Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.41 KB, 23 trang )

Ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học, thuận lợi và
thách thức
Hùynh Tấn Thông, trường THPT Lấp Vò 2, Đồng Tháp
email:
website:
1- Đặt vấn đề:
Thế giới hôm nay đang chứng kiến những đổi thay có tính chất khuynh đảo trong
mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nhờ những thành tựu của công nghệ
thông tin (CNTT). CNTT đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố
năng động mới, cho quá trình hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
2- Tại sao Ứng dụng CNTT trong dạy học diễn ra rầm rộ trong giai đoạn hiện
nay?:
- Xuất phát từ các văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước nhất là chỉ thị 58-
CT/UW của Bộ Chính Trị ngày 07 tháng 10 năm 2001 về việc đẩy mạnh ứng
dụng CNTT phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa đã chỉ rõ trọng
tâm của ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy mạnh ứng
dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo, đây là nhiệm vụ mà Thủ tướng
Chính phủ đã giao cho ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2005 thông qua quyết
định số 81/2001/QĐ-TTg;
- Hiện nay các trường phổ thông điều trang bị phòng máy, phòng đa năng, nối
mạng Internet và Tin học được giảng dạy chính thức, một số trường còn trang bị
thêm Thiết bị ghi âm, chụp hình, quay phim (Sound Recorder, Camera,
Camcorder), máy quét hình (Scanner), và một số thiết bị khác, tạo cơ sở hạ tầng
CNTT cho giáo viên sử dụng vào quá trình dạy học của mình.
- Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương
pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến
tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng
có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học
đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường
công nghệ thông tin và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự lực với máy
tính, với Internet, dạy học theo hình thức lớp học phân tán qua mang, dạy học qua


cầu truyền hình. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho
học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển
cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan
tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì
nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy,
việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm”
sẽ trở nên dễ dàng hơn.
- Công nghệ phần mềm phát triển mạnh, trong đó các phàn mềm giáo dục cũng
đạt được những thành tựu đáng kể như: bộ Office, Cabri, Crocodile,
SketchPad/Geomaster SketchPad, Maple/Mathenatica, ChemWin,
LessonEditor/VioLet … [4] hệ thống WWW, Elearning và các phần mền đóng
gói, tiện ích khác. Do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà
mọi người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung
và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà
học sinh trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt
trong môi trường học tập. Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài
cánh tay của giáo viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ
có máy tính điện tử mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên
sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương
pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay
nội dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự
chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có
nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều
hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của công nghệ thông
tin và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách
học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người.
Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi
trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc,
trò chép” như kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để

chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của
bản thân mình. [5]
3. Thuận lợi và thách thức:
3.1. Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin so với
phương pháp giảng dạy truyền thống là:
- Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh vedeo, camera … với âm
thanh, văn bản, biểu đồ … được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn
nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan;
- Kĩ thuật đồ hoạ nâng cao có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội trong con người mà không thể hoặc không nên để xảy ra trong điều
kiện nhà trường; [6]
- Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện những công
việc mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên những lĩnh vực khác
nhau;
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với
người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet … có thể được khai thác
để tạo nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để học
sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo,
được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.[7]
Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh chữ,
âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý,
học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những quy luật mới. Đây là
một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền thông trong quá trình đổi
mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng, môi trường công nghệ thông
tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới sự phát triển trí tuệ của
học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết học tập mới.
3.2. Các thách thức: Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa công
nghệ thông tin và truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước
đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn
còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn còn ở phía

trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong
một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên
hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài
giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều nguyên nhân, mà cụ thể là,
với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo
phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả
nội dung bài học đó đủ trên một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học
từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng “slide” như khi dạy trên máy tính
điện tử. Những mạch kiến thức “ vận dụng” đòi hỏi giáo viên phải kết hợp với
phấn trắng bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện
được kĩ năng cho học sinh.
- Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn
còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh.
Mặc khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi, sự uy
quyền, áp đặt vẫn chưa thể xoá được trong một thời gian tới. Việc dạy học tương
tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho học
sinh, cũng như dạy học sinh cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự
khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối với giáo viên và đòi hỏi giáo viên phải kết
hợp hài hòa các phương pháp dạy học đồng thời phát huy ưu điểm của phương
pháp dạy học này làm hạn chế những nhược điểm của phương pháp dạy học
truyền thống. Điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình
dạy học, vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó.
- Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học chưa được
nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều
khi lạm dụng nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin còn lúng túng, chưa
xác định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Chính sách, cơ chế
quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được sự đồng bộ trong thực hiện. Các phương
tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học bằng phương tiện

chiếu projector, … còn thiếu và chưa đồng bộ và chưa hướng dẫn sử dụng nên
chưa triển khai rộng khắp và hiệu quả.
- Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử
dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền. Công tác
đào tạo, Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chỉ mới dừng lại ở
việc xoá mù tin học nên giáo viên chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và công
sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp học một cách có hiệu quả
4- Bài học kinh nghiệm và đề xuất:
Qua 3 năm ứng dụng và trãi nghiệm ở Trường THPT Lâp Vò 2; theo tôi có 1 số
bài học kinh nghiệm như sau:
- Giáo viên cần mạnh dạng, không ngại khó, tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện
tử của mình sẽ giúp cho giáo viên rèn luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp tốt
các phương pháp dạy học tích cực khác;
- Khi thiết kế Bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu (Vedeo, hình
ảnh, bảng đồ, ….), chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt tay vào
soạn giảng. Nếu sử dụng MS PowerPiont làm công cụ chính cần lưu ý về Font
chữ, màu chữ (Xanh(đen)- trắng, vàng/đỏ) và hiệu ứng thích hợp (hiệu ứng đơn
giản, nhẹ nhàn tránh gây mất tập trung vào nội dung bài giảng);
- Nội dung bài giảng điện tử cần cô động, xúc tích, hình ảnh, các mô phỏng cần
xác chủ đề (trong 1 slide không nên có nhiều hình hay nhiều chữ), những nội
dung học sinh ghi bài cần có qui ước (có thể dùng khung hay màu nền) sẽ khắc
phục được việc ghi bài của học sinh; Nội dung bài giảng chứa nhiều liên kết nhất
là liên kết đến hệ thống câu hỏi để khắc phục những tình huống sư phạm phát
sinh (như nhắc lại kiến thức, dàn bài, hết giờ, … các liên kết nầy có thể đặt trong
slide chủ), cần khai thác thế mạnh của CNTT trong kiểm tra đánh giá và kiểm
chứng kết quả. (Cũng cố bài cần hướng đến các câu hỏi mang tính vận dụng hay
các hình thức trắc nghiệm);
- Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình
dạy học và sự phát triển của học sinh, công nghệ mô phỏng nếu không phản ánh
đúng nội dung, giá trị nghệ thuật và thực tế thì không nên sử dụng, Chuẩn kiến

thức ở mức độ vận dụng cần kết hợp bảng và sử dụng các phương pháp dạy học
khác mới có hiệu quả;
- Giáo viên cần học, tập huấn các lớp soạn, giảng bài giảng điện tử, thường xuyên
truy vào các trang web và thành viên của diễn đàn: bachkim.vn, dayhocintel.org,
giaovien.net, moet.edu.vn, … mỗi trường cần có câu lạc bộ “Giáo án điện tử” để
trao đổi và rút kinh nghiệm, tiếp thu những công nghệ mới trao đổi những các
làm hay.
- Trang bị thêm Phòng đa năng và đầu tư đồng bộ như: máy chiếu, máy quay,
máy chụp, nối mạng, …và hướng dẫn sử dụng, (vị trí đặt máy chiếu, đèn chiếu,
độ sáng cũng cần xem xét) , dự phòng kinh phí cho sửa chữa nâng cấp phần cứng,
phần mềm giáo dục, có phụ cấp cho cán bộ phụ trách phòng này để khắc phục sự
cố và bảo quản sử dụng lâu dài;
- Sở giáo dục cần có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các trường triển khai Ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học (triển khai từ đâu và triển khai như thế nào?),
Mỗi năm cần tổ chức hội thi “Giáo viên sử dụng công nghệ Giỏi” hay giải “ Bàn
phím vàng”, … để kích thích lòng đam mê sáng tạo phục vụ cho sự nghiệp giáo
dục.
- Các chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục sớm đưa ra tiêu chí đánh giá tiết dạy
có sử dụng công nghệ thông tin, Chuẩn bài giảng điện tử để có cơ sở thẩm định,
tạo ra ngân hàng bài giảng điện tử có chất lượng.
- Sở Giáo dục cần có Máy chủ Web (WebServer) để triển khai các văn bản, tạo
kho tư liệu giáo dục, www, elearning, … hơn thế nữa là cấp tên miền cho các đơn
vị trực thuộc (sub Domian) để giảm chi phí và quản lý dữ liệu tập trung.
Lời kết: Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề cốt tử để nâng cao
chất lượng dạy học. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải
cách giáo dục ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là một công việc
lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng
lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin trong dạy học trong thời gian tới có hiệu quả, không có gì khác

hơn, là nhà nước tăng dần mức đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện và
hiện đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học; đồng thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ
thông tin và truyền thông để mọi trường học đều có thể kết nối vào mạng
Internet. Bên cạnh đó, có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn
bản mang tính pháp quy để các trường có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn
đầu tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội dung, phương pháp, hình
thức dạy học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia
đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập./.
Ứng dụng CNTT trong trường học
Bắt đầu từ năm học 2008 - 2009, Bộ GD-ĐT có chủ trương "Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin (CNTT) vào trường học "nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
Đấy cũng là hướng phấn đấu nhằm vượt qua ranh giới lạc hậu về giáo dục của nước ta
so với khu vực và thế giới. Hướng phấn đấu đó đòi hỏi phải trải qua quá trình và gặp
không ít khó khăn, không chỉ ngành GD - ĐT tự chịu trách nhiệm, mà cần phải có sự
chung sức của các cấp các ngành và toàn xã hội vì sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Để thực hiện tốt việc dạy học bằng CNTT, điều kiện cần và đủ của mỗi giáo viên không
chỉ thành thạo việc sử dụng máy vi tính mà còn biết ứng dụng một cách sáng tạo vào
việc soạn giáo án và giảng dạy sao cho sinh động hơn, hấp dẫn hơn khi chưa có máy
tính. Rõ ràng, điều này không hề đơn giản, đặc biệt là đối với những giáo viên có tuổi
đời và tuổi nghề khá cao.
đHọ rất ngại khi phải hằng ngày căng mắt trên màn hình vi tính để dò dẫm từng chữ,
trong khi tay chân cứng đờ vì mỏi.Cũng bởi họ có suy nghĩ , sắp nghỉ hưu rồi, học cũng
chẳng có ích gì (?!).Vậy là, để thực hiện chủ trương của Bộ, Ban giám hiệu các trường
đã phải sử dụng nhiều biện pháp, kể cả "biện pháp mạnh" như cắt thi đua, không nâng
lương, cho nghỉ hưu sớm để buộc các giáo viên tham gia các buổi học thêm về điều
khiển máy tính. Đó là chưa kể GV ở vùng khó khăn , thì ngay "mặt mũi" chiếc máy vi
tính như thế nào họ cũng chưa từng thấy, nói gì đến việc biết sử dụng những phương
tiện hiện đại này.Cho nên với các đối tượng như vậy thì rất khó triển khai dạy học bằng
CNTT.
Cái khó nữa là, các thiết bị ngoại vi đi kèm với máy tính như đầu chiếu đa năng, ampli,

loa thiếu sự đồng bộ, gây khó khăn cho việe ứng dụng vào bài giảng. Bình thường
mỗi trường chỉ có từ 1-2 máy, trong khi người dạy đông. Do đó tần suất dạy học bằng
CNTT của GV bị hạn chế.
Một điều nữa là, dù muốn hay không, khi đã áp dụng dạy học bằng CNTT, thì GV phải
sắm cho mình một chiếc máy vi tính sách tay. Đây là điều không dễ dàng gì với đội ngũ
GV, bởi đồng lương còn eo hẹp, trong khi giá cả leo thang, lo xoay xở với cuộc sống đã
thấy tối tăm mặt mũi.Việc bỏ ra từ 6- 8 triệu đồng để mua máy tính là điều quá xa xỉ.
Để khắc phục những khó khăn trên,việc trước mắt đối với các trường là làm sao giúp
GV hiểu rõ tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học.Giúp GV , đặc biệt
là GV đứng tuổi từng bước tiếp cận với CNTT bằng việc tranh thủ thời gian rỗi như
ngày nghỉ, buổi tối để bồi dưỡng kiến thức về sử dụng máy tính như một số trường đã
thực hiện thành công bằng cách này.
Các trường nên cử người đi học thêm về cách thức sử dụng các phần mềm dùng trong
soạn soạn bài và dạy học như phần mềm Power Point, phần mềm Vi-ô-lét,công nghệ
e-Leaming Dù khó khăn về vấn đề tài chính, nhưng khi đã tiếp cận và hiểu tầm quan
trọng của CNTT với quá trình giảng dạy,tin rằng các thầy cô giáo sẽ cố gắng chắt chiu
dành dụm để mua máy tính, phục vụ cho chuyên môn của mình. Hoặc nếu GV nào quá
khó khăn, nhà trường nên trích quỹ để cho GV mượn mua máy vi tính.
Các trường cần mua sắm thêm các trang thiết bị cho công việc soạn giáo án điện tử và
trình chiếu trên máy đa năng, màn chiếu và sớm nối mạng Internet,để cập nhật kiến
thức phục vụ cho việc dạy có chất lượng hơn. Tuy vậy, sự tự thân vận động của GV và
các cơ sở dạy học mà thiếu đi sự quan tâm của Đảng và chính quyền các cấp,thì sẽ rất
khó thực hiện chủ trương này.Mong rằng, nhà nước cần có một chính sách thoả đáng
dành cho GV ,để họ có điều kiện học tập năng cao trình độ tin học.
Ví dụ như tập huấn tin học vào dịp hè, hay cung cấp tài liệu, hỗ trợ thêm tiền để GV
mua máy tính. Tin rằng, lúc đó đội ngũ GV sẽ là những người đi tiên phong trong lĩnh
vực áp dụng CNTT trong dạy học, góp phần đổi mới phương pháp dạy học so với
phương pháp truyền thống mà lâu nay dư luận lên tiếng cảnh báo rất nhiều.
Đinh Xuân Tiễn
(Khu phố 3. Thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình)

LTS Dân trí - Ngày nay công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi trong đời sống
xã hội; môi trường giáo dục không thể không ứng dụng công cụ đa năng và hữu ích này.
Tuy nhiên việc đưa công nghệ thông tin vào trường học để góp phần đổi mới cách dạy
và cách học gặp không ít khó khăn như bài viết trên đây nêu rõ.
Muốn thực hiện tốt chủ trương này, rõ ràng cần có nguồn kinh phí đầu tư cho việc mua
sắm đồng bộ hệ thống thiết bị (cả máy tính và những thiết bị đi kèm), đồng thời chú
trọng đào tạo và nâng cao kiến thức tin học cho đội ngũ giáo viên. Chỉ trên cơ sở đó,
mới có thể đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học như chủ
trương của Bộ Giáo dục-Đào tạo đã đề ra.
Ứng dụng CNTT trong trường học: cần tránh bệnh hình thức
TTO - Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân cho biết, từ năm
học 2008-2009, Bộ GD-ĐT sẽ coi việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các
trường là một tiêu chí thi đua và là một căn cứ để xếp hạng các trường tiểu học, THCS,
THPT.
Trong chỉ thị về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành GD-ĐT
giai đoạn 2008- 2012 vừa ban hành, bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã nhấn mạnh việc
đổi mới phương pháp giảng dạy bằng ứng dụng CNTT phải thực hiện hợp lý, tránh lạm
dụng, tránh bệnh hình thức như việc chỉ ứng dụng CNTT trong bài giảng tại các cuộc
thi, hội thi không thực hiện trong thực tế giảng dạy hằng ngày.
Bộ GD-ĐT yêu cầu các trường học cần triển khai các hoạt động thiết thực: soạn bài
giảng trình chiếu, bài giảng điện tử, giáo án trên máy tính, khuyến khích giáo viên trao
đổi chuyên môn qua website của các cơ sở giáo dục, diễn đàn giáo dục của Bộ GD-ĐT,
triển khai mạnh mẽ công nghệ học điện tử, tổ chức các khóa học trên mạng, xây dựng
cơ sở dữ liệu và thư viện điện tử (giáo trình, sách giáo khoa điện tử, bài giảng, giáo án,
đề thi trắc nghiệm, thí nghiệm ảo, học liệu đa phương tiện ) và tổ chức các sân chơi trí
tuệ trực tuyến miễn phí ở một số môn học.
Theo chỉ thị của bộ trưởng, mỗi trường tiểu học, THCS và THPT phải có một cán bộ
viên chức phụ trách CNTT có trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp ngành CNTT trở lên,
có ít nhất một giáo viên nòng cốt trong lĩnh vực này. Các trường ĐH, CĐ phải thực hiện
đào tạo và ứng dụng CNTT theo nhu cầu xã hội.

Tình trạng thiếu trang thiết bị, nhân lực… đã khiến cho nhiều cơ sở giáo dục
lâm vào tình cảnh “khóc dở, mếu dở” khi triển khai năm học “Ứng dụng công
nghệ thông tin (CNTT) trong trường học”.
Với chủ đề đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong trường học, năm học 2008 - 2009,
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) yêu cầu các trường học cần triển khai các
hoạt động: soạn bài giảng, giáo án trên máy tính; khuyến khích giáo viên trao
đổi chuyên môn qua website của các cơ sở giáo dục, diễn đàn giáo dục của Bộ
GD&ĐT; triển khai mạnh mẽ ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học tập; tổ
chức các khóa học trên mạng; xây dựng cơ sở dữ liệu và thư viện điện tử (giáo
trình, sách giáo khoa điện tử, bài giảng, giáo án, đề thi trắc nghiệm, thí nghiệm
ảo, học liệu đa phương tiện ) và tổ chức các sân chơi trí tuệ trực tuyến miễn
phí ở một số môn học.

80% giáo viên chưa biết sử dụng máy chiếu

Tuy đã có quy định trên, nhưng hiện phần lớn đội ngũ cán bộ, giáo viên ở các
cơ sở giáo dục chỉ có trình độ tin học chứng chỉ A, thậm chí có người
còn…"mù" tin học như hiện nay, thì việc triển khai chương trình gặp rất nhiều
khó khăn.

Thống kê của Sở GD&ĐT TP HCM cho thấy, năm 2001, mặc dù xây dựng
chương trình xóa mù tin học, nhưng trình độ giáo viên biết sử dụng máy vi tính
chưa đạt 50%. Đến năm học 2007-2008, mặc dù được đầu tư nhiều hơn, như
tổ chức cho gần 15.000 cán bộ, giáo viên tập huấn chương trình này, nhưng
hiện tại cả TP HCM vẫn còn khoảng 5.100 giáo viên phải được tập huấn thêm,
chưa kể giáo viên các đơn vị ngoài giờ và trung tâm ngoại ngữ.

Ông Huỳnh Kim Sen, Giám đốc Trung tâm Thông tin giáo dục TP HCM, cho
biết: “Hiện nay, toàn thành phố còn 10,09% giáo viên chưa biết tin học”. Số
giáo viên có bằng A tin học là 64,51%, giáo viên sử dụng thành thạo các thiết bị

chiếu sáng, tương tác chỉ khoảng 20%.Tỷ lệ "mù" tin học ở một số địa phương
vùng ven thành phố còn lớn hơn: quận 7 là 26,34%, huyện Củ Chi: 20,19%,
quận Bình Tân: 15,05%.

“Chính vì thế, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy chủ yếu tập trung ở các
giáo viên trẻ hoặc giáo viên Toán - Tin. Với những giáo viên lớn tuổi, việc tiếp
cận tin học còn nhiều trở ngại”, thầy Huỳnh Công Hoàng, Phó hiệu trưởng
THPT Nguyễn Thái Bình, nhận định.

Cơ sở vật chất không đồng bộ

Bộ GD&ĐT cũng yêu cầu các cơ sở giáo dục triển khai ngay việc khai thác, sử
dụng các phần mềm, chương trình mã nguồn mở để phục vụ công tác quản lý
và giảng dạy.

Theo Cục Công nghệ Thông tin (Bộ GD&ĐT), các phần mềm phục vụ năm học
ứng dụng CNTT gồm: bộ phần mềm văn phòng Open Office 3.0 (thay thế phần
mềm Microsoft Office phải trả tiền bản quyền); sử dụng các hệ điều hành trên
nền Linux như: Abuntu, Asianux desktop…; sử dụng trình duyệt Firefox và bộ
gõ tiếng Việt Unikey.

Tuy nhiên, trong trường ĐH, CĐ, trường phổ thông và nhiều cơ quan quản lý
giáo dục hiện nay, các phần mềm trên hầu như vắng bóng. Hiệu trưởng một
ĐH của TP HCM cho biết: “Trường cũng khuyến khích giảng viên sử dụng các
phần mềm mã nguồn mở, nhưng rất khó thay đổi thói quen. Có chăng chỉ có
cán bộ trẻ, năng động mới ứng dụng được”. Tương tự, ở các cơ sở giáo dục
phổ thông, với trình độ tin học của giáo viên còn hạn chế thì việc sử dụng phần
mềm mã nguồn mở là cực kỳ hạn chế.

Cơ sở hạ tầng phục vụ chương trình ứng dụng CNTT trong các trường học

cũng “chênh” nhau, có đơn vị khá đầy đủ, trong khi có không ít trường, đặc biệt
là các cơ sở giáo dục vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo còn thiếu thốn nhiều
thứ. Ngay cả TP HCM là một đơn vị mạnh về ứng dụng CNTT, nhưng điểm qua
các trường, đơn vị ứng dụng CNTT tốt, hầu hết đều ở địa bàn trung tâm, và
đặc biệt là các trường chuyên, công lập. Ở những vùng xa trung tâm như
huyện Bình Chánh, Củ Chi, Nhà Bè, Cần Giờ, Hóc Môn, quận 9…, thì trang
thiết bị đa phần không đồng bộ.

Để phục vụ công tác giảng dạy môn Tin học, các trường THPT được yêu cầu
phải có tối thiểu một phòng 25 máy tính nối mạng, phấn đấu đạt chỉ tiêu tỷ lệ 10
học sinh một máy. Tuy nhiên, trên địa bàn TP HCM, bình quân hiện có 45 học
sinh THPT mới sử dụng một máy tính, còn tỷ lệ này ở bậc THCS còn cao hơn:
65 học sinh một máy. Nếu tính riêng các vùng ngoại thành, thì tỷ lệ này còn cao
hơn nhiều lần.
Hội nghị ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục: tăng cường giảng dạy, đào tạo và
nghiên cứu ứng dụng về CNTT Ngày 7-11, Sở GD-ĐT tỉnh đã tổ chức hội nghị chuyên
đề ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục tỉnh Đồng Nai.
Theo thống kê, hiện nay có 6.046
máy vi tính được trang bị cho các trường
trong toàn tỉnh, trong đó khối THPT có
2.678 máy với tỉ lệ 30 học sinh/máy, khối
THCS có 3.368 máy với tỉ lệ 60 học
sinh/máy. Cho đến thời điểm này, mới có
78 trường học có kết nối ADSL, trong đó
khối THPT có 44/57 trường, THCS có
34/167 trường. Ngành giáo dục đã triển
khai việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy từ nhiều năm nay, đặc biệt
là soạn giảng bằng trình chiếu, sử dụng
máy chiếu và các phần mềm trình diễn

biết tích hợp hình ảnh, sơ đồ, âm thanh
và video clip đến nay đã đạt được những kết quả nhất định. Bên cạnh đó, một
số trường còn ứng dụng các phần mềm chuyên môn như: cabri, sketchpad,
geogebra, crocodile… và sử dụng các phần mềm quản lý điểm, quản lý học
sinh, các ứng dụng nghiệp vụ khác.
Tuy nhiên theo đánh giá của ngành giáo dục, nhận thức về ứng dụng công
nghệ thông tin không được cập nhật, chưa làm rõ định hướng các chiến lược
đầu tư, tổ chức và quản lý về công nghệ thông tin không đồng bộ và gặp rất
nhiều khó khăn về nhân sự.
Theo kế hoạch, năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng
CNTT, đổi mới quản lý tài chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”. Trong đó, ngành tập trung xây dựng hệ thống chuyên trách về CNTT,
xây dựng hạ tầng về CNTT, phát triển mạng giáo dục và các dịch vụ công về
thông tin giáo dục trên internet để đẩy mạnh một cách hợp lý việc triển khai ứng


Giáo viên tìm hiểu về máy tính tại
hội nghị ứng dụng CNTT



Quang cảnh hội nghị

dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy và học ở từng cấp
học. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong điều hành và quản lý giáo dục,
tăng cường giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu ứng dụng về CNTT, đẩy mạnh
hợp tác quốc tế và xã hội hoá về CNTT, tổ chức thi đua, đánh giá kết quả ứng
dụng CNTT trong trường học.
Cũng theo đó, năm học 2008-2009, Công ty Viettel cam kết hỗ trợ ngành
giáo dục thực hiện việc kết nối internet tốc độ cao đến tất cả các sở giáo dục,

các trường học và cơ quan quản lý giáo dục.
Năm học ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) được bắt đầu nhưng với con số hơn
17.300 trường chưa kết nối internet (44%) thì mục tiêu đặt ra cho ngành giáo dục là rất
khó thực hiện. Vietnamnet đã có cuộc trao đổi với Cục trưởng Cục CNTT Quách Tuấn
Ngọc về thực tế và mục tiêu này.
Ông Quách Tuấn Ngọc

Giả sử tổ chức bồi dưỡng cho 125 nghìn giáo viên THPT, mỗi lớp 100 người, thời gian
bồi dưỡng là 5 ngày, theo cách làm truyền thống tổng thời gian cần làm sẽ là 17 năm.
Nghĩa là, một thầy đi giảng hết một lượt thì hết 17 năm. Trong khi, chúng ta có thể rút
ngắn thời gian trên bằng việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng qua mạng. Một buổi giảng có
thể truyền trực tiếp đến 63 Sở, có thể truyền đến gần 700 quận, huyện.
Nhưng hiện vẫn còn đến hơn 17.300 trường chưa kết nối internet, chiếm gần 44% trong
tổng số gần 40 nghìn trường mầm non và phổ thông của cả nước, vậy chúng ta sẽ làm
thế nào để ứng dụng CNTT?
- Không kết nối được internet thứ nhất là CSVC và thứ hai là giá. Trước đây, để chi trả
cho dịch vụ đường truyền internet phải mất khoảng 1 triệu/tháng/thuê bao. Đối với
những trường vùng sâu, vùng xa số tiền này không nhỏ. Mục tiêu đặt ra là sẽ kết nối
internet đến tất cả các trường học nhưng năm nay không thể nối được hết. Thậm chí,
đến 10 năm nữa cũng chưa thể nối được 100% các trường vì có những nơi vùng núi
hiểm trở rất khó đến do không có điện lưới, điện thoại.
Hơn 17.300 trường học chưa có internet là một con số rất lớn, trong đó có đến hơn 550
trường chưa có điện lưới, gần 5.000 trường không thể nối cáp. Chúng tôi muốn công
khai bức tranh CNTT một cách toàn diện nhất. Mặt khác, những con số trên cũng nói
lên một điều rằng lâu nay CNTT chưa được quan tâm đúng mức ở nhiều địa phương
hoặc đang rất khó khăn không đủ kinh phí để dành cho CNTT.
Hiện nay, đường cáp quang băng thông rộng đang được kết nối từ Bộ đến 63 Sở với giá
hơn 1,2 triệu/tháng thuê bao và gói chất lượng cao tới các cơ sở giáo dục với giá 175
nghìn đồng/tháng thuê bao. Khâu lắp đặt hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi đang lên kế
hoạch cho 25.000 trường, thậm chí những trường ở vùng sâu, vùng xa không thể dải cáp

internet cũng sẽ được hỗ trợ cung cấp miễn phí qua sóng điện thoại di động. Trung tuần
tháng 9 này, cáp quang băng thông rộng sẽ được nối đến cả 63 Sở và chúng tôi sẽ tổ
chức lễ khai thông. Đến tháng 12 sẽ hoàn thành nối mạng ở những nơi có điều kiện. Sau
đó, năm 2009 sẽ tiếp tục làm đến những vùng khó khăn. Dễ làm trước, khó làm sau và
làm có trọng điểm.
Khi mạng băng thông này đi vào hoạt động sẽ hỗ trợ ra sao cho các cơ sở giáo dục,
thưa ông?
- Ở những trường cấp 1, cấp 2, quan điểm đầu tiên của tôi là giải quyết vấn đề kết nối
thông tin liên lạc phục vụ cho giáo viên, hiệu trưởng. Ví dụ, công văn chỉ đạo hàng ngày
nối internet là truyền thẳng, không phải mất hàng tuần lễ chờ đợi qua đường bưu điện.
Tiếp nữa, bản thân giáo viên, ban giám hiệu phải là người được mở mang kiến thức
trước, cho nên có thể chỉ cần 2 máy tính là xong việc.
Đối với các Sở, nếu cần có thể họp hoặc trao đổi trực tuyến với Bộ mà không mất công
đi lại xa xôi. Hình thức triển khai hội nghị qua cầu truyền hình Bộ đã làm từ cuối năm
2004, có lúc lên đến 7 điểm cầu với 1.200 đại biểu tham dự. Ngoài việc giải quyết khâu
hội họp thì việc ứng dụng CNTT còn giúp tổ chức giảng dạy, đào tạo, tập huấn giáo
viên, hiệu trưởng; tổ chức đào tạo từ xa, giáo dục thường xuyên dù các thành viên có
thể ngồi ở bất cứ đâu, tại trường hoặc quán cà phê.
Theo ông, khi triển khai xuống cơ sở sẽ "mắc" phải vấn đề gì?
- Vấn đề còn lại là nhận thức và quyết tâm có làm theo cách này không, có luyến tiếc
với cách làm cũ hay cán bộ chuyên viên có tiếc là không được đi lại hoặc ít được giao
lưu (?). Chúng tôi đã lắp đặt một phòng studio với đầy đủ trang thiết bị, điều kiện để
triển khai. Chúng tôi cũng sẽ cùng phối hợp với Cục Nhà giáo và quản lý giáo dục,
Thanh tra cùng các Vụ để tổ chức triển khai, khai thác.
Về nguyên lý chúng tôi đưa ra là như vậy, nhưng cụ thể thực hiện thế nào thì các Sở,
trường phải góp tay vào. Tỉnh nào vào xem, chúng tôi ngồi đây biết hết. Vừa rồi, các Sở
GD-ĐT Bắc Kạn, Quảng Ngãi có vào chat, chứng tỏ họ quan tâm. Hoặc Điện Biên, Lai
Châu rất "chịu khó" vào, đó là điều đáng mừng vì càng đi lại khó khăn càng cần ứng
dụng CNTT. Trước mắt, sẽ thực hiện theo kiểu tiểu học là làm sai cũng động viên cổ
vũ, miễn là họ chịu làm, sau đó mình sẽ sửa dần dần. Riêng mục văn bản của Bộ đến

giờ các địa phương rất "happy", không phải chờ đợi, chuyển xa xôi.
Về việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy, hiện nay nhiều người đang nhầm lẫn khái
niệm về giáo án điện tử với bài trình chiếu, bài giảng điện tử, ông giải thích sao về
những thuật ngữ này?
- Cho đến nay, giáo viên các trường chủ yếu soạn bài trình chiếu powerpoint và một số
phần mềm dạy học. Nhiều người vẫn có sự nhầm lẫn khái niệm giáo án điện tử với bài
trình chiếu, bài giảng điện tử, giữa thiết bị dạy học với phần mềm.
Có thể giải thích thế này, giáo án là kế hoạch lên lớp của giáo viên cho một bài giảng,
tiết giảng; bài trình chiếu là bài soạn từ các phần mềm như MS powerpoint của Open
Office vẫn thường được chiếu tại các cuộc hội thảo, hội nghị không phải là bài giảng.
Còn bài giảng điện tử được soạn từ các phần mềm e-Learning, để người học có thể tự
học, có đầy đủ cả kiểm tra, đánh giá, trao đổi với giáo viên qua mạng. Cần tránh dùng
khái niệm giáo án điện tử để chỉ các bài trình chiếu powerpoint.
Sở dĩ phải là công nghệ e-Learning vì có chuẩn công nghệ SCORM, đã được thế giới
công nhận; có nhiều công cụ xây dựng bài giảng hợp chuẩn, đáp ứng nhu cầu học tập
mọi lúc, mọi nơi, có thể học trực tuyến qua internet hoặc cũng có thể học ngoại tuyến
qua đĩa CD.
Mẫu bài giảng điện tử duy nhất này chúng tôi đã gửi đến các Sở GD-ĐT qua email. Tới
đây, chúng tôi sẽ tổ chức cuộc thi giáo viên làm bài giảng điện tử theo công nghệ e-
Learning, giáo viên dạy giỏi ứng dụng CNTT. Nếu mỗi giáo viên góp mỗi năm 1 bài
giảng, chúng ta sẽ có 1 triệu bài giảng trong một năm và nếu bài giảng đó soạn thêm
bằng tiếng Anh thì có thể chia sẽ với bạn bè quốc tế.
Để thực hiện được những mục tiêu trên một cách có hiệu quả, theo tôi trước hết phải có
đủ bốn chuẩn: nhận thức; kỹ năng; hạ tầng cơ sở và công cụ phần mềm. Các thầy, cô
giáo phải hiểu rằng, dùng CNTT lúc đầu vất vả nhưng việc giảng dạy sẽ tăng tốc hơn rất
nhiều.
Xin cảm ơn ông!
(Theo Vietnamnet)
Ứng dụng CNTT trong giáo dục - góc nhìn từ Thanh Hóa
Cập nhật: 30/12/2008 00:00

Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đang là vấn đề được xã hội quan tâm.
Đem ánh sáng công nghệ đến những vùng nông thôn trong cả nước là việc làm cấp thiết
và cần đến nỗ lực, sự chung vai của nhiều tổ chức xã hội. Tại Thanh Hóa, địa phương
này đã có những mô hình triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục tốt,
góp phần nâng cao chất lượng quản lý, đào tạo và học tập của giáo viên và học sinh.
Ảnh minh họa (Ảnh: trithuc.info)
Muốn “xe” chạy phải chuẩn bị “đường”
Đối với việc ứng dụng CNTT, có thể nói, Internet đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nó
giống như việc muốn xe chạy thì phải làm đường…
Chúng tôi có mặt tại trường THPT Ba Đình – Nga Sơn – Thanh Hóa, một ngôi trường
có truyền thống trên 40 năm. Máy tính đã có mặt ở đây hơn 10 năm nay nhưng internet
băng thông rộng ADSL thì mới xuất hiện chưa lâu. Trước đây, khi mang những chiếc
máy tính đầu tiên về, BGH đã nghĩ đến việc ứng dụng CNTT cho công tác giảng dạy
nhưng đường truyền internet Dial up, với tốc độ “rùa bò” không cho phép các thầy cô
nơi đây thực hiện được các ý tưởng.
Lẽ tất nhiên, “đường” xấu thì “xe” khó chạy – không có nhiều ứng dụng thông qua
internet được cài đặt. Máy tính chủ yếu được dùng để soạn thảo văn bản, phục vụ công
tác kế toán, thỉnh thoảng gửi, nhận email… cho đến khi Internet băng thông rộng về nơi
đây.
Thầy giáo Nguyễn Tuấn Anh, Phó hiệu trưởng trường PTTH Ba Đình – Nga Sơn –
Thanh Hóa chia sẻ: “Kể từ khi có internet thì việc giảng dạy của thầy và trò đã hiệu quả
hơn và đỡ vất vả hơn… Trong những năm qua, có sự góp phần của internet mà kết quả
đào tạo của nhà trường ngày càng được nâng cao”.
Tại đây, Internet tốc độ cao xuất hiện, phòng máy tiếp tục được mở rộng, bổ sung thêm
những chiếc máy tính mới để phục vụ cho thầy và trò. Bên cạnh các bài học về Word,
Exel, lập trình Pascal, các tiết học về thế giới mạng internet đã thực sự tạo cho học sinh
nhiều hứng thú. Có thể thấy được không khí học tập nơi đây… Thầy say mê, trò hứng
thú với các bài học được minh họa trực quan, được cập nhập, bổ sung kiến thức liên tục
thông qua internet.
Không chỉ có trường PTTH Ba Đình Nga Sơn, gần như 100% các trường học từ bậc học

mầm non đến PTTH tại tỉnh Thanh Hóa đã được cung cấp đường truyền internet băng
thông rộng. Nỗ lực của Sở giáo dục tỉnh cùng với sự chung vai, sát cánh của Viễn thông
Thanh Hóa đã góp phần đem đến một không khí dạy và học mới cho các trường trong
tỉnh. Đường truyền internet tốc độ cao cùng gói cước ưu đãi MegaVNN cộng (+) có thể
nói là bước chuẩn bị hạ tầng quan trọng cho những ứng dụng CNTT trong ngành giáo
dục tỉnh Thanh, trong đó điển hình là triển khai phần mềm VNPT – School - Hệ thống
thông tin quản lý giáo dục và sổ liên lạc điện tử giữa gia đình - nhà trường.
Xây dựng mối quan hệ Nhà trường – Gia đình – Xã hội thông qua môi trường điện tử
Các phương pháp quản lý nhà giáo viên, học sinh cũ như gửi sổ liên lạc về nhà, thông
báo các nội dung qua giấy tờ, lập báo cáo thủ công… xem ra đã bộc lộ nhiều bất cập.
Muốn kiểm tra được một giáo viên, một lãnh đạo cấp Phòng giáo dục phải mất nhiều
thời gian, qua nhiều khâu báo cáo. Một phụ huynh muốn biết chính xác tình hình học
tập và rèn luyện của con em phải gặp trực tiếp thầy cô, tham gia các buổi họp phụ
huynh hay chờ đến cuối học kỳ để kiểm tra sổ liên lạc. Những bất cập này hứa hẹn sẽ
được thay đổi khi các trường học triển khai phần mềm VNPT – School, một phần mềm
do Viễn thông Thanh Hóa viết và cung cấp miễn phí cho hệ thống giáo dục trên toàn
tỉnh. VNPT-School là một hệ thống các ứng dụng phần mềm phục vụ tác nghiệp, điều
hành và quản lý thông tin giáo dục đào tạo các cấp, từ trường học đến Sở GD&ĐT
hình thành môi trường thông tin điện tử kết nối những thành tố tham gia vào hệ thống
giáo dục…
Ông Lê Ngọc Đức, Giám đốc Viễn thông Thanh Hóa cho biết Viễn thông Thanh Hóa đã
triển khai hệ thống quản lý thông tin nhà trường VNPT School đồng loạt trên 27/27
huyện thị trên toàn tỉnh và đến hết tháng 11 thì đã tiến hành tập huấn cho toàn bộ hệ
thống giáo dục phổ thông ở 15 huyện, thị, thành phố và 12 huyện còn lại thì tiếp tục
triển khai trong tháng 12.
Ông Mai Ngọc Khanh, Phó chủ tịch huyện Nga Sơn – Thanh Hóa đánh giá đây là một
trong những việc làm rất cần thiết để thực hiện chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào
tạo trong việc đưa ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy và học tập… “chương trình rất
khoa học, tạo điều kiện cho lãnh đạo nắm bắt kịp thời và cập nhập được các thông tin” –
ông Khanh cho biết.

Điểm đến tiếp theo của chúng tôi là trường THCS Nga Hưng, Nga Sơn, Thanh Hóa.
Thầy giáo Nguyễn Xuân Quý - hiệu trưởng nhà trường đang kiểm tra tình hình giáo
viên và học sinh trong toàn trường để báo cáo về Phòng giáo dục… Với một vài cú click
chuột, thầy hiệu trưởng đã có thể nắm được tình hình hiện tại. Điểm số của từng em học
sinh, hồ sơ của từng giáo viên, rồi thì tổng kết, xếp loại, xuất báo cáo và chuyển thẳng
lên mạng. Từ đây, Phòng giáo dục đã có thể đọc được báo cáo về trường và phản hồi
ngược lại…
Ông Mai Đình Hiếu, Trưởng phòng Giáo dục huyện Nga Sơn – Thanh Hóa hồ hởi: “Về
vấn đề quản lý ngành thì chúng tôi thấy từ trên Phòng chúng tôi có thể soi được tất cả
cán bộ giáo viên và học sinh ở các nhà trường nếu chúng tôi muốn. Thông qua VNPT
School, chúng tôi biết được các nhà trường vào điểm như thế nào, có đúng không và các
con điểm có đủ hay thiếu? chúng tôi cũng có thể biết được toàn bộ lý lịch của giáo viên
và học sinh một cách chính xác.”
Những thông tin do các trường nhập vào phần mềm sẽ được lưu trữ trên mạng và được
sao lưu dữ liệu, bảo mật tại Data Center của viễn thông Thanh Hóa. Mỗi học sinh sẽ
được cấp một mã số học sinh, phụ huynh chỉ cần biết mã số này là có thể kiểm tra tình
hình của con em ở bất kỳ đâu có mạng internet, thậm chí, họ có thể nhắn tin qua mạng
di động và mạng điện thoại cố định, tổng đài sẽ thông báo các điểm số của học sinh đó,
số ngày đến trường, tình hình vi phạm kỷ luật… Điều này được đánh giá sẽ khiến học
sinh phải chuyên cần hơn, các thầy cô phải cố gắng hơn vì thông tin luôn được công
khai rộng rãi, minh bạch và hết sức khách quan. Với tính năng trên, có thể nói VNPT –
School đã kết nối được mối quan hệ nhà trường – gia đình – xã hội gần nhau hơn, từ đó
góp phần thúc đẩy dạy tốt, học tốt.
Tuy nhiên, ở đây, vấn đề được đặt ra là có bao nhiêu phụ huynh nông thôn sẽ kiểm tra
con em theo cách này? Khi mà ngay chính bản thân họ, internet vẫn còn là một khái
niệm tương đối mới mẻ.
Đối với câu chuyện ứng dụng CNTT trong giáo dục tại Thanh Hóa, dễ nhận thấy mạng
internet thông suốt, phần mềm chuyên nghiệp là chưa đủ… Có được kết quả 100% các
huyện thị triển khai internet băng thông rộng và phần mềm dùng chung phải kể đến sự
quyết liệt của Tỉnh, quyết tâm của Sở và những cố gắng của Viễn thông. Giờ đây, toàn

tỉnh đã có một mạng lưới chung thống nhất giúp Sở dễ theo dõi hơn mà các trường cũng
có điều kiện giao lưu trực tuyến với nhau.
Vẫn còn nhiều gian nan…
Được tỉnh đánh giá cao, tập đoàn VNPT khen thưởng, các địa phương khác xin học tập
kinh nghiệm nhưng có thể nói, chặng đường mà Viễn thông Thanh Hóa cùng Sở Giáo
dục nơi đây đang “chung bước” vẫn còn đó nhiều gian nan…
Khó khăn cố hữu chính là tình trạng thiếu máy móc của các trường. Trên địa bàn tỉnh,
rất ít trường có được quy mô phòng máy như của trường Ba Đình – Nga Sơn hay trường
Dân tộc nội trú tỉnh… Thậm chí, tại những điểm sáng này, máy móc được sử dụng cũng
đã khá lâu, cấu hình thấp, không đồng bộ. Tỉnh, rồi các huyện đã tăng cường cấp máy
tính cho các trường học, nhưng vẫn như muối bỏ bể. Viễn thông Thanh Hóa cũng đưa ra
chương trình bán máy tính trả góp không lãi xuất cho giáo viên nhưng vẫn không có quá
nhiều người sẵn sàng móc hầu bao hàng tháng để mang về nhà những chiếc máy tính
Khi bài toán về máy móc còn đang đau đầu, vấn đề duy trì tốc độ mạng như cam kết lại
được đặt ra với viễn thông Thanh Hóa. Khi thực hiện chương trình này, chúng tôi đã
chứng kiến nhiều nguyên nhân “dở khóc, dở cười” khiến mạng tại nhiều nơi vẫn chưa
thực sự thông: Có trường do máy tính quá cũ, có trường do máy tính có quá nhiều
virus… Và không phải ở bất kỳ đâu, viễn thông cũng có thể có mặt để khắc phục tình
hình. Ở đây, đòi hỏi mỗi trường phải có một kỹ thuật viên và kinh phí để chi trả hợp lý
cho kỹ thuật viên đó lại được đặt ra? Trong quá trình đưa CNTT vào trường học, tâm lý
ngại thay đổi, trì trệ trong nếp nghĩ của một số giáo viên thậm chí là lãnh đạo cũng là
một khó khăn cần tính đến.
Gần đây, chúng tôi đã liên hệ trở lại với viễn thông Thanh hóa và được biết quá trình
triển khai ứng dụng CNTT tại địa phương này vẫn diễn ra suôn sẻ. Cả giáo viên và học
sinh đều rất phấn khởi trước những đổi mới trong phương thức quản lý dạy và học. Tuy
nhiên, dường như, tất cả đều mới là sự khởi đầu. Vẫn phải mất một khoảng thời gian đủ
dài nữa để biết chính xác tính hiệu quả của mô hình này cũng như những hệ lụy sẽ xảy
ra.
Nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong giảng dạy
Sáng nay, tại Hà Nội, Hội nghị và Triển lãm quốc tế về công nghệ

thông tin (CNTT) trong giáo dục, đào tạo lần II (ICTE 2004) với chủ
đề trên đã được khai mạc. Sự kiện này thu hút khoảng 700 đại biểu
đến từ 500 trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
Đây là hoạt động thường niên được Trung tâm CNTT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, phối
hợp với tập đoàn dữ liệu quốc tế IDG tại Việt Nam tổ chức.
Với thông điệp "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai", Patrick J. Mc Govern,
Chủ tịch IDG, đã khẳng định sự ủng hộ đối với những nỗ lực của Việt Nam trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và cam kết đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Ông đã
tặng 10 suất học bổng hằng năm (mỗi suất trị giá 500 USD) cho các cá nhân xuất sắc
trong lĩnh vực CNTT.
Trong thời gian diễn ra hội thảo, các nhà quản lý cùng chuyên gia trong lĩnh vực giáo
dục đào tạo sẽ tập trung bàn về những giải pháp ứng dụng hiệu quả nhất đối với điều
kiện Việt Nam. Các vấn đề được đặt ra là: tổng quan về ứng dụng CNTT và truyền
thông trong giáo dục; dự án cổng giao tiếp trong giảng dạy; ứng dụng công cụ giảng dạy
trực quan - multimedia trong giáo dục và đào tạo; kinh nghiệm triển khai CNTT trong
giáo dục một số nước châu Á; ứng dụng hệ điều hành mã nguồn mở và những kinh
nghiệm ứng dụng CNTT của lãnh đạo một số trường học
Đào Minh Quân, chuyên viên phòng Đào tạo, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Hà
Nội), cho VnExpress biết: "Ứng dụng CNTT trong trường chúng tôi vẫn còn ở mức
trung bình, vì vậy mà tôi rất quan tâm đến những vấn đề được đặt ra tại hội thảo lần
này. Tôi cho rằng đây là một hình thức trao đổi rất bổ ích".
Công ty HP đã trao tặng 1 phòng máy tính cho trường THPT Vĩnh Linh (Quảng Trị).
Trường THCS Mường Phăng (Lai Châu) cũng nhận món quà tương tự từ Công ty IDG
và Trung tâm CNTT. Nguyễn Đức Hồng, Hiệu trưởng trường Mường Phăng, cho biết:
"Phòng máy tính sẽ được ưu tiên dành cho các giáo viên học và sử dụng trước, từ đó sẽ
hướng dẫn lại cho học sinh. Địa phương chúng tôi đã có đầy đủ cơ sở để tiếp cận với
CNTT. Tới đây, nhà trường sẽ tạo điều kiện để các thầy cô được học về vi tính".
Tham gia triển lãm trong khuôn khổ hội thảo, các đơn vị đào tạo về CNTT là Trí Đức
và NIIT, cùng các hãng HP, Microsoft, FPT, CMS, Lạc Việt có những gian hàng giới
thiệu sản phẩm, giải pháp ứng dụng trong lĩnh vực giáo dục. Theo dự kiến của ban tổ

chức, sẽ có khoảng 2.000 lượt khách tham quan triển lãm.
Khách tham
quan triển lãm
ICTE 2004. Ảnh:
Anh Tuấn
ICTE 2004 sẽ diễn ra trong hai ngày (25-26/3).


×