Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC NHẬN TÁI CỦA VINARE TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI – WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.67 KB, 90 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM
VÀ NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM
I. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TÁI BẢO HIỂM
1. Sự cần thiết và bản chất của tái bảo hiểm
1.1 Sự cần thiết của tái bảo hiểm
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài việc đáp ứng
nhu cầu an toàn cho con người thì lợi nhuận luôn là mục tiêu của hoạt động bảo
hiểm thương mại. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những nguyên tắc quan
trọng mà khi tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn phải tuân thủ, đó là
nguyên tắc phân tán rủi ro. Bởi sau khi nhận các rủi ro được chuyển giao từ
người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với
những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ
tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiểu người theo nguyên tắc số
đông và như vậy với tư cách là người huy động và quản lý quĩ, các công ty bảo
hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế,
không phải lúc nào công ty bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng này.
Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và kinh doanh bảo
hiểm không phải là trường hợp ngoại lệ. Điều này xuất phát từ chính đặc điểm
của hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Thứ nhất, bảo hiểm có chu kỳ kinh doanh đảo ngược, phí bảo hiểm thu
trước trong khi việc chi trả bồi thường lại phát sinh sau. Hơn nữa xác suất rủi ro
lại khó có thể dự báo một cách chính xác tuyệt đối khi tính phí bảo hiểm. Nên
với trường hợp xác suất rủi ro thực tế lớn hơn xác suất rủi ro dự báo hay có
những tổn thất xảy ra liên tục trong một thời gian dài và thậm chí có thể là
những tổn thất mang tính thảm hoạ thì chính các nhà bảo hiểm sẽ phải gánh
chịu những rủi ro.
Thứ hai, kinh doanh bảo hiểm không chỉ đơn thuần là hoạt động kinh
doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho các nhà bảo hiểm mà còn là san sẻ rủi ro
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


giữa những người tham gia bảo hiểm với nhau. Tuy nhiên có những đối tượng
tham gia bảo hiểm hoạt động ở địa bàn xa dẫn đến công ty bảo hiểm không có
khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro dễ xảy ra tình trạng trục lợi bảo hiểm hoặc
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra để lại tổn thất lớn.
Thứ ba, kinh doanh bảo hiểm còn phải đáp ứng các yêu cầu pháp luật về
vốn và biên khả năng thanh toán…nhằm đảm bảo khả năng chi trả bồi thường
cho người tham gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm. Những yêu cầu đó một
mặt bảo vệ lợi ích cho người tham gia bảo hiểm, mặt khác đã hạn chế hoạt động
kinh doanh của bảo hiểm. Bởi không phải công ty bảo hiểm nào cũng có đủ khả
năng tài chính để chấp nhận tất cả các đơn yêu cầu bảo hiểm đặc biệt là đối với
những đối tượng tham gia bảo hiểm có giá trị lớn. Mà việc từ chối bảo hiểm lại
được coi là điều tối kị trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm vì khi đó việc mất
khách hàng (những người có yêu cầu hiện tại và trong tương lai) là điều không
thể tránh khỏi.
Chính vì vậy, để bảo vệ cho chính mình trước nguy cơ phá sản, mất các
khách hàng lớn và bất ổn trong hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm sẽ
phải phân tán rủi hay chuyển giao rủi ro cho các nhà bảo hiểm khác thông qua
hai hình thức: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm.
a. Đồng bảo hiểm: là phương thức bảo hiểm mà nhiều công ty bảo hiểm cùng
lúc nhận đảm bảo cho một rủi ro lớn.
Ưu điểm khi tiến hành đồng bảo hiểm là rủi ro được phân tán nhanh, đơn
giản, dễ hiểu và dễ tính toán.
Công ty
ĐBH A
Công ty
ĐBH B
Công ty
ĐBH C
Công ty
ĐBH D

Người được
bảo hiểm
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên đồng bảo hiểm lại có những nhược điểm như ký kết hợp đồng
gặp nhiều khó khăn và thời gian kéo dài sẽ mất hết thời cơ trong kinh doanh.
Mặt khác, khi tổn thất xảy ra việc giải quyết bồi thường sẽ rất khó tập trung
được một lúc nên người tham gia bảo hiểm sẽ không có điều kiện tập trung vốn
để khôi phục sản xuất kinh doanh và có thể dẫn đến việc nghi ngờ khả năng tài
chính của các nhà bảo hiểm.
b. Tái bảo hiểm: là phương thức trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm cho
một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo
hiểm khác.
Tác dụng của tái bảo hiểm được thể hiện ở một số mặt sau:
Rủi ro được phân tán nhanh, tránh phá sản cho các công ty bảo hiểm gốc
đặc biệt trong những trường hợp rủi ro mang tính thảm hoạ hoặc sự kiện bảo
hiểm xảy ra dồn dập. Từ đó giúp ổn định hoạt động kinh doanh của công ty.
Tăng năng lực cho các công ty bảo hiểm gốc để chấp nhận các dịch vụ,
giữ được khách hàng, từ đó nâng cao uy tín cho công ty bảo hiểm gốc.
Công ty bảo hiểm gốc còn được hưởng một tỷ lệ hoa hồng nhất định từ
các nhà nhận tái bảo hiểm (chỉ áp dụng trong tái bảo hiểm theo tỷ lệ).
Ký kết hợp đồng được dễ dàng hơn, thời gian ngắn hơn.
Góp phần tăng thu ngân sách, ngoại tệ cho Nhà nước thông qua thuế do
các công ty bảo hiểm đóng góp. Đồng thời góp phần đảm bảo đời sống cán bộ,
công nhân viên của công ty bảo hiểm gốc. Do có tái bảo hiểm, các công ty bảo
hiểm gốc sẽ tránh khỏi phá sản trong trường hợp rủi ro xảy ra quá lớn qua đó có
tác dụng ổn định việc làm cũng như thu nhập của người lao động trong công ty
và cho cả công ty. Từ đó gián tiếp bảo vệ quyền lợi cho người tham gia.
Mặt khác tái bảo hiểm cũng góp phần tăng cường quan hệ kinh tế giữa các
nước. Nhà tái bảo hiểm có thể là công ty trong nước hoặc nước ngoài. Khi đó

hoạt động tái bảo hiểm sẽ diễn ra giữa nhiều tổ chức tái bảo hiểm của nhiều
quốc gia. Như vậy, một tổn hại có tính thảm hoạ ở một nước, qua tái bảo hiểm
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sẽ được bù đắp từ những khoản tiền bồi thường mang tính quốc tế. Rủi ro được
phân tán trên phạm vi rộng, việc gánh chịu tổn thất trở nên dễ dàng hơn.
1.2 Bản chất và chức năng của tái bảo hiểm.
Như đã phân tích ở trên, tái bảo hiểm là nghiệp vụ thông qua đó một công
ty bảo hiểm (công ty bảo hiểm gốc hay công ty nhượng tái bảo hiểm) chuyển
cho một hoặc nhiều công ty bảo hiểm khác (công ty nhận tái bảo hiểm) một
phần rủi ro đã nhận đối với một đối tượng bảo hiểm nhất định trên cơ sở chuyển
nhượng bớt một phần số phí bảo hiểm đã nhận.
Chính vì vậy bản chất của tái bảo hiểm có thể được xem như là một cơ
chế phân tán rủi ro giữa các nhà bảo hiểm với nhau trên cơ sở các hợp đồng.
Điều đó có nghĩa là các công ty bảo hiểm cũng muốn giảm bớt âu lo, tìm kiếm
sự an toàn cho sự tồn tại của chính họ bằng việc mua tái bảo hiểm. Trong cùng
một lúc dựa vào khả năng tài chính và mối quan hệ kinh doanh của họ trong thị
trường bảo hiểm. Từ góc độ kỹ thuật, hoạt động tái bảo hiểm cho phép các công
ty bảo hiểm phân tán bớt rủi ro cho các công ty bảo hiểm khác sau khi đã giữ lại
phần rủi ro có thể đảm nhận. Mặt khác, nhìn từ góc độ tài chính, khả năng giữ
lại của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh tài chính của nó.
Phần vượt quá khả năng giữ lại đó cần phải được bù đắp, hỗ trợ của các công ty
nhận tái bảo hiểm.
Xuất phát từ bản chất trên mà khi xem xét chức năng của tái bảo hiểm cần
phải được nhìn nhận dưới hai góc độ.
Dưới góc độ các công ty bảo hiểm: Chức năng đối với các công ty
nhượng tái bảo hiểm là loại trừ được những tổn thất lớn liên quan đến mình,
phân tán được giữa những tổn thất lớn và những tổn thất nhỏ theo một biên độ
đã dự kiến trước. Mặt khác tái bảo hiểm còn giúp cấu trúc được tỷ lệ phí giữ lại
và phí tái đi một cách hợp lý. Còn đối với các công ty tái bảo hiểm, tái bảo hiểm

có chức năng là mở rộng kinh doanh để tăng doanh thu và ngoại tệ từ các dịch
vụ nhận tái. Việc giúp ổn định kinh doanh cho công ty bảo hiểm gốc cũng chính
là giúp hoạt động kinh doanh của mình được ổn định.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dưới góc độ Nhà nước: Bên cạnh việc tạo sự ổn định cho các công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm cũng gián tiếp giúp các doanh nghiệp, các cá nhân, các chủ
thể nền kinh tế tham gia bảo hiểm ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó
đảm bảo ổn định và sự phát triển vững chắc cho nền kinh tế trong nước. Ngoài
ra, tái bảo hiểm cũng giữ Nhà nước đảm bảo chức năng đối ngoại trong các nền
kinh tế mở từ đó đảm bảo ổn định thu ngân sách và ngoại tệ.
1.3 Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm.
Một điều có tính quy luật là kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân càng cao thì nhu cầu về bảo hiểm càng lớn. Như
vậy, sự phát triển của bảo hiểm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. Trong
khi đó tái bảo hiểm lại là hoạt động gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, là một phần cơ bản trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính vì
vậy mà lịch sử phát triển của tái bảo hiểm không thể tách rời được với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ. Theo đó, sơ lược phát triển của tái bảo hiểm
có thể được chia làm ba giai đoạn:
1.3.1 Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm (từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế
kỷ 19).
Theo tài liệu mà các nhà nghiên cứu thu thập được cho đến nay có thể
khẳng định nước Ý là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo
hiểm. Bản thoả ước cổ nhất có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm
được ký kết vào năm 1370 nhằm đảm bảo cho chuyến hàng hoá vận chuyển trên
biển có hành trình từ Genés đến Bruges. Hợp đồng được ký kết giữa một bên hai
thương nhân hoạt động với tư cách là nhà tái bảo hiểm với một bên là đại diện
cho một nhà bảo hiểm. Sau này cùng với sự phát triển rộng rãi của những mối
quan hệ thương mại giữa các thành phố của nước Ý và giữa các nước Bắc Âu,

đặc biệt là nước Anh, dịch vụ tái bảo hiểm ngày càng có điều kiện phát triển.
Do đây là giai đoạn đầu của thị trường tái bảo hiểm nên mới được thực
hiện chủ yếu với các nghiệp vụ như hoả hoạn, hàng hải và nhân thọ. Và đặc
điểm chủ yếu của giai đoạn này là hầu hết chỉ tái bảo hiểm trong nước với nhau
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với hình thức tái bảo hiểm chủ yếu là tuỳ ý lựa chọn. Đồng bảo hiểm được áp
dụng nhiều hơn tái bảo hiểm. Ngoài ra quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và
các nhà nhận tái bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở pháp luật của quốc gia mà
công ty nhượng tái bảo hiểm tiến hành. Một đặc điểm nữa trong giai đoạn này là
phương pháp tái bảo hiểm rất đơn giản, chủ yếu là tái bảo hiểm số thành và mức
dôi.
Tuy nhiên, sau đó đã xuất hiện nhiều vụ lạm dụng có tính chất con buôn
gây ra nhiều phản ứng chống lại bản chất của tái bảo hiểm. Đó là những trường
hợp mà các nhà tái bảo hiểm đã lợi dụng hình thức tái bảo hiểm để phân tán rủi
ro nhưng theo tỷ lệ phí thấp hơn nhiều so với phí bảo hiểm gốc để kiếm lời. Đây
là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ra đời đạo luật cấm các hoạt động tái bảo
hiểm hàng hải ở nước Anh trong một thời gian dài từ 1746 – 1864. Đạo luật này
đã vô hình chung tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức Lloyd’s phát huy ảnh
hưởng của mình bằng cách đồng bảo hiểm và sau 1864 đã nghiễm nhiên trở
thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất thế giới.
1.3.2 Giai đoạn từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20.
Giữa thế kỷ 19, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa có những bước
phát triển vượt bậc nhờ việc ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất. Giao lưu hàng hoá giữa các nước ngày càng mở rộng,
tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo hiểm trưởng thành và phát triển.
Nhiều tổ chức tái bảo hiểm chuyên nghiệp ra đời, mà đầu tiên phải kể đến là
nước Đức với công ty tái bảo hiểm Kohn thành lập năm 1846. Sau đó hàng loạt
các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi trên thị trường hiện nay cũng
được thành lập như công ty tái bảo hiểm Thuỵ Sĩ năm 1863, Công ty tái bảo

hiểm Luân Đôn năm 1869, Công ty tái bảo hiểm Munich năm 1880.
Có thể nói đây là giai đoạn tái bảo hiểm phát triển rộng khắp ở các thị
trường trên thế giới. Trong đó các nghiệp vụ thường áp dụng tái bảo hiểm nhiều
nhất là hàng không, kỹ thuật và dầu khí. Mặt khác quan hệ giữa các công ty
nhượng và các nhà tái bảo hiểm lúc này không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
gia mà đã mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Mà thị trường Lloyd’s vẫn là trung
tâm thế giới về bảo hiểm và tái bảo hiểm. Giai đoạn này cũng chứng kiến sự
xuất hiện đầy đủ tất cả các phương pháp và hình thức tái bảo hiểm.
Tuy nhiên với hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc khủng
hoảng kinh tế và lạm phát đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của ngành bảo
hiểm nói chung và ngành tái bảo hiểm nói riêng. Bị tổn hại nhiều nhât là các
công ty tái bảo hiểm của Đức. Các giới tư bản độc quyền đã lấy vốn và quĩ tiền
tệ bảo hiểm của các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm để chi tiêu trong chiến
tranh. Chính vì vậy mà đến cuối giai đoạn này thị trường tái bảo hiểm thế giới bị
trầm lắng hẳn.
1.3.3 Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945 với thắng lợi thuộc về
Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh. Cục diện thế giới thay đổi: hệ
thống xã hội chủ nghĩa ra đời, phong trào giải phóng dân tộc của nhiều nước
thuộc địa giành thắng lợi, chủ nghĩa đế quốc lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế
mới…Tất cả đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế nói chung, ngành bảo hiểm –
tái bảo hiểm nói riêng. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn đến chiều hướng phát triển
của tái bảo hiểm quốc tế. Các nước xã hội chủ nghĩa đã thực hiện nhiều biện
pháp mang tính độc quyền về tái bảo hiểm và hạn chế quan hệ với thị trường tái
bảo hiểm tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mà qui mô sản xuất
kinh doanh ngày càng được mở rộng và những tài sản có giá trị lớn ngày càng
tăng. Những bất đồng trong chiến tranh ngày càng được đẩy lùi vào quá khứ làm

cho quan hệ quốc tế phát triển nhanh chóng và mang tính toàn cầu. Xã hội phát
triển, nhiều ngành nghề mới ra đời nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Mặt
khác một số dịch vụ liên quan đến con người có giá cả ngày càng đắt đỏ. Đó là
những nguyên nhân chính giúp thị trường tái bảo hiểm thế giới giai đoạn này
phát triển nhanh nhất chưa từng thấy.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đặc trưng chủ yếu của thị trường tái bảo hiểm giai đoạn này là thị trường
tái bảo hiểm đi theo xu hướng toàn cầu hoá. Các công ty tái bảo hiểm của CHLB
Đức đã phục hồi nhanh chóng, sớm khôi phục lại địa vị truyền thống của mình
và thiết lập các mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Nhiều công ty tái bảo hiểm mới
được thành lập và ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tiến hành đồng thời dịch
vụ tái bảo hiểm đã khiến cho thị trường tái bảo hiểm trở nên cạnh tranh rất gay
gắt. Tuy nhiên tổng kết lại có thể thấy năm thị trường lớn nhất trên thế giới là
Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh, Pháp và năm thị trường mới nổi là Trung
Quốc, Brazin, Nga, Ấn Độ và Nam Phi. Mặt khác trong giai đoạn này các công
ty bảo hiểm gốc và các nhà tái bảo hiểm có quan hệ chặt chẽ theo kiểu song
phương và đa phương theo cấp quan hệ Chính phủ. Điển hình là sự ra đời của
các tập đoàn tái bảo hiểm như Tái bảo hiểm Châu Phi, Tái bảo hiểm Châu Á,
Tái bảo hiểm Asean…Các tập đoàn này vận hành dựa trên cơ sở nhượng bắt
buộc hay tự nguyện với nhau giữa các thành viên. Cuối cùng thị trường tái bảo
hiểm phát triển đã kéo theo sự phát triển của tất cả các hình thức và phương
pháp tái bảo hiểm đặc biệt là các công ty nhượng luôn muốn kết hợp nhiều
phương pháp tái bảo hiểm với nhau để thực hiện phân tán rủi ro nhanh hơn, giúp
ổn định hơn trong hoạt động kinh doanh.
2. Các hình thức tái bảo hiểm
2.1 Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn
Đây là hình thức tái bảo hiểm đơn giản và cổ điển nhất. Theo hình thức
này công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và
ngược lại nhà tái bảo hiểm có quyền chấp nhận hay từ chối rủi ro đó. Thông

thường mỗi loại rủi ro đem tái đi hoặc chấp nhận có thể hình thành một hợp
đồng tái bảo hiểm tách biệt.
a. Thủ tục tiến hành khi tái bảo hiểm theo hình thức này bao gồm các bước:
Trước hết công ty nhượng thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ
bảo hiểm nào đó với các rủi ro có liên quan dưới hình thức là phiếu đề nghị có
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đầy đủ thông tin về số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty
nhượng, thủ tục phí tái bảo hiểm…
Khi nhận được phiếu này, nhà tái bảo hiểm nghiên cứu, xem xét và có
toàn quyền lựa chọn nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó trên cơ sở rủi ro
được đề nghị. Nếu chấp nhận, nhà tái bảo hiểm sẽ xác nhận phần tham gia của
mình bằng cách ghi trực tiếp vào phiếu đề nghị và gửi lại cho công ty nhượng.
Tuy nhiên trước khi chính thức chấp nhận hay từ chối, nhà tái bảo hiểm có thể
yêu cầu biết thêm chi tiết khác để đánh giá rủi ro mà mình sẽ nhận như bản sao
hợp đồng bảo hiểm gốc, hoặc những chi tiết về định giá phí bảo hiểm…Và chỉ
khi nào nhận được thông báo chấp nhận của nhà tái bảo hiểm thì dịch vụ tái bảo
hiểm theo hình thức tuỳ ý lựa chọn mới coi như hoàn thành, trừ trường hợp có
sự thoả thuận khác giữa hai bên. Dịch vụ tái bảo hiểm này cũng sẽ tự động chấm
dứt hiệu lực nếu đến ngày mãn hạn của hợp đồng bảo hiểm gốc mà không có sự
tái tục hợp đồng; tuy nhiên dù hợp đồng bảo hiểm gốc có tái lập thì cũng không
có nghĩa là nhà tái bảo hiểm buộc phải tiếp tục nhận hợp đồng tái bảo hiểm cho
thời hạn kế tiếp, mà họ có quyền lựa chọn nhận hoặc từ chối không tham gia tiếp
nữa, trừ trường hợp có những giao kết nào khác.
b. Ưu điểm của hình thức này là:
- Giúp công ty nhượng đặc biệt là những công ty mới thành lập còn non
trẻ và ít kinh nghiệm có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi
ro có giá trị lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ bằng việc sử dụng chuyên
môn cũng như khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế.
- Giúp công ty nhượng cân đối được khả năng tài chính của mình bởi vì

họ rất chủ động tái đi những đơn vị rủi ro cần thiết, chủ động xác định mức giữ
lại hợp lý.
- Giúp công ty nhượng có thể loại bỏ được những rủi ro đặc biệt lớn hoặc
nguy hiểm mà khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm có thể làm ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của mình trong năm nghiệp vụ bảo hiểm riêng biệt nào
đó. Chẳng hạn như đối với các hợp đồng bảo hiểm cho những công trình lớn: đê
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điều, tổ hợp công nghiệp, công trình liên doanh…là những đối tượng được bảo
hiểm có giá trị lớn với số tiền bảo hiểm tăng không ngừng, sự tập trung giá trị
của tài sản ngày càng tăng và kéo dài, thời gian bảo đảm ngày càng thịnh hành
bằng việc ghép các loại bảo hiểm với nhau như: bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm
thiệt hại về lợi nhuận, khai thác...do đó, buộc phải áp dụng hình thức tái bảo
hiểm tuỳ ý lựa chọn.
- Tạo điều kiện cho công ty nhượng có thể cải thiện vận may rủi trong
việc đạt được những lợi ích tối đa theo các điều kiện qui định trong các hợp
đồng tái bảo hiểm của họ (như điều kiện về chia lãi, thục tục phí tái bảo hiểm
theo thang luỹ tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi…). Bên cạnh đó, vận may
rủi được chia sẻ giữa các bên là hoàn toàn khách quan, không gò ép bởi vậy tạo
điều kiện quan hệ lâu dài giữa công ty nhượng và tái bảo hiểm.
c. Nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn:
- Do tiết lộ thông tin nên các nhà tái bảo hiểm có thể biết được chiến lược
cũng như mục tiêu kinh doanh, ý đồ của công ty nhượng. Điều này tạo sự bất lợi
trong kinh doanh.
- Không đảm bảo thời gian và sự chắc chắn trong việc phân tán rủi ro bảo
hiểm. Do đó công ty nhượng có thể sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc
không có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng
làm cho công ty nhượng mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm.
- Chi phí hành chính thủ tục giấy tờ tốn kém do phải thường xuyên đàm
phán tái lập lại hợp đồng trước khi quyết định ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc với

khách hàng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh.
- Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được thực hiện
với mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc buộc phải giảm bớt thủ tục phí tái bảo
hiểm. Ngoài ra khi thị trường tái bảo hiểm thế giới cung cầu đã bão hoà hay khả
năng tiếp nhận rủi ro của thị trường đã gần đạt tới mức tối đa, dày đặc…thì tái
bảo hiểm theo hình thức này sẽ rất bị hạn chế.
2.2 Tái bảo hiểm bắt buộc
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo hình thức này công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm bắt buộc phải
thoả thuận với nhau từ trước là công ty nhượng buộc phải tái đi cho nhà tái bảo
hiểm tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc với hạn mức số tiền bảo hiểm hoặc
số tiền bồi thường nhất định. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng phải buộc mình
chấp nhận toàn bộ những đơn vị rủi ro đó.
a. Thủ tục tiến hành:
Bước đầu tiên và cũng là bước quan trọng nhất là thoả thuận. Bước này
tốn khá nhiều thời gian vì hai bên phải thoả thuận nhiều vấn đề có liên quan.
Bước tiếp theo là cam kết, điều đó có nghĩa là sau khi đã thoả thuận, hai
bên buộc mình phải cam kết với nhau theo tất cả nội dung thoả thuận
Bước cuối cùng là thực hiện cam kết. Trong bước này, công ty nhượng
có toàn quyền định phí bảo hiểm, nhà tái bảo hiểm không được can thiệp.
Về nguyên tắc mọi điều khoản trong hợp đồng đều phải bắt buộc hai bên
thực hiện. Nếu có thay đổi thì thông thường đến năm nghiệp vụ sau đó hoặc đến
một kỳ tái tục bảo hiểm mới thì mới thay đổi.
b. Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm bắt buộc:
- Bên công ty nhượng có toàn quyền định phí nên viêc kí kết hợp đồng
giữa công ty với khách hàng hoàn toàn chủ động, nhanh chóng.
- Vận may rủi chia sẻ giữa các bên là hoàn toàn mang tính khách quan vì
trước khi đặt bút kí kết hợp đồng, hai bên đã thoả thuận rất kỹ lưỡng.
- Thủ tục kí kết hợp đồng trong hình thức tái bảo hiểm này được tiến hành

nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
các công ty bảo hiểm.
c. Nhược điểm:
- Đối với công ty nhượng còn non trẻ, mới thành lập, khả năng tài chính
còn yếu kém, bao giờ cũng gặp nhiều bất lợi khi thoả thuận.
- Vì công ty nhượng có toàn quyền định phí nên đối với những nghiệp vụ
bảo hiểm mới, phức tạp màcông ty nhượng không đánh giá đúng xác suất rủi ro
hay mức độ tổn thất thì ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các bên.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.3 Tái bảo hiểm lựa chọn - bắt buộc (Tái bảo hiểm để ngỏ)
Theo hình thức này, công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả
dịch vụ mình có, ngược lại nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà
công ty nhượng tái cho theo đúng luật pháp của bên công ty nhượng.
a. Thủ tục tiến hành:
Trước hết, công ty nhượng tính toán, rút kinh nghiệm từ những năm trước
để chọn ra những dịch vụ bảo hiểm bất lợi cho mình đem tái đi.
Sau đó, thông báo cho các nhà tái bảo hiểm và đương nhiên họ phải chấp
nhận và hợp đồng phải được kí kết.
Nhà tái bảo hiểm có thể trao đổi lại với công ty nhượng một số vấn đề
mang tính chất kỹ thuật như quản lý rủi ro, định phí…
b.Ưu điểm:
- Rất phù hợp với công ty nhượng mới thành lập, khả năng tài chính còn
yếu kém, quan hệ hạn hẹp.
- Trong quan hệ quốc tế bây giờ, đây là hình thức tái bảo hiểm dễ thực
hiện nhất bởi vì hầu hết các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp trên thế giới đều
có tiềm lực tài chính mạnh và họ luôn muốn mở rộng thị trường đến những nước
đang phát triển và chậm phát triển, vì vậy mối quan hệ giữa công ty nhượng và
nhà tái bảo hiểm là rất thoải mái.
c. Nhược điểm:

- Do nhà tái bảo hiểm luôn luôn bị bất lợi cho nên những nghiệp vụ bảo
hiểm mới mà công ty nhượng tái cho họ thường bị ép phí.
- Nếu công ty nhượng gặp phải nhà tái bảo hiểm mà hoạt động kinh doanh
của họ đang trong giai đoạn khó khăn hoặc thị trường tái bảo hiểm cung vượt
quá cầu thì mức phí cũng như hoa hồng tái bảo hiểm phải thoả thuận lại, do đó
phần nào cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty nhượng.
3. Các phương thức tái bảo hiểm
3.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ là phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó trách
nhiệm của công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm đối với các đơn vị rủi ro
được bảo hiểm sẽ phân bổ theo theo tỷ lệ giữa các bên tham gia so với số tiền
bảo hiểm.
Đặc điểm của phương pháp tái này là đơn giản, dễ hiểu, dễ tính toán vì
quĩ bảo hiểm và số tiền bồi thường đều được chia sẻ theo tỷ lệ mà các bên đã
cam kết trên cơ sở số tiền bảo hiểm. Ngoài ra tái bảo hiểm theo tỷ lệ rất phù hợp
với các công ty bảo hiểm còn non trẻ, mới thành lập. Tuy nhiên thủ tục phí hay
hoa hồng đôi khi rất khó thống nhất giữa các bên tham gia hợp đồng. Có hai
phương pháp cơ bản là: tái bảo hiểm số thành ( phân ngạch) và tái bảo hiểm mức
dôi (thặng dư vốn).
3.1.1 Tái bảo hiểm số thành:
Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất
định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại đem tái đi. Chính vì vậy, phí bảo hiểm
và số tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa các bên theo tỷ lệ tương ứng.
a. Đặc điểm:
- Tất cả các đơn vị rủi ro trong bảo hiểm gốc đều phải đem tái đi theo tỷ lệ
tương ứng mà các bên đã thoả thuận.
- Nếu số tiền tái đi quá nhiều công ty nhượng có thể tìm kiếm nhiều nhà
tái bảo hiểm khác nhau để đảm bảo phân tán rủi ro nhanh hơn, giúp công ty ổn

định kinh doanh.
- Trong tái bảo hiểm số thành các bên tham gia hợp đồng cũng có thể đưa
ra một giới hạn nhất định. Căn cứ vào giới hạn này buộc công ty nhượng phải
tìm kiếm những bạn hàng mới.
b. Ưu điểm:
- Là phương pháp tái bảo hiểm đơn giản, dễ tính toán, chi phí quản lý tiết
kiệm.
- Đối với các nhà tái bảo hiểm, phương pháp này có tính cân đối và dễ
chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm khác vì rủi ro phân tán dễ hơn so với
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các phương pháp khác. Đặc biệt nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham gia vào mọi
đơn vị rủi ro. Đồng thời công ty nhượng hoàn toàn yên tâm khi khách hàng tham
gia bảo hiểm gốc chuyển giao rủi ro cho mình.
- Hoa hồng tái bảo hiểm cao nhất.
c. Nhược điểm:
- Vì tất cả các đơn vị rủi ro đều đem tái đi nên công ty nhượng không giữ
lại cho mình những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm mà khả năng tài chính của
mình hoàn toàn cho phép. Do đó ít nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận và doanh thu
của công ty nhượng.
- Mức độ biến thiên của số tiền bảo hiểm và số tiền bồi thường đôi khi
công ty nhượng không lường trước được.
d. Trường hợp áp dụng: từ những ưu nhược điểm trên phương pháp tái bảo
hiểm này thường được áp dụng trong những trường hợp sau:
- Khi công ty nhượng mới bắt đầu triển khai một nghiệp vụ mà họ chưa có
kinh nghiệm, thiếu thông tin thống kê và khả năng phân tích tiến triển của loại
nghiệp vụ đó.
- Khi công ty nhượng có ý đồ thu xếp tái bảo hiểm dưới hình thức trao đổi
các dịch vụ với nhau để tạo ra những mối quan hệ đầu tiên.
- Đối với những loại nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty nhượng gặp nhiều

khó khăn trong phân định rủi ro và đơn vị rủi ro (đặc biệt là trong bảo hiểm
nông nghiệp và bảo hiểm kỹ thuật).
- Nhằm mục đích giảm nhẽ khả năng nguy hiểm cho công ty nhượng đối
với những hợp đồng bảo hiểm cho rủi ro thiên tai.
- Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mà phạm vi hoạt động và qui mô của
tổn thất không chắc chắn mặc dù các nhà bảo hiểm đã giới hạn trách nhiệm của
mình.
- Thường được áp dụng trong các nhóm liên doanh giữa các công ty bảo
hiểm với nhau hoặc dưới hình thức chuyển nhượng tái bảo hiểm.
3.1.2 Tái bảo hiểm mức dôi
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một số tiền bảo
hiểm nhất định, phần còn lại đem tái đi cho công ty khác. Bởi vậy phí bảo hiểm
và số tiền bồi thường (nếu có) cũng được phân bổ theo tỷ lệ mỗi bên đảm nhiệm.
a. Đặc điểm:
- Không phải đơn vị rủi ro nào cũng phải đem tái đi, mà chỉ tái đi những
đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm vượt quá mức giữ lại. Và mức giữ lại được xác
định dựa trên khả năng tài chính của công ty nhượng, xác suất rủi ro đối với
nghiệp vụ này trong những năm trước đó, mức lãi suất thu được của công ty
nhượng và tình hình kiểm soát rủi ro về nghiệp vụ đó.
- Mức giữ lại tối đa trên mỗi đơn vị rủi ro thường là bằng nhau nên công
ty nhượng luôn luôn khống chế được hạn mức trách nhiệm của mình một cách
chắc chắn.
- Tuy nhiên trong điều kiện ngày nay, đối tượng tham gia bảo hiểm
thường có số tiền rất lớn và rất khác nhau trên mỗi đơn vị rủi ro. Bởi vậy nếu áp
dụng phương pháp mức dôi thì số tiền còn dư thừa trên mỗi đơn vị rủi ro là
không thể tránh khỏi. Để xử lý vấn đề này nhìn chung các công ty nhượng trên
thế giới thường có 3 cách: Thứ nhất có thể tiến hành đàm phán lại, nếu các nhà
tái bảo hiểm chấp nhận chúng ta lại phân bổ tiếp lần hai, lần ba…cho đến hết.

Trường hợp các nhà tái bảo hiểm không đồng ý, số tiền bảo hiểm dư thừa sẽ
quay về công ty nhượng chịu trách nhiệm toàn bộ. Ngoài ra để an toàn hơn,
công ty nhượng có thể mở một hợp đồng tạm thời (hợp đồng để ngỏ).
b. Ưu điểm:
- Phương pháp này khá đơn giản và dễ hiểu.
- Công ty nhượng thường phát huy tối đa khả năng tài chính của mình do
có thể giữ lại cho mình những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nằm trong khả
năng tài chính cho phép.
- Mặc dù là một trong những phương pháp tái bảo hiểm cổ điển nhưng lại
rất phù hợp với tất cả loại hình công ty bảo hiểm từ những công ty còn non trẻ
đến những công ty đã kinh doanh được nhiều năm.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
c. Nhược điểm:
- Nhìn chung chi phí quản lý tốn kém hơn so với phương pháp số thành.
- Những tổn thất nhỏ phần lớn rơi vào công ty nhượng phải gánh vác.
- Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mà sự biến thiên về số tiền bảo hiểm,
số tiền bồi thường quá lớn thì áp dụng phương pháp mức dôi sẽ có nhiều hạn
chế rơi vào công ty nhượng.
d. Trường hợp áp dụng:
Thông thường phương pháp này thường được áp dụng đối với các nghiệp
vụ bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt liên quan, bảo hiểm tai nạn thân thể và
bảo hiểm nhân thọ…vì số tiền bồi thường, số tiền bảo hiểm biến thiên không
quá lớn.
Để hiểu hơn về sự khác biệt giữa hai phương pháp trên ta có thể xem qua
ví dụ sau: Giả sử có 5 nghiệp vụ bảo hiểm, công ty nhượng đảm nhận 5 đơn vị
rủi ro và thu xếp tái bảo hiểm theo một trong hai phương pháp số thành và mức
dôi với mức giữ lại:
TBH mức dôi: công ty nhượng giữ lại 500.000$ /1 đơn vị rủi ro
TBH số thành: công ty nhượng giữ lại 50% /1 đơn vị rủi ro

Phân bổ trách nhiệm cho các bên theo hai phương pháp trên là:
STBH
TBH số thành TBH mức dôi
Cty nhượng Số thành Cty nhượng Mức dôi
100.000 50.000 50.000 100.000 0
500.000 250.000 250.000 500.000 0
1.000.000 500.000 500.000 500.000 500.000
1.800.000 900.000 900.000 500.000 1.300.000
2.000.000 1.000.000 1.000.000 500.000 1.500.000
Trường hợp nếu có tổn thất xảy ra thì trách nhiệm bồi thường cũng được
phân theo tỷ lệ mà mỗi bên đảm nhiệm so với số tiền bảo hiểm.
3.1.3 Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Thực chất đây không phải là phương pháp tái bảo hiểm thuần tuý theo tỉ
lệ mà là sự kết hợp giữa hai phương pháp với mục đích là nhằm phân tán rủi ro
nhanh hơn,giúp công ty nhượng dễ dàng kí kết hợp đồng hơn, phù hợp với nhu
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cầu thực tiễn của ngành bảo hiểm là đối tượng tham gia bảo hiểm có số tiền bảo
hiểm ngày càng lớn và rất đa dạng, mức độ biến thiên của từng nghiệp vụ ngày
càng tăng.
Xét về mặt kỹ thuật, phải phân bổ theo hợp đồng số thành trước sau đó
mới phân bổ theo hợp đồng mức dôi. Nếu số tiền bảo hiểm còn dư thừa, nhìn
chung đều quay về công ty nhượng gánh vác toàn bộ trừ trường hợp công ty
nhượng tìm được một đối tác mới tin cậy và kí kết với họ những hợp đồng tạm
thời.
Ví dụ có hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp sau đây:
Hợp đồng 1: Hạn mức trách nhiệm 1 trUSD, mức giữ lại 50%
Hợp đồng 2: Hạn mức trách nhiệm 1 trUSD
Việc phân bổ trách nhiệm và trách nhiệm bồi thường của các công ty sẽ được
tiến hành như sau:

STBH
HĐ 1
HĐ 2 STBT
Trách nhiệm bồi thường
BH gốc TBH ST BH gốc TBH ST TBH MD
400.000 200.000 200.000 0 10.000 5.000 5.000 0
1.600.000 500.000 500.000 0 0 0 0 0
2.500.000 1.000.000 500.000 1.000.000 100.000 40.000 20.000 40.000
850.000 425.000 425.000 0 0 0 0 0
3.000.000 1.500.000 500.000 1.000.000 0 0 0 0
Ưu điểm của phương pháp tái bảo hiểm kết hợp số thành, mức dôi là giúp
công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách nhiệm bảo hiểm cho
khách hàng một cách tự do mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của bản thân
mình. Bên cạnh đó cũng giúp công ty nhượng kinh doanh ổn định hơn, đặc biệt
là quan hệ trên thị trường tái bảo hiểm rộng lớn để từ đó học tập kinh nghiệm
của họ.
Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là chi phí hành chính tốn
kém, phức tạp hơn so với những hợp đồng thuần tuý. Hơn nữa, hoa hồng công
ty nhượng thu được từ hợp đồng mức dôi thường thấp hơn so với hợp đồng số
thành trong dạng kết hợp này và so với hợp đồng mức dôi thuần tuý. Ngoài ra
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần đem tái bảo hiểm cho hợp đồng mức dôi bao giờ cũng phải có bảng thông
báo cụ thể.
Trong thực tế phương pháp kết hợp này thường được áp dụng trong các
nghiệp vụ bảo hiểm như hoả hoạn, xây dựng lắp đặt, thân tàu, hàng hóa, bảo
hiểm tai nạn và sức khoẻ.
3.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ
Khái niệm: Tái bảo hiểm phi tỷ lệ là phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó
công ty nhượng ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể

tự gánh chịu cho những tổn thất là hậu quả của những rủi ro được bảo hiểm,
phần tổn thất vượt quá giới hạn đó được chuyển cho các nhà tái bảo hiểm gánh
chịu.
Đặc điểm:
- Trách nhiệm của các bên đối với mỗi tổn thất không phân chia theo số tiền bảo
hiểm mà theo số tiền bồi thường.
- Tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm giữa các bên là số tiền bồi
thường.
- Công ty nhượng phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất bằng hoặc
dưới mức giữ lại và số tiền bồi thường được gọi là “mức tự bồi thường”.
- Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch, phần này được
tính từ mức tự bồi thường trở lên. Tuy nhiên nếu trong một hợp đồng có nhiều
nhà tái bảo hiểm thì các nhà tái bảo hiểm cũng tự giới hạn trách nhiệm của mình
trước khi kí kết hợp đồng.
- Tái bảo hiểm phi tỷ lệ cũng có hai phương pháp cơ bản là tái bảo hiểm vượt
mức bồi thường và tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường.
3.2.1 Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường
Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một số tiền bồi
thường nhất định, phần vượt quá đem tái đi cho các công ty khác. Mối quan hệ
giữa các công ty ở đây liên quan trực tiếp tới mức tự bồi thường của công ty
nhượng của công ty nhượng và các mức giới hạn trách nhiệm của các nhà tái
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bảo hiểm. Nếu số tiền tái đi quá nhiều, công ty nhượng phải quan hệ với nhiều
đối tác cùng một lúc. Khi đó các nhà tái bảo hiểm phải được sắp xếp theo trật tự
các lớp rất nghiêm ngặt.
Trình tự thu xếp tái bảo hiểm vượt mức bồi thường: Công ty nhượng sau
khi ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc với người được bảo hiểm sẽ tìm kiếm nhà
nhận tái phần trách nhiệm bồi thường vượt quá mức giữ lại của mình. Nếu như
có nhiều người nhận tái tham dự hợp đồng, trách nhiệm của những nhà nhận tái

cũng được xếp thành các lớp. Các lớp chính là mức nhận của mỗi nhà tái bảo
hiểm, tương tự như trong tái bảo hiểm mức dôi, trách nhiệm bồi thường của các
nhà nhận tái bảo cũng được xếp theo thứ tự lần lượt. Các nhà nhận tái của lớp
sau chỉ bồi thường nếu thiệt hại phải bồi thường vẫn tồn tại khi người nhận lớp
trước đã hoàn thành trách nhiệm của mình.
Chính vì vậy đặc điểm cơ bản của phương pháp tái bảo hiểm vượt mức
bồi thường là:
Thứ nhất, quan hệ giữa các bên phải theo một trật nhất định không được
thay đổi và mức bồi thường cao nhất của mỗi bên là cố định.
Thứ hai, mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và các nhà nhận tái bảo
hiểm theo phương pháp này chỉ thông qua số tiền bồi thường, không qua số tiền
bảo hiểm.
Thứ ba, phí tái bảo hiểm được tính toán trên cơ sở hạn mức trách nhiệm
mà mỗi bên đảm nhận, xác suất rủi ro liên quan đến từng bên, thời điểm kí kết
hợp đồng và thời hạn của hợp đồng liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm.
Thứ tư, công ty tái bảo hiểm thuộc lớp nào thì khi tổn thất xảy ra sẽ bồi
thường theo lớp đó. Vì vậy các khoản phí tạm giữ, các khoản bồi thường tạm
giữ, trả ngay… hoàn toàn do sự thoả thuận giữa công ty nhượng với các lớp.
Chính vì vậy, trong phương pháp tái bảo hiểm này, công ty nhượng ngay
từ đầu năm nghiệp vụ phải đặt cọc cho các nhà tái bảo hiểm một số tiền nhất
định gọi là phí đặt cọc. Về cơ bản phí đặt cọc được tính toán dựa vào những cơ
sở nói trên. Nếu năm đó tổn thất không xảy ra công ty nhượng cũng không có
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyền đòi lại số phí đặt cọc này. Ngược lại, nếu tổn thất xảy ra quá lớn, có thể
hai bên phải tính toán thêm một mức phí điều chỉnh để đảm bảo hài hoà lợi ích
giữa các bên. Cũng theo phương pháp này, các nhà tái bảo hiểm có thể đưa ra
giới hạn nhất định hoặc vô hạn. Trong trường hợp này công ty nhượng phải ứng
xử như sau: trước hết phải tìm hiểu kỹ lưỡng khả năng tài chính của nhà tái bảo
hiểm. Ngoài ra cũng phải tìm hiểu mối quan hệ của nhà tái bảo hiểm này với các

công ty bảo hiểm, các thị trường bảo hiểm khác. Cuối cùng là xem xét tình hình
bồi thường của công ty này liên quan đến nghiệp vụ tái bảo hiểm của một số
năm trước đó cũng như tiến độ bồi thường của công ty này nói chung.
Thứ năm, công ty nhượng khi đàm phán kí kết hợp đồng với các nhà tái
bảo hiểm cần phải xét đến thế mạnh của mỗi nhà tái bảo hiểm theo từng nghiệp
vụ. Vì thế mạnh của họ giúp công ty nhượng học hỏi kinh nghiệm về đánh giá
và tính toán số tiền đặt cọc, quản lý rủi ro và mối quan hệ trên thị trường bảo
hiểm nói chung.
Thứ sáu, phí tái bảo hiểm vượt mức bồi thường thường được chia làm hai
phần: phí đặt cọc và phí điều chỉnh.
Phí đặt cọc là phần phí cơ bản nhất, được xác định trên cơ sở là tổng số
tiền tổn thất trong một số năm nào đó và tổng số phí thu được trong các năm đó
của từng nghiệp vụ riêng biệt. Bộ phận này được các công ty bảo hiểm gọi là phí
thuần.
Tỉ lệ phí thuần : Tổng số tổn thất trong một số năm
T=
Tổng số phí thu được
Phí điều chỉnh được xác định nhằm hài hoà lợi ích giữa các bên tham gia
hợp đồng; tính đến độ an toàn của các bên một cách hợp lý; giúp các bên xây
dựng phương án, kế hoạch về chi phí môi giới, chi phí quản lý vì những khoản
này trong thực tế đôi khi rất lớn. Kết hợp cả phí thuần và phí điều chỉnh các bên
sẽ xây dựng được phương án tính phí hoàn chỉnh.
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên trong thực tế để đơn giản hoá, người ta tính tỉ lệ biến động như
sau:
Tổng số tổn thất trong một số năm 100
Tỉ lệ biến động = *
Tổng số phí thu được 80
Tỉ lệ biến động thường được áp dụng trong những trường hợp như tổn thất

xảy ra trong năm nghiệp vụ là quá lớn so với tổn thất dự kiến ban đầu; khi tỉ lệ
giữ lại, số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường giữ lại của công ty nhượng rất nhỏ,
còn của các nhà tái bảo hiểm đảm nhận rất lớn hoặc những trường hợp đột xuất
như thảm hoạ, thiên tai, tai nạn thảm khốc mà các nhà tái bảo hiểm của các nước
kiến nghị đề xuất.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường gồm:
a. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ:
Là một dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ trong đó mức tự bồi thường của công
ty nhượng được ấn định sao cho khi một số nghiệp vụ tổn thất xảy ra thì nhà tái
bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Loại này được áp dụng trên cơ
sở từng đơn vị rủi ro và cũng chia làm hai hình thức:
Đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức: Hợp đồng được áp dụng cho từng
đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc hay không hạn chế số vụ cũng như tổng số tiền bồi
thường cho các tổn thất, chúng đều được nhà nhận tái bảo hiểm đảm bảo bằng
hợp đồng tái bảo hiểm. Tuy nhiên phạm vi áp dụng cho loại hình này tương đối
hẹp vì nó không có giới hạn trên cho trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm và mức
phí tái bảo hiểm phải rất cao.
Đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố: Là loại “đảm bảo nghiệp vụ”
bổ sung cho loại trên, trong đó quy định trách nhiệm tối đa cho nhà tái bảo hiểm
trong trường hợp tổn thất nặng nề hay quá nhiều rủi ro xảy ra dẫn đến giá trị bồi
thường lớn.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ thường được sử
dụng trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản như bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm
hàng hóa và bảo hiểm hàng tàu kết hợp.
b. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo thảm hoạ
Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ để bảo vệ cho công ty nhượng tránh được
những trường hợp tổn thất quá mức bình thường đối với những sự cố nằm ngoài
khả năng kiểm soát bảo hiểm thông thường. Mục đích trước hết của loại đảm

bảo này là bảo vệ đối với sự tích tụ hay kết gộp nhiều tổn thất xảy ra từ cùng
một sự cố hay sự việc có tính chất thật khốc liệt.
Điểm tính mức bồi thường mà xuất phát từ đó các nhà tái bảo hiểm chịu
trách nhiệm có thể thay đổi tuỳ thuộc một phần vào thực lực tài chính về mức tự
bồi thường của công ty nhượng, nhưng thông thường loại tái bảo hiểm này dùng
để bảo vệ trong trường hợp sự cố xảy ra có liên quan từ hai đơn vị rủi ro được
bảo hiểm trở lên. Trên thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới, dạng tái bảo
hiểm này được sử dụng rất rộng rãi trong tất cả các loại nghiệp vụ bảo hiểm.
Các tổn thất mang tính thảm hoạ có thể là rủi ro thiên tai như động đất,
sóng thần, lũ lụt hoặc thiên tai của nhiều xe ô tô cùng một vụ hay hai tàu cùng
được bảo hiểm đâm nhau...Trong một số trường hợp đó là những tổn thất của
một sự cố có liên quan đến nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau do cùng
một công ty bảo hiểm đảm nhận.
3.2.2 Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường
Theo phương pháp này, nhà tái bảo hiểm chỉ có trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp kết quả toàn bộ nghiệp vụ của công ty nhượng có tỷ lệ bồi
thường vượt quá tỷ lệ ấn định trước. Tỷ lệ ấn định trước về cơ bản do công ty
nhượng tự ấn định. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp do hai bên tự thoả
thuận trước. Và thông thường tỷ lệ này được xác định trên cơ sở doanh thu phí
hàng năm của công ty bảo hiểm gốc, tình hình tổn thất của loại hình nghiệp vụ
được bảo vệ, hoa hồng và các chi phí khác.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối với hình thức này, việc phân chia trách nhiệm bồi thường giữa người
nhận và nhượng tái được xác định trên một tỷ lệ nhất định giữa tổng số tiền bồi
thường và tổng số phí gốc thực thu (tính cho cả năm nghiệp vụ). Trên cơ sở này,
người nhượng sẽ chịu trách nhiệm bồi thường trong phạm vi một tỷ lệ bồi
thường nhất định. Nhà tái bảo hiểm cũng sẽ nhận trách nhiệm bồi thường theo tỷ
lệ tương tự nhiều hay ít phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa hai bên. Nếu trong
năm nghiệp vụ thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm xảy ra nhiều, tỷ lệ bồi

thường trên phí bảo hiểm gốc lớn hơn tỷ lệ mà người người nhượng giữ lại cho
mình thì nhà tái bảo hiểm sẽ phải chịu trách nhiệm.
Mục đích của dạng tái bảo hiểm này là bảo vệ công ty nhượng trước
những sự cố hoặc thảm hoạ xảy ra trong một thời gian ngắn nào đó bất luận do
nguyên nhân gì. Khoảng thời gian hai bên thoả thuận thường nhỏ hơn một năm,
còn tỉ lệ bồi thường bằng tỷ lệ phần trăm giữa số tiền tổn thất phải bồi thường và
số phí bảo hiểm thu được hoặc cũng có thể biểu thị bằng một mức tiền ấn định
nào đó. Hoặc có một số trường hợp giới hạn trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm
vừa bằng số tuyệt đối vừa bằng số tương đối.
Sử dụng hình thức tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường, những nhà bảo
hiểm gốc có thể giữ cho kết quả tài chính của năm nghiệp vụ được ổn định ở
mức độ cần thiết. Tuy nhiên, hạn chế của tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường là ở
chỗ khi áp dụng hình thức này người nhận tái có thể phải gánh chịu toàn bộ sai
sót của người bảo hiểm gốc khi đánh giá, chấp nhận, quản lý rủi ro và định phí
bảo hiểm gốc.
Phí tái bảo hiểm là một trong những yếu tố then chốt của hợp đồng tái bảo
hiểm. Nếu tính phí quá cao so với thực tế, công ty bảo hiểm gốc sẽ bị thiệt hại
về tài chính. Ngược lại, nếu tính phí quá thấp sẽ khó thu xếp hợp đồng tái bảo
hiểm. Chính vì vậy mà khi tính phí tái bảo hiểm ở đây cần căn cứ vào tài liệu
thống kê của một số năm trước đó (thường là năm năm) và cũng cần tính đến hệ
số an toàn. Tuy nhiên do tính toán phức tạp hơn mà trong thực tế phương pháp
này rất ít khi được áp dụng.
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có thể đưa ra một ví dụ sau đây về hai phương pháp tái bảo hiểm vượt mức bồi
thường và tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường.
Công ty nhượng thu xếp một hợp đồng tái bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
như sau:
- 60% TBH số thành với mức nhận bảo hiểm gốc tối đa là 41tr USD/1 đv RR
- thu xếp một hợp đồng TBH vượt mức bồi thường, đảm bảo thảm hoạ chung

cho toàn bộ nghiệp vụ với hạn mức trách nhiệm là 10 tr USD vượt quá 3 tr USD
cho mỗi sự cố với mức phí TBH bằng 5% so với phí bảo hiểm gốc.
- để bảo vệ cho mình công ty nhượng quyết định kí một hợp đồng TBH vượt tỷ
lệ bồi thường trong trường hợp tỷ lệ bồi thường vượt quá 100% và mức bảo vệ
tối đa là 50%, vượt quá 100% bồi thường tổn thất của công ty nhượng.
- tỷ lệ phí bảo hiểm gốc là 2%.
Giả sử trong năm có 5 đơn vị rủi ro gặp tổn thất thì việc phân bổ trách
nhiệm và trách nhiệm bồi thường cho các bên có liên quan sẽ được tiến hành
như sau:
RR STBH
HĐ ST
STBT
TN BỒI THƯỜNG
Cty
nhượng
TBH ST
Cty
nhượng
TBH
VMBT
TBH
ST
1 45 20.4 24.6 0.5 0.227 0 0.273
2 60 35.4 24.6 40 13.6 10 16.4
3 29 11.6 17.4 2 0.8 0 1.2
4 10 4.0 6.0 0 0 0 0
5 35 14.0 21.0 5 2 0 3
Xác định số tiền bồi thường cho hợp đồng số thành trước:
Đơn vị rủi ro 1: 24,6 * 0.5/45 = 0,273 tr USD
Tương tự đối với đơn vị rủi ro 2,3,4,5

Số tiền bồi thường của công ty nhượng: tính tương tự như số thành. Riêng đối
với đơn vị rủi ro 2, do số tiền bồi thường của công ty nhượng (khi chưa có TBH
vượt mức bồi thường) là 40 – 16,4 = 23,6 tr USD > 3 tr USD nên nhà tái bảo
hiểm vượt mức bồi thường sẽ phải gánh chịu và tối đa bằng 10 tr USD.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vậy công ty nhượng bồi thường cho đơn vị rủi ro 2 là 23.6 – 10 = 13,6 tr USD
Tổng phí = (45 + 60 +29 +10 + 35)* 0,02 = 3,58 tr USD
trong đó: của nhà tái bảo hiểm số thành là 1,872 tr USD
của công ty nhượng là 1,708 tr USD
Phí đặt cho nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường là 1,708 * 0.05 = 0.0854 tr $
Phí còn lại của công ty nhượng là 1,708 – 0.0854 = 1,6226 tr USD.
Tổng số tiền bồi thường của công ty nhượng là 16,627 tr USD.
Tỉ lệ bồi thường của công ty nhượng là 16,627 * 100/106226 = 1024,71% >
100% nên nhà tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường cũng phải gánh vác cho công
ty nhượng là 50 * 16,627/1024,71 = 0,8113 tr USD.
Số tiền bồi thường của: nhà tái bảo hiểm số thành là 20,873 tr USD
nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường là 10 tr USD
công ty nhượng là 16,627 – 0,8113 = 15,8157tr USD.
3.2.3 Tái bảo hiểm kết hợp:
Có một điều không thể phủ nhận rằng thị trường tái bảo hiểm đang ngày
một phát triển hơn trước rất nhiều. Các công ty nhượng cũng như những công ty
tái bảo hiểm không chỉ dừng lại ở một phương pháp tái bảo hiểm thuần tuý là số
thành hay vượt mức bồi thường…Để đảm bảo kinh doanh an toàn trong điều
kiện tổn thất diễn biến ngày một thất thường và đối tượng tham gia bảo hiểm có
giá trị ngày càng cao…các công ty bảo hiểm đã sử dụng các phương thức tái bảo
hiểm kết hợp nhằm đem lại hiệu quả cao hơn và an toàn hơn.
a. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - vượt mức bồi thường
Theo phương pháp này nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường bảo vệ cho
công ty nhượng hoặc công ty tái bảo hiểm số thành. Việc phân chia trách nhiệm

giữa các bên cũng được phân bổ theo tỷ lệ đảm nhận mỗi bên trong hợp đồng
theo phương pháp số thành. Sau đó nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường sẽ
chịu trách nhiệm trong hạn mức trách nhiệm của họ đối với công ty mà họ bảo
vệ. Nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường bảo vệ cho công ty nào thì đầu năm
công ty đó phải đặt cọc cho nó. Nếu năm đó tổn thất không xảy ra thì công ty đó
25

×