Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích sự mở rộng mối quan hệ xã hội trong gia đình của trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.39 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT

BÁO CÁO TIỂU LUẬN
TÂM LÝ HỌC TRẺ EM NÂNG CAO

Họ và tên:
Số điện thoại:
Lớp: Giáo dục tiểu học tại Bình Thuận (A12)
Giảng viên: Võ Sỹ Lợi
Bình Thuận 6/2023


Đề tài:
PHÂN TÍCH SỰ MỞ RỘNG MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG GIA ĐÌNH
CỦA TRẺ EM


1. Khía cạnh và kiểu làm bố mẹ
1.1. Khía cạnh làm bố mẹ
Bố mẹ có phải quá nghiêm khắc hay khơng? Họ có khuyến khích thảo luận hay
khơng? Bố mẹ của bạn có thường bảo bạn phải nên làm gì đó hay khơng? Hay bố mẹ để
cho bạn muốn làm gì tùy ý? Những câu hỏi này tập trung vào hai khía cạnh quan trọng
trong mối quan hệ bố mẹ - con cái.
- Một khía cạnh là mức độ nhiệt tình và quan tâm đáp ứng mà bố mẹ dành cho con cái.
Một số bố mẹ đối xử tình cảm và nhiệt tình với con mình, họ quan tâm đến con cái về
mặt cảm xúc, sẵn sàng dành thời gian và nỗ lực cùng với con. Ở một thái cực khác, bố mẹ
tương đối không quan tâm đến con, thậm chí cịn tỏ thái độ thù địch. Bố mẹ như thế
thường có vẻ chú trọng ý muốn của mình nhiều hơn là ý muốn của con (Parke & Buriel,
1998). Trẻ em hưởng lợi từ bố mẹ biết quan tâm đến con. Khi bố mẹ quan tâm, trẻ con
thường cảm thấy yên tâm, hạnh phúc và có cách hành xử tốt hơn. Trái lại, khi bố mẹ


không quan tâm hoặc thù địch thì con cái thường lo âu, kém kiểm sốt hơn, lòng tự trọng
thấp hơn (Pettit, Bates, & Dodge, 1997).
- Khía cạnh thứ hai trong hành vi bố mẹ là sự địi hỏi và kiểm sốt mà bố mẹ sử dụng
đối với hành vi của con mình. Một số bố mẹ địi hỏi khắt khe, kiểm sốt chặt chẽ. Bố mẹ
như thế trơng có vẻ can thiệp vào cuộc sống của con mình. Ở một thái cực khác là bố mẹ
yêu cầu ít hơn và hiếm khi sử dụng sự kiểm soát và con cái được tự do làm hầu như bất
kỳ chuyện gì khơng phải sợ bố mẹ la rầy. Khơng có thái cực nào trong số này đáng được
mong muốn. Kiểm soát quá mức sẽ làm cho con cái khơng hài lịng vì tước đi cơ hội đáp
ứng tiêu chuẩn hành vi của chính con mình, vốn là mục tiêu giáo dục sau cùng. Trẻ con vị
thành niên thường trả lời phiếu khảo sát rằng không bao giờ tập tự mình ra quyết định.
Làm bố mẹ khơng hề kiểm sốt con cái cũng thất bại vì con cái khơng nhìn thấy các tiêu
chuẩn hành vi mà nền văn hóa địi hỏi ở mình. Làm thế nào thực hiện tốt khía cạnh sự địi
hỏi và kiểm sốt?
Bố mẹ cần phải cân đối, duy trì sự kiểm sốt thích hợp trong khi vẫn cho phép con
được tự do đối với một số quyết định cho chính mình. Nói dễ hơn làm, nhưng một xuất


phát điểm tốt là ấn định tiêu chuẩn thích hợp với độ tuổi của con, sau đó chỉ cho con
cách đáp ứng tiêu chuẩn ấy và sau cùng thưởng cho con khi con đã đáp ứng (Powers
& Roberts, 1995; Rotto & Kratochwill, 1994). Giả sử một bà mẹ muốn đứa con trước
tuổi đến trường xếp và cất vớ. Đây là một u cầu hợp lý vì trẻ con có đủ khả năng thực
hiện công việc đơn giản này và trẻ biết nơi cất vớ. Mẹ sẽ chỉ cho con gái cách làm rồi sau
đó tỏ ý khen khi trẻ đang xếp vớ.
Một khi tiêu chuẩn được đưa ra, thì phải được củng cố thường xuyên. Nhiều
nghiên cứu chứng minh rằng trẻ con và thanh niên thường biết vâng lời hơn khi bố mẹ
thường xuyên củng cố qui định. Chẳng hạn, một bà mẹ yêu cầu con trai mỗi đêm phải
dọn dẹp đồ chơi chứ không phải lâu lâu mới nhắc một lần. Nếu bố mẹ củng cố qui định
một cách thất thường thì nó sẽ xem những qui định này là tùy chọn thay vì nghĩa vụ và nó
sẽ tránh không tuân theo (Conger, Patterson, & Ge, 1995).
Yếu tố kiểm soát hiệu quả khác là truyền đạt. Bố mẹ nên giải thích tại sao mình

đặt ra tiêu chuẩn và tại sao mình thưởng phạt như thế. Mẹ nên giải thích cho con trai biết
căn phòng bừa bãi là thiếu an tồn, khó tìm được đồ vật mình cần và làm cho mẹ khó
qt dọn. Bố mẹ cũng khuyến khích con đặt câu hỏi nếu con không hiểu hoặc không
đồng ý với tiêu chuẩn. Nếu con trai nghĩ rằng tiêu chuẩn quét dọn sạch sẽ của mẹ là quá
cao không thể chơi trong phịng mình thì cậu bé sẽ cảm thấy thoải mái khi nêu vấn đề này
với mẹ mà không sợ mẹ giận.
Tiếp cận kiểm soát cân đối - trên cơ sở tiêu chuẩn thích hợp với độ tuổi, tính
nhất quán và truyền đạt thể hiện: tránh những vấn đề đi kèm với sự kiểm soát quá mức;
tránh các vấn đề kiểm sốt q ít.
Thế cịn hình phạt có giá trị như thế nào?
Hầu hết bố mẹ sử dụng một số hình phạt như một phương tiện kiểm sốt con
mình. Hình phạt bao gồm sự áp dụng kích thích bất lợi hoặc lấy đi kích thích thích thú.
Hãy dành ít phút suy nghĩ về một số phương pháp thông thường mà bố mẹ sử dụng để
trừng phạt. Có lẽ bạn nghĩ đến đánh địn và khiển trách chẳng hạn "khơng có gì lạ khi con
khơng qt dọn phịng mình - con khơng làm bất kỳ việc gì quanh đây để giúp mẹ".
Những lời khiển trách này minh họa phương pháp trừng phạt khẳng định quyền hạn, tất


cả những gì phụ thuộc vào quyền hạn lớn hơn của bố mẹ. Khẳng định quyền hạn bao
gồm đánh đòn, đe dọa hoặc làm bẽ mặt. Trong thời gian ngắn, khẳng định quyền hạn "có
tác dụng" để trẻ thực hiện hành vi theo ý muốn của người lớn. Tuy nhiên, về lâu dài,
khẳng định quyền hạn khơng hiệu quả vì (1) trẻ con sợ bố mẹ, (2) ít có khả năng trẻ con
ghi nhớ các qui tắc xã hội và (3) trẻ em thường bắt chước hành vi gây hấn của bố mẹ
(Hoffman, 1970; Parke & Slaby, 1983).
Các phương pháp trừng phạt khác hiệu quả hơn nhiều. Time-out là phương pháp
trừng phạt vì nó gián đoạn hoạt động đang diễn ra của trẻ và cô lập trẻ với các thành viên
khác trong gia đình, đồ chơi, sách vở và nói chung, tất cả hình thức kích thích tưởng
thưởng khác. Thời gian này thường ngắn, kéo dài vài phút, sử dụng một cách nhất quán.
Trong time-out, cả bố mẹ lẫn con cái thường trầm lại. Sau đó khi đã qua time-out, bố mẹ
có thể nói chuyện với con, giải thích rõ ràng tại sao hành vi bị trừng phạt là điều khó

chịu, và giải thích con nên làm điều gì để thay thế. "Lập luận" như thế này - thậm chí đối
với trẻ con trước tuổi đến trường - rất hữu ích vì nó nhấn mạnh tại sao bố mẹ trừng phạt
và để tránh bị bố mẹ trừng phạt về sau trẻ cần suy nghĩ cách khắc phục.
1.2. Sự khác biệt văn hóa trong khía cạnh hành vi của bố mẹ
Quan điểm về lượng kiểm sốt "thích hợp" và lượng nhiệt tình "thích hợp" phản
ánh di sản văn hóa kế thừa của bố mẹ (Parke & Buriel, 1998). Người Mỹ gốc Âu muốn
con mình vui và trở thành cá nhân tự lực, họ cho rằng những mục tiêu này có thể đạt
được tốt nhất khi bố mẹ nhiệt tình quan tâm và sử dụng sự kiểm soát vừa phải (Goodnow,
1992; Spence, 1985). Trái lại, ở nhiều nước châu Á và châu Mỹ Latin, chủ nghĩa cá nhân
không quan trọng bằng sự hợp tác và cộng tác (Okagaki & Sternberg, 1993). Chẳng hạn,
ở Trung Quốc, nguyên tắc Khổng giáo dạy rằng bố mẹ ln có quyền và sự kiềm chế cảm
xúc là điều quan trọng cho sự hịa thuận trong gia đình (Chao, 1983). Dựa vào những
nguyên tắc này, chúng ta nghĩ rằng bố mẹ người Hoa khơng quan tâm nhiệt tình đến con
cái nhưng kiểm soát nhiều hơn bố mẹ Bắc Mỹ? Lin và Fu (1990) tìm thấy mẫu này trong
nghiên cứu của mình: So với bố mẹ ở Mỹ, bố mẹ ở Đài Loan có nhiều khả năng nhấn
mạnh đến sự kiểm sốt và ít có khả năng thể hiện tình cảm. Cũng được thể hiện trong kết
quả dành cho nhóm thứ ba do Lin và Fu nghiên cứu. Bố mẹ trong nhóm này từ Đài Loan


di cư và hiện đang sống ở Mỹ, rồi sinh con. Các khám phá nhóm này là đặt nó giữa các
nhóm khác theo nghĩa tình cảm và kiểm sốt. Nghĩa là, bố mẹ Đài Loan di dân kiểm sốt
ít hơn bố mẹ Đài Loan ở Đài Loan nhưng kiểm soát nhiều hơn bố mẹ Mỹ. Tương tự, họ
dành tình cảm cho con nhiều hơn bố mẹ Đài Loan ở Đài Loan, nhưng khơng nhiệt tình
bằng bố mẹ Mỹ. Cả hai kết quả cho thấy nhóm di dân dần dần bị văn hóa Mỹ đồng hóa.
Kết quả của nghiên cứu Lin và Fu cho thấy hành vi của bố mẹ phản ánh giá trị văn
hóa. Hành vi của bố mẹ Đài Loan nhất quán với nguyên tắc đạo Khổng vốn là tâm điểm
trong nền văn hóa Trung Hoa truyền thống. Trong số người Mỹ gốc Âu, hành vi của bố
mẹ thường phản ánh niềm tin văn hóa lâu đời vào tầm quan trọng của chủ nghĩa cá nhân
và tính tự lực. Hành vi của bố mẹ Đài Loan di dân là sự hỗn hợp giữa văn hóa Trung Hoa
truyền thống với giá trị phương Tây. Trong những xã hội này và trong mọi xã hội, giá trị

văn hóa giúp cụ thể hóa những phương pháp thích hợp cho bố mẹ tương tác với con cháu
(Harwood và người khác, 1996; Patel, Power, & Bhavnagri, 1996).
1.3. Kiểu bố mẹ
Khi kết hợp khía cạnh tình cảm và kiểm sốt, nổi bật bốn kiểu ngun mẫu làm bố
mẹ (Baumrind, 1975, 1991b):
- Bố mẹ độc đoán kết hợp sự kiểm sốt chặt chẽ, ít tình cảm. Những bố mẹ này đặt ra
qui tắc và mong đợi con trẻ tuân thủ không thảo luận hoặc tranh cãi. Làm việc chuyên
cần, kính trọng và vâng lời là những gì mà bố mẹ độc đốn muốn có ở con mình. Có ít
việc cho và nhận giữa bố mẹ và con cái vì bố mẹ độc đốn khơng cân đối nhu cầu của
mình với sự xem xét nhu cầu và nguyện vọng của con. Kiểu này được minh họa qua hình
ảnh bà mẹ của Tanya trong phần minh họa. Bà mẹ cảm thấy khơng có trách nhiệm phải
giải thích lý do tại sao bà không cho phép Tanya đi nghe hòa nhạc.
- Bố mẹ quyền uy kết hợp mức độ kiểm sốt tương đối của bố mẹ với tình cảm và sự
quan tâm đến con cái. Bố mẹ quyền uy thích đưa ra lời giải thích các qui tắc và khuyến
khích thảo luận. Kiểu này được minh họa qua hình ảnh bà mẹ của Sheila trong phần minh
họa. Bà giải thích tại sao bà khơng muốn Sheila đi nghe hịa nhạc với bạn trai và khuyến
khích con gái thảo luận vấn đề với mình.


- Bố mẹ nng chiều thoải mái rất tình cảm và quan tâm nhưng ít kiểm sốt đối với
con. Họ thường chấp nhận phần lớn hành vi của con và trừng phạt con không thường
xuyên. Bố mẹ sử dụng kiểu này sẵn sàng đồng ý với lời đề nghị đi nghe hịa nhạc của
con, hồn tồn là vì con họ đang muốn làm một điều gì đó.
- Bố mẹ dửng dưng - khơng quan tâm, khơng tình cảm cũng khơng kiểm soát.
Những bố mẹ này cung cấp nhu cầu cảm xúc và vật chất của con nhưng ít đáp ứng nhu
cầu khác. Họ cố gắng giảm thiểu lượng thời gian và nỗ lực dành cho con và tránh quan
tâm cảm xúc với con. Nếu Tanya và Sheila có mẹ sử dụng kiểu này thì cả hai cứ việc đi
nghe hịa nhạc khỏi phải xin phép, vì biết rằng bố mẹ không quan tâm và đúng ra không
muốn bị quấy rầy.
Kiểu bố mẹ khá ổn định qua thời gian. Kiểu bố mẹ ảnh hưởng đến sự phát triển

của con (Baumrind, 1991a; Hinshaw và người khác, 1997; Parke & Buriel, 1998):
- Trẻ con có bố mẹ độc đốn thường có điểm thấp trong trường học, thái độ tự trọng thấp
hơn và không khéo léo trong kết bạn.
- Trẻ con có bố mẹ quyền uy thường có điểm cao hơn, thường có trách nhiệm, tự lực và
thân thiện.
- Trẻ con có bố mẹ nng chiều thoải mái có điểm thấp hơn, thường bốc đồng, dễ thất
vọng. 
- Trẻ có bố mẹ dửng dưng - khơng quan tâm thường có thái độ tự trọng thấp, bốc đồng,
gây hấn và ủ rũ.
Phần lớn những kết quả này có thể nhìn thấy trong nghiên cứu của Lamborn và
đồng nghiệp (1991), khảo sát ảnh hưởng của kiểu bố mẹ đối với sự phát triển tâm lý xã
hội và hoạt động trong trường học của học sinh trung học. Kết quả được mô tả trong biểu
đồ phức tạp nhưng thể hiện một mẫu rất nhất quán:
- Thanh niên có bố mẹ quyền uy có điểm số cao nhất trong tất cả đánh giá: tự lực nhiều
nhất, điểm cao nhất, ít có hành vi xúc phạm trong trường học.
- Thanh niên có bố mẹ dửng dưng - khơng quan tâm thường ở một thái cực khác: họ tự
lực kém hơn, điểm số thấp hơn, có nhiều khả năng hạnh kiểm xấu trong trường học nhất.


- Thanh niên có bố mẹ độc đốn hoặc nng chiều thoải mái nằm ở khoảng giữa các
nhóm khác trong hầu hết các đánh giá.
- Thanh niên có bố mẹ độc đốn kém tự lực nhất trong số bốn nhóm, nhưng về điểm số
và hạnh kiểm xấu trong trường học xếp hạng phía sau thanh niên có bố mẹ quyền uy.
- Tính tự lực của thanh niên có bố mẹ nng chiều thoải mái gần như thanh niên có bố
mẹ quyền uy, nhưng điểm số thấp hơn, và có nhiều khả năng hạnh kiểm xấu trong trường
học hơn.
Lợi ích của kiểu làm bố mẹ quyền uy khơng chỉ có tác dụng ở trẻ con Mỹ gốc Âu
mà còn áp dụng cho trẻ em và bố mẹ thuộc các nhóm dân tộc thiểu số khác nhau ở Mỹ,
bao gồm các dân tộc ở châu Phi, châu Á và con cháu của người Tây Ban Nha (Steinberg
và người khác, 1992).

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu nhận thấy kiểu làm bố mẹ độc đốn có thể giúp
đứa trẻ lớn lên trong sự nghèo khổ hưởng lợi (Furstenberg, 1993). Tại sao? Khi đứa trẻ
lớn lên trong hàng xóm thường xảy ra cảnh bạo hành và tội phạm thì tuyệt đối vâng lời
bố mẹ có thể bảo vệ đứa trẻ (Kelley, Power, & Wimbush, 1993).
Vì thế, kiểu bố mẹ kết hợp bằng kiểm sốt và tình cảm, quan tâm nhiệt tình thường
tốt nhất đối với trẻ em. Tuy nhiên, các yếu tố khác chẳng hạn hàng xóm nguy hiểm hoặc
bạo hành có thể làm cho các kiểu bố mẹ khác thích hợp với một số đứa trẻ hơn.
1.4. Ảnh hưởng của trẻ đến hành vi của bố mẹ
Từ những gì chúng ta vừa bàn, trơng có vẻ quan hệ bố mẹ - con cái là con đường
một chiều: bố mẹ ảnh hưởng đến hành vi của con cái nhưng khơng có chuyện ngược lại.
Thực ra con cái cũng tác động đối với hành vi, khía cạnh làm bố mẹ. Bắt đầu từ lúc mới
sinh cho đến suốt cuộc đời, trẻ em tác động đến cách mà bố mẹ đối xử với mình. Gia đình
thực sự là một hệ thống năng động, tương tác, trong đó bố mẹ và con trẻ ảnh hưởng lẫn
nhau (Parke & Buriel, 1998).
Để hiểu được ảnh hưởng của con trẻ đối với bố mẹ người ta tiến hành khảo sát sự
thay đổi hành vi của bố mẹ khi con của họ trưởng thành. Một kiểu bố mẹ nào đó (độc
đốn hoặc quyền uy hoặc nng chiều hoặc dửng dưng) có hiệu quả ở trẻ con ở tuổi ẵm
ngửa và trẻ con biết đi chập chững nhưng có thể khơng thích hợp khi đứa trẻ đó ở giai


đoạn thanh niên. Chúng ta hãy khảo sát cụ thể hai khía cạnh trong hành vi bố mẹ - tình
cảm nhiệt tình và kiểm sốt:
- Tình cảm nhiệt tình của bố mẹ có lợi trong suốt sự phát triển của trẻ em. Trẻ em ở giai
đoạn biết đi chập chững và trẻ vị thành niên rất thích thú khi biết có người khác quan tâm
đến mình. Nhưng sự thể hiện tình cảm bố mẹ thay đổi, kiềm chế hơn khi con trưởng
thành (McNally, Eisenberg, & Harris, 1991). Chẳng hạn, ôm ghì lấy và hơn làm trẻ em
biết đi chập chững rất thích thú nhưng gây khó chịu đối với thanh niên.
- Sự kiểm soát của bố mẹ cũng thay đổi dần khi con cái lớn lên (McNally và người khác,
1991). Khi trẻ con phát triển nhận thức và có thể tự quyết định tốt hơn thì bố mẹ dần dần
lơi lỏng kiểm sốt và mong đợi con mình tự chịu trách nhiệm đối với bản thân. Chẳng

hạn, bố mẹ có con độ tuổi đến trường thường theo dõi sự tiến bộ của con nhưng bố mẹ
của thanh niên thì khơng, họ nghĩ con mình tự làm. Dĩ nhiên, trong suốt thời thơ ấu và
tuổi thanh niên, kiểu bố mẹ độc đoán kiểm soát con cái nhiều hơn kiểu bố mẹ quyền uy.
Tuy nhiên, cả hai loại bố mẹ thường kiểm sốt ít hơn khi con của họ bước vào giai đoạn
thanh niên.
Không những bố mẹ thay đổi cách thể hiện tình cảm nhiệt tình và kiểm sốt khi
con của họ trưởng thành, mà còn hành xử khác nhau tùy theo hành vi cụ thể của con. Để
minh họa ảnh hưởng tương hỗ giữa bố mẹ và con cái trong trường hợp này, hãy tưởng
tượng hai đứa trẻ phản ứng với kiểu độc đoán của bố mẹ. Cả hai bố mẹ đều tình cảm
nhiệt tình và cố sử dụng kiểm sốt vừa phải, chú trọng mong đợi nhất quán và truyền đạt
tốt. Đứa trẻ thứ nhất sẵn sàng nghe theo yêu cầu của bố mẹ và trả lời tốt trong thảo luận
của gia đình về mong đợi của bố mẹ. Những quan hệ bố mẹ - con cái này là minh họa của
kiểu bố mẹ quyền uy thành công. Trái lại, đứa trẻ thứ hai thường lưỡng lự không chịu
nghe lời và đôi khi mặc kệ lời bố mẹ yêu cầu. Bố mẹ này kiểm sốt nhiều hơn, ít tình cảm
hơn. Điều này dẫn đến việc con trẻ ít vâng lời hơn. Hành vi ít vâng lời của trẻ lại tạo ra
hành vi ở bố mẹ trở nên độc đoán hơn. Trường hợp này phá vỡ qui tắc chung vốn cho
rằng kiểu bố mẹ là ổn định. Thay vào đó hành vi của con trẻ đã làm cho bố mẹ phải từ bỏ
kiểu quyền uy để chọn kiểu độc đoán hơn. Hai ví dụ này minh họa rằng hành vi bố mẹ
thường phát triển do hành vi của con nói chung. Ở trẻ con cịn nhỏ thích làm vui lịng


người lớn, ít vận động vì vậy bố mẹ có thể nhận thấy chỉ cần sử dụng một lượng kiểm
soát vừa phải. Nhưng đối với một đứa trẻ không thân thiện và hoạt động nhiều hơn thì bố
mẹ cần ra lệnh và kiểm soát nhiều hơn (Dumas, LaFreniere, & Serketich, 1995).
Như vậy ảnh hưởng giữa bố mẹ - con cái là ảnh hưởng mang tính tương hỗ, tác
động qua lại lẫn nhau. Hành vi của con trẻ giúp xác định cách bố mẹ đối xử với con trẻ và
hành vi của bố mẹ có thể ảnh hưởng đến hành vi của con trẻ, đến lượt ảnh hưởng này làm
cho bố mẹ thay đổi hành vi của mình thêm lần nữa (Stice & Barrea, 1995).
Mối quan hệ bố mẹ - con cái tương hỗ là tâm điểm trong sự phát triển con người,
nhưng các mối quan hệ khác trong gia đình cũng có nhiều ảnh hưởng. Đối với nhiều đứa

trẻ, mối quan hệ với anh chị em ruột cũng rất quan trọng, chúng ta sẽ thấy trong phần sau.
2. Anh chị em ruột
2.1. Đặc điểm mối quan hệ anh chị em ruột
Mỗi đứa con đầu lòng bắt đầu đời sống như con một. Một số vẫn còn là "con một"
mãi mãi nhưng hầu hết đều có thêm em trai và em gái. Một số con đầu lịng có thêm em
chỉ trong vài năm. Số khác chỉ có thêm một em trai hoặc một em gái. Khi gia đình có
thêm thành viên mới thì mối quan hệ bố mẹ - con cái trở nên phức tạp hơn. Bố mẹ khơng
cịn tập trung vào một đứa con duy nhất nữa mà phải điều chỉnh để thích nghi với nhu cầu
của nhiều đứa. Cũng rất quan trọng, anh chị em ruột cũng ảnh hưởng đến sự phát triển lẫn
nhau. Vào những năm trước tuổi đến trường, anh chị em ruột thường dành nhiều thời gian
với nhau hơn là với bố mẹ, cho thấy mối quan hệ của anh chị em ruột có nhiều ảnh hưởng
(Dunn, 1993; Larson & Richards, 1994). Ngoài ra, sự tương tác giữa anh chị em ruột
thường nhiều cảm xúc hơn sự tương tác trong các mối quan hệ khác (Katz, Kramer, &
Gottman, 1992).
Sự ra đời của một đứa em ruột thường khiến anh chị của mình lo lắng. Anh chị sẽ
lãnh đạm hoặc trở về hành vi trẻ con hơn. Lo lắng loại này thường gặp ở trẻ đầu lòng nhỏ
hơn 3 tuổi khi mẹ sinh em bé. Lo lắng của đứa trẻ có thể liên kết với nhiều thay đổi diễn
ra trong cuộc sống của nó với sự ra đời của đứa em, nhất là nhu cầu chia sẻ tình cảm và
sự chú ý của bố mẹ (Gottlieb & Mendelson, 1990). Tuy nhiên, lo lắng có thể tránh được
nếu bố mẹ vẫn còn quan tâm nhu cầu của đứa con đầu (Howe & Ross, 1990). Thật ra,


một lợi ích của việc sinh em là bố quan tâm đến trẻ con lớn nhiều hơn (Stewart và người
khác, 1987).
Với em mới sinh, nhiều anh chị lớn sẽ đảm nhận công việc của bố mẹ chẳng hạn
như cho em bú bình hoặc thay tã (Wagner, Schubert, & Schubert, 1985). Khi em lớn, sự
tương tác giữa anh chị em ruột trở nên phổ biến hơn và phức tạp hơn. Chẳng hạn, trẻ con
biết đi chập chững thường nói chuyện với bố mẹ nhiều hơn anh chị ruột. Tuy nhiên, vào
lúc đứa trẻ khoảng 4 tuổi, tình thế thay đổi hồn tồn: lúc này em nhỏ nói chuyện với anh
chị lớn nhiều hơn nói với mẹ (Brown & Dunn, 1992). Anh chị lớn cũng trở thành một

nguồn quan tâm và an ủi em nhỏ khi lo lắng, buồn rầu hoặc khó chịu (Garner, Jones, &
Palmer, 1994).
Mối quan hệ anh, chi em ruột cũng đa dạng. Một số anh chị em ruột gắn bó, trở
thành người bạn thân nhất. Một số anh chị em ruột khác thường tranh luận, ganh đua và
nói chung hồn tồn khơng hịa thuận với nhau. Những mẫu tương tác anh chị em ruột
này trơng có vẻ được xác lập ngay từ đầu sự phát triển và vẫn giữ nguyên khá ổn định.
Dunn, Slomkowski, và Beardsall (1994) phỏng vấn các bà mẹ hai lần về sự tương tác của
con họ. Lần thứ nhất khi đứa trẻ 3 - 5 tuổi, lần thứ hai vào 7 năm sau, khi đứa trẻ 10 - 12
tuổi. Dunn cùng đồng nghiệp phát hiện rằng anh chị em ruột hòa thuận trong những năm
trước tuổi đến trường thường tiếp tục hòa thuận cho đến đầu tuổi trưởng thành, trong khi
anh chị em ruột thường cãi vã trong những năm trước tuổi đến trường sẽ tiếp tục cãi vã
cho đến đầu tuổi trưởng thành.
Yếu tố nào góp phần cho tính chất mối quan hệ anh chị em ruột?
2.2. Yếu tố tác động đến mối quan hệ anh chị em ruột
Các tác động sinh học, tâm lý và văn hóa xã hội giúp xác định anh chị em ruột hòa
thuận với nhau ở mức nào:
Tác động sinh học: Trong số các tác động sinh học là tính khí và giới tính của đứa trẻ.
Quan hệ anh chị em ruột cùng phái có nhiều khả năng tình cảm và hịa hợp hơn anh chị
em ruột khác phái (Dunn & Kendrick, 1981). Quan hệ cũng ngọt ngào hơn khi khơng có
anh chị em ruột nào có tính khí xúc cảm (Brody, Stoneman, & Gauger, 1996).


Tác động tâm lý: Các tác động tâm lý cũng góp phần nhận thức của anh chị em ruột với
nhau và cách đối xử của bố mẹ cũng rất quan trọng. Anh chị em ruột hòa thuận nhiều hơn
khi nghĩ rằng bố mẹ khơng có "thiên vị" mà chỉ đối xử với tất cả đều như nhau (McHale
và người khác, 1995). Mối quan hệ nói chung được cải thiện khi em nhỏ đến tuổi thanh
niên, vì anh chị em ruột nhận thức lẫn nhau như những người ngang hàng (Buhrmester &
Furman, 1990).
Tác động văn hóa xã hội: Khi bố mẹ hịa thuận, thì anh chị em ruột cũng hịa thuận, khi
bố mẹ cãi vã thì anh chị em ruột cũng cãi vã (Volling & Belsky, 1992). Một quan điểm

Tâm sinh học xã hội về mối quan hệ anh chị em ruột cũng giải thích rõ rằng trong việc
theo đuổi sự hịa thuận trong gia đình (cịn gọi là sự êm ả, hạnh phúc), bố mẹ có thể ảnh
hưởng đến một số yếu tố trong mối quan hệ anh chị em ruột. Bố mẹ có thể giúp giảm bớt
sự bất hịa ở các con bằng cách đối xử tình cảm, quan tâm và chăm sóc tất cả các con đều
như nhau. Quan tâm khác nhau với trẻ con dẫn đến mâu thuẫn mà chúng khơng thể giải
quyết vì kỹ năng xã hội của trẻ con có hạn.
Tác động của thứ tự sinh: Con đầu lòng thường là "cục cưng" đối với hầu hết bố mẹ,
vốn rất nhiệt tình nhưng ít có kinh nghiệm thực tế trong việc nuôi con. Bố mẹ thường kỳ
vọng rất cao vào con đầu lòng (Furman, 1995). Bố mẹ thường dành tình cảm nhiều hơn
và cũng trừng phạt nhiều hơn đối với con đầu lòng. Khi sinh tiếp các đứa con khác, hầu
hết bố mẹ đều thành thạo hơn trong vai trị của mình, hiểu được "vấn đề" từ đứa con đầu
tiên. Với các con sinh sau này, bố mẹ có nhiều kỳ vọng thực tế hơn và thả lỏng kỷ luật
nhiều hơn (Baskett, 1985). Các tiếp cận khác nhau mà bố mẹ áp dụng với con đầu lòng và
các con sinh sau này cũng giúp giải thích sự khác biệt thường gặp ở những đứa con này.
Con đầu lịng thường có điểm số trắc nghiệm trí năng cao hơn và có nhiều khả năng học
đại học hơn. Con đầu lòng cũng sẵn sàng vâng lời bố mẹ và yêu cầu của người lớn hơn.
Trái lại, có lẽ vì các con sinh sau này ít quan tâm đến việc làm vừa lòng bố mẹ và người
lớn nên chúng chơi thân với bạn đồng tuổi và có nhiều sáng kiến hơn (Eaton,
Chipperfield, & Singbeil, 1989).


2.3. Sự phát triển của trẻ là con duy nhất 
Là con duy nhất trong gia đình chắc hẳn bố mẹ rất chú ý đến "cục cưng", vì thế
cục cưng trở nên ích kỷ và tự đề cao mình. Trong thực tế có đúng như vậy hay khơng?
Trong một phân tích tồn diện với hơn 100 nghiên cứu, con một khơng thua kém các con
sinh sau này trong bất kỳ đánh giá nào. Các nghiên cứu còn cho thấy, con một thành cơng
trong trường học nhiều hơn và có mức độ thơng minh, khả năng lãnh đạo, tính tự quản và
chín chắn cao hơn (Falbo & Polit, 1986). Kết luận này phù hợp khi nghiên cứu “con một”
ở Bắc Mỹ. Ở Trung Quốc, con một là phổ biến vì chính phủ cố gắng hạn chế gia tăng dân
số. Ở đó, sự so sánh giữa con một và không phải con một thường khơng có gì khác biệt,

nếu có khác biệt thì lợi thế thường nghiêng về con một (Jiao, Ji, & Jing, 1996; Yang và
người khác, 1995). Vì thế, trái với suy nghĩ rập khuôn (cho rằng con một là: "con hư thân
mất nết" ), con một giống như những đứa con lớn lên cùng anh chị em ruột.
Khơng có gia đình nào trọn vẹn, nhiều trẻ con trên thế giới có mối quan hệ gia
đình bị phá vỡ do ly hôn. Vậy tác động của ly hôn đối với trẻ con và thanh niên ra sao?
3. Ly hôn và tái hôn
Trong thập niên 1990, gần một nửa trẻ em Bắc Mỹ chứng kiến sự ly hôn của bố
mẹ (Goodman, Emery, & Haugaard, 1998). Theo tất cả các thuyết phát triển trẻ em, ly
hơn gây đau buồn cho con trẻ vì nó bao gồm mâu thuẫn giữa bố mẹ và thường là sự tách
rời sống xa bố hoặc mẹ. Nhưng khía cạnh nào trong sự phát triển của đứa trẻ bị ly hơn tác
động nhiều nhất? Những tác động này có kéo dài hay tác động chỉ là nhất thời? Để trả lời
những câu hỏi này, chúng ta hãy bắt đầu bằng mô tả sơ lược cuộc sống sau khi ly hơn.
3.1. Cuộc sống gia đình sau khi ly hơn
Sau khi ly hôn, con thường sống chung với mẹ. Số ông bố xin nuôi con nhiều hơn
các thế hệ trước, nhưng điều này vẫn cịn khá hiếm. Chỉ có khoảng 15% trẻ con sống với
bố sau khi ly hôn (Meyer & Garasky, 1993). Người ta không biết nhiều về cuộc sống
trong các gia đình chỉ có bố, vì thế mơ tả trong các trang sau hoàn toàn dựa vào nghiên
cứu được tiến hành ở trẻ con sống chung với mẹ.
Mô tả tốt nhất về cuộc sống gia đình sau khi ly hơn trích từ Nghiên cứu ly hơn và
tái hơn theo chiều dọc ở Virginia do Mavis Hetherington cùng đồng nghiệp (1988, 1989;


Hetherington, Cox & Cox, 1982) thực hiện. Nghiên cứu ở Virginia tiến hành quan sát
cuộc sống gia đình trong nhiều năm sau khi ly hôn cùng với một mẫu so sánh các gia
đình có bố mẹ khơng ly hơn.
- Trong vài tháng đầu sau khi ly hơn, mẹ thường ít có tình cảm đối với con. Con cái có
hành vi kém chín chắn hơn lúc chưa ly hơn, mẹ cảm thấy khó kiểm sốt con hơn trước
kia.
- Hai năm sau khi ly hôn, mối quan hệ mẹ - con được cải thiện, nhất là đối với con gái.
Mẹ cũng tình cảm nhiều hơn. Mẹ có nhiều khả năng mong đợi hành vi thích hợp với độ

tuổi ở con mình và kỷ luật con một cách hiệu quả. Bố cũng đòi hỏi ở con phải có hành vi
chín chắn hơn nhưng bố thường không quan tâm đến con.
- Sáu năm sau khi ly hôn, đứa trẻ trong nghiên cứu đã bước sang tuổi thanh niên. Cuộc
sống gia đình tiếp tục cải thiện ở các bà mẹ có con gái, nhiều bà mẹ và con gái rất thân
thiết với nhau. Trái lại cuộc sống gia đình thường gặp nhiều vấn đề ở các bà mẹ có con
trai. Mẹ và con trai thường mâu thuẫn. Khơng có ai hạnh phúc hoặc vui với tính chất
cuộc sống gia đình. Mâu thuẫn giữa mẹ và con trai tuổi thanh niên thường gặp khi mẹ lấy
chồng khác, lúc này căng thẳng hơn với lúc mẹ chưa lấy chồng, có lẽ vì con trai tuổi
thanh niên sẵn sàng đối đầu với mẹ vì các tiêu chuẩn hành vi.
3.2. Tác động của ly hôn đối với sự phát triển của trẻ em
Sự đổ vỡ, mâu thuẫn và căng thẳng đi kèm với ly hơn có ảnh hưởng đến trẻ con
hay khơng? Dĩ nhiên là có. Tuy nhiên, sau khi trả lời câu hỏi rất dễ này vẫn còn nhiều câu
hỏi khó khác: tất cả khía cạnh trong cuộc sống của trẻ con có bị ảnh hưởng như nhau từ
cuộc ly hơn hay khơng? Có yếu tố nào làm ly hôn đối với một số đứa trẻ căng thẳng hơn
và đối với một số đứa trẻ khác ít căng thẳng hơn hay không? Sau cùng, ly hôn ảnh hưởng
đến sự phát triển ra sao?
Nhiều học giả cố trả lời những câu này. Năm 1990 có gần 100 nghiên cứu về tác
động của ly hôn, với hơn 13000 đứa trẻ trước tuổi đến trường cho đến độ tuổi học đại
học. Amato và Keith (1991) tổng hợp kết quả của những nghiên cứu này. Phân tích của
họ cho thấy một số lĩnh vực trong đó trẻ con có bố mẹ ly hơn thường có kết quả kém hơn
số trẻ con có gia đình ngun vẹn. Khi bố mẹ ly hơn con của họ kém thành công trong


trường học hơn và có nhiều vấn đề liên quan đến hạnh kiểm và khái niệm cái tơi
hơn. Ngồi ra, mối quan hệ bố mẹ - con thường xấu đi. Amato và Keith (1991) phát
hiện ba kết quả quan trọng khác về ly hôn.
- Trước tiên, tác động chung của ly hôn đối với bé gái và bé trai là như nhau.
- Thứ hai, ly hôn gây nhiều phương hại cho trẻ độ tuổi đến trường và thanh niên hơn trẻ
trước tuổi đến trường hoặc người lớn ở độ tuổi học đại học.
- Thứ ba, vì ly hơn trong thập niên 1980 trở nên thường xuyên hơn nên hậu quả đi kèm

với ly hôn trở nên nhỏ hơn. Thành tựu trong trường học, hạnh kiểm, điều chỉnh thích
nghi, v.v... vẫn chịu ảnh hưởng của ly hôn nhưng không nhiều như trước thập niên
1980.
Khi con của bố mẹ đã ly hôn trở thành người lớn, thì ảnh hưởng của ly hơn vẫn
cịn dai dẳng:
-Con của bố mẹ đã ly hơn có nhiều khả năng có con ở tuổi vị thành niên và chính chúng
sau này cũng ly hơn. Họ kể rằng ít hài lòng với cuộc sống và cảm thấy thất vọng nhiều
hơn (Furstenberg & Teitler, 1994; Kiernan, 1992).
- Có 11% số trẻ con của bố mẹ đã ly hôn gặp rối loạn cảm xúc nghiêm trọng khi đến tuổi
trưởng thành so với 8% số trẻ con trong các gia đình nguyên vẹn (Chase-Lansdale,
Cherlin, & Kiernan, 1995).
- Bố mẹ ly hôn khi con ở giai đoạn còn nhỏ, sự khác nhau giữa trẻ con có bố mẹ đã ly
hơn và trẻ con trong gia đình ngun vẹn khơng nhiều, hầu hết số trẻ con của bố mẹ đã ly
hôn không bị các rối loạn cảm xúc nghiêm trọng như bố mẹ chúng.
Ly hôn ảnh hưởng đến sự phát triển ra sao? Một số yếu tố đã được nhận dạng
(Amato & Keith, 1991):
- Thứ nhất, sự vắng mặt của một bố hoặc một mẹ có nghĩa là đứa trẻ mất đi một vai trò
mẫu, một nguồn giúp đỡ và hỗ trợ cảm xúc của bố mẹ cũng như người giám sát. Chẳng
hạn, trẻ con độ tuổi đến trường khó chịu vì bạn trong lớp chọc ghẹo; ở nhà cũng cảm thấy
khó chịu trong nhiều giờ cho đến khi một bố hoặc một mẹ của mình đi làm về.
- Thứ hai, các gia đình có một bố hoặc một mẹ thường gặp cảnh túng quẫn kinh tế, tạo ra
căng thẳng, ít quan tâm con, cơ hội cơ bản của con khó được đáp ứng. Cụ thể, khi một bố


hoặc một mẹ lo lắng làm sao có đủ tiền th nhà, ăn uống thì ít dành thời gian và sức lực
để làm bố/ làm mẹ. Thu nhập giảm có nghĩa là gia đình khơng cịn đủ tiền mua sách, mua
nhạc và các hoạt động khác thúc đẩy sự phát triển của con nữa.
- Thứ ba, mâu thuẫn giữa bố mẹ khiến con cái vô cùng đau khổ. Phần lớn vấn đề gán cho
ly hôn nhưng thật ra là do mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng xảy ra trước khi ly hôn
(Cherlin và người khác, 1991; Erel & Burman, 1995). Bố mẹ thường xuyên cãi vã, ẩu đả

thì con cái cũng thường biểu hiện phần lớn những tác động tương tự đi kèm với ly hôn
(Davies & Cummings, 1998; Harold và người khác, 1997).
Cuộc sống của trẻ con sau khi ly hôn không phải tất cả đều u sầu và ảm đạm. Một
số trẻ, do bố mẹ ly hôn, đã biến đau thương thành “động lực” bằng sự điều chỉnh để thích
nghi với các tình huống mới trong cuộc sống (ChaseLansdale & Hetherington, 1991). Trẻ
con thích nghi với ly hôn của bố mẹ dễ hơn khi bố mẹ đã ly hơn “trong hịa bình”, nhất là
đối với vấn đề kỷ luật (Hetherington, 1989). Dĩ nhiên, nhiều bố mẹ không hịa hợp nhau
sau khi ly hơn. Theo truyền thống, mẹ được quyền nuôi con. Chứng cứ cho thấy trẻ con
thường điều chỉnh tốt hơn khi sống với bố mẹ cùng phái với mình: con trai sống với bố
tốt hơn và con gái sống với mẹ tốt hơn (Camara & Resnick, 1988). Một lý do giải thích
tại sao con trai thường sống với bố hợp hơn là do con trai ở tuổi thiếu niên có nhiều khả
năng mâu thuẫn với mẹ nhiều hơn với bố. Một giải thích khác là cả con trai lẫn con gái
đều ấp ủ mối quan hệ cảm xúc với bố mẹ cùng phái mạnh hơn bố mẹ khác phái (Zimiles
& Lee, 1991).
3.3. Gia đình hỗn hợp
Tiếp theo sau ly hôn, hầu hết trẻ con sống trong gia đình chỉ có một bố hoặc một
mẹ trong khoảng 5 năm. Tuy nhiên có hơn 2/3 nam và nữ đã ly hôn sau cùng lại tái hôn
(Glick, 1989; Glick & Lin, 1986). Kết quả là: đối với ông bố ly hơn khi tái hơn, gia đình
lúc này là bố đẻ , mẹ ghẻ và con riêng của một hoặc cả hai, được gọi là gia đình hỗn hợp.
Vì mẹ thường được quyền ni con nhiều hơn nên hình thức gia đình hỗn hợp phổ biến
nhất là một mẹ, con và bố ghẻ. Bé trai trước tuổi thanh niên thường hưởng lợi khi có mặt
bố ghẻ, nhất là khi bố ghẻ tình cảm và quan tâm. Trái lại, bé gái trước tuổi thanh niên
khơng thích nghi với việc tái hơn của mẹ, rõ ràng là vì sự tái hơn này phá vỡ mối quan hệ


mật thiết mà bé đã hình thành với mẹ. Tuy nhiên, khi bé trai và bé gái bước vào tuổi
thanh niên thì cả hai đều hưởng lợi từ sự có mặt của bố ghẻ biết quan tâm (Hetherington,
1993).
Chiến lược tốt nhất đối với bố ghẻ là quan tâm đến con ghẻ của mình nhưng tránh
xâm phạm mối quan hệ đã được xác lập. Các bà mẹ vừa tái hôn phải kiềm chế sự nhiệt

tình của mình đối với người chồng mới, đặc biệt trước mặt con mình. Cả bố mẹ lẫn con
đều cần có những mong đợi thực tế về gia đình hỗn hợp. Họ có thể thành cơng nhưng địi
hỏi phải cố gắng nhiều vì nhiều mối quan hệ phức tạp, sự thủy chung xung đột và ghen
tuông thường tồn tại.
Đơi khi gia đình hỗn hợp bao gồm số con cái từ các cuộc hôn nhân trước của cả
hai bố mẹ. Bố mẹ trong những gia đình này cần phải nỗ lực đặc biệt để đối xử với con
ghẻ. Khi không được như thế, mâu thuẫn và hành vi có vấn đề là điều thường gặp
(Mekos, Hetherington, & Reiss, 1996).
Người ta vẫn chưa biết nhiều về gia đình hỗn hợp gồm một bố, con riêng của bố
và mẹ ghẻ. Một số yếu tố hội tụ khiến cho cuộc tái hơn của bố gây nhiều khó khăn cho
con mình (Brand, Clingempeel, & Bowen-Woodward, 1988). Thứ nhất, một lý do các
ông bố được quyền ni con có thể biện minh, nghĩ rằng con mình ngang bướng và sẽ tốt
hơn nếu bố áp dụng "bàn tay sắt". Do đó, nhiều đứa trẻ trong loại gia đình này khơng
thích nghi với nhiều thử thách trong cuộc sống chẳng hạn như việc bố lấy vợ khác. Thứ
hai, đôi khi bố được quyền nuôi con vì có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với con, nhất là
con trai. Đối với việc mẹ lấy chồng khác cũng thế, đôi lúc đứa trẻ sợ rằng việc bố lấy vợ
khác sẽ đảo lộn mối quan hệ này. Sau cùng, mẹ khơng ni con có nhiều khả năng hơn
bố khơng ni con trong việc duy trì sự liên lạc thân thiết và thường xuyên với con
(Maccoby và người khác, 1993). Sự có mặt thường xuyên của người mẹ khơng ni con
có thể gây trở ngại cho nỗ lực của mẹ ghẻ trong việc hình thành mối quan hệ thân thiết
với con ghẻ, nhất là con gái ghẻ.
Qua thời gian, trẻ con thích nghi với gia đình hỗn hợp. Nếu cuộc hơn nhân hạnh
phúc, thì hầu hết trẻ con chắc chắn hưởng lợi từ sự có mặt của hai người lớn quan tâm.
Thật không may, những cuộc hôn nhân lần thứ hai có nhiều khả năng kết thúc bằng ly


hơn nhiều hơn cuộc hơn nhân lần thứ nhất, vì thế nhiều đứa trẻ phải sống trong bi kịch ly
hôn thêm lần nữa. Bạn có thể tưởng tượng, những tình tiết mâu thuẫn thường xảy ra như
thế phá vỡ nghiêm trọng sự phát triển của đứa trẻ, làm nổi bật vấn đề được quan sát thấy
ở trẻ con sau cuộc ly hôn ban đầu (Capaldi & Patterson, 1991).

4. Ngược đãi
4.1. Các hình thức ngược đãi
Lần đầu tiên bé Max 7 tuổi đến trường với nhiều vết bầm tím trên mặt, bé giải
thích với cơ giáo rằng bé ngã cầu thang. Vài tuần sau, Max cũng có nhiều vết bầm tím
như thế, thì cơ giáo nói với hiệu trưởng, hiệu trưởng tiếp xúc với chính quyền địa
phương. Hóa ra mẹ của Max dùng mái chèo đánh con cho dù nó phạm lỗi không đáng kể,
đối với những lỗi vi phạm nghiêm trọng, bà đánh Max và bỏ cậu ngủ một mình trong
tầng hầm tối đen, khơng có máy sưởi.
Thật khơng may, những trường hợp như Max xảy ra khá thường xuyên. Sự ngược
đãi diễn ra trong nhiều hình thức (Goodman và người khác, 1998):
- Ngược đãi hành hạ, bao gồm đánh đập dẫn đến chấn thương chẳng hạn như vết bầm
tím, chảy máu, sưng và gãy xương
- Lạm dụng tình dục, bao gồm vuốt ve, âu yếm, giao hợp hoặc các hành vi tình dục khác
- Ngược đãi tâm lý, bao gồm chế giễu, hắt hủi, hoặc làm bẽ mặt
- Bỏ bê, trẻ không nhận được đủ thức ăn, quần áo hoặc chăm sóc thuốc men
Tần số ngược đãi trẻ khó dự đốn vì có nhiều trường hợp khơng được báo cáo.
Theo Trung tâm quốc gia phụ trách vấn đề ngược đãi và bỏ bê trẻ con (1997), mỗi năm
có khoảng 1 triệu trẻ con bị ngược đãi hoặc bị bỏ bê. Khoảng 50% trẻ con bị bỏ bê,
khoảng 25% trẻ bị ngược đãi hành hạ và 15% bị lạm dụng tình dục (Trung tâm quốc gia
phụ trách vấn đề ngược đãi và bỏ bê trẻ con, 1997).
4.2. Các yếu tố tạo nên hành vi ngược đãi
Bố mẹ ngược đãi con có lúc được cho là bị rối loạn hoặc mất trí mức độ nặng.
Ngày nay, đa số bố mẹ ngược đãi con cái không thể phân biệt với bố mẹ khác theo tiêu
chuẩn tâm thần (Wolfe, 1985). Thật ra, giải thích ngược đãi trẻ con thời hiện đại khơng
cịn xét đến một nguyên nhân duy nhất hoặc thậm chí một số lượng nhỏ nguyên nhân.


Thay vào đó, kết hợp nhiều yếu tố khi xem xét đứa trẻ có nguy cơ bị ngược đãi (Rogosch
và người khác, 1995). Chúng ta hãy xét 3 yếu tố kết hợp quan trọng nhất: Bối cảnh văn
hóa xã hội; Bố mẹ và Bản thân đứa trẻ.

Nhóm các yếu tố góp phần chung chung nhất là nhóm liên quan giá trị văn hóa và
điều kiện xã hội mà bố mẹ ni dưỡng con mình. Chẳng hạn, quan điểm hình phạt cơ thể
trong một nền văn hóa góp phần vào sự ngược đãi trẻ con. Một ơng bố đang đánh đít con,
là điều thường gặp ở Mỹ. Trái lại, nhiều nước ở châu Âu và châu Á ngăn cấm hình phạt
cơ thể kể cả đánh đít. Các nước bỏ qua hình phạt cơ thể thường có khuynh hướng có tỷ lệ
ngược đãi trẻ thấp hơn nước Mỹ (Zigler & Hall, 1989). Điều kiện xã hội nào dung dưỡng
sự ngược đãi? Nghèo đói: Ngược đãi là điều thường gặp ở trẻ con sống trong cảnh đói
nghèo, một phần vì tiền bạc thiếu thốn khiến cho đời sống hằng ngày rất nhiều căng
thẳng (Coulton và người khác, 1995). Khi bố mẹ lo lắng khơng biết có đủ tiền mua thức
ăn hoặc trả tiền th nhà hay khơng, thì bố mẹ có nhiều khả năng đánh đập con cái thay
vì cố gắng tranh luận với con nhiều hơn. Cô lập xã hội: Ngược đãi có nhiều khả năng
xảy ra khi gia đình cơ lập khơng chơi với hàng xóm hoặc cơ lập với những người thân
khác. Khi một gia đình sống trong sự cơ lập tương đối thì sẽ tước bỏ sự bảo vệ của người
lớn đối với trẻ con và tước đi sự hỗ trợ xã hội của bố mẹ giúp trẻ con giải quyết căng
thẳng trong đời sống (Garbarino & Kostelny, 1992). Các yếu tố văn hóa: văn hóa rõ
ràng góp phần vào sự ngược đãi trẻ con nhưng chúng chỉ là một phần trong vấn đề. Mặc
dù ngược đãi phổ biến ở các gia đình sống trong cảnh đói nghèo hơn, nhưng cũng xảy ra
trong các gia đình thuộc giai cấp trung lưu và thượng lưu. Do đó, chúng ta cần khảo sát
các yếu tố bổ sung để giải thích tại sao ngược đãi xảy ra.
Nhóm yếu tố thứ hai giải thích cho sự ngược đãi thuộc về bản thân bố mẹ. Bố mẹ
ngược đãi con vì một số lý do thuộc về bản thân bố mẹ, các lý do đó có thể là:
- Khi cịn nhỏ chính họ cũng bị bố mẹ ngược đãi (Simons và người khác, 1991);
- Bố mẹ có kỳ vọng cao đối với con mình nhưng lại ít giúp đỡ con đạt được những mục
tiêu này (Trickett và người khác, 1991);
- Bố mẹ dựa vào biện pháp đánh đập để kiểm soát con (Trickett & Kuczynski, 1986).


Nói chung, bố mẹ ngược đãi con cái do chính họ có thời thơ ấu bất hạnh và hiểu biết hạn
chế về những kỹ thuật làm bố mẹ hiệu quả.
Nhóm yếu tố thứ ba giải thích cho hành vi ngược đãi xuất phát từ chính bản thân

đứa trẻ bị ngược đãi. Ảnh hưởng tương hỗ giữa bố mẹ và con cái nhắc bạn nhớ rằng trẻ
con có thể vơ tình, qua hành vi của chúng, góp phần khiến cho chúng bị ngược đãi. Thực
ra, trẻ con ở tuổi ẵm ngửa và trẻ con trước tuổi đến trường thường bị ngược đãi hơn trẻ
lớn, có lẽ vì trẻ nhỏ ít có khả năng điều chỉnh hành vi có hại, gợi ra ngược đãi (Belsky,
1993). Có lẽ bạn đã nghe câu chuyện kể một bậc bố mẹ nhấc con lên rung mạnh tay cho
đến khi con chết vì con khơng chịu nín khóc. Vì trẻ nhỏ cứ ln khóc dai q mức - hành
vi sớm muộn gì cũng làm bố mẹ bực mình - có nhiều khả năng trở thành mục tiêu bị
ngược đãi hơn. Cũng cùng lý do như thế trẻ con thường xuyên ốm đau cũng bị ngược đãi
thường xuyên hơn. Khi đứa trẻ ốm sẽ khóc dai hơn, làm bố mẹ bực mình hơn. Khi đứa trẻ
ốm, trẻ con cần chăm sóc y tế thuốc men (nghĩa là phải tốn tiền), phải nghỉ học ở nhà
(nghĩa là bố mẹ phải sắp xếp để chăm sóc). Vì trẻ con ốm làm tăng mức độ căng thẳng
trong gia đình, nên vơ tình trẻ con trở thành mục tiêu bị ngược đãi. Bằng hành vi non nớt
hoặc khi ốm, trẻ con vô tình đặt mình vào nguy cơ bị ngược đãi (Rogosch và người khác,
1995).
4.3. Ảnh hưởng của sự ngược đãi đối với trẻ con
Có lẽ chúng ta dự đốn được hậu quả về thể chất và tinh thần đối với trẻ con bị
ngược đãi. Một số bị thương tổn cơ thể vĩnh viễn. Thậm chí khi khơng có thương tổn cơ
thể vĩnh viễn đi nữa thì sự phát triển xã hội và cảm xúc của trẻ con thường bị xáo trộn.
Trẻ con thường có mối quan hệ khơng tốt với bạn đồng tuổi, thường vì đứa trẻ quá gây
hấn (Parker & Herrera, 1996). Sự phát triển nhận thức và kết quả học tập cũng bị xáo
trộn. Trẻ con bị ngược đãi thường có điểm số thấp hơn trong trường học, có điểm thấp
hơn trong các trắc nghiệm tiêu chuẩn hóa, và thường ở lại lớp hơn là lên lớp. Cũng
thường thấy các rối loạn hành vi liên quan đến trường học chẳng hạn như đập vỡ đồ vật
trong lớp (Trickett & McBrideChang, 1995). Người lớn bị ngược đãi khi còn nhỏ thường
có các rối loạn cảm xúc chẳng hạn trầm cảm hoặc lo âu, và thường có ý định nghĩ đến
chuyện tự tử hoặc toan tự tử, có nhiều khả năng dùng bạo lực đối với chồng vợ, và con




×