Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

ứng dụng quy trình b2004 – 32 – 66 xử lý tàn dư rơm rạ trên đồng ruộng tại xã yên hưng – ý yên – nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 61 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay phế thải đang là một thảm họa khó lường trong sự phát triển mạnh
mẽ của quá trình sản xuất, chế biến công nghiệp và hoạt động toàn xã hội. Phế thải
không chỉ làm ô nhiễm môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất,
gây độc hại đến sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng, mà còn làm mất đi
cảnh quan văn hoá đô thị và nông nghiệp nông thôn.
Phế thải có nhiều nguồn khác nhau: từ rác thải sinh hoạt, rác thải đô thị, tàn dư
thực vật trên đồng ruộng, phế thải từ các nhà máy công nghiệp: như nhà máy giấy,
khai thác chế biến than, nhà máy đường, nhà máy thuốc lá, nhà máy sản xuất rượu
bia, nước giải khát, các lò giết mổ, các nhà máy xí nghiệp chế biến rau quả đồ hộp.
Xã Yên Hưng – Ý Yên – Nam Định là một xã thuần nông, những năm gần đây
được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội của xã ngày
càng phát triển, đặc biệt là xã Yên Hưng đang thực hiện việc dồn điền đổi thửa để
phấn đấu xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong đó cây lúa là cây
chủ đạo. Với việc áp dụng các giống mới, các quy trình thâm canh cao đã góp phần
nâng cao năng suất cây trồng, cùng với đó lượng phát thải tàn dư rơm rạ ngày càng
tăng. Tất cả nguồn phế thải này một phần bị đốt, phần còn lại trở thành phế thải
gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường và nguồn nước, trong khi đó đất đai lại thiếu
trầm trọng nguồn dinh dưỡng cho cây, hàng năm nước ta phải bỏ ra hàng triệu đôla
để mua phân bón của nước ngoài. Vì vậy, việc xử lý tàn dư thực vật trên đồng
ruộng không chỉ làm sạch môi trường đồng ruộng, tiêu diệt ổ bệnh, dịch hại cây
trồng mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra nguồn phân hữu cơ tại chỗ trả lại
cho đất, giải quyết sự thiếu hụt về phân hữu cơ trong thâm canh hiện nay, đồng
thời giảm bớt chi phí về phân bón, thuốc trừ sâu góp phần tăng thu nhập cho người
nông dân.
Trong những năm qua việc ứng dụng quy trình của đề tài cấp Bộ B2004-32-
66 đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực trong việc xử lý tàn dư thực vật và được
đánh giá cao tại một số tỉnh Bắc Bộ như: Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên
Từ những thực tế trên, tôi quyết định thực hiện đề tài: “ Ứng dụng quy trình
B2004 – 32 – 66 xử lý tàn dư rơm rạ trên đồng ruộng tại xã Yên Hưng – Ý


Yên – Nam Định”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1.Mục đích nghiên cứu
- Điều tra lượng tàn dư rơm rạ trên đồng ruộng trong sản xuất nông nghiệp tại
xã Yên Hưng.
- Đánh giá được hiệu quả của quy trình B2004-32-66 trong việc xử lý tàn dư
rơm rạ tại xã Yên Hưng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định góp phần giảm thiểu
ô nhiễm môi trường từ phế thải đồng ruộng.
1.2.2.Yêu cầu nghiên cứu
- Sử dụng phiếu để điều tra tàn dư rơm rạ trong sản xuất nông nghiệp tại xã Yên
Hưng.
- Tiến hành ủ phế thải rơm rạ theo quy trình B2004 – 32 – 66 thành phân hữu cơ.
PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về cây lúa .
2.1.1. Nguồn gốc lịch sử cây lúa .
Cây lúa Oryza sativa là một loại cây thân tảo, có nguồn gốc từ cây lúa dại Oryza
fatua. Nó là một loại cây được đánh giá là cổ xưa nhất, sự tiến hóa của nó gắn liền
với sự tiến hóa của loài người ( đặc biệt là Châu Á). Theo các tài liệu ghi chép lại
thì cây lúa được trồng ở Trung Quốc khoảng năm 2800 – 2007 trước công nguyên,
ở Thái Lan vào khoảng 4000 năm trước công nguyên và ở Việt Nam vào khoảng
4000 – 3000 năm trước công nguyên[5]. Trên thế giới có hai loài lúa trồng được
xác định từ thời cổ đại cho đến ngày nay. Đó là loài lúa trồng Châu Á (Oryza
sativa) và loài lúa trồng Châu Phi (Oryza glaberrima).Loài lúa trồng Châu Phi đã
được xác định nguồn gốc ở vùng thung lũng thượng nguồn sông Niger (ngày nay
thuộc Mali). Loài lúa trồng Châu Á có nguồn gốc phát xuất đầu tiên ở đâu vẫn là
đề tài tranh luận của các nhà khoa học thế giới và ngày càng sáng tỏ với những
khai quật khảo cổ học có tính đột phá và những phương pháp phân tích hiện đại
dựa trên cơ sở phân tích phóng xạ và AND.
2.1.2. Vai trò của lúa gạo trong đời sống con người.
Cây lúa nước là một trong những cây lương thực chủ yếu và quan trọng trên thế

giới, có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của trên 65% dân số và đến nền kinh tế
của nhiều quốc gia trên hành tinh chúng ta. Năm 1996, lúa gạo được tiêu thị bởi
5,8 tỷ người ở 176 quốc gia, là lương thực quan trọng bậc nhất của 2,89 tỷ người
dân Châu Á, 40 triệu người Châu Phi và 1,3 triệu người dân Châu Mỹ. Ở Việt
Nam, gieo trồng lùa nước là một nghề có truyền thống lâu đời, đem lại lợi ích
nhiều mặt cho bà con nông dân nói riêng và nhân dân cả nước nói riêng. Đặc biệt
là từ khi thực hiện Nghị quyết 10 và chỉ thị 100 cùng việc áp dụng tiến bộ khoa
học công nghệ về giống, thủy lợi, phân bón, kỹ thuật canh tác, quản lý sử dụng đất
đai, sản lượng thóc đã tăng từ 19,2 triệu tấn ( năm 1990) lên 35,86 triệu tấn (năm
2007), tăng trung bình 0,98 triệu tấn/năm. Sản xuất lúa gạo không những đã đảm
bảo vững chắc mục tiêu an ninh lương thực quốc gia mà còn đưa nước ta vươn lên
vị trí số 2 thế giới về sản xuất lúa gạo, với lượng xuất khẩu trung bình 3 – 3,5 triệu
tấn/ năm[4]. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2011 cả nước xuất khẩu
7,11 triệu tấn gạo, thu về 3,66 tỷ USD, chiếm 3,77% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá của cả nước (tăng 3,28% về lượng và tăng 12,59% về kim ngạch so
với năm 2010); Giá gạo xuất khẩu bình quân đã đạt gần 494 USD/tấn, tăng 14,5 %
so với năm 2010 và chỉ kém kỷ lục của năm sốt nóng giá gạo thế giới 2008 (569
USD/tấn). Đây là chỉ số rất đáng mừng, bởi theo thống kê của FAO, chỉ số giá gạo
thế giới năm 2011 chỉ tăng bình quân 10,9% so với cùng kỳ năm 2010[21].
Như vậy, việc trồng lúa và tăng năng xuất, chất lượng lúa gạo là việc có ý nghĩa rất
lớn trong vấn đề bình ổn an ninh lương thực, bình chính trị của nhiều quốc gia trên
thế giới đồng thời cũng là yếu tố đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn của một số nước
xuất khẩu gạo ( Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ, Ai Cập, ). Bên cạnh đó, cây lúa còn
cung cấp cho người dân chất đốt, nguyên liệu làm thức ăn gia súc, phân bón, vật
che phủ đất rất hữu hiệu, Do vậy, cũng có thể nói cây lúa không những là người
bạn thân thiết của nhà nông mà là bạn của tất cả nhân loại sử dụng lúa gạo.
Cây lúa
Rơm rạ Hạt thóc
Gạo Cám Trấu
- Nhiên liệu;

- Sản xuất điện;
- Giá thể nuôi nấm;
- Thức ăn cho gia súc;
- Phân bón;
- Vật liệu che phủ đất;
- Làm nhà đất
Thức ăn gia súc;
Nguyên liệu để sản xuất phân bón
Lương thực cho người và động vật; Sản xuất rượu…
Phân bón;
Chất đốt
Chất phụ gia
Sơ đồ : Vai trò của cây lúa (Oryza sativa )
2.1.3. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới .
Nhu cầu về gạo trên thế giới ngày càng tăng, bình quân mỗi năm phải tăng 1,7%
trong thời kỳ 1990 - 2025. Điều đó phụ thuộc vào sự phát triển dân số ở mỗi thời
kỳ và nhu cầu lương thực của con người.
Lúa vẫn là cây lương thực chính, cung cấp hơn 50% tổng năng lượng được tiêu thụ
của cả toàn nhân loại. Xét về tiêu dùng thì lúa gạo được con người tiêu thụ nhiều
nhất, chiếm 85% tổng lượng sản xuất rồi đến lúa mì 60% và ngô 25%. Ngoài việc
cung cấp tinh bột, gạo còn cung cấp protein, lipit, vitamin và các khoáng chất cần
thiết cho cơ thể con người, đặc biệt là vitamin nhóm B [15].
Theo số liệu thống kê của FAO năm 2004, diện tích trồng lúa của toàn bộ thế giới
khoảng 150 triệu ha và sự biến động diện tích hàng năm không nhiều. Sản lượng
các năm khác nhau do năng suất. Trên 90% diện tích tập trung ở Châu Á. Xét về
diện tích 10 nước trồng lúa lớn nhất thế giới là Bangladet, Ấn Độ, Trung Quốc,
Indonexia, Thái Lan, Việt Nam, Myanma, Nhật Bản, Brazin, Mỹ. Năng suất bình
quân toàn thế giới là 3,7 tấn/ha, cao nhất là Châu Úc ( đạt 8,3 tấn/ha) tiếp đó là Mỹ
và thấp nhất là Châu Phi ( mới chỉ đạt 2,2 tấn/ha). Tổng sản lượng lúa trên thế giới
đạt 535,7 triệu tấn trong năm 1994, trong đó các nước Châu Á sản xuất 485,1 triệu

tấn ( chiếm 90,55%).
Theo báo cáo của FAO năm 2011, thì lúa gạo đạt mức dự báo 721 triệu tấn hiện
tại (hay 481 triệu tấn gạo), sản lượng lúa gạo toàn cầu đã tăng 3% so với sản lượng
năm 2010. Sự gia tăng này cũng đồng thời cho thấy diện tích thu hoạch tăng 2,2%
lên 164,6 triệu ha với năng suất tăng 0,8%, tương đương 4,38 tấn/ha. Bất chấp sản
lượng lúa gạo tại Thái Lan, Pakistan, Philíppines, Campuchia, Lào, Myanmar bị
ảnh hưởng do thời tiết không thuận lợi, song châu Á vẫn chiếm tới 90,3%, tức 651
triệu tấn (hay 435 triệu tấn gạo) trong tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu năm 2011,
tăng 3% so với sản lượng năm 2010. Kết quả này có được chủ yếu nhờ sản lượng
tăng mạnh tại Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam, trong đó Việt Nam đạt
25,53 triệu tấn[22].
Tổ chức FAO cũng nâng mức dự báo sản lượng lúa gạo tại Châu Phi lên 26 triệu
tấn (hay 17 triệu tấn gạo), tăng 3% so với sản lượng năm 2010. Sản lượng gạo tại
Ai Cập, nước sản xuất gạo lớn tại khu vực, có dấu hiệu phục hồi. Cùng với đó, sản
lượng tăng tại các nước Tây Phi đã bù đắp những thiếu hụt do sự sụt giảm tại một
nước ở Đông và Nam Phi. Tại Châu Mỹ Latinh và vùng Ca-ri-bê, triển vọng về sản
lượng lúa gạo vẫn không thay đổi, tương ứng 29,6 triệu tấn (hay 19,8 triệu tấn
gạo), tăng 12% so với sản lượng năm 2010[22].
2.1.4. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam .
Từ xưa tới nay, cây lúa vẫn là cây lương thực chính, chiếm 82% tổng diện tích
trồng trọt. Hiện tại, nước ta cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp , nên cây lúa có
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, an ninh xã hội của cả nước. Vì vậy sản xuất lúa
có ảnh hưởng đến thu nhập của của hàng chục triệu nông dân và ổn định chính trị,
xã hội của đất nước.
Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, thành tựu sản xuất lúa gạo của nước ta là rất to
lớn và vững chắc. Nếu giai đoạn 1975 – 1980 sản lượng thóc của chúng ta mới chỉ
xung quanh 10 -11 triệu tấn, thiếu hụt 1,6 - 1,7 triệu tấn gạo và mức tiêu dùng gạo
chỉ xung quanh 120kg/người/năm thì đến năm 2006 sản lượng lúa của cả nước ước
đạt khoảng 36,2 triệu tấn đưa nước ta vào một trong năm nước có sản lượng thóc
lớn nhất thế giới. Từ năm 2006 – 2012, tổng sản lượng lúa gạo Việt Nam tăng

mạnh, từ 36,2 triệu tấn (năm 2006) lên 43,7 triệu tấn ( năm 2012).
Bảng : Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của Việt Nam
Năm Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng(1000
tấn)
2006 7.324,8 48,94 36200
2007 7.183,8 49,5 37000
2008 7.400 52 38700
2009 7.429,4 48,9 38895,5
2010 7.513,7 53,2 44600
2011 7651,4 55,3 42000
2012 7750 56 43700
Nguồn: Bộ phát triển và nông thôn
Bảng trên cho ta thấy diện tích và sản lượng lúa của Việt Nam qua các năm. Như
vậy, diện tích canh tác lúa biến thiên đồng đều và năng xuất, sản lượng đều tăng.
Có được kết quả như trên, trước hết phải nói tới chính sách đổi mới, cơ chế quản lý
nông nghiệp của Đảng phù hợp với lòng dân, phát huy với nội lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Đối với sản xuất nông nghiệp đã ưu tiên đầu tư các công
trình thủy lợi, nghiên cứu đưa ứng dụng khoa học vào sản xuât. Đặc biệt các giống
lúa mới có thời gian sinh trưởng ngắn, năng xuất cao, khả năng chống chịu tốt đã
đưa vào sản xuất góp phần tăng năng xuất và sản lượng.
2.2. Tổng quan về quá trình quá trình quản lý, xử lý tàn dư thực vật trên
đồng ruộng
2.2.1. Việc phát thải tàn dư thực vật trong sản xuất nông nghiệp.
Phế thải đồng ruộng là các chất rắn phát sinh từ các hoạt động sản xuất nông
nghiệp ngoài đồng ruộng như trồng trọt, thu hoạch rơm rạ, thân lá thực vật, bao bì
đựng phân bón, HCBVTV, [12]

Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn đồng ruộng từ nhiều nguồn khác nhau như:
- Trồng trọt (thực vật chết, tỉa cành, làm cỏ, )
- Thu hoạch nông sản(rơm rạ, trấu, cám, thân lõi ngô, )
- Bảo vệ TV, ĐV (chai lọ đựng HCBVTV, )
- Qúa trình bón phân, kích thích sinh trưởng(bao bì chứa đựng, )
Phế thải đồng ruộng phát sinh từ phần loại bỏ trong quá trình thu hoạch nông sản,
quá trình trồng trọt như cắt tỉa cành lá, rơm rạ, thân lõi ngô Ngoài ra, phế thải
đồng ruộng còn được tạo ra trong quá trình bón phân, sử dụng HCBVTV như chai
lọ, núi ninon Lượng phế thải này hiện nay đa phần chưa có biện pháp thu gom xử
lý triệt để nên gây ra ô nhiễm.
2.2.2. Một số biện pháp quản lý, xử lý tàn dư thực vật ở Việt Nam.
a. Biện pháp cày vùi trực tiếp vào đất trên đồng ruộng
Sau khi thu hoạch nông sản, phế phụ phẩm này được để lại trên đồng ruộng. Khi
người dân cày đất sẽ cày úp rơm rạ xuống phía dưới. Nhờ hoạt động của vi sinh
vật, rơm rạ sẽ phân hủy để thành các chất hữu cơ dễ sử dụng cho cây trồng.
Ưu điểm:
- Tuần hoàn vòng quanh vật chất, cải thiện các đặc tính lý hóa, sinh học cho đất,
nâng cao độ phì của đất và duy trì khả năng sản xuất của đất.
- Diệt trừ một số nầm sâu bệnh
Nhược điểm :
- Việc cày vùi rơm rạ vào đất ướt sẽ gây ra tình trạng cố định đạm tạm thời và làm
tăng lượng khí metan phóng thích trong đất, gây ra tình trạng tích lũy khí nhà kính.
- Có thể gây ra một số mầm bệnh cho cây trồng.
- Tốn công lao động và cần máy móc thích hợp cho làm đất[12].
b. Biện pháp đốt
Rơm rạ sau thu hoạch được để lại trên đồng ruộng khô. Sau đó, người dân sẽ thu
thành đống và đốt.
Ưu điểm :
- Làm nhanh nhất, đơn giản, giảm giá thành, không tốn kém công.
- Tiêu hủy nầm bệnh, không phải tuân theo quy định nghiêm ngặt.

Nhược điểm:
- Mất chất dinh dưỡng đất.
- Gây ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng, gây hiệu ứng nhà kính.
- Ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gây các bệnh về đường hô hấp.
- Gây hiện tượng khói mù cản trở tầm nhìn của người điều khiển phương tiện giao
thông[12].
c. Biện pháp làm thức ăn gia súc
Biện pháp này là biện pháp thay thế bền vững hơn so với phương pháp đốt và vùi
rơm rạ vào đất. Các phế phụ phẩm này được giữ lại làm thức ăn cho trâu, bò, dê,
cừu.
Ưu điểm :
- Đem lại hiệu quả kinh tế, tiết kiệm được tiền cho việc mua thức ăn gia súc.
- Hạn chế ô nhiễm môi trường.
Nhược điểm:
- Làm hở vòng quay vật chất, chất dinh dưỡng bị mang đi nhưng chưa có biện pháp
thích hợp để bù lại chất hữu cơ.
- Tốn lao động cho việc thu gom[12].
d. Biện pháp vứt bỏ bừa bãi ngoài đồng ruộng và xuống mương máng.
Phế phụ phẩm được bỏ lại trên đồng ruộng hoặc vứt xuống mương máng làm ô
nhiễm nghiêm trọng. Hiện nay, biện pháp này đang được khuyến cáo loại bỏ vì nó
gây tác hại lớn.
Ưu điểm :
- Không cần những quy tắc, không tốn kinh tế.
- Đơn giản, dễ làm.
Nhược điểm:
- Gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vì rơm rạ sau khi bỏ xuống mương máng
sẽ gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt của người dân.
Mặt khác, rơm rạ khi phân hủy sẽ gây ô nhiễm không khí do mùi thối rữa. Tạo điều
kiện để các vi sinh vật gây bệnh phát triển.
- Làm mất chất dinh dưỡng cho đất.

- Ảnh hưởng đến mỹ quan[12].
e. Biện pháp sản xuất nấm từ rơm rạ
Rơm rạ được thu gom và đựơc làm chín, sau đó ép lại thành bánh. Người ta nuôi
cấy nấm trên những bánh rơm đó.
Ưu điểm:
- Tăng hiệu quả kinh tế cho người dân.
- Hạn chế ô nhiễm môi trường.
- Tạo công ăn việc làm cho người dân.
Nhược điểm:
- Lấy đi hàm lượng chất hữu cơ ra khỏi đồng ruộng[12].
f. Ủ làm phân
Phương pháp ủ đã có từ lâu đời và diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Từ rất xa xưa,
con người đã biết ủ lá cây, phân gia súc để bón cho cây trồng. Đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề ủ chất thải thành phân bón và được
ứng dụng rỗng rãi ở nhiều nơi.
Ưu điểm :
- Hạn chế được ô nhiễm môi trường.
- Trả lại hàm lượng chất thải hữu cơ cho đất.
- Đem lại hiệu quả kinh tế do tiết kiệm được tiền mua phân bón hóa học.
- Tiêu diệt nầm bệnh và làm sạch đồng ruộng.
Nhược điểm:
- Mất thời ủ.
- Tốn công lao động.
Hiện nay, có hai phương pháp ủ chủ yếu cho phế thải đồng ruồng như sau:
Phương pháp 1: Phương pháp ủ hiếu khí
Đống ủ được cung cấp vi sinh vật dưới dạng chế phẩm. Trong thời gian ủ đảm bảo
oxy cho đống ủ bằng cách đảo trộn hàng tuần hoặc bằng phương pháp thổi khí.
Đảm bảo độ ẩm thích hợp.
Ưu điểm:
Hoạt động của vi sinh vật diễn ra nhanh, chất mùn tổng hợp nhiều, thời gian hoàn

thành đống ủ ngắn.
Nhược điểm:
Mất một hàm lượng lớn nito, một lượng nước bị thất thoát ra ngoài.
Phương pháp 2: Phương pháp ủ nửa hiếu khí
Phương pháp này chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn ủ hiếm khí: khoảng 8 – 10 ngày để nhiệt độ tăng cao nhằm diệt
các vi sinh vật gây bệnh và cỏ dại.
- Giai đoạn ủ yếm khí: sau thời gian ủ hiếu khí, dùng bùn đắp chẹn bên ngoài
đống ủ để không khí không lọt vào được. Trong giai đoạn này hoạt động của
vi sinh vật diễn ra trong điều kiện yếm khí.
Ưu điểm:
Giữ được độ ẩm và không hao tổn nito.
Nhược điểm:
Thời gian ủ lâu hơn và mức độ phân hủy chậm hơn[12].
2.2.3. Cơ sở khoa học xử lý phế thải hữu cơ bằng công nghệ sinh học.
Từ lâu con người đã nhận thức được tầm quan trọng của vi sinh vật đối với con
người và sản xuất nông nghiệp. Nhờ vào khả năng kỳ diệu của vi sinh vật trong
quá trình tổng hợp, phân giải các hợp chất đã góp phân tích cực vào việc khép kín
vòng tuần hoàn vật chất trong tự nhiên, trong đó có vòng tuần hoàn các bon và
nito.
Trong xử lý tàn dư thực vật trên đông ruộng người ta thường tập trung nghiên cứu
phương pháp để quá trình phân giải, chuyển hóa các hợp chất cacbon khó phân
giải: xenluloza, hemixenlulaza, lignin, ( chủ yếu là xenluloza) diễn ra thuận lợi
nhất. Trong đó, không thể thiếu việc tìm hiểu về đặc điểm cấu tạo và đặc điểm lý
hóa học của chúng.
a.Xenlulo
Xenlulo là hợp chất cao phân tử được cấu tạo từ các gốc β - D – Glucose bằng liên
kết β – 1,4 glucozit tạo thành chuỗi, có công thức cấu tạo là ( C
6
H

10
O
5
)
n
hay
[C
6
H
7
O
2
(OH)
3
]
n
trong đó n có thể nằm trong khoảng 5000 – 14000. Mỗi phân tử
xelulo thường chứa 1.400 – 10.000 gốc gluco [16].
Trong lượng phân tử của xenlulo rất khác nhau, phụ thuộc vào từng loại thực vật
( ở bông là 1.000.000, còn ở sợi gai là 1.840.000). Trên mỗi chuỗi glucan các đơn
vị lặp lại không phải là gluco mà là xenlulobio. Mỗi phân tử có dạng ghế. Phân tử
này quay 180
0
so với phân tử kia, do đó các nhóm hydroxyl ( -OH) đều ở bề mặt
phẳng ngang của phân tử[13]. Xenlulo là thành phần cơ bản của thành tế bào thực
vật, kết hợp với hemixenlulo và lignin tạo nên độ cứng cho thành tế bào. Trong tự
nhiên xenlulo là hợp chất khá bền vững, chúng không tan trong nước mà chỉ bị
phồng lên vì các nhóm hydroxyl của các đơn vị gluco có xu hướng hoàn thành liên
kết hydrogen nhạy hơn là với phân tử nước. Phân tử xenlulo có cấu trúc không
đồng nhất gồm 2 vùng: vùng kết tinh có trật tự cao ( sắp xếp phân tử giữa mỗi sợi

đều đặn ), cấu trúc sợi đậm đặc và chặt chẽ như tinh thể và chiếm khoảng ¾ cấu
trúc xenlulo; và vùng vô định hình có cấu trúc ít trật tư hơn, do đó dễ dàng bị
emzim xenlulaza tấn công vì vùng có thể hấp thụ nước và trương lên[20].
Xenlulo là một hợp chất tương đối phức tạp và chỉ bị thuỷ phân khi bị đun nóng
với axít và kiềm nhưng lại bị thủy phân ở điều kiện bình thường nhờ phức hệ
xenlulaza của VSV[19]. Hàng năm thảm thực vật trên Trái đất tổng hợp được khối
lượng lớn hydratcacbon. Trong đó tinh bột là nguồn thức ăn cho người và động
vật. Phần còn lại chủ yếu là xenlulo, hemixenlulo, lignin thì còn người và động vật
lại ít sử dụng. Vì thế các phế thải chứa xelulo đã bị ứ đọng và gây ô nhiễm môi
trường. Chính vì vậy, việc thủy phân xenlulo thành gluco là một vấn đề quan trọng
trong việc khép kín vòng tuần hoàn cacbon. Tuy nhiên, nếu sử dụng phương pháp
hóa học sẽ tốn nhiều kinh phí và hiệu quả kinh tế không cao. Do đó, phương pháp
sinh học dùng vi sinh vật là một phương pháp tối ưu và cho hiệu quả cao[13].
 Cơ sở khoa học của quá trình phân hủy xenlulo
*Sinh tổng hợp xelulaza của vi sinh vật
Phân giải xenlulo tự nhiên là một quá trình phức tạp đòi hỏi sự tham gia phối hợp
của phức hệ enzim xelulaza. Sinh tổng hợp xenlulaza được thực hiện nhờ cơ chế
cảm ứng, kìm hãm xelulo tự nhiên và dẫn xuất của chúng là những tác nhân cảm
ứng đặc hiệu với các thành phần trong phức hệ xelulaza. Qúa trình này chịu sự
điều khiển của bộ máy di truyền và các quá trình sinh hóa do các chất cảm ứng, sự
kiềm chế của các chất trao đổi và các sản phẩm cuối cùng.
Theo Whitaker, xenlulo không phải là chất cảm ứng trực tiếp mà khi ở ngoài môi
trường chúng bị thủy phân bởi một lượng nhỏ enzim cấu trúc thành xenlobioza,
chất này có thể thấm qua màng tế bào vào trong và được coi là chất cảm ứng sinh
lý, nhưng nếu nồng độ xenlobioza cao sẽ sinh tổng hợp xenlulaza. Vì vậy, để thu
nguồn enzim cao người ta thường sử dụng các cơ chất không dễ bị thủy phân như :
bã mía, rơm rạ, giấy loại. Hoặc có thể nuôi cấy kết hợp vi sinh vật đồng hóa tốt
xelobioza[9].
Spirodonov đã nghiên cứu ảnh hưởng của các nguồn cacbon lên quá trình sinh tổng
hợp xelulaza của chủng VK Thermomonospora fusca cho thấy nguồn cacbon dễ

tiêu (1%) : gluco, xenlobioza, xyloza không ức chế sinh tổng hợp xelulaza. Tuy
nhiên, nếu nuôi trên môi trường có xenluo vi tinh thể thì hoạt lực xenlulaza mạnh
nhất. Hoạt lực xelulaza sẽ thấp hơn từ 20 – 30 lần nếu nuôi cấy trong môi trường
không bổ xung gluco và xyloza[9].
*Cơ chế phân giải xelulo
Hình : Sơ đồ quá trình thuỷ phân xenlulo bởi phức hệ xenlulaza
Qúa trình phân giải xelulo của vi sinh vật được thực hiện bởi phức hệ enzim
xenlulaza. Phức hệ này gồm 3 enzim chủ yếu:
- Endogluconaza ( 1,4 - β - D – glucanohydrolaza, C
X
, EC 3.2.1.4). Thủy phân
liên kết 1,4 glucozit bên trong phân tử xelulo một cách tùy tiện, nó không tấn công
xelobioza nhưng thủy phân xenlodextrin. Enzim này phân giải mạnh xelulo hòa tan
nhất là dạng xelulo vô định hình nhưng hoạt động yếu ở vùng kết tinh.
- Exoglucanaza ( 1,4 - β - D – glucanxenlobiohydrolaza, C
1
, EC 3.2.1.91). Tác
dụng lên xelulo, cắt các đơn vị xenlobioza khỏi các đầu của chuỗi xelulo, không
tấn công các xelulo thay thế, có thể thủy phân xelodextrin nhưng không thủy phân
xenlobioza.
- β glucozidaza (β - D – glucozit glucohydrolaza) hay xenlobioza EC 3.2.1.21.
Cắt các xenlobioza tạo thành bởi C
1
và C
x
thành gluco, không tấn công xenlulo
hay xenlodextrin bậc cao[10].
Về động học phản ứng của các enzim này, Reese và các công sự lần đầu đưa ra cơ
chế phân giải vào năm 1950.
Xenlulo

tự nhiên
C
1
Xenlulo
hoạt động
C
x
Đường hoà
tan
Xenlobioza
Xenlobiaza Gluco
Trong đó, C
1
tương ứng với endoglucanaza;
C
x
tương ứng với exoglucanaza
Theo Reese, C
1
là "tiền nhân tố thuỷ phân" hay là enzim không đặc hiệu, nó
làm trương xenluloza tự nhiên biến thành các chuỗi xenluloza hoạt động có mạch
ngắn hơn và bị enzim C
x
tiếp tục phân cắt tạo thành các đường tan và cuối cùng
thành gluco dưới tác dụng của xelobioza[7].
Còn tác giả Lutzen thì cho rằng sự thủy phân xenlulo tự nhiên phải có sự hiệp đồng
của 3 loại enzim trên. Chúng tạo thành phức hệ enzim nhiều thành phần trên bề
mặt của các phân tử xenlulo. Nhờ đó, Lutzen đưa ra mô hình phân giải xenlulo như
sơ đồ sau:
Exoglucanaza

Xenlobiohydrolaza
Xenlulo
Endoglucanaza
Xenlobioza
(2)
G
n
G
1
G
(1)
(1)Exoglucanaza (2)Endoglucanaza + Xenlobiohydrolaza
G: glucozo G
1
: Xenlubiozo G
n
: đoạn chuỗi Xenlulozo
Sơ đồ : Mô hình phân hủy xelulo của Lutzen
Để thủy phân xenlulo vô định hình cần có sự tác động của C
x
hoặc C
1
nhưng để
thủy phân xelulo tinh thể thì nhất thiết phải có sự có mặt của cả 2 loại enzim này.
Ở đây, phức hệ enzim xenlulaza có tác động hiệp đồng chặt chẽ, C
x
tấn công một
cách tự nhiên lên chuỗi xelulo , phân cắt liên kết glucozit ở một chỗ tùy ý, tạo ra
các đầu có khả năng bị tấn công bởi C
1

. Kết quả tạo ra xenlobiolaza – một chất kìm
hãm cho cả C
x
và C
1
. Các liên kết glucozit đã được tách ra sẽ có khả năng nhanh
chóng bị nối lại do bản chất có trật tự cao của chính cơ chất, còn khi vắng mặt C
x
thì sự thủy phân không xảy ra hoặc xảy ra chậm chạp do không tạo ra đầu tự do
(Coughlan & CTV, 1979).
*Vi sinh vật phân giải xenlulo
Trong tự nhiên khu hệ VSV phân giải xenlulo rất phong phú và đa dạng bao gồm
cả VK, XK và các loài nấm.
Xelulo là một phức hệ enzim rất phức tạp, các VSV thường không có khả năng tạo
được tỷ lệ giữa các hợp phần một cách tương đối. Có loài tạo được nhiều enzim
này, có loài tạo được nhiều enzim khác, ví dụ vi khuẩn thường không có khả năng
tổng hợp Exo – glucanaza, trong khi đó đa số các loài nấm lại có khả năng này.
Giống nấm Tricoderma có khả năng tổng hợp mạnh các enzim Endo – glucanaza
và Exo – glucanaza, giống Aspergillus niger lại sinh tổng hợp mạnh xenlobioza,
chúng thường kết hợp với nhau trong mối quan hệ sinh hỗ.
+ Vi khuẩn
Từ thế kỷ 19 các nhà khoa học đã nghiên cứu và nhận thấy một số vi sinh vật kỵ
khí có khả năng phân giải xenluloza. Những năm đầu thế kỷ 20 người ta phân lập
được các vi khuẩn hiếu khí cũng có khả năng này. Trong các vi khuẩn phân giải
xenluloza, niêm vi khuẩn là quan trọng nhất, chúng thường có hình que nhỏ bé, hơi
cong, có thành tế bào mỏng, bắt màu thuốc nhuộm kém, chủ yếu là các giống
Cytophaga, Sporocytophara và Sorangium. Niêm vi khuẩn nhận được năng lượng
khi oxy hoá các sản phẩm của sự phân giải xenluloza thành CO
2
và H

2
O. Ngoài ra
còn thấy các loài thuộc giống Cellvibrio cũng có khả năng phân huỷ xenluloza.
Trong điều kiện kỵ khí, các loài vi khuẩn ưa ẩm hoặc ưa nhiệt thuộc giống
Clostridium và Bacillus tiến hành phân giải xenluloza. Chúng phát triển yếu trên
môi trường chứa đường đơn. Khi phân giải xenluloza thành glucozsa và
xenlobioza, chúng sử dụng các đường này như nguồn năng lượng và nguồn cácbon
cũng thường kèm theo việc tạo thành các axit hữu cơ, CO
2
và H
2
[18] .
Trong dạ cỏ của các động vật nhai lại có một hệ vi sinh vật tồn tại để phân giải
xenluloza đó là Ruminococcus flavefaciens, R. albus, Butyrivibrio fibrisolvens,
Bacteroides succinogenes.
Ngoài ra còn có Cellulomonas, Baccillus hoặc Acetobacter xylium cũng có khả
năng phân giải xenluloza rất mạnh [3] .
Jeris và cộng sự tìm thấy trong đống ủ có các loại vi khuẩn như Acteromobacter,
Clostridium, Cellulomonas, Cytophaga, Cellvibrio, Bacillus, Pseudomonas,
Sorangium, Sporocytophaga đều có khả năng phân giải xenluloza.
+ Nấm sợi
Trên thực tế, nấm sợi đóng vai trò quan trọng hơn vi khuẩn và xạ khuẩn trong vòng
tuần hoàn cacbon tự nhiên. Chúng không những có thể phát triển được ở các điều
kiện khắc nghiệt hơn vi khuẩn và xạ khuẩn mà còn tiết vào môi trường lượng
enzim xenlulaza ngoại bào khá đầy đủ và hoàn chỉnh. Các nấm được đánh giá là có
khả năng phân giải, chuyển hoá xenluloza mạnh là Trichoderma reesei, T. viride,
Fusarium solani, Penicillium pinophinum, Phanerochate chrysosporium,
Sporotrichum pulverulentum và Selerotium [17] . Ngoài ra, trong đống ủ phế thải
người ta còn tìm thấy các giống nấm Myrothecium, Polypones, Rhizoctonia, …
Các nấm ưa nhiệt cũng được chú ý vì chúng có thể tổng hợp các enzim bền nhiệt

hơn, chúng sinh trưởng và phân giải nhanh xenluloza nhưng hoạt tính xenlulaza
của dịch lọc lại thấp [8]. Nấm có khả năng sinh trưởng và sản xuất xenlulaza cực
đại ở phạm vi pH = 3,5 – 6,6.
+ Xạ khuẩn
Xạ khuẩn là một nhóm vi sinh vật có mặt quanh năm ở tất cả các loại đất. Số lượng
xạ khuẩn phụ thuộc vào loại đất và tính chất của đất. Xenlulaza của xạ khuẩn là
enzim ngoại bào. Waksman và ctv khi phân lập trong mùn rác thấy xạ khuẩn có
mặt trong tất cả các loại đất ở các mùa trong năm. Hungater (1946) phân lập được
loài Micromonosopra có khả năng thuỷ phân xenluloza. Ballamy (1974) nuôi cấy
Theramoactinomyces trong phân bò để thu được protein bao gồm lizin, triptophan
và các axit amin chứa lưu huỳnh với hàm lượng khá cao. Veigia và ctv (1983) đã
phân lập được 36 chủng xạ khuẩn từ bùn ở vịnh Lacoruva (Tay Ban Nha) trong đó
có 19 chủng có khả năng tổng hợp xenlulaza và sinh trưởng tốt ở môi trường chứa
3,5% NaCl (Dẫn theo Vũ Thị Thanh Bình) [2] . Theo Nguyễn Xuân Thành và ctv
(2003), trong đống ủ phế thải rắn có chứa nhiều loại xạ khuẩn đó là Actinomyces,
Streptomyces, Frankia, Nocardia, Actinopolyspora, Actinosynoema,
Dermatophilus, Pseudonocardia, …[13]
b. Hemixenlulaza
Hmixenluloza đứng sau xeluloza về khối lượng tế bào thực vật và được phân bố chủ yếu
ở vách tế bào. Về cấu trúc so với xeluloza thì hemixenlulaza không chặt chẽ bằng.
Hemixenluloza dễ bị phân giải bởi kiềm hay axit loãng, đôi khi chúng còn bị phân giải
trong nước nóng và đặc biệt hemixenlulaza dễ dàng bị enzim hemixenluloza phân hủy.
Enzim hemixenluloza cũng có tính chất tương đồng với xenluloza về cơ chế tác động,
tính chất cảm ứng. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai nhóm enzim này là emzim
hemixenluloza có phân tử lượng nhỏ hơn, cấu trúc đơn giản hơn và kém bền vững hơn so
với xenluloza[6].
Các VSV phân giải hemixenluloza như các loài thuộc chi Clotridium, các vi khuẩn dạ cỏ
như : Ruminococus, Bacillus. Một số loài nấm như Aspergillus, Pencillium[1].
c.Lignin
Lignin là những hợp chất có thành phần cấu tạo phức tạp. Lignin khác xenluloza ở

chỗ hàm lượng cacbon trong thân tàn dư thức vật tương đối nhiều. Lignin dễ bị
phân hủy từng phần dưới tác dụng của Na
2
SO
3
, H
2
SO
4
, nhưng lại không hòa tan
trong dung dịch hữu cơ thông thường. Đặc biệt, lignin rất bền vững dưới tác dụng
của enzim do đó gây cản trở quá trình phân giải lingo – xenluloza. Có khoảng 15
enzim tham gia vào quá trình phân giải lignin. Ligninaza không thủy phân thành
các tiểu phần hòa tan như quá trình phân hủy xenluloza và trong cấu trúc của lignin
chỉ có một số ít liên kết có thể bị thủy phân. Tiến trình phân giải lignin bởi VSV
được đặc trưng bởi các phản ứng:[1]
- Cắt oxy hóa mạch bên của đơn vị phenyl propan.
- Hình thành nhóm cacboxyl thơm.
Thu gom rơm rạ
Theo dõi diễn biến nhiệt độ
Đống ủ sau 40 - 45 ngày
Tái chế thành phân hữu cơ
Sử dụng
Bổ sung nước đảm bảo độ ẩm đống ủ từ 60 - 70%
Kiểm tra chất lượng
Kiểm tra chất lượng
Đống ủ
Chế phẩm VSV
Bổ sung chất phụ gia
Phân hữu cơ

Bổ sung NPK (nếu cần)
- Tách nhóm methoxyl.
Lignin là cấu tử khó chuyển hóa chất trong các chất đồng hành xenluloza vì chúng
rất bền trước tác dụng của enzim ligninaza làm cản trở quá trình phân hủy từ hàng
tháng đến hàng năm. Sự phân hủy lignin là kết quả của mối quan hệ hỗ sinh giữa
nấm, vi khuẩn và vi sinh vật khác trong đất. Nấm phân giải như Basidiomycetes, và
một vài thuộc họ Acomycetes.
Vi khuẩn đại diện phân hủy lignin như là Pseudomonas, Xanthomonas,
Acinebacter. Ngoài ra, một số xạ khuẩn cũng có khả năng phân hủy lignin mạnh là
Streptomyces, Nocardia[10].
2.3. Tổng quan về quy trình B2004-32-66
2.3.1. Giới thiệu về quy trình B2004-32-66
Trong những năm gần đây, việc sử dụng phân hữu cơ, phân hữu cơ vi sinh ở Việt
Nam ngày càng tăng. Là một nước nhiệt đới, khu vệ sinh vật đất ở Việt Nam rất đa
dạng và phong phú. Việc phân lập, tuyển chọn các chủng vi sinh vật hữu hiệu từ tự
nhiên, nhân lên rồi trả lại cho tự nhiên sẽ luôn luôn an toàn và đạt hiệu quả cao. Do
vậy, việc nghiên cứu vi sinh vật có hoạt tính cao được phân lập từ đất Việt Nam để
xản xuất phân bón từ nguồn phế thải hữu cơ là rất cần thiết.
Báo cáo cấp bộ B2004 – 32 – 66 :” Xây dựng quy trình sản xuất chế phẩm VSV xử
lý tàn dư thực vật trên đồng ruộng thành phân hữu cơ tại chỗ bón cho cây trồng”.
Chế phẩm được tạo ra từ các chủng giống vi sinh vật do đề tài phân lập và tuyển
chọn đạt TCVN của Nguyễn Xuân Thành và các cộng sự.

Sơ đồ : Quy trình xử lý tàn dư thực vật trên đồng ruộng
( Đề tài B2004 – 32 – 66, ĐHNN – HN)
Cụ thể như sau:
Bước 1: Thu gom tàn dư thực vật trên đồng ruộng sau thu hoạch
Bước 2:
1. Tàn dư thực vật được đánh đống (mỗi lớp dày khoảng 30 cm được rắc
phân gia súc, gia cầm và phụ gia… và tưới men vi sinh vật)

2. Sau khi đã xử lý xong đống ủ được chát kín bằng bùn hoặc che phủ bằng
một lớp bạt nilon .
Bước 3:
Kiểm tra nhiệt độ hàng ngày, hàng tuần, đo theo giờ quy định.
Ủ 4-6 tuần đem ra sử dụng bón cho cây trồng.
Kết quả cho thấy hiệu quả phân giải cao, hạn chế được mùi hôi thối của đống ủ
đồng thời rút ngắn được thời gian ủ xuống còn 45 – 60 ngày. Phân hữu cơ vi sinh
được tái chế từ phế thải nông nghiệp sau ủ bón cho cây trồng có tác dụng nâng cao
năng suất khoai tây, lạc, cà chua, tiêu, bông, cà phê và hạn chế bênh héo xanh vi
khuẩn ở cà chua, lạc, khoai tây, bệnh lở cổ rễ ở bông, cà phê, cây lâm nghiệp, bệnh
chết héo ở tiêu.
2.3.2. Một số kết quả thu được từ việc ứng dụng quy trình B2004-32-66.
Thực nghiệm, tại những vùng triển khai sử dụng phân hữu cơ vi sinh tái chế từ phế
thải nông nghiệp có tác dụng làm tăng năng suất và giảm tỷ lệ bệnh vùng rễ trung
bình 36,58% và 77,48% đối với khoai tây; 19,73% và 62,57% đối với lạc; 16,42%
và 77,63% đối với cà chua; tăng 13,5% năng suất đối với tiêu; tăng đường kính cổ
rễ 11,11% đối với keo; 9,28% đối với bạch đàn và tăng chiều cao cây 28,2% đối
với cây keo và 7,41% đối với bạch đàn. Hiệu quả kinh tế trên 1ha đất canh tác khi
sử dụng phân hữu cơ vi sinh so với đối chứng đạt 6,45 – 22,06 triệu đồng đối với
cây cà chua; 4,26 đến 7,60 triệu đồng đối với cây khoai tây; 2,70 đến 3,05 triệu
đồng đối với cây lạc; 743.600 đối với bông và 12,31 triệu đồng đối với cà phê[11].
Thực nghiệm đánh giá hiệu quả của phân hữu cơ tái chế từ phế thải đồng ruộng
cho một số cây trồng theo dự án :” Ứng dụng quy trình (B2004-32-66) xử lý tàn
dư thực vật trên đồng ruộng và tái chế thành phân hữu cơ bón cho cây trồng
góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang”
Bảng.Ảnh hưởng của phân hữu cơ tái chế từ phế phụ phẩm nông nghiệp đến
sinh trưởng, phát triển và năng suất lúa trên một số loại đất vùng đồng bằng
và trung du Bắc bộ
Chỉ tiêu Đơn vị Bón cho lúa trên
đất phù sa sông

Thái bình không
được bồi hàng
năm (Nam Sách-
Hải Dương)-Vụ
xuân 2008
Bón cho lúa trên
đất phù sa sông
Hồng không được
bồi hàng năm
(Văn Lâm- Hưng
yên)- Vụ xuân
2009
Bón cho lúa trên
đất bạc màu
(Hiệp Hòa- Bắc
Giang) Vụ xuân
2010
Đối
chứng
Thí
nghiệm
Đối
chứng
Thí
nghiệm
Đối
chứng
Thí
nghiệm
Chiều cao

cây
cm/cây 80,1 83,3 84,23 87,57 72,0 75,0
Tỷ lệ sâu
bệnh
% 16,9 11,7 14,7 10,1 15,5 10,5
Số hạt hạt/bông 146 150 151 160 141 143
Số bông bông/
khóm
5,9 6,4 6,0 6,7 6,0 6,4
Tỷ lệ hạt % 88,7 90,1 91,6 92,1 75 80
chắc
P1000hạt g 23,1 23,2 19,7 19,8 25,6 25,7
NSTT tạ/ha 62,5 64,6 63,4 66,1 62,1 65,2
Nguồn: Nuyễn Xuân Thành và CS 2010
Trên cả 3 loại đất mà dự án thử nghiệm phân hữu cơ tái chế đều có tác dụng làm
tăng chiều cao cây, một số yếu tố cấu thành năng suất như số bông/khóm, số
hạt/bông, tỷ lệ hạt chắc và làm tăng năng suất thực thu từ 2,1-3,1 tạ/ha so với đối
chứng[14].
Bảng .Ảnh hưởng của phân hữu cơ tái chế từ phế phụ phẩm nông nghiệp đến sinh trưởng, phát triển và năng suất
một số cây rau màu trên một số loại đất vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ
Chỉ tiêu Đơn vị Bón cho hành trên đất phù sa
sông Thái bình không được
bồi hàng năm
(Nam Sách- Hải Dương)
Vụ xuân 2008
Bón cho bắp cải trên đất phù
sa sông Thái bình không
được bồi hàng năm
(Nam Sách- Hải Dương)
Vụ xuân 2008

Bón cho lạc trên đất bạc màu
(Hiệp Hòa- Bắc Giang)
Vụ xuân 2010
Đối chứng Thí nghiệm Đối chứng Thí nghiệm Đối chứng Thí nghiệm
Tỷ lệ nẩy
mầm
(Tỷ lệ sống)
% 92,5 98,4 95,6 99,1 88,3 94,0
Chiều cao
cây
cm/cây 42,5 46,2 27,9 31,2 34,3 41,1
Tỷ lệ sâu
bệnh
% 31,6 9,2 27,5 6,8 22,0 8,5
NSTT tạ/ha 12,4 13,9 72,5 82,9 23,8 28,4
Nguồn: Nuyễn Xuân Thành và CS 2010
Bón phân hữu cơ tái chế có tác dụng làm tăng chiều cao cây, giảm tỷ lệ sâu bệnh hại và làm tăng năng suất thực thu
của các cây rau màu so với đối chứng, ví dụ hành tăng 1,5 tạ/ha, bắp cải tăng 10,4 tạ/ha, lạc tăng 4,6 tạ/ha so với đối
chứng[14].
Bảng . Hiệu quả kinh tế khi xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp
Loại cây
Tổng phế thải đồng ruộng
(tấn/ha)
Men VSV
Lúa 16,5
Ngô 16,7
Các loại cây lấy bột 9,5
Lạc và đỗ tương 8,0
Hành tỏi 15,4
Rau quả tại 22,7

Nguồn: Nuyễn Xuân Thành và CS 2010
Với giá thành là 800đ/kg phân tái chế, khi xử lý 1 ha phế phụ phẩm để tái chế thành phân hữu cơ sẽ có lãi từ 420.000-
3.720.000đồng. Do vậy góp phần tăng thu nhập cho nông hộ; tăng nguồn phân hữu cơ phục vụ cho thâm canh, trả lại chất
hữu cơ cho đất[14].
Bảng : Hiệu quả xã hội của dự án
Loại cây Lượng phế thải trên đồng
ruộng
(tấn/ha)
Lượng phân hữu cơ
được tạo ra
(tấn/ha)
Số lao động tham gia vào quá trình
xử lý phế phụ phẩm
(người/ha)
Lúa 16,5 6,6 50
Ngô 16,7 8,4 50
Lạc và đỗ tương 8 2,8 26
Hành tỏi 15,4 8,5 31
Rau quả 22,7 7,9 45
Nguồn: Nuyễn Xuân Thành và CS 2010
Thu gom 1ha tàn dư thực vật để xử lý và tái chế thành phân hữu cơ cần từ 26-50 lao động. Điều này góp phần giải quyết lao
động nông nhàn và ổn định an ninh chính trị ở địa phương. Mặt khác phế phụ phẩm nông nghiệp được xử lý theo quy trình
B2004-32-66 còn góp phần giải quyết sự thiếu hụt về phân hữu cơ đáp ứng nhu cầu về phân bón trong thâm canh hiện
nay.Ngoài lợi ích về kinh tế và xã hội thì việc phế phụ phẩm nông nghiệp được xử lý sẽ hạn chế được hiện tượng đốt phế
thải đồng ruộng, đổ phế thải đồng ruộng ra ao hồ sông ngòi hoặc ra đường phố nên giảm thiểu ô nhiễm môi trường và góp
phần tiêu diệt mầm mống sâu bệnh, làm sạch đồng ruộng[14].

×