


Stt

Danh mục chữ viết tắt

Ý nghĩa


1

SĐTD

Sơ đồ tư duy

2

PPDH

Phương pháp dạy học

3

THCS

Trung học cơ sở

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I. Cơ sở lý luận
Ngữ văn là một bộ môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Đây là mơn học có
vai trị rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Ngữ văn cung cấp cho chúng ta những tri thức nhất định về cuộc sống đa chiều,

đa diện đang diễn ra, đồng thời, bồi đắp tư tưởng, tình cảm và góp phần hình
thành, hồn thiện nhân cách đạo đức cho mỗi cá nhân. Ngữ văn trong nhà


trường được chia thành ba phân mơn đó là: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn.
Từng khía cạnh, nội dung của ba phân mơn này đều có ý nghĩa thiết thực, gắn
liền với thực tế đời sống. Ngoài ra, Ngữ Văn cịn là mơn học có mối quan hệ với
rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường. Học tốt mơn Ngữ Văn sẽ tác
động tích cực tới các môn học khác và ngược lại.
Tuy nhiên, trên thực tế, dạy học Ngữ văn cịn gặp khơng ít khó khăn. Một
bộ phận học sinh chưa có niềm u thích, say mê và hứng thú đối với môn học
này. Các em chưa cảm nhận được hết những giá trị nhân văn cũng như sự hữu
ích mà mơn học mang lại. Mặt khác Ngữ văn cũng là bộ mơn địi hịi năng khiếu
và sự cảm nhận tinh tế của cá nhân mỗi học sinh. Cùng với những lí do trên thì
trong q trình dạy học Ngữ văn cịn tồn tại nhiều bất cập. Xu hướng đọc – chép
vẫn phổ biến nhiều ở các nhà trường, chưa có sự đổi mới trong phương pháp
giảng dạy. Do đó, chất lượng và hiệu quả của bộ môn Ngữ văn đạt được chưa
cao, đặc biệt là đối với các trường Trung học cơ sở.
Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành Quyết
định số 16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp
giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH.
Từ đó, việc thực hiện đổi mới được diễn ra liên tục và toàn diện trên tất cả các
môn học. Đặc biệt, năm học 2011 - 2012 là năm học Bộ Giáo dục và đào tạo tiếp
tục đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn trong
trường phổ thông. Trước tình hình đó, địi hỏi mỗi giáo viên giảng dạy Ngữ văn
cần phải có sự thay đổi tư duy, cách nghĩ và cách làm của mình. Giáo viên cần
lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của người học thông qua các PPDH mới mẻ, linh hoạt và hiệu quả.
Nói tới PPDH là nói đến cách dạy của người thầy. Cùng một nội dung, một
đơn vị kiến thức nhưng mỗi người giáo viên sẽ có những cách truyền thụ riêng,

khơng giống nhau. Thực tế cho thấy, nếu giáo viên có sự thay đổi, tích cực áp
dụng các phương pháp mới vào giảng dạy thì sẽ đem lại kết quả cao hơn so với
việc dạy học thụ động, theo lối mòn trước đây. Đối với mơn Ngữ văn, đây là
mơn học có đặc thù riêng. Bởi, ngồi tính cơng cụ, nó cịn có tính nghệ thuật,
tính nhân văn rất cao. Do đó, để học sinh học tốt môn Ngữ Văn ở trường phổ
thơng nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải
tìm tịi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy
học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự
giác, bằng niềm say mê thật sự.
Trong những năm gần đây, một trong những phương pháp dạy học mới và
hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy (SĐTD).
Sơ đồ tư duy kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ
nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một cơng cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony
Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có
thể khẳng định rằng PPDH bằng SĐTD là một trong những PPDH hiện đại. Nó
giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng


và khả năng sáng tạo...Đây là một công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện
nay.
II. Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến
- Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về các phương pháp dạy học
tích cực đang được áp dụng trong quá trình dạy học của các nước trên thế giới
và ở Việt Nam. Tham khảo các tài liệu khoa học về phương pháp sử dụng SĐTD
trong dạy học, từ đó, định hướng cách thức vận dụng SĐTD vào giảng dạy môn
Ngữ văn ở bậc Trung học co sở.
- Tham khảo, lấy ý kiến từ đồng nghiệp thông qua các hoạt động đàm thoại,
trao đổi, tổng kết kinh nghiệm ở các buổi thảo luận chuyên đề, dự giờ thăm lớp,
nghiên cứu bài học.
- Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát, thăm dò ý kiến để tìm hiểu tình

hình thực tế giảng dạy mơn Ngữ văn hiện nay, nắm bắt được thái độ của học
sinh đối với mơn học. Sau đó, dựa trên kết quả thu thập, giáo viên so sánh, phân
tích nhằm đánh giá kết quả nhận thức của người học sau khi đã áp dụng SĐTD
vào giảng dạy một tiết học cụ thể.
- Tiến hành dạy thực nghiệm, sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong quá trình dạy
học để quan sát được thái độ, tâm lý, khả năng tiếp cận với phương pháp mới
của học sinh. Từ đó, có những điều chỉnh thích hợp, nhằm hoàn thiện hơn nữa
phương pháp sử dụng SĐTD vào dạy học môn Ngữ văn.
III. Mục tiêu
- Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này giúp mỗi giáo viên có thêm cái
nhìn thấu đáo hơn về việc đổi mới phương pháp dạy học trong giảng dạy môn
Ngữ văn. Sáng kiến đề xuất, làm rõ hơn về phương pháp sử dụng SĐTD, định
hướng cho người dạy cách thức thiết kế, các bước tổ chức và các hoạt động có
thể tiến hành SĐTD để đạt được hiệu quả cao nhất.
- Sáng kiến kinh nghiệm này xuất phát từ những trăn trở của tơi trong q
trình dạy mơn Ngữ văn ở bậc Trung học cơ sở. Đồng thời, nhằm tổng kết
phương pháp, cách thức kĩ năng, kinh nghiệm mà tôi thu được từ thực tiễn giảng
dạy của bản thân. Thông qua sáng kiến này, tơi mong muốn góp một phần nhỏ
vào đổi mới PPDH đối với mơn Ngữ văn nói riêng và q trình đổi mới căn bản
và tồn diện giáo dục nói chung.
- Với sáng kiến kinh nghiệm tơi tập trung vào vấn đề: “Sử dụng sơ đồ tư
duy trong dạy học Ngữ văn bậc Trung học cơ sở”, như một giải pháp hữu hiệu
để các đồng nghiệp cùng tham khảo. Từ đó, giúp nhau tháo gỡ phần nào thực
trạng dạy học văn hiện nay, không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học, mang
đến một tâm thế mới, sự say mê, hứng khởi của học sinh mỗi khi bước vào một
tiết học môn Ngữ văn.


CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. Nêu vấn đề của sáng kiến kinh nghiệm

1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề
Trong những năm gần đây, việc đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục,
trong đó có đổi mới phương pháp giảng dạy luôn được cả xã hội quan tâm. Làm


sao để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục? Làm thế nào để truyền lửa tri
thức một cách sinh động, hấp dẫn nhất? Và bằng cách nào để khơi dậy hứng thú
cũng như niềm say mê học tập cho học sinh? Đây là những câu hỏi thường trực
khiến cho người giáo viên vô cùng trăn trở. Để giải quyết vấn đề trên rất nhiều
phương pháp và kĩ thuật dạy học đã được đưa ra và ứng dụng tại nhà trường
phổ thông với mong muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả cho các mơn học,
trong đó có bộ môn Ngữ văn. Đây là điểm mới mẻ và thuận lợi rất lớn, góp phần
khơng nhỏ để đưa các phương pháp học tập sáng tạo, tiến bộ tiếp cận gần hơn
đến thầy cô và các em học sinh.
Trong các phương pháp dạy học Ngữ văn thì sử dụng sơ đồ tư duy không
hẳn là một phương pháp quá mới mẻ và khó khăn khi thực hiện. Chúng ta có thể
bắt gặp dạng đơn giản nhất của sơ đồ tư duy thơng qua hình thức sơ đồ hóa kiến
thức Tiếng Việt ở các bài học trong Sách giáo khoa Ngữ văn thuộc bậc Trung
học cơ sở. Phương pháp này giúp cho học sinh có thể hệ thống kiến thức một
cách ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, đồng thời, phát huy được khả năng tưởng
tượng phong phú và những năng lực riêng của từng cá nhân. Đặc biệt, giảng dạy
bằng sơ đồ tư duy phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học
sinh trở thành chủ thể thành nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở
nên hào hứng và hăng say hơn trong học tập.
Thực tế hiện nay, hầu hết các trường Trung học cơ sở đều có một đội ngũ
giáo viên giảng dạy Ngữ văn có kinh nghiệm, tâm huyết với nghề và luôn sẵn
sàng học hỏi, trau dồi các phương pháp dạy học mới nhằm nâng cao chất lượng
bộ môn. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học tương đối đầy đủ
phục vụ khá tốt cho quá trình vận dụng các phương pháp học tập vào từng tiết
học, đặc biệt là phương pháp sử dụng bản đồ tư duy.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, cịn tồn tại những khó khăn nhất
định khiến cho việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn chưa đạt được
hiệu quả cao nhất. Những khó khăn này xuất phát cả từ phía người dạy, người học
và một số yếu tố khác bên ngoài.
2. Chỉ ra các tồn tại, hạn chế
a. Về phía học sinh
Đa số học sinh cịn thờ ơ đối với bộ mơn Ngữ văn. Các em chưa tìm thấy
được niềm say mê, hứng thú với môn học. Do đây là môn học yêu cầu đối tượng
học cần có những cảm nhận, rung động ở mức độ nhất định đối với những nội
dung được truyền tải. Việc học sinh có tâm lý thụ động, ngại tư duy tưởng tượng
ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp thu tri thức của các em. Cho nên, sử
dụng sơ đồ tư duy vào giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường là rất cần thiết,
để tạo nên hứng thú góp phần khơi dậy tình cảm của học sinh đối với mơn học
này.
b. Về phía giáo viên
Mặc dù đội ngũ giáo viên ở Trung học cơ sở hầu hết có kinh nghiệm và năng
lực, nhưng khả năng vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực vào


tiết học còn hạn chế, chưa mang lại hiệu quả cao. Một số bộ phận giáo viên còn
thụ động, ngại đổi mới, hoặc cịn loay hoay chưa tìm ra cách thức hợp lý để khiến
giờ học của mình trở nên sinh động, thu hút được học sinh. Hiện nay, giáo viên ở
bậc Trung học cơ sở đã bước đầu tiếp cận và sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học
Ngữ văn, nhất là đối với các tiết học cần ôn tập và hệ thống hóa kiến thức như ở
phân mơn Tiếng Việt. Tuy nhiên, việc sử dụng này cịn thiếu linh hoạt, chưa đồng
đều, phổ biến, chưa phát huy được hết khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh.
Ngoài ra, hầu hết giáo viên mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng sơ đồ tư duy để hệ
thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay mỗi bài ôn tập, tổng kết một phân
môn, một mảng kiến thức nào đó mà thơi. Họ chưa mạnh dạn đưa sơ đồ tư
duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học làm hạn chế đi tính chất phổ

biến và đa năng của phương pháp này. Vì vậy, chưa phát huy một cách đầy
đủ công dụng của sơ đồ tư duy trong q trình dạy học mơn Ngữ văn.
3. Ngun nhân của những tồn tại, hạn chế
- Học sinh chưa u thích mơn Ngữ văn nói chung, cịn thụ động trong tiếp
nhận, khả năng cảm thụ còn hạn chế.
- Do đặc thù của bộ môn Ngữ văn là môn học có những yêu cầu nhất định
về năng lực thẩm mĩ. Yếu tố về năng khiếu chi phối một phần không nhỏ đến
quá trình học tập và kết quả đạt được của học sinh.
- Phần lớn phụ huynh học sinh chưa có sự quan tâm chưa thoả đáng đối với
mơn Ngữ văn nên định hướng cho học sinh theo học các môn khoa học tự nhiên.
Do vậy phần nào ảnh hưởng đến tâm lí học của học sinh.
- Nhà trường và tổ chun mơn: mặc dù có tổ chức thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy, tuy nhiên hình thức chưa đa dạng, hiệu quả cịn hạn
chế, gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và áp dụng phương pháp mới.
- Giáo viên: còn quen với các phương pháp cũ, chưa thực sự chủ động
trong việc đổi mới phương pháp. Khi sử dụng phương pháp mới vào giờ học còn
lúng túng, chưa thực hiện đúng các bước tiến hành nên hiệu quả đạt được chưa
cao.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho bộ mơn cịn
thiếu xót. Thời gian mỗi tiết học chỉ có 45 phút trong đó giáo viên vừa truyền tải
kiến thức vừa phải hướng dẫn học sinh trong các hoạt động học.
- Hơn thế nữa, sĩ số mỗi lớp học tương đối đông nên rất khó cho giáo viên
trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết học.
4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến
Từ thực trạng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc
Trung học cơ sở nói chung, và tại trường THCS Lang Sơn nói riêng, tôi thấy
rằng để nâng cao chất lượng bộ môn, đạt được năng lực cho học sinh (năng lực
tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng
lực sử dụng ngôn ngữ) và hình thành ở các em niềm say mê, u thích môn học
là một vấn đề quan trọng và cần thiết.



Ngữ văn là mơn học mang tính nhân văn rất cao và có ý nghĩa quan trọng
đối với việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, hồn thiện nhân cách cho học sinh.
Vì vậy, cần phải có sự thay đổi trong phương pháp để các em hiểu và thấy được
những giá trị của môn học, nhằm đưa Ngữ văn trở về với đúng vị trị của nó
trong nhà trường, tránh tư tưởng ngại học, ngại tư duy tưởng tượng của học sinh.
Đồng thời, giúp cho các bậc phụ huynh có những định hướng đúng đắn hơn, từ
đó, động viên khích lệ con em mình trong việc học tập mơn học này.
Ngồi ra, trong xu thế đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay, để
bắt kịp với những bước tiến của giáo dục trên thế giới, thì việc áp dụng các
phương pháp mới trong giảng dạy là hoàn toàn cần thiết. Nó sẽ góp phần đưa
việc dạy và học Ngữ văn thốt khỏi lối mịn đang tồn tại, khơi dậy được hứng
thú của người học. Chính vì vậy, tơi thấy cần phải có sáng kiến kinh nghiệm “Sử
dụng sơ đồ duy trong dạy học Ngữ văn bậc Trung học cơ sở” để giải quyết được
thực trạng trên, khắc phục những hạn chế vốn có và phát huy một cách mạnh mẽ
vai trị của mơn Ngữ văn trong nhà trường.
II. Giải pháp để thực hiện sáng kiến
Để sử dụng sơ đồ tư duy một cách hiệu quả, khắc phục được những khó
khăn đang tồn tại, trước hết, chúng ta phải có những tri thức nhất định về nó.
Vậy sơ đồ tư duy hiểu một cách đầy đủ là gì? Nó được cấu tạo, xây dựng, thiết
kế như thế nào? Quy trình tổ chức và các tiện ích mà sơ đồ tư duy mang lại ra
sao? Bằng cách trả lời những câu hỏi này, chúng ta sẽ có cái nhìn tồn diện và
khai thác được tối đa những công dụng đa năng mà sơ đồ này mang lại.
1. Tìm hiểu về sơ đồ tư duy
1.1. Khái niệm
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là
PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tịi,
đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến
thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,

chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu
cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác
nhau,...
1.2. Cấu tạo
- Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ
đề.
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm
rõ chủ đề.
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết.


Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy
1.3. Các bước thiết kế một SĐTD
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên
phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ
hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ
chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính,
đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm
rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai
thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các
ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
*Lưu ý:
- Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các

nhánh con.
- Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu
hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
- Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tơ đậm hơn, dày hơn.
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ
đồng thời tạo sự cân đối, hài hịa cho sơ đồ.
- Khơng ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên
dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.


- Khơng dùng q nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần
thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
- Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
- Khơng đầu tư q nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết,
tô màu...
- Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
- Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
1.4. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp
Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua
gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hồn thiện SĐTD
về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học
sinh hồn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị
sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hồn chỉnh, cho học sinh
lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
1.5. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ
Văn

- Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả.
Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn
thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết
rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc,
chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân
mơn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lơ-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù
các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần
trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại
có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi
chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy,
rèn kuyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong
quá trình dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính
độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
- SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu
và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngơn ngữ của
mình. Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi


cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi
đó là “sản phẩm kiến thức hội họa” do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy
được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một
cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ. Vì thế, tạo một khơng khí sơi
nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập.
- Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên
tưởng (các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các
khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến

thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa
kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15
phút.
- Sơ đồ tư duy, một cơng cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung.
Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng
cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần
mềm Sơ đồ tư duy (Mind Map).
Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
1. Tăng sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học
2.1. Làm quen với SĐTD
* Đối với giáo viên:
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chun mơn nghiệp vụ có
liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu
liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind
Map để có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trị,
tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong q trình dạy
học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy
và trên phần mềm trong máy vi tính. Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trị,
cơng dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp
vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào q trình dạy học là việc dễ dàng.
* Đối với học sinh:
Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá
trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư

duy có sẵn, để các em có cái nhìn khái qt về nó. Đây là bước chuẩn bị hết sức


quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một
cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó,
chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn đến
nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay hoay với giấy bút mà khơng
biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các em chưa hình dung được
SĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp
vẽ.
Vì vậy, theo tơi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen”
với SĐTD, theo cách sau đây:
- Để tiết kiệm thời gian, giáo viên nên tham mưu cho Ban Giám hiệu
trường, hoặc Chuyên môn trường, chọn thời gian thuận lợi ngay từ đầu năm học
tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư duy” để giới thiệu, cho các
em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em. Đây cũng là một bước
tạo không khí sơi nổi, lơi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp, kĩ thuật
dạy học mới. Để buổi ngoại khóa thành cơng, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội
dung sau:
+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các
dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phịng máy, máy chiếu, bảng phụ,
phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa
lịch, trên bảng phụ... Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo
các bước sau:
Bước 1: “Làm quen”
- Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên
chọn vẽ SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo
dõi, tiếp thu tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa
kiến thức, học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu

cấu trúc SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng
dẫn cách vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD).
Bước 2: “Đọc hiểu”
- Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát.
Sau đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức)
được vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ
năng thuyết trình)
Bước 3: “Tập vẽ”
- Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn
hình (hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Chiến tranh hạt nhân,
Từ (Xét về cấu tạo)... Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch
hay bảng phụ.
- Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1,
cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)


* Lưu ý:
+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ
nhớ, dễ vẽ.
+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá
nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng
những cụm từ ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”
- Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ
chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý
cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật
mạng lưới các ý trong sơ đồ. (Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”
- Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại

- Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
- Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
+ Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có
thể hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng...
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập
SĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài
trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì
mình cịn sai sót cần bổ sung, sửa chữa.
+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc
ôn tập, hệ thống kiến thức.
2.2. Các hình thức sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học
2.2.1 Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ đối
với rất nhiều giáo viên. Hầu hết giáo viên rất băn khoăn khi nghe đề nghị dùng
SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay kiểm tra một tiết. Kinh nghiệm
khi sử dụng SĐTD vào kiểm tra đánh giá như sau:
* Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề
của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD
thông qua câu hỏi gợi ý.
Ví dụ: Sau khi học xong bài: “Các phương châm hội thoại” (Tiết 1,2), có
thể củng cố, hệ thống kiến thức đã học trước thông qua câu hỏi sau: Ta đã học


qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy lập SĐTD để hệ thống kiến
thức về chúng? Sau đó, giáo viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “Phương
châm hội thoại”, rồi gọi một em xung phong lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng
vẽ được SĐTD theo nội dung yêu cầu.
SĐTD về các phương châm hội thoại có tính chất minh họa:


* Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết
Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy
(15 phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy
lơ-gic, tư duy hệ thống cho học sinh:
Ví dụ 1: Từ tiếng Việt (xét về mặt cấu tạo) gồm có những loại nào? Em
hãy vẽ SĐTD giới thiệu chi tiết về chúng.


Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc
của nhà thơ Viễn Phương theo trình tự khơng gian và thời gian của chuyến ra
thăm lăng Bác Hồ. Với cụm từ khóa “Viếng lăng Bác”, em hãy lập SĐTD ghi
lại diễn biến tâm trạng cảm xúc ấy của tác giả qua mỗi khổ thơ.


* Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng
Việc kết hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử
dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều
thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi
chép bằng SĐTD. Sau đây là một số ví dụ minh họa:
Ví dụ 1: Khi dạy bài giới thiệu về “Truyện Kiều cuả Nguyễn Du”(Tiết
26,27), sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “TRUYỆN KIỀU
(Nguyễn Du)” lên trung tâm bảng đen. Sau đó, giáo viên đưa ra hệ thống câu
hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài học. Đầu tiên, ta cho các em tìm hiểu về tác giả
bằng cách vẽ nhánh chính thứ nhất đặt tiêu đề nhánh “I. TÁC GIẢ”. Rồi đưa ra
các câu hỏi gợi ý tìm hiểu về Tên hiệu, Xuất thân, Thời đại, Cuộc đời, Sự nghiệp
văn học của nhà thơ. Tìm hiểu đến đâu, giáo viên phát triển nhánh, cơ đọng kiến
thức đến đó. Sau khi dẫn dắt các em tìm hiểu xong phần tác giả, giáo viên tiếp
tục vẽ nhánh thứ hai, đặt tiêu đề “II. TÁC PHẨM” đưa ra các câu hỏi gợi ý các
em tìm hiểu tác phẩm: Nguồn gốc, Thể loại, Kết cấu, Giá trị (nội dung, nghệ

thuật) của tác phẩm (cách làm tương tự như trên). Kết thúc 2 tiết học, ta có
SĐTD giới thiệu một cách cô đọng, khái quát, lô-gic những tri thức cơ bản về
tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” trên bảng đen như sau:


Ví dụ 2: Đối với phân mơn Tiếng Việt thì sử dụng SĐTD kết hợp việc dạy
học bài mới với việc ghi bảng càng dễ dàng hơn. Ví dụ khi dạy bài “Ôn tập
Tiếng Việt” học kỳ I (Tiết 73). Sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cum từ
trung tâm “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT” lên giữa bảng đen. Sau đó, dẫn dắt học sinh
lần lượt đi vào tìm hiểu các nội dung ơn tập theo trình tự SGK. Bắt đầu với việc
hệ thống, củng cố kiến thức lý thuyết thông qua các câu hỏi:
- Chúng ta đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy nhắc lại
nội dung mỗi phương châm? (vẽ nhánh, ghi chú)
- Tiếng Việt có những loại từ ngữ nào thường dùng để xưng hơ? Cho ví dụ
mỗi loại? (vẽ nhánh, ghi chú)
- Ta kết hợp cho học sinh làm các bài tập trong mỗi nội dung ôn tập sau khi
lập SĐTD cho mỗi nhánh (nội dung). Cuối tiết Ơn tập, ta có SĐTD trên bảng.

* Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học,
mỗi phần của bài học
Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ, sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong phần một “Vũ Nương và
câu chuyện oan khuất của nàng” giáo viên cho các em lập SĐTD về nhân vật Vũ
Nương thông qua câu hỏi sau:


Như vậy, qua phần tìm hiểu trên, em hãy lập SĐTD để chứng minh Vũ
Nương là một người mẹ đảm đang, một người vợ thủy chung, một người dâu
hiền hiếu thảo? Sau đây là hình ảnh minh họa:


Ví dụ 2: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu xong luận cứ 3: “Những
điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam trong bài “Chuẩn bị hành trang
vào thế kỉ mới” của Vũ Khoan, giáo viên cho học sinh lập SĐTD về đặc điểm
của con người Việt Nam. Sau đây là SĐTD minh họa:



×