TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
THI PHÁP THƠ TỐ HỮU
QUA TẬP THƠ TỪ ẤY
DƯƠNG THỊ THÙY TRANG
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
THI PHÁP THƠ TỐ HỮU
QUA TẬP THƠ TỪ ẤY
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh vên thực hiện:
NGUYỄN HOA BẰNG
DƯƠNG THỊ THÙY TRANG
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, cán bộ, nhân viên trường Đại học
Võ Trường Toản, Khoa sư phạm, thư viện đại học Võ Trường Toản và thư viện thành
phố Cần Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành khóa luận.
Trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã giành nhiều tâm huyết, hết lịng
giảng dạy, giúp tơi và các sinh viên khác có được những kiến thức quý báo và những
phương pháp, kỹ năng cần thiết trong công tác chuyên môn sau này.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc Tiến sĩ Nguyễn Hoa Bằng đã chỉ
dạy tôi tận tình giúp tơi hồn thành khóa luận.
Hậu giang, ngày…tháng…năm……
Tơi xin chân thành biết ơn!
Dương Thị Thùy Trang
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là do chính tơi thực hiện, các số liệu thu thập và
kết quả phân tích trong luận văn là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài
nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)
Dương Thị Thùy Trang
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
i
LỜI CAM ĐOAN
ii
MỤC LỤC
iii
MỞ ĐẦU
1
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
2
3. Mục đích nghiên cứu
5
4. Phạm vi nghiên cứu
6
5. Phương pháp nghiên cứu
6
Chương 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ THI PHÁP
KHÁI QUÁT THI PHÁP THƠ TỐ HỮU
1.1. Lí luận chung về thi pháp và thi pháp học
1.1.1. Về “Thi pháp”
7
7
7
1.1.1.1. Các ý kiến khác nhau về khái niệm “ thi pháp”
7
1.1.1.2. Xác định khái niệm “thi pháp”
9
1.1.2. Về “Thi pháp học”
9
1.1.2.1. Khái niệm “thi pháp học”
9
1.1.2.2. Đối tượng và phương pháp của thi pháp học
1.2. Khái quát về thi pháp thơ Tố Hữu
10
12
1.2.1. Thi pháp nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật
12
1.2.1.1. Thi pháp nhân vật
12
1.2.1.2. Thi pháp không gian nghệ thuật
13
1.2.1.3. Thi pháp thời gian nghệ thuật
13
1.2.2. Thi pháp thể loại, kết cấu, ngôn ngữ
15
1.2.2.1. Thi pháp thể loại
15
1.2.2.2. Thi pháp kết cấu
15
iii
1.2.2.3. Thi pháp ngôn ngữ
16
Chương 2: THI PHÁP NHÂN VẬT, KHÔNG GIAN,
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TỪ ẤY
2.1. Thi pháp nhân vật trong Từ ấy của Tố Hữu
2.1.1. Lí luận chung về thi pháp nhân vật
17
17
17
2.1.1.1. Nhân vật văn học và thi pháp nhân vật
17
2.1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người
17
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Từ ấy
18
2.1.2.1. Con người cách mạng
18
2.1.2.2. Con người hòa lẫn đồng nhất với đất nước
21
2.1.2.3. Con người tự do hướng đến ngày mai tươi sáng
24
2.1.2.4. Con người mang tấm lòng son sắt nghĩa tình
27
2.2. Thi pháp thời gian nghệ thuật trong Từ ấy
2.2.1. Lí luận chung về thi pháp thời gian nghệ thuật
28
28
2.2.1.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật
28
2.2.1.2. Cấu trúc và biểu hiện của thời gian nghệ thuật
29
2.2.2. Thời gian nghệ thuật trong Từ ấy
30
2.2.2.1. Thời gian lịch sử
30
2.2.2.2. Thời gian vận động
33
2.2.2.3. Thời gian hướng đến tương lai
34
2.3 Thi pháp không gian nghệ thuật trong Từ ấy của Tố Hữu
2.3.1. Lí luận chung về thi pháp khơng gian nghệ thuật
36
36
2.3.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật
36
2.3.1.2. Cấu trúc và biểu hiện của khơng gian nghệ thuật
37
2.3.1.3. Tính chất và chức năng của không gian nghệ thuật
37
2.3.2. Thi pháp không gian nghệ thuật trong Từ ấy của Tố Hữu
37
2.3.2.1. Không gian bầu trời tự do
37
2.3.2.2. Không gian đời thường
39
2.3.2.3. Không gian con đường
42
iv
Chương 3: THI PHÁP THỂ LOẠI, KẾT CẤU, NGÔN NGỮ
VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TỪ ẤY CỦA TỐ HỮU
3.1. Thi pháp thể loại trong Từ ấy của Tố Hữu
46
46
3.1.1. Lí luận chung về thi pháp thể loại
46
3.1.1.1. Khái niệm về thi pháp thể loại
46
3.1.1.2. Ba dòng nội dung của thi pháp thể loại hiện nay
46
3.1.2. Thi pháp thể loại trong tập thơ Từ ấy
47
3.2. Thi pháp kết cấu trong Từ ấy của Tố Hữu
49
3.2.1. Lí luận chung về thi pháp kết cấu
49
3.2.1.1. Khái niệm về thi pháp kết cấu
49
3.2.1.2. Các phương diện của thi pháp kết cấu
49
3.2.2. Thi pháp kết cấu trong Từ ấy
50
3.2.2.1. Kết cấu tương phản
50
3.2.2.2. Kết cấu so sánh
52
3.2.2.3. Kết cấu hô ứng
55
3.2.2.4. Kết cấu trùng điệp
56
3.3. Thi pháp ngôn ngữ và giọng điệu trong Từ ấy của Tố Hữu
59
3.3.1. Lí luận chung về thi pháp ngơn ngữ và giọng điệu
59
3.3.1.1. Những vấn đề chung về thih pháp và ngôn ngữ
59
3.3.1.2. Những vấn đề chung về thi pháp giọng điệu
62
3.3.2. Thi pháp ngôn ngữ và giọng điệu trong Từ ấy
63
3.3.2.1. Thi pháp ngôn ngữ trong Từ ấy
63
3.3.2.2. Thi pháp giọng điệu trong Từ ấy
67
KẾT LUẬN
70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
72
v
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tố Hữu là một cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu
gắn liền với các chặng đường cách mạng của dân tộc và lắng sâu trong lòng quần
chúng nhân dân suốt thời gian qua. Đánh giá về thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên đã từng
nhận định: “Nói đến Tố Hữu về thơ phải nói vai trị mở đầu và hiện vẫn là dẫn đầu
của anh trong nền thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Sự thành công của
anh trước Cách mạng đã xúc tiến sự hình thành của thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa
sau Cách mạng” [11, tr.39].
Tố Hữu là nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu của thơ ca cách mạng. Là sản phẩm
của cuộc đấu tranh cách mạng, đồng thời là người giữ vai trò tuyên truyền, cổ động,
truyền lệnh của cách mạng, thơ Tố Hữu có sức cảm hóa, chinh phục đơng đảo quần
chúng nhân dân trong một thời kỳ mấy mươi năm. Với vị trí và sức mạnh của mình,
thơ Tố Hữu đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những đặc điểm và xu hướng vận động
của nền thơ ca cách mạng trong giai đoạn 1945 – 1975.
Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Mọi sự kiện, vấn đề lớn của đời sống
Cách mạng, lí tưởng chính trị những tình cảm chính trị thơng qua trái tim nhạy cảm
của nhà thơ đều có thể trở thành đề tài và cảm hứng nghệ thuật thực sự. Tố Hữu là
nhà thơ của lẽ sống lớn, của tình cảm lớn, niềm vui lớn của Cách mạng và con
người cách mạng. Thơ Tố Hữu luôn thu hút được sự quan tâm của giới phê bình,
nghiên cứu văn học và khơng chỉ được giảng dạy trong nhà trường phổ thông mà cả
đại học.
Thơ Tố Hữu là một thành tựu nổi bật của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Đó là
bài ca của thời đại Hồ Chí Minh đấu tranh anh hùng và thắng lợi vẻ vang, bài ca về
lẽ sống lớn, về ân tình cách mạng sâu nặng, về niềm vui tin cách mạng mới mẻ,
trong trẻo. Thơ Tố Hữu đã được đánh giá, tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau, từ
nội dung tư tưởng tới hình thức, phong cách, từ đề tài, chủ đề, hình tượng tới
phương pháp sáng tác, thể loại, ngơn ngữ. Có thể nói giới nghiên cứu đã tích lũy
được một vốn tri thức hết sức phong phú về tư tưởng và nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Hầu như khơng cịn tập thơ, bài thơ nào có giá trị của ơng mà khơng được bàn đến,
khơng có hình tượng thơ hoặc câu thơ hay nào của ông mà không được phát hiện.
Như trên ta thấy, thơ Tố Hữu được các nhà nghiên cứu phê bình tiếp cận ở
nhiều hướng khác nhau nhưng theo hướng thi pháp học thì rất ít. Trong các bộ môn
của ngành nghiên cứu văn học hiện nay như lịch sử văn học, phê bình văn học thì
thi pháp học là một bộ mơn nghiên cứu có nhiệm vụ đặc thù. Người đọc hôm nay
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
1
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
không chỉ thỏa mãn với việc mơ tả các loại hình tượng nghệ thuật, phân tích từng
loại chủ đề hay ở sự phát hiện câu hay, lời đắt, nhịp mới, không muốn bằng lịng với
việc chỉ ra chỗ này có hơi ca dao, chỗ kia phảng phất giọng Huế, chỗ nọ có dáng
“thơ mới”. Mà ngày nay tư duy lí luận ngày càng đòi hỏi nắm bắt thơ Tố Hữu như
một chỉnh thể, một thế giới nghệ thuật có quy luật vận động nội tại của nó.
Vấn đề nghiên cứu thi pháp học hiện nay đang được chú ý nghiên cứu, đây là
một vấn đề mới và rất thú vị nhưng vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, tơi
chọn vấn đề nghiên cứu thi pháp thơ Tố Hữu để tìm hiểu rõ hơn về thi pháp. Tố
Hữu có tất cả 7 tập thơ và ở mỗi tập điều có nét đặc sắc riêng. Nhưng ở đây tôi chọn
tập thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn về thi pháp thơ Tố Hữu trong buổi đầu giác ngộ lý
tưởng Cách mạng.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu về thơ Tố Hữu
Trên bầu trời của nền văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu luôn được coi là
ngôi sao sáng ngời, là người mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng.
Hơn 60 năm sáng tác, Tố Hữu đã để lại một sự nghiệp đồ sộ. Với ba bài tiểu luận:
Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, với thời đại ta (1973),
Cuộc sống Cách mạng và văn học nghệ thuật (1981), Phấn đấu vì một nền văn nghệ
xã hội chủ nghĩa (1981) và bảy tập thơ: Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng
(1961), Ra trận (1971), Máu và Hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta
(2001), mỗi tập mang đến một vẻ độc đáo riêng. Khi vừa ra đời thơ Tố Hữu đã trở
thành một hiện tượng, một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu
hết các nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi trong cả nước: K và T, Trần Minh Tước,
Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai, Hồi Thanh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Vũ Đức
Phúc, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử…và các
nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xn Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Hồng
Trung Thơng…cũng đã góp phần vào những tiểu luận phê bình về thơ Tố Hữu khá
sắc sảo, tinh tế.
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu. Trong đó nổi
bật nhất là ba cơng trình. Thơ Tố Hữu của Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu tiếng
nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp
thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử (1987).
2.2. Nghiên cứu về tập thơ Từ ấy
Từ ấy, tập thơ 10 năm của một nhà thơ và cũng là mười năm của Cách mạng
Việt Nam. Nhà thơ nào dầu muốn dầu khơng cũng khơng thốt ra thời đại mình
đang sống. Và chính thái độ đối với thời đại nó đánh giá phần lớn tác phẩm của nhà
thơ. Tố Hữu lớn lên trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Mặt trận
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
2
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
bình dân thành lập. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh công khai trên các mặt trận kinh
tế, chính trị, văn hóa. Đồng thời trên thế giới, nổi lên một cao trào đấu tranh chống
chủ nghĩa phát xít. Tố Hữu được cái vinh dự, gặp Đảng ngay từ ấy, khi còn là một
thanh niêm mười bảy tuổi và đã góp thơ mình vào cuộc đấu tranh
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Khi viết phê bình về thơ Tố Hữu , giáo sư Đặng Thai Mai đã nhận xét “Từ ấy
kết tinh trên hoạt động của thi sĩ từ ngày mới vào Đảng, phụ trách công tác thanh
niên dân chủ ở Huế, qua những năm bị tù đày, rồi vượt ngục, rồi trở lại hoạt động
bí mật cho đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công (1945)”,“Từ ấy là bản cáo
trạng gay gắt nhân danh phẩm giá của con người lao khổ, nhân danh chủ nghĩa
nhân đạo để chống một chế độ tàn bạo, ngoan cố; nhân danh cái đẹp của thiên
nhiên và của nghệ thuật, của chân lý và công lý để phản kháng với cái xấu xa, cái
giả dối của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hống hách; nhân danh cái mới và sự sống
chống lại cái lạc hậu và cái chết. Từ ấy là bản quyết tâm thư của một chiến sĩ
không hề do dự trước nhiệm vụ, không hề lùi bước trước bạo lực của quân địch,
không tuyệt vọng trên những bước đường thử thách đau đớn nhất” [11, tr.72 -75].
Ý kiến của Đặng Thai Mai, trong Mấy ý nghĩ, ông đã nhận định về tập thơ Từ
ấy của Tố Hữu như sau: “Thơ Tố Hữu là “bó hoa lửa” lộng lẫy, nồng nàn, kết tinh
trên cơ sở của một hiện thực vĩ đại: cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong mười
năm, dưới ánh sáng của Đảng, của tư Tưởng Mác – Lênin” [13, tr.366].
Nhà thơ Xuân Diệu trong Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ nhận định: “Từ ấy
chính là thơ của Tố Hữu, mang dấu hiệu của Tố Hữu chứ không ai khác, rất độc
đáo. Cái độc đáo ấy là do tâm hồn của Tố Hữu quyết định; chất tình cảm, chất tư
tưởng của Tố Hữu là nội dung đã quyết định cho hình thức những bài thơ, đoạn thơ
thành xuất sắc, ưu tú”[13, tr.414].
Phan Cự Đệ, với cơng trình nghiên cứu Một bông hoa tươi thắm nhất của vườn
thơ Cách mạng, trong cơng trình này ơng đã nhận định “phong cách của nhà thơ Tố
Hữu không thể giống phong cách của các nhà thơ lãng mạn tiêu cực đương thời vì
thế giới quan của Tố Hữu khác xa thế giới quan của họ. Càng khơng thể nói có một
“phong cách lãng mạn” chung cho các nhà thơ lãng mạn tiêu cực và lãng mạn
cách mạng” [13, tr.423].
Cuối cùng Phan Cự Đệ đã khẳng định Từ ấy là một bông hoa tươi thắm nhất
của vườn thơ cách mạng: “Tôi đã chứng minh thơ Tố Hữu hình thành và phát triển
trong phong trào thơ ca cách mạng từ 1936 – 1945. Nó là con đẻ của phong trào,
nhưng đồng thời cũng là tiếng nói tiêu biểu, kết tinh cao nhất của phong trào. Nó là
bơng hoa tươi thắm nhất của vườn thơ cách mạng. Tách thơ Tố Hữu ra khỏi phong
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
3
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
trào thơ ca cách mạng 1936 – 1945 thì khơng thể nào hiểu thơ Tố Hữu và đồng thời
cũng không đánh giá đúng mức thơ Tố Hữu, đỉnh cao nhất của thơ ca cách mạng
1930 – 1945” [13, tr.430].
Hoàng Minh Châu, với cơng trình nghiên cứu Về giá trị tập thơ Từ ấy và
phương pháp sáng tác của Tố Hữu, ông đã khẳng định: “Từ ấy có kế thừa chăng là
kế thừa cái truyền thống thơ ca cách mạng của dân tộc, kế thừa những hình ảnh đất
nước quê hương” [13, tr.431]. Về lời thơ trong Từ ấy của Tố Hữu, Hoàng Minh
Châu đã nhận định: “Tôi thấy giá trị lớn lao của lời thơ Tố Hữu là đã đánh bạt
được những lời ru ngủ, đầu độc thanh niên lúc bấy giờ” [13, tr.434].
Huỳnh Lý, với cơng trình nghiên cứu Nên xét thơ Tố Hữu như một thực thể
động, cũng đã cho rằng: “Những ý kiến cho rằng thơ Tố Hữu thoát thai từ thơ mới,
rằng Tố Hữu là nhà thơ tiểu tư sản,…đã đành là khơng đúng. Nhưng cịn nói như ý
kiến bạn Hồng Minh Châu, thơ Tố Hữu khơng cịn chút rơi rớt tiểu tư sản nào cả,
khơng có quan hệ gì với thơ mới, thậm chí khơng dung cho người ta gắn thơ mới
với phong trào thơ ca cách mạng, coi Tố Hữu như một cái đỉnh, nhưng một cái đỉnh
tuyệt vời, chơi vơi ở trên hết cả trong văn học của thời đại, tôi tưởng là cũng chưa
nắm được chân giá trị tập Từ ấy”[13, tr.435-436]. Trên đây là những ý kiến khác
nhau về tập thơ Từ ấy của Tố Hữu.
2.3. Nghiên cứu về thi pháp tập thơ Từ ấy
Trong cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu Trần Đình Sử đã nhắc đến những vấn đề về
thi pháp trong tập thơ Từ ấy như:
Quan niệm nghệ thuật về con người. Đó là con người cách mạng, đang chiến
đấu hết mình để bảo vệ Tổ quốc, họ là những con người hòa lẫn đồng nhất với đất
nước, với quốc gia dân tộc. Cá nhân được thể hiện như là đại diện tiêu biểu cho dân
tộc, cho Đảng và quần chúng cách mạng là biểu hiện trực tiếp của “nhịp sống lớn”,
của “ niềm vui chung” của “ tình cảm lớn” hay của lẽ sống lớn, chứ không phải là
một cá nhân mang nội dung khái quát thông thường. Đặc biệt ta thấy trong Từ ấy
hình ảnh con người tự do hướng đến tương lai.
Tương lai đó trước mặt ta biển rộng
Trên đầu ta lồng lộng gió trời cao
Rồi mai đây giữa một buổi xuân đào
Ta sẽ tới ru mình trong vịnh bạc
(Như những con tàu)
Không gian trong Từ ấy đã tách không gian đời tư ra khỏi không gian cộng
đồng. Sống trong cách mạng kháng chiến con người đã thoát khỏi lũy tre làng, ngôi
nhà, vườn tược để đi ra con đường lớn của cách mạng. Nếu không gian đời tư có
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
4
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
xuất hiện thì cũng chỉ để làm nền cảnh cho khơng gian xã hội, để có thể thấy được
sự uất hận của con người từ đó đứng lên đi theo cách mạng.
Thời gian trong Từ ấy là thời gian lịch sử - xã hội, do vậy, không tĩnh tại, đồng
đều. Thời gian ở đây là thời gian của con người, thời gian của Nhân Dân, Dân tộc, ở
đây thời gian lịch sử xuất hiện như viễn cảnh của thời gian cá nhân. Tuy nhiên Tố
Hữu bao giờ cũng miêu tả một hình tượng thời gian lịch sử cụ thể, vạch ra mối quan
hệ biện chứng của nó với thời gian cá nhân. Tố Hữu là người đầu tiên đem điểm
tính thời gian đời tư vào với điểm tính thời đại mới:
Từ ấy trong tơi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
(Từ ấy)
Trong Từ ấy Tố Hữu thiên về khai thác giọng nói nhiệt huyết, trẻ trung, tìm lối
nói cường điệu giàu ý vị lãng mạng, ở Từ ấy, giọng nói lãng mạng và khí thế cách
mạng khơng tách rời nhau, lời thơ lãng mạng và lời nhiệt huyết quyết hi sinh không
tách rời nhau. Lãng mạng là cái vỏ mới của lời huyết thệ, của niềm tin và niềm vui
chiến thắng.
Nghiên cứu thơ Tố Hữu từ phương diện phong cách nghệ thuật đã có nhiều tác
giả quan tâm. Nhưng về mặt thi pháp thì chỉ có cơng trình nghiên cứu của Trần
Đình Sử trong Thi pháp thơ Tố Hữu. Ơng đã đi vào tìm hiểu các phương diện chủ
yếu của thi pháp một cách bao quát từng tập thơ của Tố Hữu như: thể tài, quan niệm
nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật…giúp chúng
ta phát hiện ra cái hay về thi pháp của từng tập thơ. Trong luận văn này tôi đi sâu
tìm hiểu về thi pháp thơ Tố Hữu trong tập thơ Từ ấy.
Để đi sâu vào tìm hiểu thi pháp trong tập thơ của Tố Hữu, tôi dựa vào thành
tựu của những cơng trình nghiên cứu trước làm nền tảng cơ sở ban đầu. Tuy nhiên
đây không phải là sự lặp lại một cách máy móc mà là sự kế thừa và phát huy trên
nguyên tắc đi sâu vào vấn đề thi pháp của tập thơ Từ ấy, để từ đó có góc nhìn đầy
đủ hơn về thi pháp trong một tập thơ của Tố Hữu.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu, luận văn hướng vào
những mục đích cụ thể sau: Tìm hiểu những vấn đề chung về thi pháp, một ngành
nghiên cứu văn học mới. Tìm hiểu vấn đề thi pháp, trong một tập thơ cụ thể để thấy
được cái hay cái riêng của tập thơ từ khía cạnh thi pháp, và những điều nhà thơ
muốn gửi gắm.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
5
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Việc nghiên cứu vấn đề thi pháp trong tập thơ Từ ấy, giúp tôi hiểu rõ hơn về
vấn đề thi pháp trong thơ, đồng thời có dịp thực hành cũng cố thêm những kiến thức
đã được học. Tìm hiểu về Từ ấy cịn giúp tơi tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng và
phương pháp trong vấn đề nghiên cứu khoa học, để có thể nghiên cứu thêm những
đề tài khoa học khác. Bên cạnh đó sẽ giúp ích rất nhiều cho tơi trong công tác
chuyên môn sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng luận văn nghiên cứu là thi pháp về tập thơ Từ ấy của Tố Hữu, đây là
tập thơ đầu tay của ơng được viết trong vịng 10 năm từ năm 1936 – 1946, tập thơ
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng phản ánh rõ nét quá trình giác ngộ và trưởng thành
của người cộng sản trẻ tuổi. Ở đây người viết sẽ tìm hiểu từng khía cạnh trong thi
pháp như: nhân vật, không gian, thời gian, thi pháp về thể loại, kết cấu, ngôn ngữ và
giọng điệu được Tố Hữu thể hiện trong tập thơ Từ ấy. Để qua đó thấy được cái hay
và đặc trưng riêng của từng tập thơ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa thành quả của Trần Đình Sử trong Thi pháp thơ Tố Hữu, để
phân tích tìm hiểu rõ hơn về thi pháp tập thơ Từ ấy. Thực hiện luận văn này tôi sử
dụng phương pháp phân tích – tổng hợp. Dựa vào tập Từ ấy để tiến hành phân tích,
tìm hiểu những vấn đề khác nhau về mặt thi pháp trong tập thơ. Sau đó sẽ tổng hợp
theo từng nội dung cụ thể, bên cạnh đó là so sánh với các tập thơ khác của Tố Hữu
và một số bài thơ của các tác giả khác để thấy rõ hơn về đặc điểm thi pháp thơ Tố
Hữu.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
6
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ THI PHÁP,
KHÁI QUÁT THI PHÁP THƠ TỐ HỮU
1.1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ THI PHÁP VÀ THI PHÁP HỌC
1.1.1. Về “thi pháp”
1.1.1.1. Các ý kiến khác nhau về khái niệm “thi pháp”
Thi pháp là đối tượng nghiên cứu của thi pháp học. Hiện nay có rất nhiều cách
hiểu khác nhau về khái niệm thi pháp. Về một phương diện hay một góc độ nào đó,
có thể nói, trong thực tế có bao nhiêu người nghiên cứu về thi pháp học thì cũng có
bấy nhiêu cách hiểu về khái niệm thi pháp. Trần Đình Sử trong Thi pháp văn học
trung đại Việt Nam: Thi pháp là hệ thống các nguyên tắc chi phối sự tạo thành của
một hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp khơng phải là một ngun
tắc có trước, nằm bên ngồi, mà là nguyên tắc bên trong, vốn có của sáng tạo nghệ
thuật, hình thành cùng với nghệ thuật. Nó là mỹ học nội tại của sáng tác nghệ thuật
nhất định, mang một quan niệm nhất định đối với cuộc đời, con người và bản thân
nghệ thuật. Thi pháp biểu hiện trên các cấp độ: tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ, tác giả
và bao trùm là cả nền văn học. Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp. Nó
bao gồm mấy bộ phận sau:
- Lý luận về thi pháp của một giai đoạn văn học cụ thể. Ở đây sẽ bao gồm
lý luận về thi pháp vốn có của giai đoạn văn học, được tác giả của chúng thừa nhận.
- Hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật thể hiện trong bản thân sáng tác của giai
đoạn văn học được xét. Hệ thống này do tồn tại tiềm tàng trong sáng tác nên cần
được miêu tả ra, đồng thời nó cũng khơng trùng khít với thi pháp học lý thuyết của
giai đoạn văn học ấy.
- Lý luận thi pháp của người nghiên cứu dùng để miêu tả một cách hệ thống
thi pháp tiềm tàng trong thực tế văn học và lý giải mới đối với lý luận thi pháp đã có
trong lịch sử.
Ba bộ phận của thi pháp này liên hệ với nhau trong một mối quan hệ hết sức
khắng khít. Trong Thi pháp truyện Kiều, Trần Đình Sử nhấn mạnh: thi pháp là hệ
thống các nguyên tắc nghệ thuật thấm nhuần ý thức chủ thể của tác giả. Thi pháp
học hiện đại bao gồm phong cách nghệ thuật như một bộ phận của nó. Phong cách
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
7
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
học nghệ thuật ở đây không chỉ là sự lựa chọn những yếu tố tư tưởng, tình cảm,
phương tiện để dệt nên một tác phẩm nghệ thuật nhất định, mà còn là sự thống nhất
những cái đã được chọn lựa vào một thể thống nhất hữu cơ, hồn chỉnh. Khơng có
sự thống nhất trên mọi cấp độ và giữa các cấp độ với nhau thì khơng thể có được
phong cách. Yếu tố tạo nên sự thống nhất ấy khơng gì quan trọng hơn là quan niệm
nghệ thuật.
Tính sáng tạo của bất kỳ tác phẩm nào cũng điều bắt đầu từ sáng tạo trong
quan niệm, bất kể tác giả có ý thức được điều đó hay khơng. Thiếu một quan niệm
mới thì khơng thể có được một sáng tạo thật sự mới trong nghệ thuật. Tính hệ thống
của nghệ thuật thể hiện ở chỗ mọi quan niệm mới về thế giới và con người đòi hỏi
những biện pháp nghệ thuật tương ứng trên các cấp độ. Đi tìm quan niệm nghệ thuật
và hệ thống biện pháp nghệ thuật tương ứng vốn có trong một tác phẩm là thực chất
của việc nghiên cứu thi pháp tác phẩm. Nghiên cứu thi pháp văn học khác hẳn với
việc phê bình thiên về bình luận, bình giảng theo lối cảm thụ chủ quan thịnh hành.
Do vậy các thao tác ngữ học, tự sự học cũng được chú ý thích đáng. Những khái
niệm, thuật ngữ mới cũng được vận dụng.
Nghiên cứu thi pháp tác phẩm thì phải bám sát vào văn bản tác phẩm. Muốn
hiểu tác phẩm như một sáng tạo tồn vẹn thì phải nhìn tác phẩm như một sáng tạo
của chủ thể, khám phá ý thức của chủ thể trong tác phẩm, xem nó như một hệ thống
biểu hiện cụ thể, bao gồm cái nhìn, hình thức mang quan niệm. Lý luận văn học
ngày nay đã cho biết yếu tố hình thức nào của tác phẩm văn học cũng điều mang
tính nội dung. Nhưng những yếu tố hình thức ở cấp thấp như vần, thanh điệu, ngắt
nhịp…thì tính nội dung thường mờ nhạt, khó xác định. Hình thức càng ở bậc cao thì
tính nội dung càng rõ rệt. [20, tr.6]
- Đỗ Đức Hiểu trong Đổi mới phê bình văn học quan niệm: Thi pháp là
phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình
thức biểu hiện bằng ngơn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa biểu hiện hoặc
chìm ẩn của tác phẩm: ý nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học …
Cấp độ nghiên cứu thi pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp
câu, đối thoại, thời gian, không gian, cú pháp…) yêu cầu đọc tác phẩm như một
chỉnh thể, ở đó các yếu tố ngơn từ liên kết chặt chẽ với nhau…tức là cái đẹp của thế
giới, con người.
-Nguyễn Thị Dư Khánh trong Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp
khẳng định: Theo chúng tơi, có thể xác lập nội dung của khái niệm thi pháp từ
chính nội dung ngữ nghĩa của nó.
Chữ thi ở đây dùng để chỉ tồn bộ văn học nói chung chứ khơng phải riêng về
thơ. Thi là cách nói đã thành quen, mang nội dung lịch sử, ghi dấu ấn của cả một
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
8
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
thời kỳ lịch sử khá dài, khi mà mọi loại hình văn học từ anh hùng ca, truyện, kịch,
tiểu thuyết…đều được diễn đạt bằng thơ. Còn pháp là phương pháp, là phép tắc.
Vậy thi pháp là phương pháp, là phép tắc làm văn, làm thơ… Có thể nói ngay ở
đây, phép tắc căn bản nhất của nó là sáng tạo, hư cấu nghệ thuật, tất nhiên không
phải là xuyên tạc, làm méo mó đời sống mà là để thể hiện đời sống một cách nghệ
thuật lung linh, hấp dẫn… Dù các quan điểm lý luận có khác nhau, có lệ thuộc vào
những thiên kiến xã hội, giai cấp, chính trị như thế nào thì vẫn khơng thể khơng
thừa nhận một thực tế là, ngay từ buổi sơ khai, các nhà nghệ sĩ vơ danh đã khơng
chịu bằng lịng với việc mơ phỏng, sao chép tự nhiên mà luôn luôn khát vọng khám
phá, chiếm lĩnh và chinh phục tự nhiên bằng những sáng tạo bay bỗng của mình.
Nói tóm lại, nói đến thi pháp chủ yếu là nói đến q trình sáng tạo những hình
thức nghệ thuật của tác phẩm, là nói đến những phương thức, phương tiện những
thao tác nghệ thuật của nhà nghệ sĩ ngôn từ. [12, tr.7-8-9-10]
1.1.1.2. Xác định khái niệm “thi pháp”
Cho đến nay trong sách báo của ta từ “thi pháp” đã khá quen thuộc với đọc
giả. Người ta nói đến thi pháp của tác giả này, tác giả kia, thi pháp thể loại này thể
loại khác, thi pháp giai đoạn này, giai đoạn nọ… Thi pháp đang trở thành mối quan
tâm của những người muốn đi sâu nghiên cứu văn học. [19, tr.5]
Nhà nghiên cứu Rooman Giacốpxơn trong cơng trình Ngơn ngữ học và thi
pháp học(1960) định nghĩa thi pháp là một bộ phận của ngôn ngữ học, chuyên
nghiên cứu “chức năng thơ của phát ngôn”, tức là nghiên cứu những cách thức làm
cho phát ngôn trở thành lời thơ. Nhà nghiên cứu Pháp Ts. Tôdôrốp trong cơng trình
Thi pháp học(1975) định nghĩa thi pháp là các qui tắc chung mà người ta sử dụng
để sáng tác ra các tác phẩm văn học cụ thể. Nói cụ thể hơn là nghiên cứu tính văn
học, chất văn học của tác phẩm văn học nói chung. [19, tr.7]
Theo tơi “thi pháp” là hệ thống các phương thức phương tiện, thủ pháp biểu
hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật, nó được xem như là những nguyên tắc,
biện pháp nghệ thuật cụ thể, tạo thành đặc sắc nghệ thuật, của một tác phẩm, tác giả,
thể loại, trào lưu. Nghiên cứu thi pháp là nghiên cứu về hình thức được thể hiện
bằng ngôn từ nghệ thuật như: kết cấu, âm điệu, nhịp câu, đối thoại, thời gian, không
gian, cú pháp, quan niệm nghệ thuật về con người…đây là những vấn đề mà thi
pháp sẽ đi sâu nghiên cứu.
1.1.2. Về “Thi pháp học”
1.1.2.1. Khái niệm “Thi pháp học”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm thi pháp học, theo nhà nghiên cứu
Nga V.Girmunxki đã có thể định nghĩa: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu văn
học với tư cách là một nghệ thuật”(1923). Viện sĩ Nga V.V Vinôgrađốp xác định “
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
9
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Thi pháp học là một khoa học nghiên cứu các hình thức, các dạng thức, các phương
tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ, các kiểu cấu trúc, các thể loại
tác phẩm nhằm nắm bắt…không chỉ là các hiện tượng của ngơn từ văn học, mà cịn
là bản thân các phương diện hình tượng khác nhau nhất của cơ cấu tác phẩm văn
học và sáng tác dân gian” ( Phong cách học, Lý luận ngôn từ văn học, Thi pháp học
M.,1963)[ 19, tr.7]
Theo Trần Đình sử thì hiện nay cũng khó tìm thấy được một định nghĩa được
nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận. Tuy nhiên, có thể tán thành quan niệm tổng quát
mà theo quan niệm cá nhân đó là định nghĩa gần với chân lý, như quan điểm của
Khrapchencô. M.B. Theo tác giả , “ Nếu như không đòi hỏi một định nghĩa trọn vẹn,
bao trùm được tất cả thì theo tơi, có thể xác định thi pháp học như là một môn khoa
học nghiên cứu tất cả các phương thức, phương tiện thể hiện cuộc sống bằng hình
tượng” [14, tr.247].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học,“thi pháp học” là khoa học nghiên cứu thi
pháp, tức hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng
hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia
tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành
thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ, chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật.
[9, tr.206]
Năm 1923, nhà nghiên cứu Ngữ văn Nga, Girmunski đã định nghĩa: “Thi pháp
học là khoa học nghiên cứu văn chương với tư cách là một nghệ thuật”. Năm 1929.
M,Bkhatin tuyên bố nhiệm vụ của ông là “Khám phá nhà nghệ sĩ Đôstôievski trong
sáng tác của Đôstôievski”. Năm 1960, nhà nghiên cứu R. Giaicôpxơn phát biểu:
“Đối tượng của thi pháp học, trước hết, phải trả lời câu hỏi:“Cái gì biến một thơng
điệp bằng lời bằng một tác phẩm nghệ thuật?”. Năm 1975, nhà nghiên cứu thi pháp
TS. Tôđôrôv định nghĩa: “Thi pháp là các quy tắc chung mà người ta sử dụng để
sáng tác ra các tác phẩm văn chương cụ thể. Nói cụ thể hơn là nghiên cứu tính văn
chương, chất văn chương của chính bản thân văn chương”. Năm 1963, Vinôgrađôv
xác định: “Thi pháp là khoa học nghiên cứu các hình thức, dạng thức, các phương
tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác bằng ngôn từ, các kiểu cấu trúc, các
thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt…không chỉ các hiện tượng của ngôn từ văn
chương, mà cịn bản thân các phương diện hình tượng khác nhau nhất của cơ cấu
tác phẩm văn chương và sáng tác của tác phẩm văn chương dân gian” [2, tr.1].
1.1.2.2. Đối tượng và phương pháp của thi pháp học
* Đối tượng của thi pháp học: Thi pháp học cũng như bất kỳ một ngành khoa
học nào khác, muốn tồn tại phải thỏa mãn hai điều kiện cơ bản: có một đối tượng
cần nghiên cứu và có phương pháp riêng nghiên cứu về đối tượng.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
10
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Có hai cấp độ đối tượng: đối tượng chung và đối tượng đặc trưng.
- Cấp độ đối tượng chung: tức cấp độ phương diện, lĩnh vực của tác phẩm văn
chương mà người nghiên cứu hướng đến. Với ý nghĩa này, Lê Ngọc Trà xác định:
“Đối tượng nghiên cứu đầu tiên của thi pháp học là các yếu tố và cấu trúc của tác
phẩm văn học”. Trong tác phẩm văn chương, các lớp yếu tố cần nghiên cứu: “Lớp
yếu tố thứ nhất là ngôn từ nghệ thuật”,“Lớp thứ hai là thế giới nghệ thuật”, lớp thứ
ba là “ kết cấu tác phẩm”.
- Cấp độ đối tượng đặc trưng: đứng ở gốc độ thi pháp học là một bộ phận
nghiên cứu của khoa học nghiên cứu văn chương thì đối tượng của nó như GS. Lê
Ngọc Trà đã xác định. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu còn muốn tiến tới xác định
đặc trưng đối tượng của thi pháp học. Vì thực ra, khái niệm “đối tượng” theo nghĩa
chặt chẽ của nó phải là đối tượng đặc trưng. Có xác định được đối tượng đặc trưng
của nó thì thi pháp học mới có lý do tồn tại.
Trong sách Giáo trình thi pháp học (Bài giảng chuyên đề cao học Ngữ văn
1992) của mình, Trần Đình Sử khẳng định: “Đối tượng của thi pháp học là hình
thức mang tính nội dung”. Hình thức đó có tính hệ thống, mang tính quan niệm,
mang tính chất tinh thần. Trong nhiều giáo trình lý luận văn học, các tác giả của nó
cũng có những quan niệm khá thống nhất, xem thi pháp học là khoa học về hình
thức nghệ thuật.
Xác định đối tượng của thi pháp học, cần quan tâm ý kiến của Girmunski:“Thi
pháp học là khoa học nghiên cứu văn chương với tư cách là một nghệ thuật”.
* Phương pháp của thi pháp học:
Phương pháp hệ thống: Văn chương là một hệ thống các chỉnh thể, chỉnh thể
tác phẩm, chỉnh thể tác giả, chỉnh thể trào lưu, chỉnh thể kết cấu, chỉnh thể văn
chương dân tộc. Do đó phương pháp hệ thống đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu
thi pháp. Phương pháp hệ thống đòi hỏi nghiên cứu văn học từ những mối quan hệ
có tính quy luật, đó là mối quan hệ giữa bộ phận và tồn thể, giữa cái chung và cái
riêng, giữa cái độc đáo và cái lặp lại.
Đỗ Đức Hiểu trong Đổi mới phê bình văn học xác định: “Thi pháp là phương
pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu
hiện bằng ngơn từ nghệ thuật, để tìm hiểu ý nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học,
lịch sử, xã hội học (…). Yêu cầu đọc tác phẩm văn chương như một chỉnh thể”.
Lê Ngọc Trà trong Lí luận văn học xác định: “Một mặt phải phân tích hệ thống
hóa tất cả các yếu tố của văn bản nghệ thuật đã tham gia thể hiện ý thức nghệ thuật
của nhà văn và tạo nên ấn tượng thẫm mỹ ở người đọc (…). Ở đây, khái niệm thi
pháp gần gũi với khái niệm phong cách”.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
11
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Có thể khẳng định thi pháp học là cách tiếp cận văn chương một cách khoa
học trong tất cả các những cách tiếp cận văn chương mà nhân loại cho đến nay. Bởi,
cách tiếp cận đó địi hỏi xem văn chương như một chỉnh thể, một hệ thống và cấu
thành nên hệ thống chỉnh thể đó là một loạt các thành tố tương tác với nhau một
cách có quy luật.
Phương pháp lịch sử: Là một sản phẩm của đời sống xã hội, văn chương có
nội dung lịch sử sâu sắc. Do đó, nguyên tắc lịch sử là rất cần thiết trong nghiên cứu
thi pháp. Các điều kiện lịch sử xã hội góp phần lý giải tính quy luật của thi pháp.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ THI PHÁP THƠ TỐ HỮU
1.2.1. Thi pháp nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật
1.2.1.1. Thi pháp nhân vật
Trong cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, có nhắc đến khơng thể lý
giải một hệ thống văn, thơ mà bỏ qua con người được thể hiện trong đó. Và quan
niệm nghệ thuật về con người trong thơ Tố Hữu được thể hiện qua khái niệm: đề tài
(lãnh tụ, bộ đội, phụ nữ, Tổ quốc…), hình tượng nhân vật (Bác Hồ, anh Trỗi, em
Lượm…) và các chi tiết thể hiện của chúng. Con người trong văn học khơng chỉ là
con người có trong thực tế, mà cịn là quan niệm về con người ấy một cách thẩm mỹ
và nghệ thuật. Thơ ca vô sản Việt Nam không phải khởi đầu từ Tố Hữu, nhưng phải
đợi đến thơ Tố Hữu mới hình thành một quan niệm nghệ thuật về con người, đủ
khơi một nguồn cảm hứng nghệ thuật mới. Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị.
Con người trong thơ ấy căn bản là con người chính trị. Đó được xem là một hiện
tượng hợp quy. Các nhà lý luận đã gọi nhân vật của thời đại chúng ta là con người
chính trị. Điều đó đã đánh dấu bước trưởng thành mới của con người Việt Nam
trong thế giới hiện đại từ con người yêu nước trung quân sang con người duy tân
dân chủ, qua con người “phi chính trị” trong thơ mới, đến con người chính trị kiểu
mới, dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Quan niệm nghệ thuật về con người
chính trị trong thơ Việt Nam của Tố Hữu là con người giác ngộ quyền lợi giai cấp,
dân tộc, tự giác trên con đường đấu tranh, vững tin ở tương lai, lý tưởng.
Trong thơ Tố Hữu con người chính trị là nhân vật của thời đại chúng ta.
Những con người đa dạng từ Bác Hồ, người cán bộ, anh bộ đội, cho đến các cụ, các
mẹ, các em, anh công nhân, chị hàng hoa…trong thơ Tố Hữu, hết thảy điều là
những con người chính trị. Trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu quan niệm về con
người có một vị trí thật quan trọng. Đó là khởi đầu của một thế giới thơ mới. Lần
đầu tiên trong thơ Việt Nam, Tố Hữu mang lại một quan niệm nghệ thuật về con
người xã hội, có một số đơng, tạo thành một lực lượng xã hội hùng hậu.
Con người trong đoàn quân cũng là một nét quan trọng trong quan niệm nghệ
thuật về con người của thơ Tố Hữu. Con người số đông, không hề che lấp cá nhân,
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
12
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
nhưng đây là một cá nhân mới, một quan hệ mới của cá nhân. Sự giống nhau về đói
nghèo, khổ đau, về số phận, giống nhau về ý chí và ước mơ, về tương lai và đường
đời của những người vô sản, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột tất yếu đưa
đến ý niệm đồn qn.
Đặc sắc thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu và của cả văn học hiện thực xã hội
chủ nghĩa nói chung là ở chỗ xây dựng thành cơng hình tượng những con người tự
giác về số phận, cuộc đời và trong đấu tranh những hoạt động vì mục đích chính
đáng và những con người như thế đã làm nên lịch sử.
1.2.1.2. Thi pháp không gian nghệ thuật
Trong thơ Tố Hữu không gian nghệ thuật là một không gian xã hội sôi động
của những sự biến lịch sử. Ở Từ ấy nhà thơ xây dựng lên sự đối lập hai thế giới như
là trạng thái phổ biến của thời đại: thế giới sung sướng và thế giới của đau buồn, ưu
phiền. Cảm xúc về sự đối lập hai thế giới đã hướng tác giả xây dựng hình tượng
khơng gian xã hội đối lập – tầng cao của bọn giàu sang, áp bức bóc lột, tiệc rượu
máu dội tiếng cười …Tầng dưới, địa ngục, hầm người – thây rơi, máu chảy, những
xác không mồ chôn. Muốn xóa bỏ những đau thương mất mát đó nhà thơ Tố Hữu
đã chọn không gian con đường cách mạng và đây là hình tượng quan trọng nhất
xuyên suốt trong thơ ơng.
Nếu như ở Từ ấy con đường cịn có phần trừu tượng và ở đầu phần Việt Bắc ,
con đường cịn ẩn dưới bước chân người chiến sĩ, thì từ chiến thắng Điện Biên Phủ,
con đường cách mạng đã hiện ra mồn một, chạy dài, thênh thang.
Sang Gió lộng, con đường được mở ra nhiều hướng, nhiều bình diện: đường
chiến thắng, đường thống nhất, đường đi đến hạnh phúc, con đường sang nước
bạn…
Không gian trong Ra trận, Máu và hoa là con đường ra trận, con đường tình
nghĩa, con đường sáng tạo, con đường của cha ông, con đường thắng lợi. Đó khơng
chỉ là con đường của ta, mà cịn là con đường của mọi người, không chỉ là con
đường sang nước bạn mà còn là con đường ra thế giới.
Trong thơ Tố Hữu có một khơng gian cơng cộng, cuộc sống Cách mạng kháng
chiến đã tách không gian đời tư ra khỏi khơng gian cơng cộng. Con người thốt ly
khỏi lũy tre làng, ngôi nhà, vườn tược để đi ra con đường lớn của cách mạng. Con
đường trong thơ Tố Hữu đóng vai trị tương tự như khơng gian, con đường thật sự là
một không gian xã hội cho mọi con người Việt Nam. Không gian trong thơ Tố Hữu
là một không gian lộ thiên đầy ánh sáng, ánh nắng, ấm áp, trong trẻo và ở đây cịn là
khơng gian của ngày hội cách mạng.
1.2.1.3. Thi pháp thời gian nghệ thuật
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
13
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Thời gian nghệ thuật trong văn học không phải giản đơn chỉ là quan điểm của
tác giả về thời gian, mà là hình tượng thời gian sinh động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý
thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật để phản ánh hiện thực, tổ
chức tác phẩm.
Theo Trần Đình Sử thời gian nghệ thuật trong thơ Tố Hữu nằm trong quỹ đạo
của hiện thực xã hội chủ nghĩa thế giới, là bước phát triển mới của thời gian nghệ
thuật trong thơ ca dân tộc với nhiều biểu hiện phong phú. Nổi bật nhất là nhà thơ đã
xây dựng thành cơng hình tượng lịch sử trong thơ với các bình diện khác nhau, khắc
họa dịng thời gian vận động mang nhịp sống lớn của thời đại.
Trong thơ Tố Hữu đã xây dựng thành cơng hình tượng thời gian lịch sử, việc
vận dụng và thể hiện tập trung hình tượng thời gian lịch sử xã hội trong thơ ông,
ngay từ hồi Từ ấy phải xem là một sáng tạo mới mẻ.
Thời gian nghệ thuật bao giờ cũng là một hiện tượng cụ thể, lịch sử. Thời gian
trong thơ Tố Hữu là thời gian của con người, thời gian của Nhân dân, Dân tộc.
Tố Hữu đã thể hiện rất nổi bậc mối liên hệ thời gian cá nhân và thời gian lịch
sử. Lịch sử là tổng thể liên tục của các thời gian cá nhân, và cá nhân là một khâu
của thời gian lịch sử.
Trong thơ Tố Hữu có một nguyên tắc trở thành nhất quán trong việc thể hiện
thời gian đó là, tính thời điểm đời tư bằng thời điểm cách mạng, đem thời điểm cách
mạng vào đời tư.
Sự hòa hợp thành một dòng chảy duy nhất, thống nhất, trong đó mọi thời
điểm đời tư điều có thể trở thành lịch sử, và mọi thời điểm lịch sử điều có thể trở
thành thời điểm trữ tình.
Sự xun thắm giữa hai thời gian làm thời gian các nhân mang thêm viễn cảnh
lịch sử, cịn thời gian lịch sử thì trở nên cụ thể, gần gũi, bình thường. Phát hiện ra
mối quan hệ thời gian đó chính là phát hiện ra tính phi thường của con người ở bình
diện mới: phi thường không phải bởi những hành động phi thường như kiểu Giăng
Van – giăng, mà ở tầm vóc lịch sử, viễn cảnh lịch sử, phi thường trong không gian
thời gian. Trong thơ Tố Hữu ta cịn bắt gặp hình tượng một dòng thời gian vận
động, sự vận động thể hiện thành cảm giác về bước đi của thời gian lịch sử.
Thời gian vận động được thể hiện trong sự chuyển hóa của quá khứ, hiện tại,
tương lai, mà tương lai là một nét thời gian hết sức tiêu biểu cho cảm quan nhà thơ
và dân tộc.
Sự cảm thụ thời gian theo nhiều chiều, và các bình diện khác nhau đã làm chi
phối dòng cảm xúc của nhà thơ, cảm xúc trong thơ Tố Hữu vận động từ thời điểm
đời tư ra thời gian lịch sử, từ thời gian sinh hoạt ra thời gian xã hội trong bài Hoan
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
14
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Quê mẹ. Thời gian vận động từ bóng tối ra ánh
sáng, từ nơ lệ thành tự do, từ chia cắt đến thống nhất, từ yếu đuối hóa hùng mạnh.
1.2.2. Thi pháp thể loại, kết cấu, ngôn ngữ
1.2.2.1.Thi pháp thể loại
Tố Hữu là người đầu tiên đưa số phận cá nhân và cách mạng xã hội lên thành
chủ đề trung tâm của thơ, ở Tố Hữu có nét nổi bật ơng khơng tách rời con người
nhân dân với cách mạng mà hai hình ảnh này hịa hợp vào nhau.
Nếu xét ở góc độ thể tài đời tư, ta sẽ thấy có một bước cách tân đáng kể: thể tài
đời tư chỉ nói về cá nhân sự phát triển nhân cách của một con người, nhưng trong
thơ Tố Hữu con người cá nhân đau khổ kia nhìn thấy tương lai trong viễn cảnh cách
mạng. Tố Hữu nhìn cách mạng từ góc độ nhu cầu giải phóng của từng cá nhân, đối
với cá nhân. Ông đã phát huy ngịi bút sắc sảo của một nhà thơ có con mắt miêu tả
để khắc họa sâu sắc tâm trạng, nỗi xao động và sự khát khao sống xứng đáng của
những kiếp người bế tắc.
Trong khuôn khổ thể tài đời tư, Tố Hữu trân trọng, quan tâm, trìu mến các số
phận cá nhân khác nhau, và gợi lên trong mối quan hệ tự nhiên, tất yếu giữa số phận
cá nhân và tương lai cách mạng.
Thơ Tố Hữu trong Từ ấy là trữ tình đời tư nói lên sự phát triển, trưởng thành
của một cá nhân, một đời tư, nhưng từ những bài thơ cuối tập Việt Bắc trở đi thơ
chính trị của Tố Hữu chủ yếu được sáng tác trong khuôn khổ thể tài lịch sử - dân
tộc. Nhớ ơn Lãnh tụ, Nhân dân, Tổ tiên, nhớ ơn những người đã hi sinh cho cách
mạng, nhớ những bài học lịch sử cũng là một mơ típ trong thơ trữ tình sử thi của Tố
Hữu. Thơ Tố Hữu đã thể hiện tập trung nhất cho tính chất ngợi ca của văn học mới,
tạo thành đặc trưng của trữ tình sử thi của ông.
1.2.2.2. Thi pháp kết cấu
Trong thơ Tố Hữu chủ yếu vận dụng ba phương thức tạo hình ảnh là tương
phản, ví von và hơ ứng – Chúng tạo thành phương thức tư duy thơ tiêu biểu cho thơ
ông. Ở Tố Hữu tương phản thể hiện rất rõ cho thơ trữ tình chính trị điệu nói của
ơng. Nó là ngun tắc xây dựng ý thơ, câu thơ, khổ thơ của ông.
Trong thơ Tố Hữu ví von là biện pháp mở rộng ý thơ căn bản nhất, trong thơ
ông vật mẫu ví von khơng chỉ là điển hình, tiêu biểu, mà cái chính là chúng chỉ ra
cái hình ảnh lý tưởng, chuẩn mực, mục tiêu, điều khao khát thực hiện của người
cách mạng.
Cùng với ví von, hơ ứng cũng là một biện pháp nghệ thuật tiêu biểu của thơ Tố
Hữu.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
15
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Tố Hữu có một quan niệm sâu sắc về tiếng vang của thơ, để tạo tiếng vang cho
thơ mình ơng đã sử dụng biện pháp trùng điệp để tạo ra âm vang trong chữ và giữa
chữ, giữa dịng.
1.2.2.3. Thi pháp ngơn ngữ
Ngơn ngữ thơ Tố Hữu thuộc ngơn ngữ trữ tình điệu nói, khác với lời thơ cổ
điển trữ tình ngâm vịnh. Tố Hữu là nhà thơ mới cách mạng, phát triển thơ trữ tình
điệu nói trong lĩnh vực thơ chính trị cơng dân, đưa tiếng nói cách mạng vào thơ,
nâng tiếng nói tâm tình đời tư lên tiếng nói chính luận, hùng biện.
Thơ trữ tình điệu nói của Tố Hữu thể hiện trước hết ở chỗ thường sử dụng các
lời chiêm, hô ngữ, thán ngữ, tiếng chào…làm cho lời thơ đầy ắp cảm xúc.
Trong tập Từ ấy, Tố Hữu thiên về khai thác giọng nói nhiệt huyết, trẻ trung,
tìm lối nói cường điệu giàu ý vị lãng mạn. Từ tập Việt Bắc nhà thơ chuyển sang xây
dựng hình tượng giọng nói quần chúng thân thiết, đậm đà, bởi lẽ đối tượng của
tiếng thơ bấy giờ là anh bộ đội, anh thợ máy, chị dân công, là các bà bầm, bà mế, bà
bủ. Đến Gió lộng nhà thơ đã khắc họa lên những hình tượng giọng nói đẹp đẽ nhất –
tươi tắn, bay bổng, dõng dạc, tự hào, say sưa, sảng khoái. Tiếng thơ nghe như tiếng
hát, nhưng đúng hơn đó là tiếng reo vui!. Khó nhất cho Tố Hữu là giọng nói của thơ
trong Ra trận phải khẳng định chân lý cách mạng Việt Nam khi bạn bè trên thế giới
cũng có lúc chưa thơng, phải ngợi ca thắng lợi cách mạng khi chưa có chiến thắng
quyết định, phải dự báo chiến thắng khi cuộc chiến đang còn tiếp diễn gay go, ác
liệt. Sau tập Máu và hoa bước sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả
nước, thơ Tố Hữu chưa tìm được giọng thơ thích hợp như các giai đoạn trước.
Nhưng nhìn chung Tố Hữu đã có đóng góp rất lớn cho sự phát triển ngơn ngữ thơ
Việt Nam.
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
16
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
Chương 2
THI PHÁP NHÂN VẬT, KHÔNG GIAN,
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG “TỪ ẤY” CỦA TỐ HỮU
2.1. THI PHÁP NHÂN VẬT TRONG TỪ ẤY CỦA TỐ HỮU
2.1.1. Lí luận chung về thi pháp nhân vật
2.1.1.1. Nhân vật văn học và thi pháp nhân vật
* Nhân vật văn học: Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả
trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu
tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường
xuyên hay từng lúc, giữ vai trị quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều
lắm đối với tác phẩm. So với con người thật, nhân vật có mối tương đồng nhất định
nào đấy mà lắm người đọc lầm tưởng rằng nhân vật và con người là một. Con người
là kết cấu vật chất do tự nhiên sinh ra, nhân vật là kết cấu tinh thần do con người tạo
dựng nên. Nhân vật được sáng tạo theo quy luật của nghệ thuật. Nó là khối tinh thần
bao gồm tình cảm, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, nhận thức…thẩm mỹ. Tóm lại
đó là thế giới tinh thần – thẩm mỹ của người sáng tác.
* Thi pháp nhân vật: Khối tinh thần thẩm mỹ này được mô tả là sự bắt chước
con người thực ngoài đời, được miêu tả thành một con người; nhưng mặt khác, bao
giờ nó cũng được miêu tả theo cách hình dung, cảm nhận của nhà văn. Tức là, theo
quan niệm của nhà văn. Dưới ngòi bút của nhà văn, nhân vật được hiện ra như một
nghệ thuật về con người, một cách lý giải, một cách biểu hiện về con người… thấm
đẫm thị hiếu thẫm mỹ. Khám phá nhân vật từ góc độ thi pháp là tìm ra tài năng sáng
tạo nên những giá trị thẫm mỹ độc đáo – những nhân vật của nhà văn. Có thể phân
biệt sự khác nhau giữa phân tích nhân vật và nghiên cứu thi pháp nhân vật là khai
thác giá trị thẩm mỹ của hình tượng nhân vật, cịn nghiên cứu thi pháp lại tìm hiểu
bằng con đường nào, lý do nào mà nghệ sĩ làm cho nhân vật có được giá trị thẩm
mỹ.
2.1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người gắn với phương tiện nghệ thuật được thể
hiện trong tác phẩm, quan niệm nghệ thuật này được thể hiện trong sự “lặp lại” thể
hiện cái nhìn, một cách tiếp cận, cách lý giải đối với con người. Giữ lấy cái gì, bỏ
cái gì, quan niệm nghệ thuật là ở đó. Con người trong văn học khơng chỉ là con
người có trong thực tế, mà cịn là quan niệm về con người ấy một cách thẩm mỹ và
nghệ thuật. Đề tài văn học không ngừng thay đổi theo từng giai đoạn kéo theo đó là
quan niệm nghệ thuật về con người cũng không ngừng thay đổi để phù hợp với từng
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
17
SVTH: Dương Thị Thùy Trang
Thi pháp tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
giai đoạn phát triển của văn học, bên cạnh đó sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về
con người làm cho đối tượng được nhìn nhận từ những góc độ mới hơn.
Bỏ qua quan niệm nghệ thuật về con người sẽ dẫn đến hiểu giản đơn bản chất
phản ánh của văn nghệ. Hoặc là đồng nhất tư tưởng sáng tác với thế giới quan, hạ
thấp yêu cầu sáng tạo tư tưởng nghệ thuật, thẩm mỹ của tác giả, cho rằng nhà văn
chỉ có tâm hồn là đủ. Hoặc là rút gọn tiêu chuẩn của tính chân thực vào một điểm là
miêu tả giống hay không giống so với đối tượng. Và như vậy kết quả cũng xem nhẹ
vai trò sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề tính năng động
của nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lý giải con người bằng các phương
tiện nghệ thuật, là vấn đề giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống
nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc đời.
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong Từ ấy
2.1.2.1. Con người cách mạng
Trong tập thơ Từ ấy hình ảnh con người số đông quần chúng cách mạng, miêu
tả ngày hội cách mạng, nêu bật con người ý chí và căm thù, quyết hi sinh cho sự
nghiệp cách mạng. Con người cách mạng thể hiện rõ ngay khi vừa mới bắt gặp lý
tưởng cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tơi như một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
(Từ ấy)
Tố Hữu kêu gọi thanh niên sống mãnh liệt, “dù trong một phút giây”, nhưng
đây là một hành động có định hướng, có mục đích tiến bộ:
Phất ngọn cờ lên, tung bước lên
Với kho hùng khí của thanh niên
Vang lừng mặt trận rung trăm trống
Cách mạng quân ta cướp chính quyền
( Dậy lên thanh niên)
Cứ tan xương, cứ chảy tủy, cứ rơi đầu!
Mỗi thây rơi sẽ là một nhịp cầu
Cho ta bước tới cõi đời cao rộng
(Hãy đứng dậy)
Con người dấn thân vào cách mạng, tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho
lý tưởng cộng sản, bằng một hành động tự giác và có ý thức:
Với cách mạng tơi khơng hề đùa bỡn
GVHD: Nguyễn Hoa Bằng
18
SVTH: Dương Thị Thùy Trang