Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

các biện pháp phi thuế và lộ trình cắt giảm của việt nam trong quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới và khu vực tới năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.07 KB, 71 trang )

chơng I
Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nớc bằng các biện pháp
phi thuế và kinh nghiệm của một số nớc
A.Sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nớc.
I.Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nớc.
1.Tính cần thiết chung phải bảo hộ của các quốc gia trên thế giới.
Không một nớc nào, dù là nớc có nền kinh tế hùng mạnh nh Hoa Kỳ, lại không
có nhu cầu phải bảo hộ một số ngành sản xuất trong nớc.
Tuy nhiên, mục tiêu bảo hộ lại khá đa dạng. Đối với những nền kinh tế phát
triển thì mục tiêu chính của việc bảo hộ là nhằm duy trì việc làm cho những nhóm lớn
ng ời lao động có kỹ năng t ơng đối thấp . Mặc dù không phải là lực lợng tạo ra sức
cạnh tranh chủ yếu cho nền kinh tế, nhng những nhóm ngời này có sức mạnh chính trị
đáng kể, buộc các chính đảng đợc họ hậu thuẫn phải quan tâm đặc biệt tới lợi ích của
họ. Những nhóm điển hình là lao động trong lĩnh vực dệt may, nông nghiệp, luyện
kim đen.
Trong khi đó, mục tiêu bảo hộ của những nớc có trình độ phát triển kinh tế
trung bình và thấp lại chủ yếu nhằm duy trì và phát triển một số ngành sản xuất quan
trọng và có nhiều tiềm năng trở thành ngành cạnh tranh trong t ơng lai . Chẳng hạn,
Malaysia hết sức cố gắng để bảo hộ ngành sản xuất ô tô. Thái Lan tiếp tục duy trì bảo
hộ ở mức cao với một số ngành điện tử, cơ khí, đờng. Trung Quốc duy trì mức bảo hộ
cao nhất có thể đợc với ngành ô tô, thép, thuốc lá.
Ngoài ra, các nớc này còn có thể phải duy trì bảo hộ nhằm đạt đợc các mục tiêu
khác. Chẳng hạn, Trung Quốc phải tiếp tục bảo hộ trong một thời gian nhất định
nhiều ngành sản xuất nhằm tránh cho các doanh nghiệp sở hữu nhà n ớc khỏi bị phá
sản nhanh chóng. Đây là điểm khác biệt nổi bật giữa các nớc đang chuyển đổi với các
nớc công nghiệp phát triển. Tại các nớc công nghiệp phát triển, những nhóm ngời lao
động tại các ngành đang suy thoái hoặc có năng suất thấp (dệt may, nông nghiệp) có
sức mạnh chính trị đáng kể. Trong khi đó, tại các nớc đang chuyển đổi, các doanh
nghiệp sở hữu nhà nớc lại có sức mạnh chính trị to lớn mà việc bảo hộ chúng có ý
nghĩa quan trọng đặc biệt.
2.Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nớc của Việt Nam.


Việt Nam là nớc đang phát triển với trình độ phát triển kinh tế còn rất thấp.
Nền kinh tế của Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trờng, các yếu tố của kinh tế thị trờng còn cha đợc tạo lập đồng
bộ và còn nhiều khiếm khuyết.
Hệ thống pháp luật, công cụ quan trọng để quản lý nhà nớc trong kinh tế thị tr-
ờng, vừa thiếu vừa cha đồng bộ lại chồng chéo, cha tạo đợc môi trờng pháp lý bình
đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các chính sách tài chính,
tiền tệ, xuất nhập khẩu cũng đang trong tình trạng tơng tự.
Với nền kinh tế kém phát triển, công nghệ lạc hậu, nếu không có chiến lợc bảo
hộ đúng đắn thì nhiều ngành sản xuất trong nớc sẽ không thể đứng vững đợc trớc sức
ép cạnh tranh gay gắt của hàng nhập khẩu
Đứng trớc xu hớng tất yếu của tự do hóa thơng mại và quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam, với năng lực cạnh tranh yếu kém của nhiều ngành sản xuất,
vấn đề phải bảo hộ để thúc đẩy sản xuất trong nớc và phát triển kinh tế trở nên hết sức
1
cần thiết. Tuy nhiên, việc bảo hộ phải có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn và phải
giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa hội nhập và bảo hộ về mặt thời gian và độ tr-
ởng thành một cách chủ động.
Một số ngành công nghiệp non trẻ hiện gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh
tranh với hàng nhập khẩu nhng trong tơng lai có thể có sức cạnh tranh cao nếu đợc h-
ởng những hỗ trợ nhất định và đợc bảo hộ bằng những chính sách phi thuế thích hợp
trong một thời gian cần thiết.
Cũng cần phải bảo hộ một số ngành tuy hiện nay cạnh tranh kém nhng tỏ ra có
tiềm năng về dài hạn. Một mặt, phần lớn những ngành này yêu cầu hàm lợng vốn lớn,
khả năng cạnh tranh và phát triển dựa trên công nghệ hiện đại. Mặt khác, đây lại là
những ngành công nghiệp chiếm vị trí quan trọng, cần đợc đầu t phát triển hợp lý để
tạo nên xơng sống cho nền kinh tế (luyện kim, hóa dầu, xi măng ). Cần có những
biện pháp bảo hộ thích hợp để các ngành này tránh đợc nguy cơ phá sản và dần dần
nâng cao khả năng cạnh tranh trong tơng lai.
II.Phơng thức bảo hộ sản xuất trong nớc.

1.Các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nớc.
a.Biện pháp thuế quan
Ưu điểm:
Rõ ràng
Giả sử đối với một hàng hóa nhập khẩu nào đó ngoài thuế quan không hề bị áp
dụng bất kỳ một biện pháp hạn chế thơng mại nào khác thì lợi thế của hàng hóa sản
xuất trong nớc so với hàng nhập khẩu chính là mức thuế nhập khẩu.
Sự minh bạch, rõ ràng của thuế quan là một u điểm lớn của biện pháp bảo hộ.
Trong WTO thuế quan đợc thừa nhận là công cụ hợp pháp bảo hộ sản xuất trong nớc.
NTBs phải đợc xoá bỏ hoặc thuế hóa.
ổn định, dễ dự đoán
Qua nhiều vòng đàm phán đa phơng, thuế quan ngày càng có xu thế ổn định và
dễ dự đoán. Sau Vòng đàm phán Uruguay, tất cả các nớc thành viên WTO đều phải
ràng buộc 100% các dòng thuế đối với các sản phẩm nông nghiệp. Đối với các sản
phẩm công nghiệp, các nớc phát triển đã ràng buộc 99% các dòng thuế, các nớc đang
phát triển ràng buộc 73% và các nớc có nền kinh tế chuyển đổi ràng buộc 98%. Các
con số này đảm bảo mức độ tiếp cận thị trờng an toàn hơn cho các nhà đầu t và kinh
doanh quốc tế.
Dễ đàm phán cắt giảm mức bảo hộ
Vì thuế quan là công cụ bảo hộ mang tính rõ ràng hơn cả nên trong khuôn khổ
các cuộc đàm phán song phơng và đa phơng, thuế quan luôn là đối tợng đàm phán cắt
giảm. Một điểm đáng chú ý khác là trong khuôn khổ đàm phán đa phơng, thuế quan
có thể đợc tiến hành cắt giảm theo công thức. Trong và sau Vòng đàm phán Uruguay,
trong khuôn khổ WTO còn nổi lên xu hớng cắt giảm thuế quan theo ngành (ví dụ:
mức thuế 0% áp dụng cho nhiều sản phẩm của các ngành dợc phẩm, sắt thép, sản
phẩm công nghệ thông tin ).
Nh ợc điểm:
Một nhợc điểm dễ thấy của thuế quan là không tạo đợc rào cản nhanh chóng.
Trớc các tình thế khẩn cấp nh hàng nhập khẩu tăng nhanh gây tổn hại hoặc đe dọa
gây tổn hại cho ngành sản xuất nội địa, các NTB nh cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy

2
phép nhập khẩu không tự động tỏ ra hữu hiệu hơn, có khả năng ngay lập tức chặn
đứng dòng nhập khẩu.
b.Các biện pháp phi thuế (NTM)
Ngoài thuế quan ra, tất cả các biện pháp khác, dù là theo quy định pháp lý hay
tồn tại trên thực tế, ảnh hởng đến mức độ và phơng hớng nhập khẩu đợc gọi là các
NTM. Mỗi NTM có thể có một hoặc nhiều thuộc tính nh áp dụng tại biên giới hay nội
địa, đợc duy trì một cách chủ động hay bị động, phù hợp hoặc không phù hợp với
thông lệ quốc tế, nhằm bảo hộ hay không bảo hộ
Ưu điểm:
Phong phú về hình thức
1
: nhiều NTM khác nhau có thể đáp ứng cùng một
mục tiêu, áp dụng cho cùng một mặt hàng
Các NTM trong thực tế rất phong phú về hình thức nên tác động, khả năng và
mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa dạng. Do đó, nếu sử dụng NTM để
phục vụ một mục tiêu đề ra thì có thể có nhiều sự lựa chọn, kết hợp hơn mà không bị
gò bó chật hẹp trong khuôn khổ một công cụ duy nhất nh thuế quan. Ví dụ: để nhằm
hạn chế nhập khẩu phân bón, có thể đồng thời áp dụng các biện pháp hạn ngạch nhập
khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu không tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập
khẩu.
Đáp ứng nhiều mục tiêu: một NTM có thể đồng thời đáp ứng nhiều mục
tiêu với hiệu quả cao
Mỗi quốc gia thờng theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế, thơng
mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: (i) bảo hộ sản xuất trong nớc, khuyến khích
phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo vệ an toàn sức khỏe con ngời, động thực vật,
môi trờng; (iii) hạn chế tiêu dùng; (iv) đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán; (v) bảo
đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, v.v Các NTM có thể đồng thời phục vụ
hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau khi việc sử dụng công cụ thuế quan không khả thi
hoặc không hữu hiệu bằng.

Ví dụ: quy định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa đảm bảo
an toàn sức khỏe con ngời, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sản xuất nông
nghiệp trong nớc một cách hợp pháp. Hay cấp phép không tự động đối với dợc phẩm
nhập khẩu vừa giúp bảo hộ ngành dợc nội địa, dành đặc quyền cho một số đầu mối
nhập khẩu nhất định, quản lý chuyên ngành một mặt hàng quan trọng đối với sức
khỏe con ngời, phân biệt đối xử với một số nớc cung cấp nhất định.
Nhiều NTM cha bị cam kết ràng buộc cắt giảm hay loại bỏ
Do NTM thờng mang tính mập mờ, mức độ ảnh hởng không rõ ràng nh những
thay đổi định lợng của thuế quan, nên tác động của chúng có thể lớn nhng lại là tác
1
Có thể chia các NTM thành các nhóm lớn sau:
- Các biện pháp hạn chế định lợng (nh cấm, hạn ngạch, giấy phép);
- Các biện pháp quản lý giá (nh trị giá tính thuế quan tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, phí thay đổi, phụ thu);
- Các biện pháp liên quan tới doanh nghiệp (nh doanh nghiệp thơng mại nhà nớc);
- Các biện pháp kỹ thuật (nh quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn, thủ tục xác định sự phù hơp, yêu cầu về nhãn mác, kiểm
dịch động thực vật);
- Các biện pháp bảo vệ thơng mại tạm thời (nh tự vệ, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, biện pháp chống bán phá
giá);
- Các biện pháp liên quan tới đầu t (nh thuế suất thuế nhập khẩu phụ thuộc tỷ lệ nội địa hóa, hạn chế tiếp cận ngoại
tệ, yêu cầu xuất khẩu, u đãi gắn với thành tích xuất khẩu);
- Các biện pháp khác (nh tem thuế, biểu thuế nhập khẩu hay thay đổi, yêu cầu đảm bảo thanh toán, yêu cầu kết hối,
thủ tục hành chính, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ).
3
động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này hay cách khác. Hiện nay các
hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh việc sử dụng một số NTM nhất định. Trong
đó, tất cả các NTM hạn chế định lợng
2
đều không đợc phép áp dụng, trừ trờng hợp
ngoại lệ.
Một số NTM khác tuy có thể nhằm mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản

xuất trong nớc nhng vẫn đợc WTO cho phép áp dụng với điều kiện tuân thủ những
quy định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn nh tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp
kiểm dịch động thực vật, tự vệ, thuế chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp,
thuế đối kháng, hỗ trợ nông nghiệp dạng hộp xanh.
Ngoài ra, vẫn có thể tiếp tục áp dụng mà cha bị yêu cầu cắt giảm hay loại bỏ
những NTM cha xác định đợc sự phù hợp hay không phù hợp với các quy định của
WTO. Những NTM này có thể do WTO cha có quy định điều chỉnh hoặc có quy định
nhng rất chung chung và trên thực tế rất khó có thể xác định đợc tính phù hợp hay
không phù hợp với quy định đó, hoặc chúng vẫn là một thực tế đợc thừa nhận chung.
Chẳng hạn nh yêu cầu đặt cọc, trả thuế nhập khẩu trớc, v.v
Nh ợc điểm:
Không rõ ràng và khó dự đoán
Các NTM trên thực tế thờng đợc vận dụng dựa trên cơ sở dự đoán chủ quan,
thậm chí tuỳ tiện, của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu thụ trong nớc. Chẳng
hạn để xác định hạn ngạch nhập khẩu phân bón trong năm tới, Chính phủ phải dự kiến
đợc công suất sản xuất trong nớc có khả năng đáp ứng đợc bao nhiêu phần trăm tổng
nhu cầu về phân bón của toàn ngành nông nghiệp.
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay rất phức tạp và thờng xuyên biến động,
việc đa ra một dự đoán tơng đối chính xác là rất khó khăn. Nếu dự đoán không chính
xác sẽ có ảnh hởng xấu đến sản xuất trong nớc. Ví dụ nh gây ra thiếu hụt trầm trọng
nguồn cung cấp phân bón khi sản xuất trong nớc vào thời vụ, đẩy giá tăng vọt (sốt
nóng) hoặc trái lại, dẫn đến tình trạng cung vợt cầu quá lớn trên thị trờng làm giá sụt
giảm (sốt lạnh). Điều này đồng nghĩa với việc các quyết định sản xuất và kinh doanh
sẽ chịu rủi ro cao hơn.
Sử dụng NTM cũng thờng làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn quyết định của ngời sản
xuất và ngời tiêu dùng trong nớc, tín hiệu chỉ dẫn việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ
nền kinh tế (chính là giá thị trờng), phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thực
sự. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu t sản xuất kinh doanh hiệu quả trong
trung và dài hạn của ngời sản xuất bị hạn chế.
Tác động của các NTM thờng khó có thể lợng hóa đợc rõ ràng nh tác động của

thuế quan. Nếu mức bảo hộ thông qua thuế quan đối với một sản phẩm có thể dễ dàng
đợc xác định bằng chính thuế suất đánh lên sản phẩm đó thì mức độ bảo hộ thông qua
NTM là tổng mức bảo hộ của các NTM riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản
thân mức độ bảo hộ của mỗi NTM cũng chỉ có thể đợc ớc lợng một cách tơng đối.
Cũng vì mức độ bảo hộ của các NTM không dễ xác định nên rất khó xây dựng một lộ
trình tự do hóa thơng mại rõ ràng nh với bảo hộ chỉ bằng thuế quan.
Khó khăn, tốn kém trong quản lý
Vì khó dự đoán nên các NTM thờng đòi hỏi chi phí quản lý cao và tiêu tốn
nhân lực của nhà nớc để duy trì hệ thống điều hành, kiểm soát bằng NTMs.
2
Các NTM hạn chế định lợng nh cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu không tự động v.v gây cản trở, bóp
méo thơng mại và thờng bị coi là các NTB (NTBs).
4
Một số NTM thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ quan với
những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên có thể gây khó khăn cho
bản thân các nhà hoạch định chính sách, quản lý, và các chủ thể tham gia hoạt động
kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp cận thông tin cũng nh đánh giá tác động
của các NTM này.
Các doanh nghiệp sản xuất cha chú trọng đến tiếp cận thông tin và cha có ý
thức xây dựng, đề xuất các NTM để bảo hộ sản xuất, còn trông chờ vào nhà nớc tự
quy định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp thờng phải tốn kém chi phí vận động
hành lang để cơ quan chức năng ra quyết định áp dụng NTM nhất định có lợi cho
mình.
Ngoài ra, có những NTM bị động là những NTM tồn tại trên thực tế ngoài ý
muốn của các nhà hoạch định chính sách nh bộ máy quản lý thơng mại quan liêu,
năng lực thấp của các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lý không đợc công bố
công khai,
Nhà nớc không hoặc ít thu đợc lợi ích tài chính
Việc sử dụng các NTM phục vụ mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất
trong nớc hầu nh không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho nhà nớc mà th-

ờng chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định đợc bảo hộ hoặc đợc
hởng u đãi, đặc quyền, nh đợc phân bổ hạn ngạch, đợc chỉ định làm đầu mối nhập
khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền
kinh tế.
c.Sự kết hợp giữa hai biện pháp để bảo hộ sản xuất trong nớc.
Các biện pháp thuế quan và NTM là hai công cụ bảo hộ sản xuất quan trọng đối
với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm mạnh, yếu đặc thù nên chúng thờng đ-
ợc sử dụng bổ sung lẫn nhau nhằm bảo hộ sản xuất trong nớc. Mặc dù về lý thuyết,
WTO và các định chế thơng mại khu vực thờng chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ
bảo hộ hợp pháp duy nhất nhng thực tế đã chứng minh rằng các nớc không ngừng sử
dụng các NTM mới, vừa đáp ứng mục đích bảo hộ, vừa không trái với thông lệ quốc
tế.
Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng lên nhiều hay không còn phụ thuộc vào
tính linh hoạt có chọn lọc, có định hớng của chính phủ các nớc trong việc áp dụng
NTMs bổ trợ cho biện pháp thuế quan. Nếu biết kết hợp hài hòa và tinh tế hai công cụ
này, sản xuất trong nớc sẽ đợc bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn để nâng cao sức cạnh tranh
nhằm từng bớc thích nghi với các định chế và nguyên tắc chung của môi trờng thơng
mại quốc tế.
2.Các NTM đợc sử dụng để bảo hộ.
Các NTM đợc sử dụng để bảo hộ rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể thấy rõ là tới
nay hầu nh không còn n ớc nào còn cơ hội để áp dụng những biện pháp hạn chế định l -
ợng nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nớc đợc nữa. Những biện pháp hạn chế định
lợng nh cấm nhập khẩu hay hạn ngạch nhập khẩu chỉ còn đợc áp dụng trong những tr-
ờng hợp cần thiết để bảo đảm và duy trì an ninh quốc gia, giữ gìn đạo đức văn hóa,
môi trờng hay trong một vài trờng hợp ngoại lệ đặc biệt.
Tuy nhiên, việc sử dụng biện pháp hạn ngạch vẫn đ ợc thừa nhận và đ ợc nhiều
n ớc áp dụng để bảo hộ ngành dệt may . Theo Hiệp định về dệt may của WTO thì tới
năm 2005 các nớc thành viên WTO phải loại bỏ biện pháp này.
5
Một biện pháp ngoại lệ mang tính chất hạn chế định lợng khác cũng đợc WTO

thừa nhận và đợc áp dụng rộng rãi trên thực tế là biện pháp hạn ngạch thuế quan trong
nông nghiệp. Biện pháp này đã đợc cả các nớc phát triển, các nớc đang phát triển và
các nớc đang chuyển đổi áp dụng để bảo hộ những lĩnh vực nông nghiệp nhạy cảm
của mình. Mức hạn ngạch, thuế suất trong hạn ngạch, thuế suất ngoài hạn ngạch khác
nhau tuỳ từng nớc. Một thực tế chung là thuế suất ngoài hạn ngạch thờng rất cao, có
nhiều trờng hợp trên 100%.
Các nớc phát triển thờng áp dụng biện pháp thuế chống bán phá giá và thuế đối
kháng chống trợ cấp để bảo hộ các ngành công nghiệp, đồng thời áp dụng các biện
pháp hỗ trợ trong n ớc ở mức cao để bảo hộ nông nghiệp. Trong khi đó, các nớc đang
phát triển và các nớc đang chuyển đổi vẫn áp dụng biện pháp cấp phép không tự động
để bảo hộ cả công nghiệp và nông nghiệp.
3.Thời gian bảo hộ.
Do những nhân nhợng có đi có lại trong đàm phán thơng mại quốc tế, đặc biệt
là các kết quả của Vòng đàm phán Uruguay với sự ra đời của WTO, các nớc thành
viên của WTO cũng nh những nớc đang đàm phán gia nhập tổ chức này không thể tùy
ý kéo dài thời gian bảo hộ.
Thông thờng thời gian đ ợc quyền áp dụng mỗi loại biện pháp bảo hộ đ ợc qui
định cụ thể trong từng hiệp định của WTO. Ví dụ thời gian áp dụng các biện pháp bảo
hộ thông qua đầu t trực tiếp nớc ngoài vi phạm Hiệp định về các biện pháp đầu t liên
quan đến thơng mại (Hiệp định TRIMs) không đợc kéo dài quá hai năm đối với các n-
ớc phát triển và quá năm năm đối với các nớc đang phát triển (kể từ năm 1995).
4.Các ngành đợc bảo hộ.
Tuỳ theo tình hình kinh tế - xã hội của mình mà mỗi nớc chọn ra những ngành
cụ thể cần phải bảo hộ. Xu hớng chung đối với các nớc phát triển là những ngành sử
dụng nhiều lao động với kỹ năng không cao đợc u tiên bảo hộ cao nhất, chẳng hạn nh
các ngành dệt may, nông nghiệp. Đối với các nớc đang phát triển hoặc đang chuyển
đổi thì các ngành đợc u tiên bảo hộ thờng là những ngành công nghiệp non trẻ (ô tô,
điện tử, đờng) hay những ngành mà các doanh nghiệp nhà nớc đang gặp khó khăn (sắt
thép, xi măng, cơ khí).
5.Xu hớng của việc sử dụng các NTM để bảo hộ.

Xu hớng chung trong việc sử dụng các NTM để bảo hộ sản xuất trong nớc là
chuyển từ các biện pháp mang tính chất hạn chế định lợng trực tiếp sang các biện
pháp tinh vi hơn nh thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, tiêu chuẩn kỹ thuật, các
qui định về nhãn mác
Kể từ khi WTO ra đời cho tới nay, có thể thấy rõ hầu hết các nớc thành viên đã
thấy rõ những lợi ích của việc tuân thủ các qui định của tổ chức này. Một xu hớng nổi
bật là các biện pháp bảo hộ hoặc hạn chế thơng mại mang tính đơn phơng đang ngày
càng bị phản đối mạnh mẽ.
Ngoài ra, xu hớng sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu gắn với yêu cầu
tuân thủ các tiêu chuẩn môi trờng và lao động đang nổi lên và đợc nhiều nớc phát
triển hậu thuẫn mạnh mẽ.
6
B.kinh nghiệm của một số nớc trong quá Trình áp dụng các NTM để bảo hộ
sản xuất trong nớc.
I.Thực tiễn áp dụng các NTM của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là một cờng quốc kinh tế lớn nhất thế giới và là một trong những thành
viên sáng lập của GATT (WTO ngày nay). Mặc dù có tiềm năng to lớn trong hầu hết
mọi lĩnh vực sản xuất, nhng theo qui luật về lợi thế cạnh tranh tơng đối, trong những
năm qua, Hoa Kỳ đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn nhằm bảo hộ cho
những ngành sản xuất đã suy giảm sức cạnh tranh trên thị trờng thế giới.
1.Thực tiễn áp dụng các NTM của Hoa Kỳ có thể đợc minh họa khá rõ nét khi
nghiên cứu các biện pháp đợc áp dụng để bảo hộ các ngành dệt may, nông nghiệp và
sắt thép.
Dệt may
Dệt may là một ngành sử dụng nhiều lao động không đòi hỏi kỹ năng cao. Hoạt
động sản xuất của ngành sẽ có tác động rất lớn tới thu nhập, việc làm và ổn định xã
hội của Hoa Kỳ. Do đó, ngành này luôn đợc các nhà hoạch định chính sách thơng mại
của Hoa Kỳ tìm mọi cách để bảo hộ, trong đó công cụ bảo hộ chính là hạn ngạch.
Theo Hiệp định Dệt may của WTO, Hoa Kỳ phải loại bỏ hạn ngạch đối với các sản
phẩm dệt và may vào năm 2005 theo một lộ trình gồm ba giai đoạn. Tuy nhiên, Hoa

Kỳ đã tìm nhiều cách để lẩn tránh các nghĩa vụ, chẳng hạn nh rất nhiều sản phẩm chỉ
đợc loại bỏ hạn ngạch vào giai đoạn cuối cùng của Hiệp định này.
Một NTM khác là qui tắc xuất xứ đã đợc Hoa Kỳ sử dụng khá tinh vi để hạn
chế nhập khẩu sản phẩm dệt may từ Trung Quốc và ấn Độ.
Nông nghiệp
Điều kiện thiên nhiên thuận lợi cộng thêm với trình độ khoa học công nghệ cao
đã giúp nền nông nghiệp của Hoa Kỳ có năng suất lao động đứng đầu thế giới, có sức
cạnh tranh rất lớn cả về chất lợng cũng nh giá cả sản phẩm. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn
phải áp dụng nhiều NTM nhằm bảo hộ cho một số ngành nông nghiệp, đặc biệt là
ngành sữa và đờng.
Hai biện pháp nổi bật đợc áp dụng để bảo hộ ngành sữa và đờng là biện pháp
hạn ngạch thuế quan và hỗ trợ giá. Chỉ tính riêng khoản hỗ trợ trong nớc của Hoa Kỳ
vi phạm Hiệp định Nông nghiệp của WTO và thuộc diện phải cam kết cắt giảm trong
năm 1996 đối với ngành sữa đã lên tới 4,7 tỷ USD và đối với ngành đờng là 0,9 tỷ
USD.
Sắt thép
Chỉ mới vài thập kỷ trớc đây, Hoa Kỳ là nớc sản xuất hàng đầu thế giới về sắt
thép. Nhng những năm gần đây ngành công nghiệp này của Hoa Kỳ phải đối mặt với
sự cạnh tranh khốc liệt của các nớc khác nh Trung Quốc, Nga, Hàn quốc, Nhật Bản.
Để bảo hộ ngành công nghiệp sắt thép, Hoa Kỳ đã tăng cờng và thờng xuyên sử
dụng biện pháp thuế chống bán phá giá. Ngoài ra, với những nớc cha phải là thành
viên WTO, Hoa Kỳ còn tìm cách gây sức ép buộc những nớc đó hạn chế xuất khẩu
sản phẩm sắt thép sang Hoa Kỳ. Ví dụ, năm 1999 Nga đã buộc phải ký với Hoa Kỳ
thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện một số loại sắt thép sang Hoa Kỳ trong vài
năm tiếp theo.
2.Gần đây Hoa Kỳ đang cố gắng tìm mọi cách để có thể sử dụng các biện pháp
gắn với môi tr ờng và tiêu chuẩn lao động để hạn chế nhập khẩu.
7
Hai trờng hợp điển hình về việc Hoa Kỳ đơn phơng áp dụng các qui định về
môi trờng của mình để hạn chế nhập khẩu là trờng hợp cá hồi và tôm. Trong trờng

hợp thứ nhất, Hoa Kỳ cấm nhập khẩu cá hồi từ những nớc mà Hoa Kỳ cho rằng phơng
pháp đánh bắt của họ làm ảnh hởng xấu đến cá heo. Trong trờng hợp thứ hai, việc
nhập khẩu tôm từ những nớc sử dụng lới quét có hại cho rùa biển cũng bị cấm.
3.Một đặc điểm nổi bật là Hoa Kỳ đã ban hành luật và áp dụng trên thực tiễn
nhiều biện pháp đơn phơng có tác dụng hạn chế thơng mại rất lớn. Có thể kể ra một
số biện pháp đáng chú ý nhất nh sau:
An ninh quốc gia: với lý do bảo đảm an ninh quốc gia, Hoa Kỳ đã hạn chế nhập
khẩu từ các nớc bị coi là có thể đe doạ đến an ninh của Hoa Kỳ, chẳng hạn nh Cu ba,
Angola, Ruanda
Các hành động th ơng mại đơn ph ơng : Điều 301 của Luật Thơng mại Hoa Kỳ
(1974), Super 301, Special 301 cho phép Hoa Kỳ có thể áp dụng các biện pháp đơn
phơng hạn chế thơng mại với các nớc mà Hoa Kỳ cho là có phơng hại tới lợi ích của
mình. Luật Helm-Burton hạn chế không chỉ các công ty Hoa Kỳ mà thậm chí cả các
công ty và thể nhân của các nớc khác tiến hành đầu t buôn bán với Cu ba. Hoa Kỳ
cũng ban hành và thực thi biện pháp hạn chế thơng mại với Iran.
II.Thực tiễn áp dụng các NTM của Thái Lan.
1.Hạn ngạch nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu áp dụng đối với máy móc, giấy, hóa chất, máy nông
nghiệp, bình chứa gas để nấu nớng, máy ca đĩa. Thái Lan đã chuyển biện pháp cấp
phép đối với 23 nhóm nông sản sang hạn ngạch thuế quan và thuế hóa các NTM đối
với các nông sản này. Hầu hết chúng là nông sản nguyên liệu thô (nông sản cha chế
biến) bao gồm sữa cha cô đặc, khoai tây, hành, tỏi, cà phê, chè, hạt tiêu, ngô, gạo, đậu
tơng, lá thuốc lá. Thuế suất trong hạn ngạch ban đầu đối với các nông sản này thay
đổi từ 20% đến 60%. Thuế suất ngoài hạn ngạch thay đổi từ 40% đến 242%.
2.Cấp phép nhập khẩu.
Thái Lan đã giảm số nhóm hàng nhập khẩu cần có giấy phép từ 42 (năm 1995-
96) xuống còn 23 (năm 1997). Các mặt hàng phải có giấy phép mới đợc nhập khẩu
bao gồm nguyên vật liệu, dợc phẩm, xăng dầu, hàng công nghiệp, hàng dệt, nông sản
và tất cả các loại lơng thực thực phẩm phục vụ tiêu dùng của con ngời.
Giấy phép nhập khẩu không tự động cũng đợc áp dụng đối với động cơ, bộ

phận, phụ tùng đã qua sử dụng của xe máy có dung tích không quá 50cc, và bánh xe
có bán kính không quá 10 inches. Giấy phép nhập khẩu chỉ cấp cho các doanh nghiệp
nhà nớc.
Bên cạnh yêu cầu về cấp phép nhập khẩu thuộc thẩm quyền của Bộ Thơng mại,
nhập khẩu các sản phẩm lơng thực thực phẩm, thuốc men, mỹ phẩm, chất độc hại,
chất gây nghiện, chất kích thích, các dụng cụ và trang thiết bị y tế còn phải đợc sự
chấp thuận của Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm của Thái Lan. Nhìn chung, các
quy định nhập khẩu lơng thực, thực phẩm, thuốc men của Thái Lan là một rào cản đối
với nhập khẩu do thời gian chậm trễ kéo dài trớc khi đợc chấp thuận đa vào thị trờng
và hệ thống giấy phép nhập khẩu độc quyền.
3.Xác định Trị giá tính thuế hải quan.
Trong giai đoạn 1996-1999, Cục Hải quan Thái Lan thờng sử dụng giá hóa đơn
cao nhất của sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ bất kỳ nớc nào trong thời gian trớc đó
để xác định trị giá tính thuế. Các nhân viên hải quan Thái Lan sử dụng công thức giá
8
CIF để tính giá trị chịu thuế, hoặc công thức giá FOB + 10% cớc vận tải + 5% phí bảo
hiểm.
Nh vậy có thể nhận thấy rằng thủ tục và phơng pháp xác định trị giá tính thuế
hải quan của Thái Lan khá tuỳ tiện, phụ thuộc vào cách áp dụng của các nhân viên hải
quan. Tuy nhiên từ tháng 5/2000, Thái Lan đã sử dụng phơng pháp xác định trị giá
tính thuế nhập khẩu theo trị giá giao dịch nh quy định trong Hiệp định về xác định trị
giá thuế quan của WTO .
4.Ch ơng trình nội địa hóa.
Thái Lan đa ra yêu cầu về hàm lợng nội địa đối với sản xuất ô tô con (54%), xe
tải nhẹ (65-80%), xe tải và xe buýt (40-50%), xe máy (70%) và sản phẩm sữa (phải
mua tối thiểu 50 tấn sữa nguyên liệu địa phơng/ngày trong năm hoạt động đầu tiên).
Tuy nhiên, Thái Lan đã cam kết loại bỏ toàn bộ các yêu cầu về nội địa hóa vào cuối
năm 1999 theo quy định của Hiệp định TRIMs của WTO. Thái Lan đã tiến hành sửa
đổi các văn bản pháp luật trong nớc để loại bỏ dần yêu cầu về hàm lợng nội địa hoá
trong năm 1999, phù hợp với thời hạn quá độ cho phép trong Hiệp định TRIMs.

5.Khuyến khích đầu t .
Uỷ ban đầu t (Board of Investment-BOI) của Thái Lan đa ra những u đãi và
khuyến khích đầu t đối với các công ty nớc ngoài đạt những mục tiêu cụ thể về tỷ lệ
xuất khẩu hoặc chấp nhận các yêu cầu về cân bằng thơng mại. Hình thức khuyến
khích có thể là miễn, giảm thuế, phí, thuế nhập khẩu, quỹ khuyến khích xuất khẩu và
các hình thức u đãi thuế khác. Nhằm khuyến khích đầu t nớc ngoài, khắc phục hậu
quả khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua, BOI đã tạm thời nới lỏng nhiều điều kiện
về miễn thuế và phí.
Chơng trình khuyến khích xuất khẩu đa ra các hình thức u đãi chủ yếu sau:
miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất
khẩu, khấu trừ 5% phần thu nhập tăng lên của năm trớc do xuất khẩu khỏi phần thu
nhập chịu thuế, v.v Tuy nhiên, Luật khuyến khích đầu t không quy định tiêu chuẩn
cụ thể để đợc hởng những u đãi, khuyến khích này.
6.Trợ cấp.
Ngân hàng Trung ơng Thái Lan đợc giao nhiệm vụ hỗ trợ tài chính đối với các
dự án u tiên thông qua chơng trình tái tài trợ tín dụng công nghiệp. Mỗi công ty, với
tổng tài sản cố định không vợt quá 200 triệu baht đều đợc phân bổ định mức tín dụng
để phát hành lệnh phiếu. Tổng giá trị tái tài trợ là 50% mệnh giá lệnh phiếu. Uỷ ban
quốc gia về Xúc tiến đầu t và xuất khẩu chịu trách nhiệm quản lý chơng trình này.
Chơng trình này hớng mục tiêu vào hỗ trợ tài chính cho các ngành công nghiệp phục
vụ phát triển nông thôn. Tuy nhiên, theo điều tra của một số nớc khác, chơng trình
này cũng hỗ trợ một số ngành xuất khẩu.
Thái Lan không duy trì trợ cấp xuất khẩu cho nông sản trừ Chơng trình tín dụng
cả gói. Thái Lan cho rằng chơng trình này phù hợp với các qui định của WTO. Hỗ trợ
trong nớc của Thái Lan tập trung vào gạo, sữa tơi, đờng.
III.Thực tiễn áp dụng các NTM của Trung Quốc.
1.Cấp phép nhập khẩu.
Trung Quốc áp dụng giấy phép nhập khẩu cho 53 nhóm hàng tiêu dùng,
nguyên liệu thô và một số thiết bị sản xuất, ví dụ nh ô tô, xe máy và phụ tùng, xe tải,
lốp, hàng dệt, ngũ cốc, đờng, sữa bột, bông. Các mặt hàng này chiếm 50% kim ngạch

9
nhập khẩu của Trung Quốc. Cơ quan quản lý việc cấp phép nhập khẩu là Bộ Ngoại th-
ơng và Hợp tác Kinh tế (MOFTEC).
2.Hạn ngạch nhập khẩu.
Trung Quốc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu cho hơn 400 mặt hàng. Qui định
pháp lý về việc cấp hạn ngạch không rõ ràng và các điều kiện để xác định hạn ngạch
cho một số mặt hàng không đợc công bố. Các mặt hàng Trung Quốc áp dụng hạn
ngạch gồm có: ô tô, xe máy, sản phẩm bông cha chế biến, sản phẩm bông, sợi tổng
hợp. Trung Quốc dự kiến loại bỏ hạn ngạch vào năm 2005 trong đàm phán gia nhập
WTO.
Theo thoả thuận song phơng với Hoa Kỳ trong đàm phán gia nhập WTO, Trung
Quốc duy trì đợc biện pháp cấp phép nhập khẩu và hạn ngạch với rất nhiều mặt hàng
công nghiệp, nhiều hơn cả số mặt hàng đang áp dụng giấy phép nhập khẩu và hạn
ngạch của Việt Nam hiện tại. Trung Quốc cam kết tăng dần hạn ngạch 15% hàng
năm, thời hạn loại bỏ các NTB ngắn nhất là năm 2000 (radio, radio catxet, phim cha
tráng các loại), thời hạn dài nhất là 2005 (ô tô các loại).
3.Doanh nghiệp th ơng mại nhà n ớc.
Các công ty ngoại thơng nhà nớc đợc u tiên quyền kinh doanh xuất nhập khẩu.
Ví dụ: máy bay chỉ đợc nhập khẩu qua cơ quan mua sắm hàng không dân dụng; việc
xuất khẩu hàng dệt may thuộc quyền quản lý và kiểm soát của các cơ quan nhà nớc
nắm độc quyền ngoại thơng: các cơ quan này kiểm soát nhập khẩu và phân phối hàng
dệt may trong nớc.
Doanh nghiệp có vốn nớc ngoài chỉ đợc phép nhập khẩu nguyên liệu đầu vào
phục vụ sản xuất. Doanh nghiệp nớc ngoài không đợc phép thành lập chi nhánh để
phân phối hàng hóa ở Trung Quốc. Các doanh nghiệp t nhân không đợc kinh doanh
xuất nhập khẩu trực tiếp. Trớc đây, các công ty ngoại thơng nhà nớc đều thuộc quyền
quản lý trực tiếp của MOFTEC, nhng nay MOFTEC không can thiệp vào công việc
hàng ngày của các công ty này nữa. Số doanh nghiệp đợc quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu tăng dần từ 14 doanh nghiệp năm 1979 lên tới trên 8.800 hiện nay.
Trung Quốc khẳng định rằng tất cả các doanh nghiệp sở hữu nhà nớc hoặc

doanh nghiệp do nhà nớc đầu t sẽ chỉ tiến hành các hoạt động mua, bán căn cứ theo
tiêu chí thơng mại và đảm bảo cho doanh nghiệp của các nớc thành viên WTO đợc
dành đãi ngộ quốc gia so với doanh nghiệp nhà nớc có đủ cơ hội tham gia vào các
hoạt động mua, bán với các doanh nghiệp trên của Trung Quốc. Chính phủ Trung
Quốc sẽ không can thiệp vào quyết định thơng mại của các doanh nghiệp trên.
Tháng 7/1995 Trung Quốc thông báo sẽ dần dần loại bỏ độc quyền ngoại thơng
trong vòng 8 năm sau khi gia nhập WTO.
4.Các biện pháp liên quan đến đầu t .
Trung Quốc qui định yêu cầu về hàm lợng nội địa, thành tích xuất khẩu và yêu
cầu cân đối thơng mại đối với doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài và doanh nghiệp
do nớc ngoài sở hữu hoàn toàn. Ngoài ra, còn có những yêu cầu mua hàng gián tiếp
khi ký hợp đồng mua sắm với các công ty nớc ngoài (ví dụ: để ký đợc hợp đồng bán
máy bay thì các nhà cung cấp nớc ngoài có thể phải mua một số hàng hóa khác của
Trung Quốc).
Trung Quốc cam kết sẽ tuân thủ Hiệp định TRIMs ngay khi gia nhập WTO,
nghĩa là loại bỏ các yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu về hàm lợng nội địa, yêu cầu về
xuất khẩu. Ngoài ra, Trung Quốc còn đảm bảo việc cấp phép nhập khẩu, cấp hạn
10
ngạch, hạn ngạch thuế quan sẽ không căn cứ vào các yêu cầu về hàm lợng nội địa,
chuyển giao công nghệ, tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển tại Trung Quốc.
5.Xác định trị giá tính thuế hải quan.
Cơ quan hải quan Trung Quốc xác định trị giá hàng hóa theo hóa đơn bán hàng.
Tuy nhiên, bảng giá tham khảo không chính thức vẫn đợc cập nhật thờng xuyên. Hải
quan Trung Quốc còn có thể định giá lại hàng hóa bằng cách sử dụng giá ớc tính của
Phòng Thơng mại. Các qui định áp dụng trong việc xác định trị giá hàng hóa không đ-
ợc công bố. Trên thực tế, cùng một sản phẩm có thể chịu thuế suất khác nhau tùy
thuộc vào cửa khẩu.
Qui định về xác định trị giá tính thuế quan không rõ ràng là một biện pháp hạn
chế nhập khẩu của Trung Quốc.
6.Trợ cấp.

Trung Quốc sử dụng nhiều hình thức trợ cấp xuất khẩu nh cho nhà sản xuất h-
ởng giá điện thấp; cho doanh nghiệp nhà nớc và công ty thơng mại nhà nớc đợc vay
ngân hàng với những điều kiện u đãi, trong đó rất nhiều khoản vay không phải hoàn
trả; các doanh nghiệp đáp ứng mục tiêu xuất khẩu nhất định thì đợc vay u đãi và đợc
cung cấp các phơng tiện nghiên cứu và phát triển; các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc
biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong các đặc khu kinh tế và vùng ven biển đợc u
đãi về thuế. Trung Quốc đang tiến hành trợ cấp tài chính cho các chơng trình phát
triển sản phẩm xuất khẩu cuối cùng.
7.Các cam kết về phi thuế quan trong th ơng mại nông sản.
-Trừ 10 nhóm nông sản (lúa mì, ngô, gạo, dầu đậu tơng, dầu cọ, dầu hạt cải, đ-
ờng, len, len lông cừu, bông) đợc nhập khẩu theo cơ chế hạn ngạch thuế quan, mọi sản
phẩm khác do doanh nghiệp thơng mại nhà nớc hay không phải doanh nghiệp thơng
mại nhà nớc nhập khẩu đều đợc đãi ngộ bình đẳng nh nhau (về thuế áp dụng, quy
định kiểm dịch, v.v.) và đợc hởng đãi ngộ quốc gia.
- Trừ những sản phẩm đợc quy định là chỉ đợc nhập khẩu thông qua doanh
nghiệp thơng mại nhà nớc (gạo, ngô, lúa mì, dầu đậu tơng, dầu cọ, dầu hạt cải, đờng,
rợu), các sản phẩm còn lại có thể đợc nhập khẩu thông qua bất kỳ doanh nghiệp nào
có quyền kinh doanh.
- Cơ chế phân bổ và tái phân bổ hạn ngạch thuế quan của Trung Quốc tuân theo
các thủ tục và tiêu chí khách quan, minh bạch.
- Mọi chủ thể đợc phân bổ hạn ngạch thuế quan đều đợc quyền ủy thác nhập
khẩu thông qua doanh nghiệp thơng mại nhà nớc và/hoặc thông qua các chủ thể có
quyền kinh doanh khác, kể cả việc tự mình trực tiếp nhập khẩu theo quy định tại văn
bản cấp hạn ngạch phù hợp với các tiêu chí đặt ra.
- Thời gian mở rộng hạn ngạch thuế quan đối với hầu hết các nông sản là năm
2004 (trừ dầu đậu tơng đợc mở rộng hạn ngạch vào năm 2005 và đợc tự do kinh
doanh từ 1/1/2006).
- Rợu: từ 1/1/2000 loại bỏ giấy phép nhập khẩu và giảm thuế quan từ 65%
xuống 54%.
- Xì gà, thuốc lá điếu: từ 1/1/2000 loại bỏ giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch và

giảm thuế quan từ 40% xuống 34%.
Dới đây là danh mục cụ thể các nông sản Trung Quốc áp dụng hạn ngạch thuế
quan và thời hạn mở rộng hạn ngạch:
11
Bảng 1: Danh mục các nông sản Trung Quốc áp dụng hạn ngạch thuế quan
(HNTQ) và thời hạn mở rộng hạn ngạch
STT Mặt hàng Lộ trình mở rộng HNTQ của Trung
Quốc
1 Lúa mỳ 2000-2004
2 Ngô 2000-2004
3 Gạo 2000-2004
4 Dầu đậu tơng 2000-2005
5 Dầu cọ 2000-2004
6 Dầu hạt cải dầu 2000-2004
7 Đờng 2000-2004
8 Len 2000-2004
9 Len lông cừu
(wool top)
2000-2004
10 Bông 2000-2004
Bảng 2: Danh mục các mặt hàng Trung Quốc duy trì giấy phép nhập khẩu (GP),
hạn ngạch (HN) và lộ trình loại bỏ
STT Mặt hàng Biện
pháp
Lộ trình
loại bỏ
1 Xăng dầu GP, HN 2004
2 Phân bón GP, HN 2002
3 Một số hóa chất GP 2002
4 Phim cha tráng GP 2000

5 Cao su tự nhiên GP, HN 2004
6 Lốp cao su GP, HN 2004
7 Vải, nguyên liệu vải GP, HN 2000, 2001
8 Động cơ, máy kéo GP, HN 2003
9 Máy điều hòa, tủ lạnh GP, HN 2001
10 Máy giặt gia đình GP, HN 2001
11 Máy chạy đĩa compact, máy ghi băng từ và tái
tạo âm thanh, máy thu và phát video và phụ
tùng
GP, HN 2001, 2002
12 Máy thu kết hợp với thiết bị thu phát âm thanh GP, HN 2000
13 Máy thu hình, màn hình TV GP, HN 2001, 2002
14 Ô tô các loại GP, HN 2004, 2005
15 Xe máy các loại và phụ tùng GP, HN 2004
16 Camera GP, HN 2003
17 Đồng hồ đeo tay các loại GP, HN 2003
Nguồn: Hiệp định Thơng mại tiếp cận thị trờng song phơng Hoa Kỳ-Trung
Quốc.
12
Chơng II
các biện pháp phi thuế của việt nam
trong thời kỳ 1996-2000
A.Thực trạng Kinh tế -thơng mại và tổng quan khả năng cạnh tranh của
Việt Nam.
I.Tổng quan thực trạng Kinh tế-Thơng mại Việt Nam thời
kỳ 1996-2000
1.Tổng quan thực trạng kinh tế Việt Nam.
Trong các năm 1996 - 2000, mặc dù tốc độ tăng trởng Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) bình quân hàng năm đạt đợc ở mức độ tơng đối cao (7%), nền kinh tế Việt
Nam đã trải qua một giai đoạn khó khăn với sự suy giảm liên tục từ mức rất cao 9,3%

năm 1996, đã giảm dần xuống chỉ còn 4,8% năm 1999 và năm 2000 dự kiến 6,6% -
6,7%.
Sự suy giảm tốc độ tăng trởng GDP nói trên là do sự suy giảm đáng kể trong
sản xuất công nghiệp và cả trong các ngành dịch vụ mặc dù tốc độ tăng trởng trong
sản xuất nông nghiệp đã có sự gia tăng trong cả giai đoạn: Tốc độ tăng trởng nông
nghiệp đã tăng từ 4,4% năm 1996 lên 5,2% năm 1999 và năm 2000 (mặc dù liên tục
bị lũ, lụt) dự kiến tăng 4,3%. Trong khi đó tốc độ tăng trởng của sản xuất công nghiệp
đã giảm từ 13,9% năm 1996 xuống còn 9,3% năm 1999 và năm 2000 dự kiến 15% -
15,5%. Tốc độ tăng trởng của các ngành dịch vụ còn suy giảm một cách nghiêm trọng
hơn, từ 9,9% năm 1996 xuống còn 2,3% năm 1999 và năm 2000 dự kiến 6,2%.
Trong sự suy giảm tốc độ tăng trởng GDP đó có sự đóng góp của tất cả các
thành phần kinh tế, từ khu vực Nhà nớc cho đến khu vực t nhân và khu vực đầu t nớc
ngoài. Khu vực kinh tế Nhà nớc góp một phần đáng kể, từ chỗ tăng trởng 11,3% năm
1996, xuống còn 4,3% năm 1999. Khu vực kinh tế t nhân cũng suy giảm liên tục
trong giai đoạn này, từ chỗ tăng trởng 14,4% năm 1996 chỉ còn 6,2% năm 1999.
Mức tăng trởng chậm lại của khu vực công nghiệp là do sự giảm sút của ngành
công nghiệp chế biến và ngành sản xuất điện, khí đốt và nớc. Tốc độ tăng trởng của
ngành công nghiệp chế biến đã giảm từ 12,8% năm 1996 xuống còn 7,5% năm 1999.
Ngành sản xuất điện, khí đốt và nớc còn gặp sự suy giảm mạnh hơn, từ 14,7% năm
1996 xuống chỉ còn 7% năm 1999.
Sự suy giảm trong ngành dịch vụ thể hiện bằng tình trạng suy giảm của tất cả
các phân ngành, nhng chủ yếu là do sự suy giảm trong ngành xây dựng. Tốc độ tăng
trởng của ngành xây dựng đã giảm từ 16,1% năm 1996 xuống còn 2,4% năm 1999,
đặc biệt năm 1998, tốc độ tăng trởng của ngành này ở mức âm (-0,5%).
Kết quả khả quan của ngành sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn này là nhờ
mức tăng trởng cao trong sản xuất lúa gạo, thủy sản và chăn nuôi. Sản lợng thóc đã
tăng không ngừng từ 27 triệu tấn năm 1997 lên 29 triệu tấn năm 1998 và 31 triệu tấn
năm 1999 và năm 2000 dự kiến 32 triệu tấn. Do đó, xuất khẩu gạo đã đạt mức kỷ lục
4,2 triệu tấn vào năm 1999 và năm 2000 dự kiến 3,6 triệu tấn. Sản lợng chăn nuôi
cũng duy trì mức tăng trởng tơng đối nhanh; Sản lợng thuỷ, hải sản cũng có sự phục

hồi và phát triển mạnh mẽ (một phần là do nhu cầu xuất khẩu tăng).
13
Bảng 3: Tình hình tăng trởng kinh tế giai đoạn 1996-1999
1996 1997 1998 1999
Tốc độ tăng trởng GDP 9,3% 8,2% 5,8% 4,8%
Theo thành phần kinh tế
Nhà nớc 11,3% 9,7% 5,6% 4,3%
Tập thể 3,6% 2,6% 3,5% 3,6%
T nhân 14,4% 9,8% 7,9% 6,2%
Cá thể 6,6% 5,6% 3,4% 3,9%
Hỗn hợp 8,1% 3,5% 4,1% -1,3%
Đầu t nớc ngoài 19,4% 20,8% 19,1% 13,4%
Theo ngành kinh tế
Nông nghiệp 4,4% 4,3% 3,5% 5,2%
Công nghiệp 13,9% 13,1% 11,3% 9,3%
Dịch vụ 9,9% 7,8% 4,2% 2,3%
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1999, Nhà xuất bản Thống kê.
Ghi chú: - Nông nghiệp bao gồm cả sản xuất lâm nghiệp và thuỷ sản
- Công nghiệp bao gồm khai thác mỏ, công nghiệp chế biến và sản xuất,
phân phối điện, khí đốt và nớc
- Dịch vụ bao gồm cả xây dựng và các hoạt động Đảng, đoàn thể và xã
hội.
Nguyên nhân chính của tình trạng suy giảm kinh tế nói trên là do đầu t sụt
giảm trong hầu hết các lĩnh vực. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tỷ trọng đầu
t theo GDP đã giảm mạnh từ 29% năm 1997 xuống 21% năm 1999, đặc biệt là do sự
suy giảm trong đầu t trực tiếp nớc ngoài trong các năm 1998 và 1999. Sau thời kỳ mỗi
năm đạt bình quân 2 tỷ USD trong giai đoạn 3 năm 1995 - 1997, đầu t nớc ngoài đã
giảm xuống còn 800 triệu USD năm 1998 và năm 1999 chỉ còn 600 triệu USD. Sự sụt
giảm nhiều nhất là từ các nhà đầu t Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nớc Đông
Nam á, là những nớc bị ảnh hởng nhiều nhất của cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra

từ giữa năm 1997 đến đầu năm 1999.
Đầu t từ các nguồn trong nớc cũng suy giảm. Đầu t của các doanh nghiệp t
nhân và của các hộ gia đình trong nớc năm 1999 đã giảm khoảng gần 2%. Đầu t của
các doanh nghiệp Nhà nớc và đầu t từ nguồn tài trợ ODA cũng giảm sút.
2.Tình hình xuất khẩu và nhập khẩu.
Trái với tình hình suy thoái của nền kinh tế nói chung nh nêu ở trên, trong giai
đoạn 1996 - 2000 ngoại thơng Việt Nam đã đạt đợc sự phát triển rất đáng khích lệ cả
về quy mô, tốc độ tăng trởng và diện mặt hàng, đóng góp tích cực vào GDP, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế trong nớc, phục vụ tốt cho các ngành sản xuất trong nớc, và góp
phần tạo thêm nhiều việc làm cho ngời lao động.
2.1.Xuất khẩu.
14
Xuất khẩu trong thời kỳ 1996 - 2000 đã đạt đợc tốc độ tăng trởng tơng đối cao,
bình quân 20,8% một năm (trong đó năm 2000 dự kiến tăng 21,3%). Tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả giai đoạn đã đạt 51,34 tỷ USD (trong đó năm 2000 dự kiến đạt 14 tỷ
USD), đa mức xuất khẩu bình quân đầu ngời tăng lên 151,2 USD/ngời vào năm 1999
và dự kiến 180 USD/ngời vào năm 2000.
Sự phát triển nhanh chóng của xuất khẩu đạt đợc là do sự mở rộng không
ngừng diện mặt hàng xuất khẩu, sự tăng trởng cũng nh sự phát triển về quy mô của
từng nhóm mặt hàng.
Năm 1991 Việt Nam mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch
từ 100 triệu USD/năm trở lên, nhng đến năm 2000 số nhóm mặt hàng này đã tăng lên
15 nhóm. Có nhiều mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD đến 2 tỷ USD
nh dầu thô, dệt may, giầy dép, thủy sản, gạo.
Trong 5 năm 1996 - 2000 tốc độ tăng trởng của các mặt hàng chủ lực khá cao,
bình quân 19,7%/năm; trong đó có những mặt hàng tốc độ tăng trởng nhảy vọt nh
giầy dép tăng 6,7 lần; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 3,2 lần; hàng dệt may tăng 1,76
lần; và thủy, hải sản tăng 1,5 lần. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản tăng 64%,
trong đó gạo, cao su, cà phê, đều tăng từ 65% đến 103%. Nhóm hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản tăng 109%, trong đó chủ yếu là dầu thô và than đá.

Đáng lu ý trong số các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhóm điện tử và linh
kiện máy tính có tốc độ phát triển khá nhanh: mặc dù năm 1996 mới bắt đầu xuất
khẩu đạt kim ngạch 89 triệu USD, từ năm 1997 đã liên tục tăng trởng nhanh, đến năm
1999 đã đạt 700 triệu USD, tăng gần 7 lần so với năm 1996 và năm 2000 dự kiến đạt
750 triệu USD.
Thị trờng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1996 - 2000 cũng đã mở
rộng đáng kể với sự gia tăng không ngừng kim ngạch xuất khẩu vào từng khu vực thị
trờng. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996-2000:
Thị trờng khu vực châu á-Thái Bình Dơng chiếm tỷ trọng 64,6%, trong đó năm
1996: 71,3%, năm 1997: 66,6%, năm 1998: 62,9%, năm 1999: 62,4% và năm 2000
dự kiến 61,5%; tốc độ tăng trởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào khu vực này
đạt 15%/năm.
Thị trờng khu vực ASEAN chiếm tỷ trọng 23,3%, năm 1996: 24,5%, năm
1997: 22%, năm 1998: 25,1%, năm 1999: 21,3% và năm 2000 dự kiến 24,1%; tốc độ
tăng trởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào khu vực này đạt 22,6%/năm.
Thị trờng khu vực Âu - Mỹ chiếm tỷ trọng 30,7%, thị trờng khu vực này cũng
ngày càng chiếm vị trí quan trọng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam: năm
1996 chiếm 20,8%, năm 1997: 28,9%, năm 1998: 34,5%, năm 1999: 31,9% và năm
2000 dự kiến 33,9%. Tốc độ tăng trởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào khu
vực này đạt 28,8%/năm. Trong thị trờng khu vực Âu - Mỹ, thị trờng EU là thị trờng
quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và có
tốc độ tăng trởng 34,3%/năm, cao hơn nhiều so với các thị trờng khác trong khu vực
Âu - Mỹ.
Thị trờng khu vực châu Phi-Tây Nam á chiếm tỷ trọng 3,2%, trong đó năm
1996 chiếm 2,8%, năm 1997: 2,5%, năm 1998: 2,7%, năm 1999: 3% và dự kiến năm
2000 là 4,5%; tốc độ tăng trởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào khu vực này
là 40,7%/năm.
Thị trờng khác chiếm tỷ trọng 1,5%.
15
Dới đây là bảng thống kê tỷ trọng và tốc độ tăng trởng xuất khẩu vào 10 thị tr-

ờng chủ yếu trong giai đoạn 1996 - 2000:
16
Bảng 4: Tỷ trọng và tốc độ tăng trởng xuất khẩu vào 10 thị trờng chủ yếu giai
đoạn 1996 - 2000
Thị trờng Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng trởng (%)
Nhật Bản 16,1 3,6
Xinh-ga-po 10,4 - 10,6
Đài Loan 6,9 9,2
Trung Quốc 6,4 34,8
Đức 5,3 36,9
úc
4,2 70,7
Hoa Kỳ 4,1 28,7
Hàn Quốc 3,7 - 11,0
Phi-lip-pin 3,4 42,9
Hồng Kông 3,4 6,5
Trong giai đoạn 1996 - 2000:
- Số lợng doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh xuất, nhập khẩu ngày càng tăng và
có sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu chủ thể tham gia kinh doanh, đặc biệt là sau khi
Chính phủ ban hành Nghị định số 57/1998/ NĐ-CP ngày 31/7/1998, số lợng doanh
nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất, nhập khẩu tăng nhanh. Năm 1980 chỉ có 13 doanh
nghiệp thuộc Bộ Ngoại Thơng; Năm 1991 có 495 doanh nghiệp thuộc 14 Bộ, Ngành,
cơ quan đoàn thể chính trị, 42 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng; Đến năm 2000 có
khoảng 13.000 doanh nghiệp và chi nhánh đăng ký trực tiếp xuất, nhập khẩu hàng
hoá.
- Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tăng trởng khá nhanh
cả về quy mô và tốc độ so với các doanh nghiệp có vốn đầu t trong nớc, cụ thể là:
khối các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài xuất khẩu đạt 19,8 tỷ USD (kể cả dầu
thô), chiếm tỷ trọng 38,6%, tăng trởng bình quân 34,9%/năm; các doanh nghiệp
100% vốn đầu t trong nớc xuất khẩu đạt 31,54 tỷ USD (không kể dầu thô), chiếm tỷ

trọng 61,4%, tăng trởng bình quân 13,3%/năm.
2.2.Nhập khẩu.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, kim ngạch và cơ cấu hàng nhập khẩu đã góp phần
bảo đảm đợc nhu cầu tiêu dùng, nhất là về máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật t, nguyên
liệu cho sản xuất và cho tiêu dùng thiết yếu, góp phần đầy đủ và phong phú thêm
hàng hoá lu thông trên thị trờng nội địa.
Tổng kim ngạch nhập khẩu trong thời kỳ này đạt 60,7 tỷ USD, với tốc độ bình
quân hàng năm tăng 12,2%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trởng kim ngạch nhập khẩu có
chiều hớng giảm dần, đặc biệt hai năm 1998 và 1999 kim ngạch nhập khẩu gần nh
không tăng đã làm giảm tốc độ chung của cả thời kỳ, đến năm 2000 lại tăng nhanh,
dự kiến đạt 14,8 tỷ USD, tăng 27,3%.
Thời kỳ này, các mặt hàng phục vụ sản xuất luôn luôn chiếm tỷ trọng cao trong
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, cụ thể là: Nhóm máy móc, thiết bị, phụ
tùng và nguyên, nhiên, vật liệu chiếm tỷ trọng 91,3% và đã tăng từ 83,5% năm 1995
lên 94,8% năm 1999 và năm 2000 dự kiến đạt 92%; Nhóm hàng tiêu dùng thời kỳ này
17
chiếm 8,7% và giảm dần từ 16,5% năm 1995 xuống 5,2% năm 1999 và năm 2000 dự
kiến 8,7%. Về tốc độ tăng trởng: Nhóm máy móc, thiết bị, phụ tùng và nguyên, nhiên,
vật liệu tăng bình quân 14,1%/năm, trong đó năm 2000 dự kiến tăng 21%. Nhóm
hàng tiêu dùng giảm bình quân 2%/năm, trong đó năm 2000 dự kiến tăng tới 90%.
Một điều đáng chú ý là trong giai đoạn này, cán cân ngoại thơng của Việt Nam
luôn trong tình trạng nhập siêu, tuy nhiên mức nhập siêu đã giảm đáng kể vào các
năm cuối giai đoạn. So với kim ngạch xuất khẩu, mức nhập siêu thời kỳ 1996 - 1999
đạt khoảng 8,5 tỷ USD, bằng 22,8 %. Tuy nhiên, mức nhập siêu đã giảm đáng kể: từ
3,9 tỷ USD năm 1996 (bằng 53,6% kim ngạch xuất khẩu) xuống 82 triệu USD năm
1999 (chỉ còn bằng 0,7% kim ngạch xuất khẩu) và năm 2000 dự kiến 800 tỷ USD
(bằng 5,7% kim ngạch xuất khẩu). Một trong các nguyên nhân làm giảm nhập siêu là
do kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Ngoài ra còn do kim ngạch nhập khẩu trong hai
năm 1998, 1999 hầu nh không tăng.
Về cơ cấu thị trờng nhập khẩu

Các năm 1996 - 2000 khu vực châu á-Thái Bình Dơng luôn là thị trờng nhập
khẩu quan trọng nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng bình quân 78,3% và có tốc độ
tăng trởng bình quân hàng năm là 9,7%. Trong khu vực này, Việt Nam nhập khẩu chủ
yếu từ Xinh-ga-po, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan, bốn thị trờng này chiếm tỷ
trọng đến 54% - 56%. Khối các nớc ASEAN chiếm tỷ trọng 28,5%, trong đó chủ yếu
là Xinh-ga-po.
Khu vực Âu-Mỹ chỉ chiếm vị trí khiêm tốn với tỷ trọng 17,2%. Tuy nhiên, khu
vực này cũng đang dần trở thành thị trờng nhập khẩu quan trọng hơn, với tốc độ tăng
trởng bình quân 1996 - 2000 là 12,6%/năm, cao hơn khu vực châu á - Thái Bình D-
ơng. Các thị trờng chủ yếu trong khu vực này là Pháp, Đức và Hoa Kỳ;
Khu vực châu Phi - Tây Nam á chỉ chiếm tỷ trọng 2,2%, nhng thời kỳ 1996 -
2000 đạt tốc độ tăng khá cao 22,5%/năm.
Thị trờng khác chiếm tỷ trọng 2,3%.
Dới đây là bảng thống kê tỷ trọng và tốc độ tăng trởng của 10 thị trờng nhập
khẩu chủ yếu trong giai đoạn 1996 - 2000:
Bảng 5: Tỷ trọng và tốc độ tăng trởng của 10 thị trờng nhập khẩu chủ yếu giai
đoạn 1996 - 2000
Nớc/thị trờng Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng trởng (%)
Xinh-ga-po 18,2 7,0
Hàn Quốc 13,5 3,5
Nhật Bản 12,5 12,7
Đài Loan 12,2 13,5
Hồng Kông 5,6 8,8
Thái Lan 5,0 6,1
Trung Quốc 4,2 2,0
Pháp 3,6 2,1
Đức 2,7 11,5
Hoa Kỳ 2,5 26,6
18
3.Tác động của chính sách xuất nhập khẩu đến kết quả thơng mại thời kỳ 1996-

2000.
3.1.Đối với l u thông trong n ớc.
- Thị trờng phát triển liên tục, phát huy đợc sức mạnh tổng hợp của nhiều thành
phần kinh tế, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trong sự phát triển và chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân;
- Thị trờng là một thể thống nhất, đợc chuyển đổi một cách căn bản việc mua
bán hàng hóa từ cơ chế kế hoạch hóa hành chính tập trung bao cấp sang cơ chế thị tr-
ờng, có sự quản lý của Nhà nớc, chủ thể kinh doanh tăng trởng mạnh và có sự chuyển
dịch khá rõ trong cơ cấu;
- Quản lý Nhà nớc về thơng mại có tiến bộ trong việc hoạch định chính sách vĩ
mô và điều hành, tạo môi trờng pháp lý và điều kiện thuận lợi cho sản xuất và lu
thông phát triển;
- Thị trờng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa đợc quan tâm đúng mức, có
nhiều tiến bộ.
3.2.Đối với xuất, nhập khẩu.
- Quy mô và tốc độ xuất, nhập khẩu trong 5 năm qua đã liên tục đợc mở rộng
và tăng trởng không ngừng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nớc, góp phần hình
thành nhiều ngành sản xuất, nhiều đơn vị sản xuất mới; tạo thêm việc làm cho ngời
lao động và đóng góp tích cực vào GDP;
- Cơ cấu nhóm, mặt hàng và thị trờng xuất khẩu đã có những cải thiện nhất
định, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hớng xuất khẩu;
- Số lợng mặt hàng xuất nhập khẩu ngày càng đợc mở rộng, chất lợng hàng
xuất khẩu đã nâng lên đáng kể;
- Số lợng doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh xuất-nhập khẩu ngày càng tăng và
có sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu chủ thể;
- Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tăng trởng khá nhanh
cả về quy mô và tốc độ;
- Kim ngạch và cơ cấu hàng nhập khẩu bảo đảm đợc nhu cầu tiêu dùng nhất là
về máy móc, thiết bị, vật t, nguyên liệu cho sản xuất và cho tiêu dùng thiết yếu, góp
phần cung ứng đầy đủ và làm phong phú thêm lợng hàng lu thông trên thị trờng.

3.3.Tác động của chính sách thị tr ờng ngoài n ớc đến sự phát triển th ơng mại
song ph ơng và đa ph ơng.
Trong những năm qua, công tác thị trờng nớc ngoài đã đóng góp tích cực và
trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nớc; các cam kết
song phơng, đa phơng đã tạo điều kiện phát triển và chuyển dịch cơ cấu thị trờng, mặt
hàng xuất nhập khẩu.
Từ 1996 đến 2000 đã có nhiều bớc tiến quan trọng trong quan hệ thơng mại với
các nớc, nhất các nớc trong khu vực châu á - Thái Bình Dơng: Việt Nam chính thức
tham gia ASEAN (1995), ASEM (1996) và APEC (1998); đã ký các Hiệp định thơng
19
mại với các nớc: úc, Niu Dilân, Malaysia, Thái Lan, Brunây, Hàn Quốc, Hoa Kỳ
Thị trờng châu Âu, châu Mỹ và châu Phi đều có những bớc tiến triển mạnh mẽ.
ii.Tổng quan khả năng cạnh tranh của Việt Nam thời kỳ
1996-2000.
Thời kỳ 1996 - 2000, Việt Nam tiếp tục thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và
chủ động hội nhập quốc tế với bớc đi thích hợp. Thực tế thời kỳ vừa qua cho thấy quá
trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế đã ngày càng tăng cờng
khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Tuy nhiên tốc độ tăng khả năng cạnh tranh của
Việt Nam diễn ra còn chậm so với yêu cầu.
Khả năng cạnh tranh có thể đợc phân biệt ở 3 cấp độ: Quốc gia, Doanh
nghiệp/Ngành và Sản phẩm. Về mặt sản phẩm cụ thể bao gồm: hàng hóa và dịch vụ,
sau đây xin chỉ đề cập tới hàng hóa.
1.Khả năng cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.
Khả năng cạnh tranh quốc gia có thể đợc hiểu là việc xây dựng một môi trờng
kinh tế chung, đảm bảo phân bố các nguồn lực, đạt và duy trì mức tăng trởng cao, bền
vững. Môi trờng cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá
trình tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh theo tín hiệu của thị trờng đợc
thông tin đầy đủ. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hớng ngày càng hiệu quả hơn với
tốc độ tăng trởng nhanh, phụ thuộc rất nhiều vào sự năng động của các doanh
nghiệp/ngành.

Cho đến nay Việt Nam vẫn đợc đánh giá có khả năng cạnh tranh quốc gia thấp.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), xét theo tính cạnh tranh tầm
quốc gia thì:
- Năm 1997 Việt Nam đứng thứ 49 trong 53 nớc đợc phân hạng.
- Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 39 trong 53 nớc đợc phân hạng (Chỉ số khả
năng cạnh tranh của Việt Nam đợc nâng lên chủ yếu do sự giảm sút kinh tế của
nhiều nớc do bị khủng hoảng, cha phải là do kết quả phát triển kinh tế của Việt
Nam mang lại.)
- Năm 1999 Việt Nam đứng thứ 48 trong 59 nớc đợc phân hạng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy Việt Nam đã có những bớc đi tích cực để nâng cao
khả năng cạnh tranh của toàn quốc gia, và trên thực tế khả năng cạnh tranh của Việt
Nam đã ít nhiều đợc cải thiện. Những bớc đi đó phần nào đợc thể hiện bằng việc cải
thiện đáng kể chế độ quản lý thơng mại trong thời kỳ 1996-2000 theo hớng nới lỏng
bớt quản lý của nhà nớc, tạo điều kiện cho thơng mại phát triển. Cụ thể nh sau:
- So với thời kỳ trớc 1996, biểu thuế nhập khẩu đã đợc hoàn thiện dần với việc
áp dụng hệ thống mã HS, cấu trúc biểu thuế đã đợc đơn giản hóa rất nhiều và khá ổn
định, thể hiện bằng việc giảm số mức thuế. Thuế suất của rất nhiều mặt hàng đã đợc
cắt giảm phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu của tiến trình hội nhập. Thực tế
hiện nay cho thấy hầu hết các sản phẩm nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đều có
mức thuế nhập khẩu danh nghĩa thấp hoặc không bị đánh thuế.
- Các NTM cũng dần đợc nới lỏng, cụ thể nh sau:
+ Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, hàng hóa nhập khẩu phải có giấy
phép hoặc hạn ngạch đã đợc thu hẹp dần. Chế độ phân bổ hạn ngạch và
cấp phép đã đợc cải tiến theo nguyên tắc phân bổ phù hợp với khả năng
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp phát triển;
20
+ Từ chỗ chỉ một số ít các doanh nghiệp đợc phép kinh doanh xuất - nhập
khẩu, đến nay tất cả các doanh nghiệp đã đợc phép, trừ một số mặt hàng
chiến lợc phải thông qua đầu mối nh xăng dầu, phân bón, gạo, xi-măng;

+ Nhiều biện pháp quản lý mới có tính khách quan hơn và ít cản trở thơng
mại đã đợc đa vào sử dụng, chẳng hạn các biện pháp tiêu chuẩn kỹ thuật
và chất lợng, kiểm dịch động thực vật, các thủ tục hải quan phù hợp với
quy định và thông lệ quốc tế;
+ Các thủ tục quản lý hành chính đã dần dần đợc hoàn chỉnh và đơn giản
hóa hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động
kinh doanh đợc thuận lợi.
Các yếu tố về khả năng cạnh tranh quốc gia có ảnh hởng rất lớn đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành, đến thu hút đầu t nớc ngoài trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia và duy
trì khả năng đó là yêu cầu quan trọng đối với mỗi nền kinh tế trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
2.Khả năng cạnh tranh doanh nghiệp/ngành của Việt Nam.
Khả năng cạnh tranh doanh nghiệp/ngành đợc thể hiện bằng khả năng bù đắp
chi phí, duy trì lợi nhuận và đợc đo bằng thị phần sản phẩm và dịch vụ của doanh
nghiệp trên thị trờng.
Đánh giá một cách tổng quan, các doanh nghiệp/ngành của Việt Nam có khả
năng cạnh tranh rất thấp cả ở thị trờng trong nớc và quốc tế.
Trớc hết, các doanh nghiệp có vốn đầu t trong nớc có khả năng cạnh tranh kém
hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, đợc thể hiện ở các mặt sau:
+ Hiệu quả hoạt động kinh doanh thấp;
+ Phổ biến ở tình trạng công nghệ lạc hậu;
+ Chậm đổi mới phơng thức quản lý và kinh doanh;
+ Cha xây dựng đợc hệ thống mạng lới bạn hàng và khả năng tiêu thụ;
+ Kém năng động do ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nớc. Chú trọng quá mức
đến "thái độ của Nhà nớc" và coi đó là nhân tố đảm bảo kinh doanh, vì
vậy có tình trạng cố giành đợc giấy phép, hạn ngạch để hạ giá thành,
mà không chú ý giải quyết các vấn đề bản chất của hạ giá thành;
+ Cha có chiến lợc và qui hoạch tổng thể cho sự phát triển hoặc kém tính
khả thi. Khá nhiều doanh nghiệp/ngành chỉ chú trọng đến mục tiêu ngắn

hạn;
+ ít đầu t cho nghiên cứu và phát triển tiếp thị và đào tạo huấn luyện
Khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn đầu t trong nớc, trong đó
chủ yếu là giữa doanh nghiệp Nhà nớc và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác, có tình trạng chủ yếu là,
+ Doanh nghiệp Nhà nớc có khả năng đầu t và cạnh tranh lớn hơn ở một số
mặt hàng, ngành hàng thiết yếu nh: xăng dầu, phân bón, thép, xi măng,
ôtô, thiết bị động lực, do có u thế về vốn và đầu t đổi mới công nghệ ;
+ Doanh nghiệp Nhà nớc có hiệu quả kinh doanh thấp hơn, chủ yếu do bộ
máy cồng kềnh, cơ chế quản lý tài chính và kinh doanh cha tạo ra động
lực để thu hút ngời lao động và tăng năng suất lao động.
21
3.Khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Để thấy đợc thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam có thể căn
cứ vào các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh nh đã đề cập. Trên cơ sở đó có thể
phân loại hàng hoá của Việt Nam thành 3 nhóm: nhóm có khả năng cạnh tranh, nhóm
có khả năng cạnh tranh có điều kiện và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp.
- Nhóm có khả năng cạnh tranh là cà phê, điều, gạo, tiêu, một số trái cây đặc
sản (soài, dứa, bởi, ), thuỷ, hải sản, hàng dệt may, giày dép, động cơ diesel loại
công suất nhỏ ;
- Nhóm có khả năng cạnh tranh với điều kiện đợc hỗ trợ có thời hạn và tích cực
nâng cao khả năng cạnh tranh là chè, cao su, rau, thịt lợn, lắp ráp điện tử, cơ khí, hóa
chất, xi măng, ;
- Nhóm có khả năng cạnh tranh thấp là đờng mía, bông, đỗ tơng, ngô, quả có
múi, hoa, sữa bò, gà, thép
Tổng quan khả năng cạnh tranh của các nhóm hàng hoá Việt Nam đợc phân
tích theo khả năng cạnh tranh tại thị trờng trong nớc và thị trờng ngoài nớc trên các
khía cạnh chất lợng, giá cả, mẫu mã, bao bì, điều kiện mua bán và thanh toán, và dịch
vụ sau bán hàng.
3.1. ở thị tr ờng trong n ớc.

a.Đối với nhóm hàng hóa có khả năng cạnh tranh.
Về giá cả: nhìn chung giá của các mặt hàng này thấp hơn giá của hàng hóa
cùng loại của các nớc trong khu vực và thế giới, vì vậy dù không bị NTB cản trở nếu
vào thị trờng Việt Nam thì mức giá vẫn sẽ cao hơn sản phẩm cùng loại của Việt Nam.
Ví dụ:
+ Gạo của Việt Nam giá thành 220 USD/tấn, trong khi đó giá gạo của Thái
Lan là 250 USD/tấn.
+ Cà phê của Việt Nam (đã sơ chế) giá thành 750-800 USD/tấn, trong khi
đó giá của ấn Độ là 1.412 USD/tấn cà phê chè, 926,9 USD/tấn cà phê
vối; của Côlômbia là 2.118 USD/tấn cà phê chè; của Inđônesia là 921,9
USD/tấn cà phê vối
Về chất lợng: các mặt hàng này đều đạt tiêu chuẩn theo Hệ thống quản lý tiêu
chuẩn, chất lợng quốc tế (ISO).
Về mẫu mã: theo đánh giá chung, sản phẩm sản xuất trong nớc đa dạng hơn sản
phẩm ngoại nhập.
Về bao bì: nhìn chung sản phẩm sản xuất trong nớc cha cạnh tranh đợc với sản
phẩm ngoại nhập.
Về điều kiện mua bán, thanh toán: giữa sản phẩm sản xuất trong nớc và sản
phẩm ngoại nhập có điều kiện nh nhau.
Về giao nhận, vận chuyển và dịch vụ sau bán hàng: sản phẩm sản xuất trong n-
ớc có điều kiện dịch vụ sau bán hàng thuận lợi hơn sản phẩm ngoại nhập cùng loại.
b.Đối với nhóm hàng hóa có khả năng cạnh tranh với điều kiện đ ợc hỗ trợ
có thời hạn và tích cực nâng cao khả năng cạnh tranh.
Về giá cả: nhiều mặt hàng của Việt Nam có giá cao hơn các nớc trong khu vực
và thế giới, tuy nhiên nếu có sự cải tiến quản lý, đầu t công nghệ tiên tiến để hạ giá
thành sản xuất thì giá cả có thể sẽ thấp hơn các nớc trong khu vực và thế giới.
22
Về chất lợng: các mặt hàng này đều đạt tiêu chuẩn theo Hệ thống quản lý tiêu
chuẩn, chất lợng quốc tế (ISO), nhng hiện tại giá thành sản xuất cao hơn giá sản phẩm
ngoại nhập.

Về mẫu mã, bao bì, điều kiện mua bán, thanh toán, giao nhận, vận chuyển và
dịch vụ sau bán hàng: nhìn chung hàng hóa sản xuất trong nớc cũng ở tình trạng tơng
tự nh nhóm ngành hàng có khả năng cạnh tranh.
c.Đối với nhóm hàng hóa có khả năng cạnh tranh thấp.
Về giá cả: hiện tại và trong tơng lai, giá của các mặt hàng sản xuất trong nớc sẽ
còn cao hơn giá hàng hóa cùng loại của các nớc trong khu vực và thế giới, do các nớc
trong khu vực/thế giới có lợi thế so sánh so với Việt Nam.
Về mẫu mã, bao bì, điều kiện mua bán, thanh toán, giao nhận, vận chuyển và
dịch vụ sau bán hàng: cũng ở tình trạng nh nhóm hàng có khả năng cạnh tranh.
3.2. ở thị tr ờng n ớc ngoài.
Hiện nay sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thuộc nhóm ngành hàng
có khả năng cạnh tranh. Các sản phẩm thuộc các nhóm khác cha đợc xuất khẩu hoặc
xuất khẩu rất ít. Do đó, ở đây chỉ đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam ở thị trờng nớc ngoài đối với các sản phẩm thuộc nhóm ngành hàng có khả năng
cạnh tranh.
Về giá cả: hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có mức giá thấp so
với sản phẩm cùng loại của các nớc trong khu vực và thế giới:
+ Cà phê: giá xuất khẩu bình quân năm 1996 là 1.190 USD/tấn, năm 1997
là 1.270 USD/tấn, năm 1998 là 1.555 USD/tấn, năm 1999 là 1.213 USD/tấn và dự
kiến năm 2000 là 800 USD/tấn;
+ Gạo: giá xuất khẩu bình quân năm 1996 là 284,6 USD/tấn, năm 1997 là
243,6 USD/tấn, năm 1998 là 273,1 USD/tấn, năm 1999 là 227,4 USD/tấn và dự kiến
năm 2000 là 184 USD/tấn;
+ Hạt tiêu: giá xuất khẩu bình quân năm 1996 là 1.846 USD/tấn, năm 1997
là 2.733 USD/tấn, năm 1998 là 4.267 USD/tấn, năm 1999 là 3.945 USD/tấn và dự
kiến năm 2000 là 4.571 USD/tấn;
+ Cao su: giá xuất khẩu bình quân năm 1996 là 1.350 USD/tấn, năm 1997
là 984 USD/tấn, năm 1998 là 668 USD/tấn, năm 1999 là 553 USD/tấn và dự kiến năm
2000 là 625 USD/tấn;
Về chất lợng: các mặt hàng đạt tiêu chuẩn ISO nên có chất lợng bằng sản phẩm

của các nớc trong khu vực và thée giới.
Về mẫu mã: các sản phẩm của Việt Nam không phong phú bằng các nớc trong
khu vực và thế giới (nhất là hàng dệt may).
Về bao bì: sản phẩm xuất khẩu cha cạnh tranh đợc với sản phẩm của các nớc
trong khu vực và thế giới.
Về điều kiện mua bán, thanh toán: cha đa dạng và thuận lợi nh các nớc, thậm
chí thanh toán của Việt Nam với một số nớc còn gặp nhiều khó khăn (ví dụ bán trả
chậm đối với gạo, cà phê, mua trả chậm phân bón, hàng tiêu dùng ).
Về giao nhận, vận chuyển và dịch vụ sau bán hàng: cha thuận lợi bằng các nớc
trong khu vực và thế giới.
23
B.Tổng quan các NTM và dịch vụ của Việt Nam.
I.Tổng quan các biện pháp thuế nhập khẩu.
Chỉ từ khi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng mậu dịch đợc
Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1988, Việt Nam mới
bắt đầu sử dụng thuế quan nh một công cụ trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu.
Kể từ khi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đợc Quốc hội thông qua ngày
26/12/1991 và có hiệu lực từ ngày 1/3/1992 bãi bỏ Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu đối với hàng mậu dịch, biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam mới đợc xây
dựng dựa trên Hệ thống hài hòa hóa và miêu tả hàng hóa (HS).
Bớc phát triển mới của biểu thuế Việt Nam đợc đánh dấu bằng Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đợc Quốc hội thông qua
ngày 20/5/1998 và có hiệu lực từ ngày từ 1/1/1999. Theo Luật này, biểu thuế nhập
khẩu của Việt Nam tuân thủ đến cấp 6 số của hệ thống HS 96, gồm có ba cột thuế
suất là thuế suất phổ thông, thuế suất u đãi và thuế suất u đãi đặc biệt.
Thuế suất u đãi hay còn gọi là thuế suất MFN là mức thuế dành cho hàng hóa
nhập khẩu từ các nớc đã ký kết hiệp định thơng mại song phơng với Việt Nam hoặc đ-
ợc Việt Nam đơn phơng cho hởng mức thuế suất này. Thuế suất phổ thông là mức
thuế dành cho hàng hóa nhập khẩu từ các nớc cha ký kết hiệp định thơng mại song
phơng với Việt Nam hoặc các nớc cha đợc Việt Nam cho hởng thuế suất u đãi (thuế

suất MFN). Thuế suất phổ thông thờng cao hơn thuế suất MFN từ 50-70%. Thuế suất
u đãi đặc biệt hiện nay Việt Nam đang dành cho hàng hóa nhập khẩu từ các nớc thành
viên ASEAN theo Hiệp định CEPT để thực hiện AFTA và sản phẩm dệt may từ EU.
Nếu nh năm 1996 biểu thuế của chúng ta chỉ có 3500 dòng thuế thì tính đến
năm 2000, tổng số dòng thuế của cả biểu thuế đã lên tới trên 6300 dòng. Kể từ năm
1996, cấu trúc của biểu thuế đã đợc đơn giản hóa rất nhiều, số mức thuế đã giảm từ 31
vào năm 1996 xuống 26 vào năm 1998 và đến nay con số này chỉ còn là 19. Trong đó
các mức thuế thấp (0%, 1%, 3%, 5%) dành cho nguyên liệu đầu vào của các ngành
sản xuất. Còn các mức thuế cao nhất (80%, 100%) dành cho các mặt hàng hạn chế
tiêu dùng nh rợu, bia, xe máy. Mức thuế suất bình quân giản đơn hiện hành là
15,98%, tơng đối thấp so với một số nớc cùng khu vực nh Thái Lan (27,6%), Phi-lip-
pin (24,4%), Inđônesia (18,3%).
Thuế nhập khẩu của Việt Nam có xu hớng thấp đối với nguyên liệu đầu vào
(thờng là 0%) và cao đối với sản phẩm đầu ra. Hình thức bảo hộ này đợc gọi là leo
thang thuế quan. Chẳng hạn nh, thuế suất đối với đồng nguyên liệu là 0% còn đối với
các sản phẩm bằng đồng thì mức thuế suất lại lên tới 30-40%. Cách thức bảo hộ này
khiến cho mức bảo hộ thực tế đối với sản phẩm cuối cùng cao hơn so với mức bảo hộ
danh nghĩa của thuế quan dành cho hàng hóa đó. Hình thức bảo hộ này đang bị yêu
cầu phải từng bớc hạn chế và xoá bỏ trong khuôn khổ đàm phán đa phơng (WTO).
Thuế suất nhập khẩu bình quân giản đơn cao nhất là đối với thuốc lá, đồ uống,
giầy dép và quần áo, tiếp đến là xe máy, đồ sứ, kính và các sản phẩm kính. Trong hầu
hết các ngành đều có sự dao động lớn giữa các mức thuế, đặc biệt là ngành hóa chất
công nghiệp và hóa chất khác, ngành kim khí cơ bản kim loại màu, thiết bị vận tải và
máy móc không dùng điện.
Thuế suất nhập khẩu bình quân gia quyền khác với thuế suất nhập khẩu bình
quân giản đơn trong một số trờng hợp, mặc dù những khác biệt này không mang tính
chất hệ thống. Ví dụ nh thuế suất nhập khẩu bình quân gia quyền đối với giày dép
24
thấp hơn thuế suất bình quân giản đơn. Điều này có nghĩa là lợng nhập khẩu mặt hàng
chịu thuế suất cao ít hơn. Hiện tợng này cũng khá phổ biến trong biểu thuế của nhiều

nớc trên thế giới do thuế suất cao có xu hớng làm giảm nhập khẩu.
Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam cũng cho thấy một xu thế là trong từng
phân ngành cụ thể, thuế suất cao nhất thờng áp dụng cho hàng tiêu dùng. Hàng t liệu
sản xuất và hàng nguyên liệu nói chung thờng có thuế suất thấp hơn.
Bên cạnh đó, biến động thuế suất hàng tiêu dùng thấp hơn rất nhiều so với biến
động thuế suất cho hàng đầu t và hàng nguyên liệu. Điều này hoàn toàn phù hợp với
chính sách thuế quan nhất quán trong việc cố gắng không khuyến khích nhập khẩu
hàng tiêu dùng nên mức thuế suất đối với hàng hóa này luôn đợc duy trì ở mức khá
cao. Mặt khác còn khuyến khích nhập khẩu hàng nguyên liệu và hàng đầu t. Tuy
nhiên, trong các giai đoạn khác nhau thì mức độ khuyến khích khác nhau dẫn đến
thuế suất dành cho các hàng hóa này thờng xuyên biến đổi.
Đến năm 1998, thuế quan đã đóng góp đến 25% giá trị tổng nguồn thu của
Chính phủ. Con số này thể hiện vai trò ngày càng tăng của thuế quan trong nguồn thu
ngân sách. Hiện nay, chính sách thuế xuất, nhập khẩu của Việt Nam còn nặng về tạo
nguồn thu (thể hiện rõ trong việc quy định mức suất thuế và sử dụng Bảng giá tối
thiểu khi tính mức thuế xuất, nhập khẩu), cha thực sự là công cụ phân biệt đối xử để
bảo hộ sản xuất trong nớc
Mặc dù đã có những tiến bộ không ngừng, song tới nay giới doanh nghiệp vẫn
còn phàn nàn về tình trạng chậm trễ trong khâu thông quan Hải quan do những trở
ngại phát sinh khi phân loại hàng hóa, xác định mức thuế. Nguyên nhân của những
tồn tại này là do:
-II Sự thay đổi và điều chỉnh thờng xuyên trong biểu thuế làm giảm tính rõ ràng,
minh bạch và khả năng có thể tiên liệu của thuế quan. Hệ thống chính sách
thuế quan vì thế cũng mất đi tính ổn định góp phần định hớng cho sản xuất và
đầu t;
-II Nhiều dòng thuế đợc phân định theo mục đích sử dụng cuối cùng của hàng hóa
dẫn đến việc các mặt hàng tơng tự nhau lại chịu mức thuế suất khác nhau, tuỳ
thuộc vào việc ai là ngời nhập khẩu những mặt hàng này và ai là ngời sử dụng
chúng.
II.Tổng quan các lĩnh vực dịch vụ gắn với những NTM.

Có thể nói nhiều ngành dịch vụ liên quan đến hoạt động thơng mại thờng đợc
sử dụng nh các NTM với mục đích bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nớc. Trong
số đó có thể kể đến một số dịch vụ nh phân phối, giám định, dịch vụ chuyên nghiệp,
ngân hàng, tài chính v.v
Dịch vụ phân phối:
Phân phối là hoạt động kinh tế tự nhiên của mọi doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh hàng hóa. Việt Nam là một trong số ít các nớc còn duy trì các hạn chế về
quyền phân phối của các doanh nghiệp nớc ngoài. Quyền phân phối bao gồm các
quyền tiếp thị và bán sản phẩm trên thị trờng nội địa.
Vấn đề cơ bản chính là ngời nớc ngoài có đợc phép nhập khẩu để phân phối
trên thị trờng Việt Nam hay không. Trên thực tế, các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài chỉ đợc phép nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho sản xuất mà không đợc nhập
khẩu để trực tiếp phân phối trên thị trờng Việt Nam.
25

×