Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tieu luan một số biện pháp xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh ở tổ chức cơ sở đảng trong quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.69 KB, 24 trang )

2
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của đất nước ta đã khẳng định Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục, rèn luyện, là
lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức lãnh đạo của Đảng ở các đơn
vị cơ sở. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ chức cơ sở đảng giữ vị trí vai trị
đặc biệt quan trọng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII đã xác định:
“Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở”1. Đảng là một tổ chức, được tổ chức một cách chặt chẽ
và khoa học từ Ban Chấp hành Trung ương đến chi bộ. Các tổ chức cơ sở đảng
là những bộ phận cấu thành Đảng, nhưng cấu thành với vai trị là nền tảng của
Đảng. Khơng có tổ chức cơ sở đảng thì khơng có Đảng. Sự tồn tại, sự vững chắc
của toàn Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng phụ thuộc vào năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Sức sống và cội nguồn sức
mạnh của Đảng được bắt nguồn từ trong mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và quần
chúng, nếu tách khỏi quần chúng, quan liêu xa rời quần chúng, Đảng sẽ mất đi
nguồn sức mạnh, sẽ khơng cịn lý do để tồn tại. Trong mối liên hệ bản chất đó,
tổ chức cơ sở đảng giữ vai trò là chiếc cầu nối giữa Đảng với quần chúng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng
vào quần chúng; đồng thời, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối,
chính sách ấy. Tổ chức cơ sở đảng cịn là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn
luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát
đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
quy định mọi đảng viên đều phải “phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng”, “hoạt
động trong một tổ chức cơ sở đảng” 2. Tổ chức cơ sở đảng là nơi đảng viên trực
tiếp sinh hoạt, trực tiếp hoạt động, phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng và là nơi trực
tiếp quản lý đảng viên cả đội ngũ và từng người. Ngồi ra, tổ chức cơ sở đảng
cịn có vai trò kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý và người

1


2

Đảng Cộng Sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Khóa XII.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Khóa XII.


3

chỉ huy, bảo đảm cho mọi hoạt động của cơ quan quản lý và người chỉ huy theo
đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Như vậy tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trị đặc biệt quan trọng vì Đảng có vững
mạnh và hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình hay không là phụ thuộc quyết
định vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Chính
vì vậy, việc chăm lo xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là chi bộ trong
sạch, vững mạnh không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức cơ sở đảng thực sự trở thành hạt nhân lãnh
đạo chính trị, trung tâm đồn kết của đơn vị cơ sở vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu
dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Đối với Đảng ta, việc xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững mạnh là một việc vô
cùng quan trọng”3. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “ Kiện
toàn tổ chức cơ sở đảng phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị; nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn. Rà soát, bổ sung, sửa đổi, hồn thiện
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ cơng tác của một số loại hình tổ chức cơ sở
đảng; thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở”4. Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ quân đội chỉ rõ: “Chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng TSVM, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phát huy vai trị hạt nhân chính trị ở cơ
sở”5. Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ quân đội trong sạch, vững
mạnh có rất nhiều giải pháp cần phải nghiên cứu, quán triệt và vận dụng một
cách đồng bộ có hệ thống các giải pháp. Song trong phạm vi bài tiểu luận tác giả

tập trung phân tích làm rõ: “Một số biện pháp xây dựng đội ngũ đảng viên
vững mạnh ở tổ chức cơ sở đảng trong quân đội hiện nay” làm vấn đề nghiên
cứu.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 15, Nxb.CTQG, H.2011, tr.77.
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, H.2021, tr.240.
5 Đảng bộ quân đội, Đề cương quán triệt học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI, tr.11
3
4


4

NỘI DUNG
1. Đội ngũ đảng viên và những vấn đề đặt ra hiện nay đối với việc xây
dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh có chất lượng cao, số lượng phù hợp
Đội ngũ đảng viên của Đảng ở cơ sở là người trực tiếp tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, trực
tiếp liên hệ mật thiết với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ của đơn vị. Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh thì một
vấn đề đặt ra là phải xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh có chất lượng cao,
số lượng phù hợp. Đây là một nội dung hết sức quan trọng và cũng là một nhiệm
vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Đội ngũ đảng viên là những thành viên, những tế bào cơ bản của tổ chức
đảng, giữa đảng viên với tổ chức đảng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sức
mạnh của toàn Đảng là do sức mạnh tổng hợp của đội ngũ đảng viên, đặc biệt là
đội ngũ đảng viên ở cơ sở tạo nên, nhiệm vụ của đơn vị có hồn thành hay
khơng là phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng nhất là ở tổ chức cơ sở
đảng có được phát huy hay không cũng là do chất lượng của đội ngũ đảng viên

cao hay thấp. Nếu Đảng ta có đội ngũ đảng viên với số lượng thích hợp, có chất
lượng cao mọi đảng viên của Đảng đều có phẩm chất tốt, năng lực tổ chức thực
hiện và vận động quần chúng tốt, có kiến thức tồn diện và phong cách lãnh đạo
tốt, ln phát huy được vai trị tiền phong gương mẫu, sẽ trực tiếp góp phần xây
dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, mọi tổ chức cơ sở đảng đều mạnh thì Đảng
ta sẽ mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ
tốt là do các đảng viên đều tốt”6. Như vậy Hồ Chí Minh khơng chỉ khẳng định
vai trò của tổ chức cơ sở đảng mà còn khẳng định vai trò rất to lớn của đội ngũ
đảng viên đối với công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, muốn xây dựng
6

Sách đã dẫn: tập 15, tr.113.


5
tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, tất yếu phải xây dựng đội ngũ đảng
viên vững mạnh.
Thực tiễn cho thấy, trong suốt những năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho thấy Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ đảng viên
của Đảng. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Người và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong suốt thời kỳ cách mạng Đảng bộ Quân đội rất coi trọng và làm tốt công
tác phát triển đảng, quản lý, giáo dục, rèn luyện và sàng lọc đảng viên; từ đó đã
xây dựng được một đội ngũ đảng viên ưu tú, trung kiên, tuyệt đối trung thành
với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có phẩm
chất chính trị tốt, có đạo đức cách mạng trong sáng, có năng lực lãnh đạo, năng
lực vận động quần chúng tốt và tổ chức thực hiện nhiệm vụ giỏi. Đây là yếu tố
vô cùng quan trọng, đảm bảo cho quân đội ta luôn phát huy được sức mạnh tổng
hợp, có sức chiến đấu cao, lần lượt đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn
thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước,

đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay trong công cuộc đổi mới, xây dựng chỉnh đốn Đảng, việc xây
dựng đội ngũ đảng viên nói chung và xây dựng đội ngũ đảng viên trong qn
đội nói riêng cịn xuất từ u cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội trong
tình hình mới. Hiện nay, cách mạng nước ta đã bước sang một giai đoạn mới,
giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cuộc cách mạng tồn
diện nhất, sâu sắc nhất và triệt để nhất, nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội. Quy mơ rộng lớn và tính chất gay go quyết liệt, phức tạp,
lâu dài của cuộc cách mạng địi hỏi phải có sự thống nhất cao hơn nữa cả về
nhận thức và hành động, cả về ý chí, niềm tin và nghị lực của tồn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta. Sự phát triển mới về nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội
đã đặt ra yêu cầu rất cao đối với phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng, của quân đội trên tất cả các mặt: nhận thức, bản lĩnh chính trị,
quan điểm tư tưởng và hành động, năng lực và đạo đức tác phong. Cho nên, nếu


6
Đảng không đổi mới công tác tổ chức cán bộ, không đổi mới, nâng cao chất
lượng của đội ngũ đảng viên của Đảng trong Đảng bộ quân đội thì Đảng không
thể lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn mới. Nói cách khác, xây dựng đội ngũ đảng viên đủ về số lượng, nâng cao
chất lượng là giải pháp cơ bản quan trọng nhằm xây dựng, củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, làm trong sạch
đội ngũ đảng viên của Đảng, thực hiện hiệu quả công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, đủ sức hồn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, quân sự, nhiệm vụ
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Công cuộc đổi mới xây dựng đất nước đang đi vào chiều sâu, trước những
thời cơ thuận lợi và thách thức mới, đội ngũ đảng viên trong qn đội đã nhanh

chóng thích ứng với tình hình mới và đã tiếp tục góp phần cùng toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta giành được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ đảng viên trong
quân đội thời kỳ đổi mới đã giữ vững và phát huy được vai trò tiền phong gương
mẫu, năng động sáng tạo trong công tác, phẩm chất, năng lực có bước trưởng
thành, trách nhiệm chính trị đối với nhiệm vụ, kiên quyết chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,
những biểu hiện cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, khả năng tư duy và ứng
xử thực tiễn tốt hơn, đáp ứng được chức trách, nhiệm vụ được giao. Đại đa số
cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ quân đội giữ vững được phẩm chất đạo đức, lối
sống cách mạng, đề cao được trách nhiệm chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc và tham gia xây dựng đất nước, đặc biệt là ý chí vươn lên, tinh thần tự lực,
tự cường, khắc phục khó khăn, hồn thành mọi nhiệm vụ được giao, góp phần
cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đấu tranh phịng, chống
“diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù, xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
quân đội lần thứ XI khẳng định: “Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên trong Đảng
bộ Qn đội có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt, tiên phong trong thực


7
hiện chức trách, nhiệm vụ; đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy
các cấp tự giác, nêu gương tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, hình ảnh,
phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục được giữ vững và làm sâu sắc hơn trong
lòng Nhân dân”7.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội
trong tình hình mới, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội vẫn còn bộc lộ
một số yếu kém bất cập như: Một số cán bộ, đảng viên cịn biểu hiện thiếu dũng
khí đấu tranh, bộc lộ sự giảm sút ý chí, niềm tin đối với chủ nghĩa xã hội, tư
tưởng trung bình chủ nghĩa, khơng phát huy được vai trị tiền phong gương mẫu

trong công tác và trong cuộc sống; chưa phát huy được vai trị tiền phong gương
mẫu trong học tập, cơng tác và rèn luyện kỷ luật, chưa sâu sát gần gũi quần
chúng; tính chiến đấu trong sinh hoạt chưa cao, cá biệt có đảng viên cịn suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cơ hội, thực dụng, tham nhũng,
chạy theo quyền lực, lợi ích kinh tế, vật chất... Những yếu kém đó do nhiều
nguyên nhân nhưng trong đó có ngun nhân do các tổ chức đảng đã bng lỏng
việc giáo dục, rèn luyện và quản lý đảng viên, không chấp hành nghiêm túc
Điều lệ Đảng và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, coi nhẹ công tác kiểm
tra và kỷ luật Đảng. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Trong điều kiện
cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng
viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân tố rất phức tạp, kể cả
những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của Đảng đứng trước những thách thức mới. Song, Đảng thiếu sự chuẩn bị đầy
đủ cho bước chuyển này, chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm
chất chính trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên” 8. Đến Đại hội IX của Đảng
chỉ ra: “Trong công tác xây dựng Đảng bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên
một số mặt yếu kém và khuyết điểm nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục,
rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thối
về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống” 9. Đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ ra:
Đảng bộ quân đội, Đề cương quán triệt học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI, tr.10
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, H.1996, tr.137.
9 ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, H.2001, tr .138.
7
8


8
“Một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt cấp
huyện yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần
bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,

giảm sút lịng tin, phai nhạt lý tưởng; một số có biểu hiện mất mãn, mất lịng tin,
nói và làm trái với quan điểm đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn cịn tình
trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thối hố biến
chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức lối sống; tệ quan liêu tham những, lãng
phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra
nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan
công quyền… ”10. Đến Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Tình trạng suy
thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận khơng nhỏ cán
bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi... Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của khơng ít tổ chức đảng cịn thấp; cơng tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ,
sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê
bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ
nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ
hội”11. Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận cịn diễn biến phức tạp hơn; một số
rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lơi kéo, kích động, xúi giục,
mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước” 12. Đại hội
XIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi cịn bị động,
thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, H.2006, tr .263, 264.
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, H.2011, tr .173, 174.
12 ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XII, H.2016, tr .185.
10
11



9
lý luận chưa đáp ứng được yêu cầu, một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được
làm sáng tỏ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn cịn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê
bình ở nhiều nơi cịn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của
người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”13.
Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp,
nhanh chóng, khó lường và sâu sắc làm thay đổi cục diện chính trị thế giới đã và
đang tác động mạnh mẽ vào cách mạng nước ta và đặt ra nhiều vấn đề mới đối
với sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng và công tác xây dựng đội
ngũ đảng viên. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đưa đến sự phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên thế giới và quá trình quốc tế hố sâu sắc
nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Nhất là từ sau sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã làm cho chủ nghĩa xã hội lâm
vào thoái trào, các lực lượng xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp. Các nước xã hội chủ
nghĩa cịn lại đứng trước những khó khăn thử thách to lớn. Tình hình đó tác
động rất mạnh vào tư tưởng tình cảm, sự suy nghĩ và niềm tin của cán bộ đảng
viên, trong đó có cán bộ đảng viên quân đội.
Trước sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu, các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ đang thực hiện những âm mưu
thủ đoạn chiến lược “diễn biến hồ bình” bạo loạn lật đổ để chống phá cách
mạng nước ta trên nhiều lĩnh vực. Một trong những trọng điểm mà chúng tập
trung chống phá đó là Đảng và Quân đội ta. Bằng những âm mưu, thủ đoạn rất
xảo quyệt, trong đó sự “xâm nhập tư tưởng” được coi là đòn đột phá của chúng.
Mục tiêu đầu tiên là cơng kích, xun tạc, bơi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân giao động về tư
tưởng, gieo rắc hoài nghi về mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa, lôi kéo,

mua chuộc, làm sa ngã, biến chất đội ngũ đảng viên, làm suy yếu Đảng ta. Đồng
thời, chúng ra sức tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản, gieo rắc lối sống tư sản
13

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XII, H.2016, tr .222-223.


10
buông thả, trụy lạc, chủ nghĩa thực dụng và tự do dân chủ kiểu phương Tây.
Tuyên truyền lối tư duy phi lịch sử, phủ nhận quá khứ, phủ nhận truyền thống vẻ
vang của dân tộc ta. Mặt khác, chúng triệt để lợi dụng những cán bộ, đảng viên
yếu kém, cơ hội để kích động, khoét sâu thêm mâu thuẫn, gây chia rẽ mất đồn
kết trong nội bộ Đảng hịng làm cho Đảng ta suy yếu và tự sụp đổ từ bên trong.
Chúng còn ngang nhiên can thiệp, đòi chúng ta phải thực hiện đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập, mà thực chất là nhằm phủ nhận những thành quả cách mạng
của dân tộc ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, muốn Đảng ta phải từ bỏ
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, hướng nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đối với qn đội ta,
chúng dùng chiêu bài “phi chính trị hố quân đội”, chúng muốn tách quân đội ta
ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội mất phương hướng, mục tiêu,
khơng cịn là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên cho thấy công tác xây dựng đội
ngũ đảng viên là một khâu rất quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề xây dựng đội ngũ đảng viên lại càng trở nên
cấp thiết hơn. Có nhận thức đúng đắn vai trị, tầm quan trọng của vấn đề này các
tổ chức cơ sở đảng mới có thể thực hiện một cách nghiêm túc, có hiệu quả trong
lãnh đạo đơn vị và xây dựng đảng bộ vững mạnh. Chính vì vậy, để giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nhất là ở đơn vị cơ sở, một
giải pháp cơ bản và vô cùng quan trọng là phải: “Xây dựng đội ngũ đảng viên
vững mạnh có chất lượng cao, số lượng phù hợp”. Nhằm trang bị cho đội ngũ

đảng viên trong quân đội có những phẩm chất, năng lực cần thiết, đủ khả năng
phòng và đấu tranh với mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù để vững vàng vượt qua
mọi khó khăn thử thách, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng
và quân đội giao cho. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI chỉ rõ:
“Chăm lo xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội thực sự


11
TSVM gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu
biểu”, nhất là cấp cơ sở”14.
2. Nội dung và biện pháp xây dựng đội ngũ đảng viên
vững mạnh có chất lượng cao, số lượng phù hợp ở tổ chức
cơ sở đảng trong quân đội hiện nay
Nói đến sức mạnh của tồn Đảng là do sức mạnh tổng hợp của đội ngũ
đảng viên của Đảng tạo nên. Số lượng, chất lượng của đội ngũ đảng viên trực
tiếp quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, hiệu lực lãnh đạo và uy tín của
Đảng. Sức mạnh của Đảng không chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn, sáng tạo của
cương lĩnh chính trị, đường lối, nhiệm vụ chính trị; đường lối, nhiệm vụ tổ chức
mà cịn phụ thuộc phần lớn vào chất lượng và số lượng đội ngũ đảng viên của
Đảng; số lượng, chất lượng của đội ngũ đảng viên là điều kiện trực tiếp quyết
định thắng lợi của đường lối chính trị và sức mạnh lãnh đạo của Đảng trên thực
tế. Vì vậy, Đảng có một đội ngũ đảng viên có số lượng thích hợp, có chất lượng
cao, mọi đảng viên của Đảng tuyệt đối trung thành với Đảng có phẩm chất chính
trị tốt, có đạo đức cách mạng trong sáng, có năng lực lãnh đạo, vận động quần
chúng và tổ chức thực hiện giỏi thì khơng một chủ trương, nhiệm vụ nào khơng
được hồn thành, khơng một khó khăn nào khơng vượt qua. Nội dung xây dựng
đội ngũ đảng viên vững mạnh, phải chú trọng cả chất lượng và số lượng, lấy
chất lượng là khâu chủ yếu và trước hết. Muốn vậy, cần phải nắm vững tiêu
chuẩn của người đảng viên trong giai đoạn cách mạng mới; đồng thời, cụ thể

hố tiêu chuẩn đó cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, đặc điểm và tính
chất hoạt động của từng đơn vị.
Chất lượng đảng viên thể hiện ở tiêu chuẩn đảng viên, vì thế muốn nâng
cao được chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết phải xây dựng được tiêu
chuẩn đảng viên. Đây vừa là cơ sở để xem xét, đánh giá đảng viên vừa là tiêu
chí để đảng viên phấn đấu. Trong tình hình hiện nay, đội ngũ đảng viên trong
quân đội phải nắm vững và thực hiện tốt nhiệm vụ của người đảng viên đã ghi
trong Điều lệ Đảng:
14

Đảng bộ quân đội, Đề cương quán triệt học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI, tr.25


12
Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng
tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
Khơng ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực
cơng tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung
ương về những điều đảng viên không được làm.
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của nhân dân; tích cực tham gia cơng tác quần chúng, cơng tác xã hội nơi làm
việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng;
phục tùng kỷ luật, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê

bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh
hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Trên cơ sở những tiêu chuẩn trên, các tổ chức đảng trong tồn qn tiến
hành các mặt cơng tác xây dựng đội ngũ đảng viên, làm căn cứ để xem xét tư
cách đảng viên và phân tích chất lượng đảng viên hàng năm. Đồng thời, là cơ sở
để từng đảng viên tự tu dưỡng phấn đấu vươn lên hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Để xây dựng được đội ngũ đảng viên đủ tiêu chuẩn, có đủ phẩm chất và
năng lực, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một
cách đồng bộ tất cả các biện pháp, trong đó cần thực hiện tốt một số biện pháp
cơ bản sau:
Một là, tăng cường giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực
và phong cách lãnh đạo khoa học cho đội ngũ cán bộ đảng viên
Giáo dục, rèn luyện đảng viên là một nội dung cơ bản quan trọng của
công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt cho


13
đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội và
yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Đây là
một trong những vấn đề trọng tâm, cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Nghị
quyết Trung ương 4 (khố XI) chỉ rõ: “đổi mới cơng tác tun truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm
điểm, đánh giá và biện pháp giải quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng của các cấp theo tinh thần Nghị quyết này, tạo niềm tin trong Đảng và
nhân dân”. Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XIII tiếp tục nhấn mạnh: “Kiên
quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán
bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp hài hịa giữa xây và chống” 15 và đưa ra 5
nhóm giải pháp, trong đó nhấn mạnh “nhóm giải pháp về tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng cơng tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình”. Vì vậy,

các tổ chức đảng phải thường xuyên tiến hành giáo dục cho cán bộ, đảng viên
gắn với yêu cầu nhiệm vụ của cơng tác xây dựng Đảng, gắn với hồn cảnh, cuộc
sống thực tiễn của người đảng viên và đội ngũ đảng viên.
Việc giáo dục rèn luyện phải sát với từng đối tượng vừa tiến hành trong cả
đội ngũ đảng viên, vừa đi vào từng người cụ thể trên các mặt về chính trị tư
tưởng, nhân cách và lối sống cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là giáo dục cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp và cán bộ, đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực có
mơi trường dễ làm hư hỏng như các lĩnh vực có liên quan đến tiền, dự án, cấp
phép, điều tra, xét xử, công tác cán bộ, tham mưu hoạch định các chủ trương,
chính sách cụ thể… Từng cơ quan, đơn vị xây dựng và thực hiện nghiêm những
tiêu chuẩn đạo đức, lối sống, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, liên tục
làm tốt, làm có hiệu quả cơng tác giáo dục, rèn luyện đảng viên. Muốn giáo dục,
rèn luyện đảng viên có hiệu quả, phải đổi mới nội dung, chương trình, phương
pháp và hình thức giáo dục sát với từng đối tượng, kể cả giáo dục lý luận chính
trị và giáo dục kiến thức chun mơn. Chương trình giáo dục phải nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ của người đảng viên, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị
theo cương vị đảm nhiệm.
15

ĐCSVN, Nghị quyết TW 4 Khóa XIII, H.2021.


14
Xác định nội dung giáo dục, rèn luyện đảng viên phải toàn diện, vừa giáo
dục, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, vừa bồi dưỡng, nâng
cao trình độ kiến thức, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn cho đảng viên. Cần
chú ý tập trung vào những nội dung cơ bản như: Giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị. Giáo dục
lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc

và nhân dân. Giáo dục về điều lệ Đảng, nhất là các nguyên tắc tổ chức lãnh đạo,
sịnh hoạt Đảng. Xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, tinh thần chủ động khắc
phục mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng
tinh thần đoàn kết, tình đồng chí, đồng đội và tinh thần quốc tế trong sáng cho
đảng viên. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và lối sống trong
sáng lành mạnh của người cách mạng. Giáo dục cho đảng viên nhận thức rõ bản
chất, âm mưu thủ đoạn chiến lược “diễn biến hồ bình” bạo loạn lật đổ của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng
và khắc phục những hiện tượng mơ hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác trong Đảng hiện
nay. Giáo dục quan điểm thực tiễn, quan điểm quần chúng, xây dựng ý thức tôn
trọng quần chúng, lãnh đạo và phục vụ quần chúng. Cùng với giáo dục về chính
trị tư tưởng và đạo đức lối sống phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ về mọi mặt và
phong cách lãnh đạo cho đảng viên để có năng lực hoạt động giỏi, năng lực lãnh
đạo, tổ chức chỉ huy, quản lý, giáo dục bộ đội thực hiện nhiệm vụ chức trách.
Trong giáo dục rèn luyện đảng viên phải vận dụng mọi biện pháp của
công tác tư tưởng, công tác tổ chức và kết hợp chặt chẽ các biện pháp đó. Trước
hết, đối với các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội phải xây dựng nội dung
chương trình, kế hoạch tổ chức học tập và thường xuyên đổi mới nâng cao chất
lượng học tập về lý luận chính trị cơ bản cho đảng viên thông qua hệ thống nhà
trường, học viện trong và ngoài quân đội, tổ chức các lớp học tại chức, tổ chức
các đợt sinh hoạt chính trị, các đợt sinh hoạt đảng bộ, sinh hoạt tự phê bình và
phê bình trong Đảng. Tăng cường cơng tác giáo dục, rèn luyện đảng viên phải
thông qua việc quản lý, kiểm tra phân công công tác cho đảng viên. Sau từng


15
thời gian phải tổ chức kiểm điểm, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đảng
viên. Nhận xét đánh giá phân loại đảng viên, chỉ rõ những mặt mạnh, mặt yếu để
họ có phương hướng biện pháp phấn đấu tiến bộ, hoàn thành chức trách nhiệm
vụ của tổ chức cơ sở đảng giao cho.

Thực hiện tốt các yêu cầu nâng cao chất lượng đảng viên:
Về chính trị tư tưởng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc, tích cực thực hiện đuờng lối đổi mới của Đảng, hồn thành
tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao
động trước khó khăn, thách thức. Có ý thức giữ vững và nêu cao vai trị lãnh đạo
của đảng. Về trình độ năng lực, có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước; có trình độ chun mơn nghiệp vụ để đủ sức hồn thành tốt nhiệm
vụ. Có năng lực vân động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng. Về phẩm chất đạo đức lối sống, có tinh thần
trách nhiệm cao, gương mẫu đi đầu trong cơng tác; xử lý hài hồ các lới ích, đặt
lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn
trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh,
có kỷ cương, kỷ luật. Khơng quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu
tranh phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
Cùng với việc giáo dục, rèn luyện đảng viên của tổ chức đảng, đối với
mỗi đảng viên cần phải đặc biệt coi trọng việc tự học, tự rèn nâng cao trí tuệ, tu
dưỡng đạo đức và lối sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cơng việc ngày
càng nhiều và càng phức tạp. Xã hội ngày càng tiến lên. Vì vậy, trình độ của
đảng viên và cán bộ cũng phải tiến lên mới làm tròn được nhiệm vụ. Cho nên
đảng viên và cán bộ phải cố gắng học tập chính trị, văn hố và chun mơn” 16.
Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”17. Cho nên, trên cơ sở
16
17

Sách đã dẫn: tập 11, tr .155.
Sách đã dẫn: tập 9, tr .293.



16
nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, mỗi đảng viên phải tích cực học tập,
rèn luyện nâng cao trình độ và phẩm chất, đạo đức cách mạng theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: “Mọi cán bộ, đảng viên không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất
đạo đức, lối sống”18. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên;
phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân,
học dân của cán bộ, đảng viên”19. Để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị quyết,
đòi hỏi từng đảng viên phải xây dựng được kế hoạch học tập, nhất là kế hoạch tự
học, phải kết hợp cả học ở trường, học sách vở, học lẫn nhau và học quần chúng
nhân dân. Phải luôn luôn ghi nhớ và thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Muốn trở nên người quân nhân mới, xứng đáng với các vinh hạnh đứng
trong Quân đội nước Việt Nam dân chủ cộng hồ, thì mỗi chiến sĩ từ trên đến
dưới, các cấp bậc đều phải nghiên cứu học tập, luôn luôn cầu tiến bộ” 20. Cùng
với việc học tập, mỗi đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng. Bởi
vì, đây chính là cái gốc của người cách mạng. Phải tự cải tạo mình, tự nâng cao
mình, “khơng tự nâng cao mình thì khơng thể được”. Phải ln nêu cao đức tính
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vô tư. Phấn đấu trở thành người đảng viên ưu
tú của Đảng theo hình mẫu “Người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân
dân”. Bên cạnh đó, người đảng viên phải thường xun xây dựng cho mình có
phong cách lãnh đạo tốt, lý luận gắn liền với thực tiễn, gần gũi, thương yêu, giúp
đỡ quần chúng, đi sâu, đi sát đơn vị, nói đi đơi với làm.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên
Công tác quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ
xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, có quản lý tốt mới có cơ sở để giáo dục, rèn
luyện đảng viên, phân công giao nhiệm vụ cho đảng viên, điều chỉnh phân bổ
lực lượng lãnh đạo đều khắp trong đơn vị. Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã chỉ
rõ: “Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên”21. Nghị quyết

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, H.2011, tr. 257, 258.
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, H.2011, tr. 229-230
20 Sách đã dẫn: tập 5, tr .417.
21 ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, H.2011, tr. 242.
18
19


17
Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI nhấn mạnh: “Tăng quản lý, giáo dục, rèn
luyện đội ngũ đảng viên; nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng, tạo
nguồn cán bộ cho Quân đội và hệ thống chính trị các cấp” 22. Quản lý tốt cịn có
cơ sở chính xác để sàng lọc đảng viên hoặc phát hiện, giới thiệu nguồn cán bộ
cho Đảng. Do vậy, các tổ chức đảng phải thường xuyên quản lý chặt chẽ, toàn
diện và có trọng tâm, trọng điểm, cả đội ngũ đảng viên và từng đảng viên. Quản
lý cả về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và trình độ năng lực, sức
khoẻ, quản lý cả lai lịch chính trị, quan hệ xã hội bản thân và gia đình, cả q
trình cơng tác và đời tư của từng đảng viên. Chú trọng quản lý đảng viên là cán
bộ chủ trì, cán bộ quản lý vật tư, trang bị kỹ thuật, tài chính… Phải chấp hành
nghiêm chỉnh các nguyên tắc, chế độ quy định về quản lý đảng viên. Kết hợp
chặt chẽ giữa việc quản lý của tổ chức với việc tự quản lý của đảng viên, giữa
quản lý của chi bộ với quản lý của tổ chức đảng cấp trên, giữa quản lý đảng viên
với quản lý cán bộ và quản lý bộ đội, giữa quản lý trong nội bộ Đảng với việc
quản lý, giám sát của quần chúng.
Những nội dung biện pháp quản lý đảng viên phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục, chặt chẽ, cụ thể, quản lý toàn diện cả đội ngũ đảng viên và từng
đảng viên. Đối với toàn đội ngũ đảng viên, phải nắm chắc cả số lượng và chất
lượng đảng viên của từng đơn vị, từng bộ phận, nắm vững tỷ lệ lãnh đạo, số
lượng cấp uỷ viên và chất lượng của từng cấp uỷ. Đối với từng đảng viên, phải
nắm chắc cả phẩm chất, năng lực và phong cách. Ngồi ra cịn phải nắm chắc

tình hình sức khoẻ của đảng viên, hồn cảnh gia đình, tâm tư, tình cảm nguyện
vọng, tình cảm của từng người. Phẩm chất và năng lực của đảng viên bao giờ
cũng được biểu hiện ra trong quá trình hoạt động thực tiễn và sinh hoạt cá nhân
của họ, vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý trên hồ sơ, qua thủ tục hành
chính của Đảng với quản lý trong sinh hoạt và hoạt động thực tiễn của đảng
viên. Phải quản lý đảng viên cả ở nơi công tác và ở nơi cư trú, cả trong giờ làm
việc và giờ nghỉ. Phải đánh giá chính xác điểm mạnh, điểm yếu và sở trường của
từng đảng viên để phân công công tác phù hợp cho đảng viên nhất là ở vị trí chủ
22

Đảng bộ quân đội, Đề cương quán triệt học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI, tr.26


18
trì hoặc ở những vị trí cần có năng khiếu, có chun mơn cao. Phải thực hiện
phương châm: Quản lý mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng, không để bất kỳ đảng
viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức đảng kể cả đảng viên là cán bộ cao
cấp, cán bộ lãnh đạo, cán bộ đã nghỉ hưu. Trong đó đặc biệt quan tâm quản lý
các đảng viên giữ vị trí quan trọng chủ chốt, những đảng viên nắm tài chính và
cơ sở vật chất kỹ thuật. Tránh bị bất ngờ trước những diễn biến tư tưởng, sa sút
về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, thường xuyên làm tốt công tác phát triển đảng, nâng cao chất
lượng đảng viên mới
Trong cơng tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng trong quân đội
nói riêng, phát triển Đảng là vấn đề có tính quy luật, là nội dung quan trọng
trong xây dựng đội ngũ đảng viên, là biện pháp để nâng cao chất lượng, phát
triển số lượng, nâng cao tỷ lệ lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho sự tồn tại vững
mạnh của Đảng. Do đặc điểm, tính chất hoạt động của quân đội có nét đặc thù
và trước yêu cầu mới nên phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Vì vậy, việc phát triển đảng

trong Đảng bộ Quân đội càng có ý nghĩa quan trọng. Muốn làm tốt cơng tác này
địi hỏi các tổ chức đảng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của đơn vị mình để
xây dựng kế hoạch phát triển đảng. Dựa vào kế hoạch đó, các tổ chức đảng phải
tích cực, chủ động tạo nguồn, bồi dưỡng nguồn, thông qua việc giao nhiệm vụ
để rèn luyện, thử thách, phân công đảng viên kèm cặp, giúp đỡ quần chúng phấn
đấu. Trong quá trình tiến hành phải nắm vững và thực hiện đúng phương châm,
phương hướng, tiêu chuẩn và nguyên tắc, nắm vững thủ tục kết nạp đảng viên
theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định của Ban Bí thư, hướng dẫn của Ban
Tổ chức Trung ương và hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về cơng tác phát triển
đảng. Phải quán triệt và thực hiện tốt những nội dung mà Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định: “Tăng cường cơng tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng, nhân sinh quan cách mạng cho đảng viên. Nâng
cao chất lượng kết nạp đảng viên, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào
Đảng những đoàn viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực


19
lượng vũ trang; quan tâm phát triển đảng viên là cơng nhân, trí thức, doanh nhân
để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Đẩy mạnh phát triển về số
lượng, nâng cao chất lượng đảng viên ở miền núi, biên giới, hải đảo theo
phương châm “Ở đâu có dân thì ở đó có đảng viên”23.
Trong Đảng bộ Quân đội cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa số
lượng và chất lượng, coi trọng chất lượng, phấn đấu tiểu đội có đảng viên, trung
đội có tổ đảng, đại đội có chi bộ, chi bộ có chi uỷ, tiểu đồn có đảng uỷ bộ phận,
trung đồn có đảng uỷ cơ sở. Song phải luôn quán triệt quan điểm: phát triển
Đảng phải luôn đi đôi với củng cố Đảng, cùng với sự phát triển đảng viên mới,
phải chăm lo củng cố đội ngũ đảng viên hiện có, phải nâng cao chất lượng của
đội ngũ đảng viên ngay từ lúc mới kết nạp, khơng vì chạy theo số lượng đơn
thuần mà bỏ qua chất lượng, kết nạp những người không đủ tiêu chuẩn, chưa đủ
điều kiện như: Động cơ vào Đảng khơng đúng đắn, lai lịch chính trị, quan hệ xã

hội khơng rõ ràng, phẩm chất, năng lực, trình độ học vấn thấp, khơng có quan
điểm quần chúng, uy tín và khả năng lãnh đạo quần chúng thấp. Phải tuân thủ
nghiêm ngặt các khâu, các bước, đảm bảo đúng thủ tục nguyên tắc, nâng cao
cảnh giác, kiên quyết không để phần tử xấu, cơ hội tìm cách chui vào Đảng, đây
là điều rất hệ trọng đối với một đảng cầm quyền như Đảng ta. V.I.Lênin đã
khẳng định: “Không thể thu nhận những kẻ vào Đảng để kiếm địa vị; phải đuổi
những kẻ đó ra khỏi Đảng”24.
Xác định rõ cơng tác phát triển Đảng là nhiệm vụ của các tổ chức đảng, là
trách nhiệm của cấp uỷ, của mọi đảng viên và các tổ chức quần chúng. Vì vậy,
các tổ chức đảng, nhất là chi bộ và đảng uỷ cơ sở phải có kế hoạch phát triển
đảng. Chi bộ phải lựa chọn, bồi dưỡng nguồn và phân công đảng viên giúp đỡ
quần chúng phấn đấu vào Đảng chặt chẽ để đảm bảo chất lượng.
Bốn là, cùng với công tác phát triển đảng, các tổ chức cơ sở đảng phải
làm tốt công tác sàng lọc đảng viên
Sàng lọc đảng viên cũng là một quy luật đối với sự tồn tại và phát triển
của Đảng, là biện pháp cơ bản để bảo đảm sự trong sạch của đội ngũ đảng viên
23
24

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, H.2021, tr. 221-242.
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1978, t.37, tr. 56.


20
và tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, nâng cao uy tín
và sức chiến đấu của Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã khẳng định:
“Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên khơng cịn đủ
tư cách ra khỏi Đảng”25. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI chỉ rõ:
“Tăng cường cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ; thường xuyên rà soát, sàng lọc
đưa những đảng viên khơng cịn đủ tư cách ra khỏi Đảng”26.

Chất lượng, uy tín của Đảng cao hay thấp cũng tuỳ thuộc một phần vào
chất lượng của đội ngũ đảng viên. Vì vậy, các tổ chức đảng phải thường xuyên
làm tốt công tác sàng lọc, nâng cao chất lượng của đội ngũ đảng viên. Phải kiên
quyết và kịp thời đưa những người khơng đủ tư cách đảng viên. Khai trừ đảng
viên thối hố, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tham ơ, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của nhà
nước. Vận động ra khỏi Đảng hoặc xoá tên khỏi danh sách đảng viên đối với
những đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, khơng làm tròn
nhiệm vụ đảng viên, đã được tổ chức Đảng giúp đỡ mà không tiến bộ. Phải đưa
ra càng sớm càng tốt những người khơng đủ tư cách, những người thối hố,
biến chất dù họ ở cương vị gì trong cơ quan của Đảng, nhà nước. Đồng thời đề
phòng những lệch lạc, sai lầm trong công tác sàng lọc đảng viên đòi hỏi các tổ
chức đảng phải quán triệt sâu sắc Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của
Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
Việc kỷ luật và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi
Đảng là một cơng việc hệ trọng, có quan hệ đến sinh mệnh chính trị và danh dự,
uy tín cá nhân của người đó, nó tác động trực tiếp đến ý thức tư tưởng, tình cảm
của cả đội ngũ đảng viên. Đồng thời phải tỉnh táo cảnh giác với âm mưu phá
hoại của kẻ thù không để chúng lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc, kích động gây
chia rẽ nội bộ. Cho nên, khi tiến hành phải xem xét kỹ lưỡng, kiên quyết, nhưng
cũng phải thận trọng, bảo đảm chặt chẽ, kịp thời, chính xác và vững chắc, đề
phịng những lệch lạc. Phải bảo đảm công bằng, dân chủ, cơng khai. Nếu đã vi
25
26

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB tồn quốc lần thứ XIII, H.2021, tr. 242.
Đảng bộ quân đội, Đề cương quán triệt học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ XI, tr.26


21

phạm đều phải xử lý nghiêm khắc theo kỷ luật Đảng, không phân biệt cấp bậc,
chức vụ. Phải thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Sửa chữa sai
lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hố, dạy bảo. Song
khơng phải tuyệt nhiên khơng dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu
nhất luật khơng xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá
hoại. Vì vậy, hồn tồn khơng dùng xử phát là khơng đúng. Mà chút gì cũng
dùng đến xử phạt cũng khơng đúng. Vì vậy, cần phải phân tách rõ ràng cái cớ
sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng” 27.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là phương châm trong thi hành kỷ luật
Đảng, là biện pháp hữu hiệu để sàng lọc đảng viên, làm trong sạch đội ngũ đảng
viên, giúp cho chúng ta có quan điểm đúng trong thi hành kỷ luật Đảng, tránh
được những sai lầm trong quá trình thực hiện.
Năm là, đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, gắn xây dựng
đội ngũ đảng viên với xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh và xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ sở.
Công tác kiểm tra có vị trí, vai trị hết sức quan trọng, là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng, một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện, đó
cũng là một biện pháp hiệu quả để khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót
khi mới manh nha, phát huy ưu điểm, giúp tổ chức đảng và đảng viên nghiêm
chỉnh chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng, chỉ
thị, mệnh lệnh của cấp trên. Mục đích chính của kiểm tra khơng phải là để “tóm,
bắt” huặc “bới lơng tìm vết”, để kỷ luật mà trước hết và chủ yếu là giáo dục,
ngăn ngừa, hạn chế đế mức thấp nhất tình hình vi phạm kỷ luật của cán bộ, đảng
viên nhằm đảm bảo cho người đảng viên ln ln giữ vững vị trí tiên phong
của mình. Chính vì thế, cơng tác kiểm tra đảng viên có ý nghĩa hết sức quan
trọng, có thể nói lãnh đạo mà khơng có kiểm tra thì coi như khơng có lãnh đạo.
Luận giải sự cần thiết của công tác kiểm tra V.I.Lênin đã khẳng định: “Cái
chúng ta cần không phải là các pháp lệnh mới, các cơ quan mới, hay các biện
27


Sách đã dẫn: tập 5, tr. 284.



×