Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

quan hệ việt nam - nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.54 KB, 27 trang )

I. Vài nét về đất nớc Nhật bản
1. Địa lý:
Trớc đây hàng triệu năm từ đáy đại dơng sâu thẳm những vụ nổ của núi
lửa đã nâng lên khỏi mặt nớc một dãy quần đảo hình cánh cung hẹp ôm lấy
lục địa Châu á nằm ở vùng Đông Bắc á - đó chính là quần đảo Nhật bản với
diện tích 377.815km
2
. Quần đảo này gồm 4 đảo chính Honshu, Hokkaido,
Kyushu và Shikoku và khoảng 3.900 đảo nhỏ. Trong đó đảo Honshu chiếm
đến 60% diện tích. Khí hậu của Nhật Bản có 4mùa rõ rệt: mùa hè ấm và ẩm
bắt đầu khoảng giữa tháng 7, mùa đông phía Thái Bình dơng thờng ôn hoà với
nhiều ngày nắng còn phía biển Nhật bản thì u ám, mùa xuân và mùa thu là
những mùa tốt nhất trong năm khí hậu êm dịu và rực ánh mặt trời. Ngợc lại
với khí hậu ôn hoà Nhật bản lại có một địa hình khá phức tạp, Nhật bản có
một bờ biển dài nhiều đá với nhiều hải cảng nhỏ, theo điều tra của Viện địa lý
thuộc Bộ xây dựng Nhật bản năm 1972 thì núi chiếm khoảng 70% tổng diện
tích đất Nhật bản. Hơn 532 ngọn núi trong số này cao trên 2000 mét, núi Phú
sĩ cao nhất tới 3776m. Cùng với sự hoạt động của các núi lửa Nhật bản còn
phải chịu những trận động đất lớn nhỏ khác nhau. Sự khắc nghiệt của thiên tai
đã làm cho ngời dân Nhật bản rất vất vả trong cuộc sống. Nhng với địa hình
phức tạp này đã tạo cho Nhật bản những cảnh đẹp dễ gây xúc động lòng ngời
đây chính là tiềm năng thu hút khách du lịch nớc ngoài của Nhật bản.
2. Lịch sử:
Nhật bản đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, giai đoạn này
cũng mang một vẻ hào hùng riêng biệt mà ít quốc gia nào có đợc.
a. Giai đoạn cổ xa.
Quần đảo Nhật bản có ngời c trú hơn 100.000 năm trớc đây khi nó vẫn
còn gộp là một với một phần của lục địa Châu á. Trong giai đoạn cổ xa này
ngời Nhật đã trải qua nhiều thời kỳ.
+ Thời kỳ đồ đá cũ (Paleolithic) chủ yếu sống bằng săn bắn và hái lợm.
+ Thời kỳ đồ đá mới (Neolithic) khoảng 10.000 năm trớc đây đã bắt đầu


xuất hiện các công cụ đợc chế tạo từ đá và họ sử dụng cung tên để săn bắn và
đất nung để nấu ăn.
1
+ Thời kỳ Jomon khoảng 8000 năm - 300 năm trớc công nguyên, trong
giai đoạn này nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa và các kỹ thuật chế tác kim
loại đã đợc du nhập từ lục địa Châu á và Nhật bản, việc phân công lao động đã
mở khoảng cách giữa giai cấp bị trị và giai cấp cai trị.
+ Thời kỳ YaYoi kéo dài từ 300 năm trớc công nguyên đến 300 năm sau
công nguyên.
+ Thời kỳ từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI là sự phát triển to lớn trong
nông nghiệp cũng nh việc du nhập văn hoá từ Trung Quốc vào Nhật bản kể cả
đạo Khổng tử và đạo phật
+ Thời kỳ Heian từ năm 794 - 1192 đây là thời kỳ có những phát triển
nghệ thuật to lớn ở Nhật bản. Thời kỳ Heian cũng là thời kỳ cuối cùng của
thời đại cổ xa.
b. Thời đại phong kiến.
Vào cuối thời kỳ Heian, trong nội bộ triều đình Nhật bản đã có mâu
thuẫn nội bộ và cuộc chiến tranh giữa hai gia đình quân sự kình địch với nhau
là Minamotos vfa tairas đã đánh dấu sự suy giảm thực sự quyền lực chính trị
của hoàng đế và mở ra thời đại phong kiến.
+ Năm 1192 Yorimoto ngời đứng đầu dòng họ chiến thắng Minamoto đã
lập ra chính phủ quân sự, trong thời kỳ này các Bushido - võ sĩ đạo - rất đợc
thịnh hành.
+ Năm 1213 quyền lực thực sự đã chuyển sang gia đình Hojo và họ đã
duy trì chính phủ quân sự này đến năm1331.
+ Năm 1938: Chính phủ quân sự mới đợc thành lập đó là chính phủ quân
sự của Ashikaga lập ra ở Muromachi thuộc Kyoto. Thời kỳ này tồn tại trên 2
thế kỷ. Đến cuối thế kỷ thứ XVI Nhật bản bị chia cắt bởi các cuộc nội chiến.
Cuối cùng tớng quân vĩ đại Toyotomi Hideyoshi đã khôi phục đợc trật tự vào
năm 1590. Nhng phải đến năm 1603 nớc Nhật mới đi vào một giai đoạn mới

đó là thời kỳ thống nhất trong cô lập của Ieyasu. Giai đoạn này kéo dài 265
năm tiếp theo.
Nhng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII và XIX Nhật bản ngày càng chịu
sức ép đòi mở cửa bờ biển cho thế giới bên ngoài mà cơ cấu chính trị cứng
2
nhắc trong nớc do Yeyasu tạo ra đã không đáp ứng đợc nhu cầu của ngời dân.
Điều này làm cho chế độ phong kiến của tớng quân Tokugawa sụp đổ vào
năm 1867 và hoàng đế đã khôi phục lại đợc quyền lực trong cuộc phục hng
Minh trị năm 1868.
c. Thời kỳ hiện đại.
Đợc bắt đầu bằng kỷ nguyên Minh trị (1868 - 1912) trong giai đoạn này
Nhật bản đã tạo ra một quốc gia hiện đại với các ngành công nghiệp hiện đại
và thể chế chính trị hiện đại, một mô hình xã hội hiện đại mà một quốc gia ph-
ơng tây có thể phải mất đến hàng thế kỷ mới có thể tạo lập đợc.
Năm 1926 Hoàng đế Hirohito mở ra kỷ nguyên Showa: kỷ nguyên này đ-
ợc mở ra trong một bầu không khí đầy hứa hẹn. Các ngành công nghiệp của
quốc gia tiếp tục phát triển, đời sống chính trị của đất nớc dựa vững chắc vào
Chính phủ và Nghị viên. Nhng cuộc suy thoái toàn thế giới đã làm đảo lộn đời
sống kinh tế đất nớc làm cho chức năng cuả Quốc hội giảm mạnh.
Tháng 8/1945 Nhật bản bị kiệt quệ vì chiến tranh do đó Nhật bản đã chấp
nhận hạ vũ khí đầu hàng bắt tay vào khôi phục kinh tế và năm 1956 Nhật bản
trở thành thành viên của Liên hợp quốc.
Từ những năm 70 đến nay Nhật bản đã đợc bớc nhảy thần kỳ trong kinh
tế, Nhật bản đã có nhiều biện pháp để tự do hoá các thị trờng của mình là một
thành viên quan trọng của tổ chức Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế cam kết duy trì mậu dịch tự do, Nhật
bản hiện có vai trò đáng kể trong các lĩnh vực buôn bán, tài chính và viện trợ
kinh tế kỹ thuật. Từ năm 1975 Nhật bản đã là một thành viên của Hội nghị
kinh tế cấp cao hàng năm của bảy nớc và đợc tổ chức ở Tokyo vào năm 1979
và 1986.

3. Con ngời và văn hoá.
Ngời Nhật có mức độ thuần nhất cao, hầu nh chỉ sử dụng một loại ngôn
ngữ. ở Nhật bản có rất nhiều loại tôn giáo khác nhau từ tôn giáo thực hành
nh đạo thần (Shinto) đến các tôn giáo dân gian truyền thống nh đạo phật và
đạo thiên chúa, song ảnh hởng của những tôn giáo này đến đời sống hàng
ngày của ngời dân Nhật bản rất nhỏ. Văn hoá và xã hội Nhật bản luôn tồn tại
song song các yếu tố truyền thống và hiện đại. Ngời dân Nhật bản bị ảnh hởng
3
đáng kể của Khổng giáo, chính những giáo lý này đã khuyến khích ngời Nhật
tiết kiệm hơn là tiêu dùng và nhờ đó đã góp phần đáng kể vào mức tiết kiệm
cao của ngời Nhật. Ngời Nhật còn có tính hiếu kỳ và nhạy cảm với văn hoá n-
ớc ngoài nhng họ vẫn luôn gìn giữ tài sản văn hoá riêng của họ, do đó ngời
Nhật có một nền văn hoá khá đặc sắc.
Nh chúng ta đã biết Nhật bản là một đất nớc có địa hình khá phức tạp
nên trong cuộc sống từ xa họ luôn phải dựa vào nhau để sống, điều này đã
hình thành một suy nghĩ và tập thể cho những ngời dân Nhật bản. Trong công
việc ngời Nhật sẵn sàng gạt bỏ "cái tôi" của mình để hy sinh cho tập thể chính
điều này đã góp phần tạo điều kiện cho Nhật bản phát triển thành một cờng
quốc kinh tế. Trên đây chỉ là một vài nét chủ đạo của ngời dân Nhật bản nhng
có thể nói rằng những điểm này đã góp phần thúc đẩy sự đi lên của quốc gia
Nhật bản.
II. Tổng quan về nền kinh tế Nhật bản.
Nền kinh tế Nhật bản là một tổ hợp đang phát triển mạnh cho các ngành
công nghiệp, thơng mại, tài chính, nông nghiệp và tất cả các yếu tố khác của
một cơ cấu kinh tế hiện đại. Nền kinh tế quốc dân đang ở giai đoạn công
nghiệp hoá tiên tiến, đợc phục hồi bởi nhiều luồng thông tin đầy đủ và mạng l-
ới vận tải phát triển cao. Một đặc điểm của nền kinh tế Nhật bản là sự đóng
góp to lớn của các ngành chế tạo và dịch vụ, nh vận tải, thơng nghiệp, bán
buôn và bán lẻ và ngân hàng vào sản phẩm thuần nội địa cả nớc, trong đó
những ngày công nghiệp thứ nhất nh nông nghiệp và ng nghiệp hiện chiếm

một phần rất nhỏ. Một đặc điểm khác là mối liên hệ to lớn của mậu dịch quốc
tế đối với nền kinh tế Nhật bản.
Nhật bản là một nớc đảo nhiều nghèo tài nguyên thiên nhiên và phải chu
cấp cho một số dân trên 120 triệu ngời trên một diện tích tơng đối nhỏ. Tuy
nhiên bất chấp những điều kiện hạn chế này và việc cơ sở chế tạo của đất nớc
bị tàn phá trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật bản đã không những có thể
xây dựng lại đợc nền kinh tế của mình mà còn trở thành một trong những quốc
gia công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Tuy vậy, đồng thời quá trình mở rộng
công nghiệp nhanh chóng này, cùng với những thay đổi cho những điều kiện
kinh tế trong nứơc và quốc tế trong vài năm qua đã nảy sinh những vấn đề
kinh tế khác nhau mà hiện nay quốc gia này đang phải đối phó.
4
* Sự phục hồi sau chiến tranh
Trong một vài năm sau khi Nhật bản bị thất bại trong chiến tranh thế giới
thứ hai, nền kinh tế của quốc gia hầu nh hoàn toàn bị tê liệt do sự tàn phá
trong chiến tranh, với nạn thiếu lơng thực gay gắt, lạm phát không thể kìm
hãm và nạn buôn bán chợ đen lan tràn. Quốc gia này đã mất toàn bộ lãnh thổ
của mình ở nớc ngoài và dân số đã tăng quá 80 triệu ngời cộng với 6 triệu ngời
hồi hơng từ nớc ngoài. Các nhà máy đã bị triệt phá trong các vụ ném bom.
Nhu cầu trong nớc giảm cùng với việc tạo nên nhu cầu làm hàng quân sự vào
ngoại thơng bị các lực lợng chiếm đóng hạn chế. Nhng nhân dân Nhật bản đã
bắt tay lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá của mình dới sự giúp đỡ ban đầu
của viện trợ tái thiết từ Mỹ. Năm 1951, TSPQD đã trở lại mức 1934 - 1936. Số
nhân viên quân sự giải ngũ và số công chức không có việc làm đã gia nhập lực
lợng lao động, tạo thành nguồn cung cấp công nhân dồi dào cho quá trình tái
thiết kinh tế thời kỳ ngay sau chiến tranh.
Những cải cách xã hội khác nhau sau chiến tranh đã tạo ra một khuôn
khổ cơ bản cho sự phát triển kinh tế sau đó. Việc phi quân sự hoá sau chiến
tranh và việc cấp tái vũ trang đợc ghi trong Hiến pháp đã loại bỏ việc chi phí
quân sự to lớn làm cạn kiện các nguồn lực kinh tế của quốc gia, việc giải tán

các Zaibatsu (các tổ hợp kinh doanh lớn) đã giải thoát cho các lực lợng cạnh
tranh tự do, và quyền sở hữu đất canh tác đã đợc phân phối lại một cách rộng
rãi cho các tá điền trớc đây, đã khuyến khích họ hăng hái cải tạo đất đai.
Những trở ngại cho việc hoạt động các công đoàn cũng đợc loại bỏ, do đó sự
đảm bảo về việc làm của công nhân đã đợc bảo vệ tốt hơn và khả năng tăng l-
ơng đều đặn đã đợc mở ra.
Theo "chế độ sản xuất u tiên", việc tăng sản lợng than và thép, hai trụ
cột của nền công nghiệp quốc gia đã đợc chú trọng. Sản xuất thép tăng đã tạo
cơ sở cho cất cánh toàn diện của sản xuất thép, tiêu biểu là đầu t t bản tăng
liên tục do sự phục hồi của tiêu dùng. Sau đó sản xuất tăng không chỉ trong
các ngành công nghiệp then chốt, nh thép và hoá chất mà cả trong các ngành
công nghiệp mới sản xuất nh hàng tiêu dùng, vô tuyến truyền hình và ô tô.
*Sự tăng trởng kinh tế nhanh chóng.
5
Kinh tế Nhật bản liên tục phát triển nhanh từ giữa những năm 50 đến
những năm 60, và chỉ phải chịu hai cuộc suy thoái ngắn vào năm 1962 và
1965. Tốc độ tăng trung bình hàng năm thực tế đạt 11% trong thập kỷ những
năm 60, so với 4,6% của CHLB Đức và 4,3% của Mỹ trong thời kỳ từ 1960 -
1972. Và tốc độ đó gấp trên hai lần so với tốc độ tăng trung bình khoảng
4%/năm của chính Nhật bản trớc chiến tranh.
Ngời ta nhất trí cho rằng sự phát triển nhanh của nền kinh tế Nhật bản từ
cuối những năm 50 đến những năm 60 là do đầu t mạnh mẽ của công nghiệp
t nhân vào nhà máy và thiết bị mới tạo ra. Mức tiết kiệm cao của các gia đình
Nhật bản đã tạo cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác rất nhiều tiền
vốn để đầu t mạnh cho khu vực t nhân. Việc tăng chi tiêu t bản đi liền với việc
áp dụng kỹ thuật mới, thờng dới hình thức bằng sáng chế của các công ty nớc
ngoài. Đầu t để hiện đại hoá đã tạo cho các ngành công nghiệp Nhật bản có
sức cạnh tranh hơn trên thị trờng thế giới, tạo ra đợc những sản phẩm mới, và
mang lại cho các xí nghiệp Nhật bản những lợi ích của sản xuất hàng loạt và
cải thiện đợc năng suất lao động của mỗi công nhân.

Một nhân tố khác hỗ trợ cho sự tăng trởng kinh tế của Nhật bản trong
suốt thời kỳ này là sẵn có một lực lợng lao động dồi dào có trình độ giáo dục
cao. Hàng năm một lợng lớn hợp lý thanh niên tham gia vào lực lợng lao động
và cũng có rất nhiều công nhân nông nghiệp di chuyển tới từ các vùng quê,
kiếm đợc việc làm trong các ngành chế tạo và dịch vụ ở các thành phố lớn.
Sự tăng trởng kinh tế nhanh chóng đợc thể hiện rõ nhất là kế hoạch 10
năm làm tăng gấp đôi thu nhập quốc dân đề ra vào năm 1960, các chính sách
kinh tế của chính phủ thời đó nhằm khuyến khích tiết kiệm, đẩy mạnh đầu t,
bảo vệ các ngành công nghiệp tăng trởng và khuyến khích xuất khẩu. Nhật
bản đã đợc lời nhờ môi trờng kinh tế mở rộng và việc cung cấp dồi dào nguồn
năng lợng tơng đối rẻ từ nớc ngoài suốt từ thời kỳ này.
Sau cuộc suy thoái năm 1965, nền kinh tế Nhật bản đã có một thời kỳ
phồn vinh dài cho đến khoảng mùa hè năm 1970, với tốc độ tăng trởng trong
một thời kỳ này đạt trung bình xấp xỉ 12%. Nhân tố chủ yếu đằng sau sự tăng
trởng này là đầu t t bản tăng nhanh, nhằm tạo ra các nền kinh tế qui mô, xây
dựng thêm các điều kiện để tăng khả năng xuất khẩu, và tạo đợc các thiết bị
để đáp ứng đợc những thay đổi trong môi trờng kinh tế và xã hội nh những
6
thiết bị tiết kiệm lao động và giảm ô nhiễm môi trờng. Việc gia tăng xuất khẩu
do sức cạnh tranh giá cả mạnh hơn của các sản phẩm Nhật bản cũng tạo điều
kiện cho hoạt động kinh doanh liên tục phát triển.
* Nền kinh tế đi đến bớc ngoặt.
Nhờ sự gia tăng nhanh chóng của TSPQD, năm 1968 Nhật bản đã đứng
thứ hai chỉ sau có Mỹ trong số các nền kinh tế thị trờng, xét về qui mô kinh tế
quốc dân. Nhng đồng thời, sự gia tăng nhanh chóng này đã làm nảy sinh
những vấn đề và những mất cân đối khác nhau: nh sự chậm trễ tơng đối trong
việc hiện đại hoá các lĩnh vực nh nông nghiệp và kinh doanh nhỏ, giá cả tiêu
dùng có xu hớng tăng, thiếu nhà ở và cơ sở hạ tầng nh đờng xá và những điều
kiện thuận tiện hàng ngày khác, ô nhiễm môi trờng và sự huỷ hoại thiên nhiên,
và việc suy giảm dân số ở các vùng nông thôn và việc quá đông ở các thành

phố.
Sự phồn vinh liên tục của Nhật bản đã nâng cao vị trí quốc tế của nó, nh-
ng việc xuất khẩu và d thừa cán cân thanh toán tăng nhanh đã tạo chiều hớng
chủ nghĩa bảo hộ ngày càng mạnh ở các nớc khác. Những thay đổi trong hoàn
cảnh quốc tế và trong nớc xung quanh nền kinh tế Nhật bản vốn phát triển
thầm lặng suốt nửa sau những năm 60 đã diễn ra một cách bất ngờ trong thời
kỳ từ năm 1970 - 1975. Tháng 8/1971, Mỹ tuyên bố đình chỉ đổi đôla ra vàng,
thực tế đã chấm dứt hệ thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods, vốn là một trong
những trụ cột hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế của thế giới tự do trong thời kỳ
sau chiến tranh. Tháng 2/1973, những nớc lớn trên thế giới, kể cả Nhật Bản,
đã chuyển sang chế độ tỉ giá hối đoái thả nổi. Sự rối loạn trong hoạt động tiền
tệ quốc tế đã góp phần tạo ra một làn sóng lạm phát toàn thế giới. Trong phạm
vi Nhật Bản, lạm phát có xu hớng trầm trọng hơn do các chính sách tiền tệ thả
lỏng nhằm khuyến khích hoạt động kinh tế và giảm d thừa tài khoản hiện hành
của đất nớc. Cú xốc dầu mỏ lần thứ nhất, vào mùa thu năm 1973, đã khiến
ngọn lửa lạm phátl bốc cao hơn nữa làm giá cả tiêu dùng tăng 20% vào năm
1974.
Trớc tình hình đó Chính phủ đã nâng lãi suất, giảm đầu t công cộng, và
áp dụng cả những biện pháp khác để kiềm chế tổng cầu, làm giảm mạnh tốc
độ tăng trởng kinh tế. Tốc độ tăng trởng thực tế trong năm tài chính 1974 (từ
tháng 4/1974 đến tháng 3/1975) đã giảm tới -0,2%, và đất nớc rơi vào tình
7
trạng kinh tế khó khăn nhất kể từ những năm đầu sau chiến tranh.Cú xốc dầu
mỏ đã làm nổi rõ sự mong manh của nền kinh tế Nhật bản vốn dựa chủ yếu
vào dầu mỏ nhập khẩu làm nguồn cung cấp năng lợng. Vào những năm tiếp
sau, hoạt động kinh tế đã hồi phục chút ít, nhng không bao giờ đạt đợc mức
thời kỳ tăng trởng nhanh. Và bớc tranh tài chính có vẻ ảm đạm do thu nhập từ
thuế giảm vì tình hình kinh tế trì trệ. Trong ngân sách bổ sung của năm tài
chính 1975, lần đầu tiên từ sau chiến tranh chính phủ buộc phải dùng đến biện
pháp tài chính thiếu hụt và cho tới năm tài chính 1990 ngân sách vẫn trong

tình trạng thiếu hụt.
Cuối năm 1978, từ lúc nền kinh tế Nhật Bản có những dấu hiệu phục hồi
từ những ảnh hởng của cú xốc dầu mỏ lần thứ nhất thì cuộc cách mạng ở Iran
đã lại gây ra đợt tăng giá dầu mỏ lần thứ hai. Rút kinh nghiệm từ cú xốc lần
thứ nhất, chính phủ đã nhanh chóng phản ứng bằng cách thặt chặt tiền tệ và
bằng các biện pháp khác để kiểm soát lạm phát vào mùa hè năm 1980 giá cả
đã ít nhiều đợc ổn định. Nhng nền kinh tế đã ít nhiều bớc vào giai đoạn suy
thoái do các cơ sở kinh doanh cắt giảm mức hàng tồn kho và giảm chi tiêu cơ
bản và do các cá nhân giảm chi tiêu vào tiêu dùng và đầu t nhà cửa. Lãi suất
cao ở Mỹ đã làm kéo dài hơn sự suy thoái ở Nhật Bản.
Sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai vào đầu những 80 thì đến
những năm 90 kinh tế Nhật Bản lại lâm vào một cuộc khủng hoảng do nạn đầu
cơ và buôn bán bất động sản, một lần nữa kinh tế Nhật Bản lại lâm vào tình
trạng suy thoái đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính. Những khó khăn trong lĩnh
vực tài chính đã tác động đến mọi mặt của nền kinh tế Nhật Bản cụ thể là: Để
ổn định và phát triển nền kinh tế nớc này Chính phủ Nhật Bản đã phải thực
hiện chính sách mạnh mẽ, chấp nhận phá sản một loạt công ty làm ăn yếu
kém.Theo công ty dữ liệu Teikoku Databank một số vụ phá sản ở Nhật Bản
trong tháng 2 năm 2000 tăng 51% so với cùng kỳ năm trớc. Các công ty của
Nhật Bản đang phải đối phó với tình trạng giá tài sản giảm mạnh và doanh số
bán hàng trì trệ đang bị sức ép cải cách, cắt giảm quan hệ kinh doanh thông
thờng không hiệu quả. Số vụ phá sản trong tháng 2/2000 là 1.441 công ty.
Theo AP ngày 14/4 năm 2000 số vụ phá sản công ty trong tháng 3/2000 là
1770 công ty. Năm tài chính 1999 kết thúc vào 31/3/2000 số công ty đã phá
sản là 16.887 công ty giảm 3,5% so với năm tài chính trớc đó. Các công ty
phá sản làm thất nghiệp tăng cao, giám đốc điều hành hãng sản xuất ô tô lớn
8
thứ hai của Nhật Bản đã tuyên bố sẽ đóng cửa 5 nhà máy cắt giảm quan hệ với
hàng trăm nhà cung cấp và sa thải 21.000 công nhân. Hai ngân hàng lớn ở
Nhật Bản là Sakura và Sumitomo đã hợp nhất để tồn tại và cắt giảm 9.300

nhân viên. Ngân hàng Đaiichi Kangyo và ngân hàng Fuji cùng ngân hàng
công nghiệp Nhật Bản dự tính sẽ cắt giảm 6000 nhân viên. Sony và hãng viễn
thông NTT bắt đầu cải tổ cơ cấu cũng có xu hớng cắt giảm nhân viên, hãng
Toshiba đang giải tán nhiều chi nhánh không sinh lợi. Quan niệm truyền
thống thiếng liêng có việc làm suốt đời cho mọi công dân Nhật Bản đang bị
rạn nứt.
Không chỉ thất nghiệp tăng nhanh mà Nhật Bản còn bị giảm xuất khẩu
do nhu cầu bên ngoài giảm gây trở ngại cho phục hồi kinh tế. Tổng kim ngạch
xuất khẩu của Nhật Bản năm 1996 chỉ đạt 43.496, tỷ yên tăng 0,9% so với
năm 1994 và 0,5% so với năm 1995. Chủng loại hàng hoá xuất khẩu cũng
giảm cùng với việc đình trệ trong địa bàn xuất khẩu ở những thị trờng xuất
khẩu chính nh Mỹ và EU, thậm chí cả khu vực Châu á. Trong năm tài chính
2000 nền kinh tế Nhật Bản có thể sẽ tăng hơn 1% đây là chỉ tiêu của chính
phủ Nhật Bản đề ra và nền kinh tế Nhật Bản đang tiến tới sự khôi phục và bền
vững hơn do những nỗ lực của chính phủ Nhật Bản trong mấy năm qua. Tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế trong năm 1999 kết thúc vào 31/3/2000 đạt
đợc chỉ tiêu 0,6%. Những nguy cơ về tình hình tài chính đang xấu đi sau khi
chính phủ Nhật Bản đã phát hành một số lớn trái phiếu nợ để tài trợ một loạt
các biện pháp kích thích phát triển sẽ có thể làm cho nền kinh tế của Nhật Bản
lại rơi vào khủng hoảng. Chính phủ Nhật Bản đã thông qua một ngân sách kỷ
lục trị giá84.990 tỷ yên cho năm tài chính 2000 để đạt đợc một sự phục hồi
thực sự bền vững nền kinh tế vẫn còn mong manh.
III. Các chính sách về kinh tế của Nhật Bản.
1. Những xu hớng kinh tế vĩ mô
Tốc độ tăng trởng kinh tế hai con số đợc Nhật Bản duy trì trong suốt
những năm 60 và đầu những năm 70 đã kết thúc cùng với cuộc khủng hoảng
dầu mỏ lần thứ hai (1979 - 1980) tốc độ tăng phổ biến chỉ đạt cha đầy 4%.
Đứng trớc sự gia tăng cả chi phí năng lợng lẫn lao động do các cuộc khủng
hoảng dầu mỏ công nghiệp Nhật Bản đã hết sức cố gắng để giảm nhu cầu về
năng lợng lao động, áp dụng kỹ thuật mới những cố gắng này đã thực sự tạo

9
cho Nhật Bản có sức cạnh tranh quốc tế mạnh hơn so với thời kỳ trớc khủng
hoảng dầu mỏ.
Vào đầu những năm 80, suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến cho tiêu
dùng dầu mỏ giảm mạnh và làm yếu đáng kể tình đoàn kết của tổ chức các n-
ớc xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). OPEC đã tuyên bố giảm giá dầu vào tháng
3/1983, và điều này đã đánh dấu sự mở đầu một thời kỳ giá dầu rẻ hơn. Sự
thay đổi này cùng với việc yếu đi của đồng Yên và sự phục hồi của nền kinh tế
Mỹ đã có tác động tích cực đến nền kinh tế Nhật Bản vào đầu những năm 80.
Việc tăng mạnh đầu t t bản t nhân vào xuất khẩu cuối cùng đã đa nền kinh tế
thoát khỏi đờng hầm suy thoái. Tốc độ tăng trởng thực tế đã lên tới 4,5% vào
năm tài chính 1984 và 4,3% trong năm tài chính 1985.
Tháng 9/1985, năm quốc gia công nghiệp lớn đã nhất trí cùng hành động
để giảm giá đồng đôla đang tăng cao, trong 12 tháng sau đó đồng đôla đã
giảm mạnh từ trên 240 yên xuống dới 160 yên. Điều này đã làm cho nền kinh
tế Nhật Bản bị suy thoái. Do đó, năm 1987 chính phủ và ngân hàng Nhật Bản
đã có những biện pháp tài chính và tiền tệ để tăng nhu cầu trong nứơc, nhằm
khuyến khích sự phục hồi kinh tế giảm d thừa tài khoản hiện hành. Quan
trọng nhất trong những biện pháp này gồm có việc hạ thấp tỉ suất chiết khấu
chính thức xuống còn 2,5%, đầu t thêm 5.000 tỷ yên cho các công trình công
cộng và giảm tới trên 1000 tỷ yên thuế thu nhập. Đáp lại, khu vực chế tạo đã
có những chính sách nhằm đẩy mạnh nhu cầu trong nớc. Do đó suy thoái đã
chấm dứt năm 1986, mở đầu một thời kỳ phục hồi nhờ nhu cầu trong nớc và
nền kinh tế đã duy trì đợc sức mạnh của mình bằng tốc độ tăng thực tế trung
bình 5,3% từ năm tài chính 1987 đến năm 1990. Những mất cân đối đối ngoại
cũng bắt đầu có những dấu hiệu thay đổi. D thừa tài khoản hiện hành, đạt mức
cao nhất 4,4% TSPQD vào năm tài chính 1986, đã giảm còn 1,1% vào năm tài
chính 1990.
Trong khi đó, cái gọi nền kinh tế bong bóng đã xuất hiện từ năm 1988,
với việc giá đất và chứng khoán tăng nhanh để khắc phục hiện tợng này và

ngăn ngừa lạm phát có thể xuất hiện do cuộc khủng hoảng vùng vịnh nổ ra
vào tháng 8/1990 chính phủ và ngân hàng Nhật Bản đã chuyển sang chính
sách thắt chặt dây lng. Từ khoảng năm 1991 nền kinh tế đã bị suy thoái nặng
nề do vậy chính phủ và ngân hàng Nhật Bản laị một lần nữa áp dụng những
10
chính sách ít chặt chẽ hơn. Đặc biệt đáng lu ý chơng trình kinh tế toàn diện
tháng 8/1992 bao gồm chi tiêu phụ thêm cho các công trình công cộng và
nhằm phục hồi kinh tế nhờ nhu cầu trong nớc. Số tiền chi cho các biện pháp
này đạt tổng công 10.700 tỷ yên.
Trong suốt thời gian này, Nhật Bản đã duy trì đợc vị trí của mình nh là
nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Theo báo cáo các tài khoản quốc gia của
tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và những thống kê của Cục kế
hoạch kinh tế Nhật Bản, TSPQD của Nhật Bản năm 1990 là 3000 tỷ USD
đứng thứ hai sau Mỹ là 5400 tỷ USD. Tổng sản phẩm quốc dân theo đầu ngời
của Nhật Bản đứng thứ ba trong số 24 thành viên của OECD năm 1988 và
1989. Nhng năm 1990 tụt xuống vị trí thứ bảy với 24.184 đô la, tuy nhiên
Nhật Bản tiếp tục có tổng sản phẩm quốc dân theo đầu ngời cao nhất trong các
nớc thuộc nhóm 7 nớc công nghiệp (G7) từ năm 1986. Về tài sản thuần ở nớc
ngoài, Nhật Bản đứng thứ nhất vào cuối năm 1985, Nhật Bản đã bị Đức vợt
vào cuối năm 1990 song đã giành lại vị trí đứng đầu của mình vào cuối năm
1991 vào 383 tỷ USD.
2. Chính sách tài chính
Năm tài chính của Nhật Bản kéo dài từ mùng 1/4 đến 31/3 hàng năm vì
ngời Nhật cho rằng vào tháng 4 Hoa Anh Đào nở đẹp nhất nên nếu bắt đầu 1
năm tài chính vào tháng 4 lúc Hoa Anh Đào đang nở đẹp nh vậy thì sẽ hy
vọng trong năm tài chính mới này sẽ thu đợc nhiều kết quả tốt đẹp nh Hoa
Anh Đào đang nở. Vào đầu năm tài chính ,các bộ và các cục khác nhau trình
yêu cầu về ngân sách của mình cho năm tài chính sắp tới lên Bộ Tài Chính
vào cuối tháng 8. Bộ Tài Chính sẽ cấn đối những yêu cầu này với các khoản
thu dự tính và thờng hoàn thành dự thảo ngân sách vào cuối tháng 12 đề trình

lên nội các. Sau khi đợc nội các phê chuẩn, Chính phủ sẽ trình ra Quốc hội
vào tháng 1 và tìm cách để đợc thông qua trớc khi bắt đầu năm tài chính mới.
Luật Tài Chính Nhật Bản năm 1947 chỉ cho phép Chính phủ phát hành
công trái dới dạng "công trái xây dựng" để gây quỹ đầu t vào các dự án công
trình công cộng; luật này không có điều khoản nào về phát hành công trái để
cấp tiền cho việc chi tiêu thông thơngf. Vì vậy Chính phủ đa kìm chế không
phát hành công trái tài trợ thiếu hụt suốt cho đến hết năm tài chính 1974. Nh-
ng vào năm 1975, thu nhập từ thuế giảm do khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất
11
đã buộc Chính phủ phải có một đạo luật đặc biệt cho phép phát hành thêm gần
2000 tỷ yên (khoảng 14 tỷ đôla theo tỷ giá 135 yên một đôla) công trái bù
thiếu hụt nh là một phần của ngân sách bổ sung của năm đó.
Chi tiêu tiếp tục do chi phí hệ thống phúc lợi xã hội của Nhật Bản tăng
lên, đặc biệt tiền hu trí và dịch vụ y tế. Do đó, công trái bù thiếu hụt đã đợc
phát hành hàng năm từ năm 1975 đến năm 1990.
Chính phủ đã tăng chi tiêu cho các công trình công cộng suốt thời gian
cuối những năm 70 để kéo nền kinh tế trong nớc ra khỏi cuộc suy thoái sau
khủng hoảng dầu mỏ, đồng thời đóng góp vào sự phục hồi kinh tế toàn cầu.
Công trái xây dựng đã tạo đợc nhiều quỹ cho hoạt động này, và vào cuối năm
tài chính 1978, tổng nợ quốc gia, kể cả công trái bù thiếu hụt, đã vợt mức
10.000 tỷ yên (71,4 tỷ đôla). Vào năm tài chính 1979, công trái mới phát hành
của Chính phủ đã chiếm tới 34.7% các khoản chi tài khoản chung.
Việc tăng phát hành khối lợng công trái Chính phủ loại này đã làm thay
đổi trò truyền thống của chính sách tài chính - phân bổ các nguồn tài nguyên
và điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Điều đó có khả năng làm giảm đầu t nhân
dân, gây ra lạm phát và đặt gánh nặng lên vai thế hệ tơng lai. Những lo ngại
lúc này đã thúc đẩy chính phủ nhanh chóng tiến hành xây dựng một chơng
trình xây dựng lại nền tài chính. Cải cách tài chính đã là chủ để trung tâm
trong chính sách đối nội những năm 80, đặc biệt trong suốt nhiệm kỳ của Thủ
tớng Nakasone yasuhiro từ tháng 11/1982 đến tháng 10/1987. Mục tiêu xây

dựng lại nền tài chính của chính phủ là chấm dứt phát hành công trái bù thiếu
hụt vào năm tài chính 1990. Do những nỗ lực này, nên mục tiêu công trái bù
thiếu hụt bằng 0 đã đạt đợc trong ngân sách năm 1991. Sự phụ thuộc vào công
trái chính phủ đã giảm còn 10,1% tài khoản chung trong ngân sách năm 1992.
Năm 1987 - 1988, hệ thống thuế đã đợc xét lại một cách căn bản nhằm
tạo ra sự cân đối tốt hơn giữa các loại thuế thu nhập và thuế thu nhập, tiêu
dùng và thuế tài sản. Thuế thu nhập có 15 hạng thuế từ 10,5% - 70%, đã đợc
đơn giản hoá còn 5 hạng từ 10% - 50%. Đồng thời, chế độ miễn thuế cho lợi
tức của các tài khoản tiết kiệm nhỏ đã đợc bãi bỏ. Tỷ suất thuế thu nhâp công
ty đã đợc giảm từ 42% xuống còn 37,5%. Về thuế gián tiếp, các thuế gián tiếp
cá nhân nh thuế hàng hoá đã đợc thay thế bằng thuế tiêu dùng. Tỷ suất thuế
chỉ có 3%, nhng nó đợc áp dụng rộng rãi cho toàn bộ các sản phẩm tiêu dùng.
12
Khoản chi lớn nhất trong ngân sách của chính phủ là chi phí cho các dịch vụ
công trái của chính phủ, mặc dù có những nỗ lực nhằm phát hành thêm công
trái bù thiếu hụt, Nhật Bản vẫn có tỷ lệ nợ so với TSPQD cao so với các quốc
gia công nghiệp khác.
Chính trong hoàn cảnh này chính phủ Nhật Bản đã phải đơng đầu với sức
ép ngày càng tăng và ở trong nớc lẫn nớc ngoài đòi mở rộng nhu cầu trong n-
ớc nh một cách để đẩy mạnh sự tăng trởng liên tục, không có lạm phát của nền
kinh tế thế giới và sửa chữa những mất cân đối đối ngoại của nền kinh tế Nhật
Bản. Trong suốt năm tài chính 1992, chính phủ đã đáp lại bằng cách đa ra một
ngân sách bổ sung lớn nhất cha từng có, phản ánh những điều khoản của ch-
ơng trình kinh tế khẩn cấp đựơc công bố vào tháng 8. Mục đích của nỗ lực này
là dùng chính sách tài chính để thúc đẩy mở rộng nhu cầu trong nớc.
Ngân hàng Trung ơng của Nhật Bản có trách nhiệm giống nh các ngân
hàng Trung ơng ở các nớc khác là duy trì giá trị đồng tiền quốc gia thông qua
những biện pháp nh điều chỉnh tỷ suất chiết khấu chính thực, cân đối các nhu
cầu dự trữ của các ngân hàng và các hoạt động trên thị trờng trái phiếu. Gần
đây ngời ta đã nhấn mạnh đến việc phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô với

các ngân hàng Trung ơng cuả các quốc gia khác để ổn định tỷ suất ngoại hối
và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính quốc tế đợc phát triển.
Một đặc điểm của khu vực tài chính Nhật Bản là phân loại các ngân hàng
theo các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Các loại này gồm có ngân hàng tín
dụng dài hạn, các ngân hàng thành phố và khu vực, các ngân hàng uỷ thác, và
các ngân hàng tiết kiệm và cho vay lẫn nhau, các hiệp hội tín dụng.
Trong lĩnh vực tài chính quốc tế, luật ngoại hối đợc sửa đổi vào năm
1980 đã loại bỏ hầu hết những hạn chế đối với những giao dịch t bản quốc tế.
Từ khoảng thời gian này, các tổ chức tài chính Nhật Bản đã bắt đầu mở rộng
và tăng cờng năng lực của họ trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, các ngân
hàng và các công ty chứng khoán đều tích cực tham gia vào thị trờng tài chính
nớc ngoài.
Việc mở rộng ra nớc ngoài của các tổ chức tài chính Nhật Bản và việc gia
tăng những giao dịch t bản quốc tế của họ đã ngày càng tập trung đợc sự chú ý
vào Tokyo nh là một trung tâm tài chính thế giới. Việc này đã khiến các nớc
13
khác ngày càng đòi hỏi Nhật Bản phải xóa bỏ các qui định có tính chất kiềm
chế và phải quốc tế hoá các thị trờng tiền tệ và t bản của mình. Suốt trong năm
1984 chính phủ đã đáp lại đòi hỏi này bằng cách bãi bỏ những hạn chế đối với
việc chuyển ngoại tệ thành đồng yên, thiết lập một thị trờng nhận thanh toán
bằng đồng yên của các ngân hàng và nới lỏng những hạn chế về lãi suất của
các khoản tiền gửi lớn có kỳ hạn. Hơn nữa, t cách hội viên của Sở giao dịch
chứng khoán Tokyo đã đợc mở cho các công ty chứng khoán nớc ngoài và các
ngân hàng nớc ngoài đợc phép tham gia vào các hoạt động ngân hàng uỷ thác.
Từ đó đã có thêm nhiều biện pháp kể cả việc nới lỏng những hạn chế đối với
những giao dịch đồng yên Châu Âu. Chính phủ đang tiến hành tự do hoá hơn
nữa các dịch vụ tài chính. Việc nới lỏng những hạn chế về lãi suất của các
khoản tiền gửi có kỳ hạn dự kiến sẽ đựơc hoàn thành tháng 6/1993, trong khi
tất cả lãi suất tiền gửi, kể cả tiền gửi bằng tiền mặt sẽ đựơc nới lỏng hoàn toàn
vào năm 1994. Đồng thời, những trở ngại phân chia hoạt động kinh doanh

ngân hàng và chứng khoán sẽ đợc giảm bớt. Do vậy các chi nhánh của các
ngân hàng dự kiến sẽ đợc phép hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán và các nhánh của các công ty chứng khoán cũng sẽ có thể tham gia vào
các hoạt động ngân hàng từ năm 1993.
Khi nền kinh tế bong bóng của Nhật Bản bùng nổ kèm theo là khủng
hoảng ngân hàng trong những năm 90, Nhật Bản đã thi hành chơng trình tự do
hoá thị trờng tài chính Nhật Bản - Big Bang - gồm 8 điểm sau đây:
- Thả nổi hoàn toàn giá cả các dịch vụ tài chính
- Mở cửa thị trờng hối đoái cho mọi ngời.
- Xoá bỏ biên giới phân chia 3 ngành nghề: Ngân hàng, bảo hiểm, và
mua bán chứng khoán.
- Cho phép vốn liếng tự do luân chuyển trong cũng nh ngoài nứơc.
- Buộc các cơ quan tài chính phải công bố những dữ liệu chính xác về
hoạt động ngân hàng của mình dù lời hay lỗ.
- Giảm bớt hoặc xoá hẳn các loại thuế có tác dụng giới hạn việc mua bán
sang nhợng địa ốc chứng khoán.
14
- Củng cố tính độc lập của ngân hàng quốc gia trớc đây bị nhà nớc
khống chế
- Cho phép nớc ngoài tự do cạnh tranh trên thị trờng nội địa không phân
biệt đối xử.
Chơng trình này sẽ dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trong thị trờng cung
cấp tài chính của Nhật Bản. Do vậy để trụ vững trong giai đoạn này ở Nhật
Bản đã diễn ra một làn sóng sát nhập, đây cũng là điểm báo kết thúc của các
Keiretru đó là những tập đoàn kinh doanh lớn gồm nhiều hãng có quan hệ
lỏng lẻo với nhau mà theo truyền thống một Keiretru phải có một ngân hàng.
Vào đầu thế kỷ 21 Nhật Bản đã có 4 ngân hàng đợc xếp vào 10 ngân hàng lớn
nhất thế giới trong đó có 3 ngân hàng của Nhật Bản đợc xếp vào những vị trí
đầu.
STT Tên ngân hàng Giá trị tài sản (Tỷ USD)

1 IBJ + DKB + Fuji (Nhật Bản) 1300
2 Sanwa + A sahi + Tokai (Nhật Bản) 1010
3 Sumitomo + Sakura (Nhật Bản) 943
4 Deutseho (Đức) 880
5 BTM - Mitsubishi Trust + Nipon Trust + Tokyo
Trust (Nhật Bản)
866
6 BNP + Pari bas (Pháp) 721
7 Tập đoàn ngân hàng UBS (Thụy điển) 686
8 Citigroup 667
9 Tập đoàn ngân hàng America (Mỹ) 656
10 HSBC. PLC (Anh)569
Theo hãng thông tấn AFP (Pháp)
Chú thích:
IBJ: Industrial Bank of Japan
15
DKB: Daiichi Kangyo Bank
BTM: Bank of Tokyo - Mitsubishi
Trong hội nghị các Bộ trởng tài chính G7 họp ngày 15/4/2000 đã nhận
định nền kinh tế Nhật Bản còn cần phải đẩy nhanh tốc độ cải cách cơ cấu để
tăng nhu cầu trong nớc và tiếp tục duy trì chính sách lãi suất 0% để tránh sức
ép lạm phát. Nhng trong khi đó lãi suất chiết khấu ở Mỹ đã đựơc tăng lên đến
5,5% chính điều này làm cho đồng yên của Nhật Bản bị sụt giá tơng đối so với
đồng USD. Ngoài ra, khả năng thờng xuyên của ngân hàng Trung ơng Nhật
Bản (BOJ) vào thị trờng tiền tệ cũng là một nhân tố làm cho đồng yên giảm
giá. Các nhà kinh tế Nhật Bản cho rằng đồng yên sẽ tiếp tục ở mức thấp là 105
đến 110 yên/1USD. Sự mất giá của đồng yên làm giảm thiểu nền kinh tế gây
khó khăn trong phục hồi kinh tế của Nhật Bản nhng ngân hàng Trung ơng
Nhật Bản vẫn sẵn sàng can thiệp để giữ cho đồng yên ở mức thấp so với đồng
đô la để khuyến khích xuất khẩu, do đó tính đến cuối quí I năm 2000 Nhật

Bản đã đạt đợc mức dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới khoảng 258,2 tỷ USD.
3. Chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản
Do TSPQD của Nhật Bản hiện chiếm trên 10% của toàn thế giới, nên
Nhật Bản ý thức đợc rõ hơn về trách nhiệm và vai trò của mình đối với sự phát
triển lành mạnh của nền kinh tế thế giới và đã hết sức cố gắng để chuyển cơ
cấu kinh tế của mình từ phụ thuộc vào xuất khẩu sang dựa vào nhu cấu trong
nớc và giảm d thừa tài khoản hiện hành. Những nỗ lực để khuyến khích nhu
cầu trong nớc, mở rộng hơn nữa các thị trờng Nhật Bản và đẩy mạnh nhập
khẩu này cùng với việc đồng yên lên giá và đồng đô la giảm giá góp phần làm
giảm sự mất cân đối buôn bán Nhật - Mỹ và mở rộng việc nhập khẩu các hàng
chế tạo và Nhật Bản từ các Nies Châu á, các nớc ASEAN và các bạn hàng
khác. Nhật Bản phải tiếp tục những nỗ lực này để đóng góp vào sự phát triển
lành mạnh của nền kinh tế thế giới. Chế độ buôn bán tự do nhiều lên là cơ sở
phát triển kinh tế không chỉ ở Nhật Bản mà toàn thế giới, và việc duy trì và
tăng cờng điều đó là rất quan trọng cho sự tăng trởng của nền kinh tế thế giới.
Do đó Nhật Bản phải đóng góp mạnh mẽ vào sự thành công của những thơng
lợng buôn bán nhiều bên đang đợc tiến hành dới sự bảo hộ của tổ chức Hiệp
định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT).
16
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật gần đây đã có ảnh hởng quan trọng đến
thế giới theo nhiều cách và đã nảy sinh những vấn đề khác nhau có liên quan
đến khoa học và kỹ thuật kể cả luồng kỹ thuật tiên tiến phơng Tây chảy sang
phơng Đông và việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy Nhật Bản với t cách
là thành viên chủ chốt của cộng đồng phơng Tây và một quốc gia Châu á -
Thái Bình Dơng, phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và giữ vai trò tích cực
trong việc tìm ra những giải pháp cho các vấn đề này.
a. Chính sách thơng mại của Nhật Bản:
Chính sách thơng mại của Nhật Bản cũng trải qua nhiều thời kỳ mà điểm
khởi đầu của nó là thời kỳ Minh Trị.
* Thời kỳ Minh Trị 1868 - 1911:

Trong thời kỳ này Nhật Bản tăng cờng quan hệ với các nứơc phơng Tây,
tiếp thu những t tởng mới và kinh nghiệm phục vụ cho qúa trình CNH - HĐH
đất nớc. Không chỉ có vậy Nhật Bản còn loại bỏ những đạo luật hạn chế hoạt
động ngoại thơng, mở rộng hoạt động tham quan du lịch để học hỏi kinh
nghiệm phát triển kinh tế của những nớc phơng Tây. Nhờ những cải cách nh
vậy trong giai đoạn này Nhật Bản đã tăng kim ngạch ngoại thơng hình thành
đợc kiểu t duy kinh tế để phát triển đất nứơc theo hớng phơng Tây.
* Thời kỳ trớc chiến tranh thế giới thứ hai 1912 - 1945.
Tiếp tục những cải cách của thời kỳ Minh Trị, trong giai đoạn này chính
phủ Nhật Bản tiếp tục mở rộng ngoại thơng và chuyển hớng thơng mại từ
Châu Âu sang Châu á. Nhng đến cuối thế kỷ này nền kinh tế bị chiến tranh
chi phối các ngành công nghiệp phát triển chủ yêú để phục vụ cho chiến
tranh, nhập khẩu chủ yếu là trang thiết bị cho quân đội nên trong giai đoạn
này ngoại thơng hầu nh không tồn tại.
* Thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai
Giai đoạn sau chiến tranh đến năm 1973:
Trong giai đoạn này nền kinh tế đang đợc phục hồi dần dần sau chiến
tranh do đó nền kinh tế còn non yếu tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu và nhập
17
khẩu còn thấp. Chính vì vậy trong giai đoạn này chính phủ Nhật Bản đặc biệt
chú trọng tới hoạt động ngoại thơng để tăng thặng d thơng mại và tích luỹ
vốn. Để đạt đợc điều này Nhật Bản đã tham gia vào các tổ chức kinh tế thế
giới nh: GATT - WB, xây dựng một chơng trình tự do hoá thơng mại một cách
thận trọng với các bớc đi phù hợp với đất nớc mình, giảm quản lý bằng hạn
ngạch và biện pháp hành chính không bảo hộ hàng hoá trong nớc. Nhật Bản
thúc đẩy xuất khẩu để tăng tích luỹ ngoại tệ trong nớc, để xuất khẩu tăng Nhật
Bản đã tích cực áp dụng hàng loạt các biện pháp u đãi cho xuất khẩu nh miễn
giảm thuế xuất khẩu cho các doanh nghiệp làm xuất khẩu, thành lập các cơ
quan hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu nh: ngân hàng cấp tín dụng, cơ quan
kiểm tra chất lợng

Giai đoạn 1974 - 1985.
Trong giai đoạn này phần nào Nhật Bản đã thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng nhng để phát triển nền kinh tế Nhật Bản ngày càng ổn định, Nhật Bản
vẫn phải tích cực áp dụng các chính sách thơng mại bằng cách đẩy mạnh xuất
khẩu không phải trong phạm vi khu vực mà là toàn thế giới hơn nữa Nhật Bản
còn phải chú trọng việc nhập khẩu công nghệ thiết bị chế biến để tiến tới xuất
khẩu công nghệ.
Giai đoạn từ 1985 đến nay.
Tài khoản hiện hành của Nhật Bản bị thiếu hụt đáng kể trong vài năm
sau mỗi cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Nhng cán cân thanh toán đã chuyển sang
d thừa vào năm 1981, và từ năm 1983 phần d thừa đã tăng nhanh đặc biệt, đây
là kết quả của sức cạnh tranh quốc tế về chất lợng ngày càng tăng của các mặt
hàng chế tạo Nhật Bản cộng với việc đồng yên có giá tơng đối thấp so với
đồng đô la và sự mở rộng của nền kinh tế Mỹ trong suốt thời kỳ này. Bàng
nhiều cách khác nhau, chính phủ Nhật bản đã cố gắng sự mất cân đối đối
ngoại này. Tháng 7/1985 Nhật Bản đã đề ra một chơng trình hành động nhằm
cải thiện việc thâm nhập thị trờng bằng cách sửa đổi hệ thống tiêu chuẩn và
cấp phép của Nhật Bản và bãi bỏ hoặc giảm thuế quan đánh vào các hàng chế
tạo, đơn giản các hàng rào phi thuế quan tăng hạn ngạch nhập khẩu khuyến
khích các cơ quan nhà nớc thu mua và tiêu dùng hàng nhập khẩu. Nhật Bản
còn tổ chức nhiều cuộc triển lãm và nhiều điểm bán hàng nớc ngoài tại Nhật
Bản, cử các chuyên gia ra giúp các công ty nớc ngoài cũng nh mời các công ty
18
nứơc ngoài sang tham quan tìm hiểu thực tế kinh doanh, buôn bán cũng nh
sinh hoạt ở Nhật Bản. Hơn nữa, Nhật Bản còn nghiên cứu cải cách các luật
phân phối và buôn bán theo hớng đơn giản và gọn nhẹ tạo dễ dàng cho sự
thâm nhập của các hàng nứơc ngoài vào Nhật Bản. Về mặt xuất khẩu xu hớng
đi lên mạnh liên tục của khối lợng xuất khẩu từ nửa cuối những năm 70 đã bị
đảo lôn trở thành giảm sút hoặc tăng không đáng kể.
1986 1987 1988 1989 1990

- Xuất khẩu (tr USD) 209,151 229,221 264,867 268,100 283,500
- Khối lợng (tính % so
với năm trớc)
- 0,6 +0,3 5,1 3,0 5,0
- Nhập khẩu (tr.USD) 126,400 149,515 187,475 198,100 229,100
- Khối lợng 9,5 9,3 16,7 7,8 5,8
Nguồn:The Developing Economies No 4 Dec 1988 IDE Tokyo Japan
Vào cuối những năm 80, trong hoạt động ngoại thơng của Nhật Bản còn
xuất hiện tình trạng "tái nhập hàng hoá" do các cơ sở của Nhật Bản ở nớc
ngoài sản xuất. Đây là biểu hiện cụ thể của việc gia tăng nhanh hơn mậu dịch
nội bộ ngành công nghiệp, nội bộ công ty trên phạm vi toàn cầu và khu vực tr-
ớc sự tác động của đồng yên lên giá.
Do đồng yên tăng giá hơn 40% so với đồng đô la trong vòng chỉ có vài
tháng làm cho d thừa thực tế đã lên tới 94,1 tỷ USD vào năm tài chính 1986,
do ảnh hởng của "đờng cong J nghịch". Tuy vậy một năm sau, những điều
chỉnh tỷ suất hối đoái này cũng đã bắt đầu làm giảm d thừa tài sản hiện hành.
Những điều chỉnh do đồng yên lên giá và những nỗ lực đẩy mạnh nhập khẩu
của Nhật Bản đã bắt đầu sớm thể hiện rõ vào năm tài chính 1987. D thừa tài
khoản đã làm giảm hàng hoá từ năm 1987 cho đến năm tài chính 1990 chỉ còn
33,7 tỷ đô la bằng khoảng 1/3 mức cao nhất năm 1986. Bản thân công nghiệp
Nhật bản, do nhận thức đợc yêu cầu giảm bớt xung đột buôn bán và tránh
giảm lợi nhuận do đồng yên tăng giá, cũng đã có những sáng kiến riêng nhằm
giảm dần sự phụ thuộc truyền thống và xuất khẩu những chiến lợc chủ yếu
đựơc tiến hành trong hoàn cảnh này gồm có chuyển sang sản xuất mua phụ
19
tùng ở nớc ngoài và đẩy mạnh phân công lao động quốc tế trong phạm vi các
ngành công nghiệp.
Trong năm 1999, kinh tế Nhật Bản đã phần nào khôi phục đựơc sau
khủng hoảng tài chính, thặng d thơng mại của Nhật Bản với các nớc Châu á
đã ở mức hàng năm là 23,7% trong tháng 10/1999 do sự hồi phục kinh tế và

nhu cầu nhập khẩu này tăng nhanh. Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết thặng d
thơng mại của Nhật Bản đạt 391,1 tỷ yên tăng 9,3% và kim ngạch nhập khẩu
đạt 1.189,8 tỷ yên tăng 5,3%. Các nớc láng giềng Châu á của Nhật Bản mua
nhiều hàng của Nhật Bản hơn nhng cũng xuất khẩu nhiều sản phẩm hơn khi
nền kinh tế phục hồi. Thặng d thơng mại của Nhật Bản với Hàn Quốc tăng
nhanh tới 127% trong đó xuất khẩu tăng 43,5% và nhập khẩu tăng 220%, giá
trị thặng d thơng mại với Đài Loan tăng 5,6% do xuất khẩu tăng 8,3% và nhập
khẩu tăng 13%. Thặng d buôn bán với Hồng Kông tăng 0,7% trong đó xuất
khẩu tăng 0,8% còn nhập khẩu tăng 1,3%. Trong tháng 10/1999 xuất khẩu của
Nhật Bản sang các nớc Đông Nam á cũng tăng, thặng d thơng mại của Nhật
Bản với Thái Lan tăng 307% xuất khẩu tăng 17,7% nhng nhập khẩu giảm
5,6% thặng d thơng mại của Nhật Bản với Singapo tăng 6% xuất khẩu tăng
3,1% nhng nhập khẩu lại giảm 3,6%. Viện nghiên cứu Nhật bản cho rằng
"Nhật Bản đang góp phần rất lớn vào những nỗ lực phục hồi kinh tế của các
nớc Châu á bằng việc tiêu thụ hàng hoá của các nớc trong khu vực". Quan hệ
buôn bán Nhật Bản với các nớc Châu Mỹ cũng có nhiều hứa hẹn nh Cu Ba
kim ngạch thơng mại của Nhật Bản với Cu Ba hiện tại ở mức 125 triệu USD
mặc dù trớc đây đã đạt tới mức 500 - 600 triệu USD và sắp tới đây tổ chức
Jetro (Tổ chức xúc tiến thơng mại của Nhật Bản cho biết) sẽ ký với Bộ thơng
mại và phát triển công nghiệp Mêhicô hiệp định tự do thơng mại (FTA) nhằm
mở rộng thêm quan hệ thơng mại trên toàn cầu.
b. Chính sách đầu t nứơc ngoài.
Trong giai đoạn 1985 đến nay, Nhật Bản đã chuyển hớng từ thơng mại
sang đầu t nớc ngoài nhằm thúc đẩy hoạt động đầu t ra nớc ngoài và quốc tế
hoá đồng yên do sức ép của các nứơc bắt buộc phải nâng giá đồng yên và loại
bỏ các cơ sở không sinh lợi trong nớc chuyển ra nớc ngoài, tập trung vào các
hàng công nghệ cao và các hàng hoá có tỷ trọng gia tăng lớn, chính phủ Nhật
Bản còn cho rằng đầu t trực tiếp là cách có hiệu quả nhất để loại bỏ những
20
nguyên nhân xung đột căn bản với các bạn hàng của Nhật Bản, nó cũng phản

ánh một nhận thức qua hệ thống phân công lao động bổ sung lẫn nhau trong
phạm vi các ngành công nghiệp sẽ có lợi cho tất cả các bên tham gia. Bằng
cách chuyển một số hoạt động sản xuất sang các nớc khác kể cả các nớc đang
phát triển, Nhật Bản có thể tập trung vào những lĩnh vực mà nó có u thế đặc
biệt phát triển những lĩnh vực mới có kỹ thuật cao.
Những nỗ lực này của công nghiệp đã đẩy đầu t trực tiếp ra nớc ngoài
của Nhật Bản lên tới 10,2 tỷ USD trong năm tài chính 1984 tăng 25% so với
năm trớc khiến Nhật Bản trở thành nớc đứng đầu thế giới về mặt này. Từ đó,
đầu t trực tiếp tiếp tục tăng nhanh vào năm tài chính 1989 đạt 67,6 tỷ USD
bằng hơn 6 lần lợng đầu t của 5 năm trớc. Năm tài chính 1990, đầu t trực tiếp
giảm , một phần do nền kinh tế thế giới bị suy thoái tuy vậy nó vẫn duy trì ở
mức cao 56,9 tỷ USD. Xu hớng đầu t ra nớc ngoài đợc thể hiện rõ nhất trong
ngành ô tô, 8 nhà chế tạo ô tô Nhật Bản hiện đã lập nhà máy ở Bắc Mỹ. Cũng
nh vậy, các công ty trong ngành công nghiệp máy điện đã lập các công ty con
ở nớc ngoài đang tạo việc làm cho các nớc đợc đầu t cũng nh tạo điều kiện cho
việc chuyển giao kỹ thuật.
Nh trên đã nói đầu t nớc ngoài đợc Nhật Bản sử dụng coi là hớng căn bản
để đối phó với việc các nớc bắt buộc Nhật Bản phải nâng giá đồng yên. Vì khi
đồng yên tăng giá tự nhiên làm cho khả năng thanh toán và sức hấp dẫn của
nó trên thị trờng quốc tế lớn hơn nhiều làm cho ngời Nhật dễ dàng xây dựng
các nhà máy ở nớc ngoài. Trớc đây Nhật Bản chỉ chú trọng đầu t vào các nớc
Phơng Tây thì những năm 80 đầu t trực tiếp của Nhật Bản ra nớc ngoài đã h-
ớng vào các nớc ở khu vực Đông Nam á nhằm thu hút lao động sống d thừa ở
các nớc Đông Nam á. Sự đầu t mạnh mẽ này đã tạo xu hớng đi tới một sự
phân công lao động mới giữa Nhật Bản và các nớc Nies và ASEAN đó là sự
phân công lao động theo chiều ngang, sự phân công lao động nội bộ ngành,
nội bộ công ty trên cơ sở tận dụng những lợi thế so sánh tổng hành dinh và bộ
phận, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật cũng nh những khâu then chốt, những
bí quyết kỹ thuật sẽ giữ lại ở Nhật Bản, những máy móc thiết bị và phụ tùng
có trình độ kỹ thuật trung bình sẽ đợc chế tạo các nớc Nies Châu á còn

những bộ phận có trình độ kỹ thuật thấp và cần nhiều lao động đợc thực hiện ở
các nớc ASEAN để cung cấp cho thế giới các nớc sở tại và tái nhập khẩu trở
lại Nhật Bản.
21
Để khuyến khích đầu t nớc ngoài Nhật Bản đã áp dụng một số chính sách
sau:
- Cho vay vốn trực tiếp đối với các liên doanh với nớc ngoài
- Miễn một phần thuế lợi tức cho doanh nghiệp đầu t ra nớc ngoài.
- Các công ty của Nhật Bản đầu t ra nớc ngoài đợc miễn nghĩa vụ báo cáo
với Bộ Tài chính.
- Quá trình đầu t của Nhật Bản ra nớc ngoài đợc thực thi theo các khu vực
khác nhau.
+ Đối với các nớc phát triển duy trì thị trờng và đối phó với các chính
sách bảo hộ.
+ Đối với các nớc đang phát triển khai thác các lợi thế so sánh hình thành
phân công lao động theo chiều sâu.
4. Chính sách khoa học - kỹ thuật
Lịch sử khoa học và kỹ thuật hiện đại ở Nhật Bản có từ nửa sau thế kỷ
19, khi đất nớc mở cửa, bắt đầu tích cực tìm kiếm những tri thức do Châu Âu
cung cấp. Nớc Nhật thời kỳ đó rất nghèo tài nguyên vật chất, và cách duy nhất
để có thể tiến bộ về kinh tế và xã hội là thông qua những tiến bộ kỹ thuật do
nhân dân Nhật Bản - nguồn tài nguyên hiện thực duy nhất - thực hiện.
Sự phụ thuộc về căn bản của Nhật Bản vào tiến bộ kỹ t huật ngày nay
không hề khác so với một thế kỷ trớc đây. Điều đã thay đổi là vị trí của Nhật
Bản trong cộng đồng Quốc tế, hiện nay đợc xếp vào hàng những nớc công
nghiệp lớn của thế giới. Do vị trí của mình, nên Nhật Bản phải đẩy mạnh việc
nghiên cứu để đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Lập trờng cơ bản này đợc ghi rõ trong bảng nguyên tắc chỉ đạo chung về
chính sách khoa học và kỹ thuật, đã đợc chính phủ thông qua vào tháng
4/1992. Ba mục chủ yếu của chơng trình này đòi hỏi Nhật Bản phải:

- Cố gắng tìm ra một giải pháp cho các vấn đề về môi trờng, năng lợng và
các vấn đề toàn cầu khác.
Tiến hành một cách cân đối giữa nghiên cứu cơ bản khoa học và kỹ thuật
tiên tiến khác.
22
- Phát triển một cuộc sống giàu có và hạnh phúc trong khi giải quyết
việc lão hoá dân số Nhật Bản và các vấn đề xã hội khác.
* Ngân sách và nhân sự dành cho việc nghiên cứu và phát triển
Năm tài chính 1995 tổng chi tiêu của Nhật Bản cho việc nghiên cứu và
phát triển là 40 tỉ yên trong tổng sản phẩm quốc dân phần tổng sản phẩm quốc
dân này còn nhỏ hơn con số của CHLB Đức, Pháp, Liên xô cũ, Anh và Mỹ, l-
ợng tiền chi tiêu đó chỉ chiếm có 1% tổng chi tiêu của 5 nớc này cộng với
Nhật Bản. Tuy nhiên vào năm tài chính 1990 ngân sách chi cho việc nghiên
cứu và phát triển lên đến 12.100 tỷ yên. Tỷ lệ này lớn hơn của Đức, Pháp,
Mỹ, Anh.
Phần lớn chi cho nghiên cứu và phát triển ở Nhật Bản là do khu vực t
nhân, một đặc điểm gần đây là các nhà kinh doanh tiếp tục tăng chi cho
nghiên cứu và phát triển ngay cả những thời kỳ doanh số bán ra giảm. Họ
cũng tích cực tiến hành các hoạt động nghiên cứu cơ bản nhằm tăng hàm lợng
kỹ thuật cao trong sản xuất của mình.
Một điểm khác so với các nớc chủ yếu khác là phần lớn các sinh viên
tốt nghiệp ngành cơ khí, chiếm khoảng một nửa tổng số các nhà nghiên cứu và
một phần tơng đối nhỏ tốt nghiệp các ngành nghiên cứu khoa học cơ bản
khác.
* Hợp tác quốc tế.
Tiến bộ trong khoa học và kỹ thuật và qui mô ngày càng lớn của một số
dự án nghiên cứu đã làm cho việc hợp tác quốc tế trở thành cần thiết trong
nhiều lĩnh vực. Những ví dụ về việc này gồm những dự án khổng lồ nh nghiên
cứu vật liệu tổng hợp và phát triển vũ trụ, những lĩnh vực cần có sự phối hợp
hành động trên qui mô toàn cầu, nh bảo vệ môi trờng; nghiên cứu cơ bản

nhằm sáng tạo ra những tài sản tri thức mới cho tất cả các dân tộc trên thế giới
và các loại khoa học khác có liên quan tới những lĩnh vực và những vấn đề
chung nh việc khắc phục bệnh tật.
Nhật Bản đã tham gia vào 19 hiệp định hợp tác khoa học với 18 nớc khác
và cũng đang mở rộng việc tham gia vào những nỗ lực hợp tác quốc tế, khu
vực hoặc thông qua các tổ chức quốc tế. Nhật Bản đang mở rộng viện trợ kỹ
thuật cho các nớc phát triển bằng cách mở rộng viện trợ phát triển chính thức,
23
cung cấp thiết bị, phái chuyên gia ra nớc ngoài và nhận ngời từ nớc ngoài vào
đào tạo.
* Những dự án qui mô lớn mà Nhật Bản đang tiến hành nghiên cứu
và thực hiện.
- Năng lợng hạt nhân
- Phát triển vũ trụ
- Hàng không
- Phát triển nghiên cứu biển
- Các ngành khoa học về đời sống
- Chất siêu dẫn
- Tàu đệm từ
- Mạng lới thông tin sợi quang
- Vô tuyến truyền hình có độ nét cao
- Các ngành khoa học máy tính.
IV. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đợc thiết lập sau chiến tranh thế giới thứ
hai nhng phải đến những năm 80 quan hệ này mới đợc phát triển do xu hớng
của Nhật Bản là tăng cờng khai thác thị trờng của các nớc thuộc khu vực Đông
Nam á. Hơn nữa trong những năm gần đây do chúng ta đã mở cửa thị trờng
để thu hút vốn từ bên ngoài vào điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các n-
ớc đầu t vào nớc ta. Trong những năm 90 do khủng hoảng tài chính tiền tệ nh-
ng Nhật Bản đã phần nào phải rút vốn đầu t vào Việt Nam, nhng đến năm

2000 Bộ ngoại giao của Nhật Bản đã lập song một danh sách các dự án ODA
trung hạn và Việt Nam là nớc đứng đầu danh sách đó với 55 dự án có khả
năng đợc tài trợ, trong đó chủ yếu là các dự án về cơ sở hạ tầng và hỗ trợ các
xí nghiệp vừa và nhỏ. Kim ngạch đầu t trực tiếp vào Việt Nam trong năm 2000
sẽ lên đến 8 tỷ USD. Điều này đã chứng tỏ thị trờng Việt Nam khá hấp dẫn
đối với các nhà đầu t nớc ngoài. Tính đến nay ở Việt Nam đã có gần đến 100
doanh nghiệp liên doanh với Nhật Bản, đặc biệt là các tập đoàn lớn của Nhật
24
Bản nh Sumitomo, Mitsui, Mitsubishi đã có mặt tại Việt Nam. Nhng thị tr-
ờng Việt Nam vẫn còn gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu t Nhật Bản khi
đầu t vào Việt Nam nh khả năng cung cấp nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế
tại chỗ còn yếu kém thủ tục hành chính rờm rà, phức tạp, tỷ giá chuyển đổi
giữa VNĐ và ngoại tệ không ổn định. Và khi so sánh chi phí đầu t nớc ngoài
tại 24 thành phố lớn thuộc 14 nớc Châu á thì nhận thấy rằng chi phí đầu t vào
Việt Nam còn qúa cao so với các nớc trong khu vực cụ thể là lơng công nhân
tại Việt Nam cao gấp 1,6 lần so với Inđônêsia và cớc phí điện thoại quốc tế tại
Việt Nam cao gấp đôi so với các nớc khác giá điện dùng cho sản xuất cũng
cao gấp đôi so với Trung quốc và Thái Lan, thuế thu nhập cá nhân tại Việt
Nam cao nhất trong khu vực (50%). Chính vì vậy để thu hút thêm vốn đầu t
của Nhật Bản vào Việt Nam thì chúng ta phải có một số biện pháp cải thiện
môi trờng đầu t nh mở thị trờng chứng khoán sửa đổi luật đầu t sao cho phù
hợp với thị trờng quốc tế.
Còn về phía Việt Nam cũng nhận thấy rằng thị trờng Nhật Bản là một thị
trờng có nhiều tiềm năng đối với các hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kim
ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản liên tục tăng đặc biệt từ năm
1991 đến năm 1997. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản th-
ờng chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên do ảnh h-
ởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ từ năm 1997 nên tỷ trọng này
giảm xuống còn 15,8% và năm 1998, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang Nhật Bản năm 1999 ớc tính đạt khoảng 1680 triệu USD chiếm 14,6%

tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Những mặt hàng mà ta xuất sang
Nhật Bản chủ yếu là hàng đông lạnh, hàng thủ công mỹ nghệ, nguyên liệu thô,
may mặc Nh ta đã biết kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Nhật Bản là
25% nhng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản đối với hàng hoá của Việt Nam
chỉ có 6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, điều này chứng tỏ
chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa để ngày càng xâm nhập vào thị trờng Nhật
Bản - một thị trờng khó tính. Nhật Bản là một thành viên của WTO nên có chế
độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên các nguyên tắc của tổ chức này, các
mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều nhng lại sử dụng nhiều hàng
rào phi thuế quan do vậy sự cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trờng
Nhật Bản là rất khó khăn về gía cả và chất lợng. Qua đó chúng ta cần có các
25

×