Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

DỊCH VỤ VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG - LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.99 KB, 101 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội có tính tồn
cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay, quan niệm
về phát triển được hiểu đầy đủ là: Tăng trưởng kinh tế đi đơi với tiến bộ, cơng
bằng xã hội; phải xố đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp…
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm
cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn
việc làm, được ấm no và được sống một đời hạnh phúc”. Tư tưởng của người
luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về giải quyết việc làm cho người lao động.
Thất nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ diễn biến rất phức tạp, cản trở quá
trình vận động và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, tạo việc làm cho người
lao động là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho từng ngành, địa phương và từng
gia đình. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt, nhằm phát
huy tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển kinh tế xã hội, mặt khác, là hướng cơ bản để xố đói, giảm nghèo có hiệu quả, là cơ
sở để cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần quan trọng giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thực
hiện sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Giải quyết
việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều biện pháp, tạo ra nhiều
việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông
nghiệp, nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ
sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện
điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn
và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển các làng


2



nghề… sớm xây dựng và thực hiện chính sách trợ cấp cho người lao động thất
nghiệp”[7, tr135].
Trước những yêu cầu bức xúc về giải quyết việc làm. Năm 1992, Nhà
nước đặt ra “chương trình đào tạo, đào tạo lại và dạy nghề gắn với dịch vụ
việc làm thông qua dự án phát triển các Trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc
làm” và dần dược luật pháp hóa về hoạt động dịch vụ việc làm để hỗ trợ trực
tiếp cho người lao động trên đường tìm việc.
Dịch vụ việc làm ra đời vào cuối những năm 80 đáp ứng nhu cầu cấp
thiết về giải quyết việc làm. Hệ thống dịch vụ việc làm ở nước ta nói chung đã
hình thành và phát triển nhanh chóng cả về số lượng và nội dung hoạt động.
Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng; do đó, có vai trị
quan trọng làm cầu nối Thủ đơ Hà Nội với thành phố cảng Hải Phịng, thành
phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn
tham gia vào quá trình trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển và các
thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước. Chính vì vậy, Hải Dương vừa
đóng vai trị là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các
thách thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi
thế. Trong triển vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư
phát triển công nghiệp, du lịch thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực
cho các thành phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng.
Góp phần vào nhiệm vụ chung của tỉnh Hải Dương, những năm gần đây,
hệ thống dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã có những đóp góp
nhất định về tổ chức, tư vấn, giới thiệu, cung ứng, chắp nối việc làm, tạo cơ
hội cho người lao động tiếp cận với những công việc sớm nhất để họ tìm ra
cho mình được những cơng việc phù hợp góp phần phát triển kinh tế trong


3


tỉnh cũng như nâng cao đời sống vật chất tinh thần của cá nhân người lao
động trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, hệ thống dịch vụ việc làm trên địa
bàn tỉnh Hải Dương còn nhiều hạn chế, thể hiện: hệ thống dịch vụ việc làm
chưa được quy hoạch làm cơ sở cho việc phát triển lâu dài, cịn có đơn vị hoạt
động tiêu cực ảnh hưởng đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
cũng như quyền lợi của người lao động. Chính vì vậy, việc phát triển đồng bộ
hệ thống dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng và cả nước
nói chung là nhiệm vụ cần thực hiện để tư vấn, thu thập, cung cấp thông tin
thị trường lao động góp phần phát triển thị trường lao động.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Dịch vụ việc làm trên địa bàn
tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Thời gian qua, có nhiều cơng trình khoa học đề cập đến quá trình hình
thành và phát triển các tổ chức dịch vụ việc làm. Đảng, Nhà nước ta và rất
nhiều học giả rất quan tâm. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, được đăng
tải, cơng bố như:
+ Thực trạng và một số giải pháp phát triển thị trường lao động ở thành
phố Đà Nẵng, Sở Lao động – thương binh và xã hội thành phố Đà Nẵng,
tháng 5 năm 2006.
+ Các chính sách về việc làm và thị trường lao động trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của TS Nguyễn Bá Ngọc, Phó hiệu trưởng trường Đại
học Lao động – Xã hội, số 332, 333 tháng 3 năm 2008.
+ Vai trò trung tâm giới thiệu việc làm đối với chính sách bảo hiểm thất
nghiệp, Ths. Trần Phương trường Đại học Lao động – Xã hội, số 338 tháng 7
năm 2008.


4


+ Đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia
về việc làm, của Nguyễn Đại Đồng Cục trưởng Cục Việc làm Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, số 350 tháng 01 năm 2009.
+ Báo cáo: Thực trạng hoạt động của hệ thống Trung tâm giới thiệu việc
làm và hệ thống thông tun thị trường lao động tại Việt Nam, phương hướng,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển trong thời gian tới của Vụ Lao động – việc
làm (nay Cục việc làm) Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tháng 9 năm 2007.

+ Hội thảo: Tổng kết 15 năm hoạt động giới thiệu việc làm và đề ra
phương hướng đổi mới hoạt động giới thiệu việc làm trong thời gian tới, Bộ
Lao động – thương binh và Xã hội, tháng 10 năm 2006.
Các cơng trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về lý luận
và thực tiễn, song chưa có cơng trình nào nghiên cứu dưới góc độ kinh tế
chính trị về “ Dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương ”. Chính vì
vậy, nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết nhằm góp phần vào việc phát triển
hệ thống dịch vụ việc làm để tư vấn, thu thập, cung cấp thông tin thị trường
lao động, giới thiệu; cung ứng kết nối cung – cầu lao động góp phần phát triển thị
trường lao động.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc tìm hiểu căn cứ lý luận, thực tiễn và phân tích, đánh giá
thực trạng hệ thống dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương, từ đó đề
xuất các phương hướng, giải pháp phát triển hệ thống dịch vụ việc làm, góp
phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục tiêu trên, luận văn cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của một số nước
về hệ thống dịch vụ việc làm.



5

- Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống dịch vụ việc làm trên địa bàn
tỉnh Hải Dương những năm gần đây.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp phát triển hệ thống dịch vụ việc làm
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của Tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động, phát triển của các loại hình dịch vụ
việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: tập trung nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Hải Dương
+ Thời gian: khảo sát, đánh giá thực trạng từ năm 2006 đến nay và
đề xuất giải pháp từ nay đến 2020
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; dựa vào những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta cũng như những lý thuyết của kinh tế chính trị học và kinh tế
học về dịch vụ việc làm.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau: phương pháp
duy vật biện chứng & duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac - Lênin đồng thời
kết hợp sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp phân tích tổng
hợp để làm rõ các nội dung của luận văn.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách tồn diện thực trạng các loại hình dịch vụ
việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua.



6

- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm phát triển hệ thống dịch
vụ việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ nay đến năm 2015 và 2020, góp phần
phát triển thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Hải Dương theo hướng tích cực.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết cụ thể như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ việc làm.
Chương II: Thực trạng dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chương III: Một số quan điểm, giải pháp phát triển dịch vụ việc làm trên
địa bàn tỉnh Hải Dương.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM
1.1. Cơ sở lý luận chung về dịch vụ việc làm
1.1.1. Dịch vụ việc làm và các loại hình dịch vụ việc làm
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ việc làm và nội dung hoạt động dịch vụ việc làm
Dịch vụ
Dịch vụ là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu kinh tế.
Tuy nhiên, nội hàm của dịch vụ được hiểu với những nghĩa còn khác nhau.
Trong Bách khoa toàn thư Xô viết lớn, dịch vụ được hiểu, thứ nhất, là hình
thái của lao động phi sản xuất, là quan hệ kinh tế-xã hội thể hiện sự tiêu dùng
thu nhập, thứ hai, là hoạt động có mục đích nhất định tồn tại dưới hình thái
hiệu quả có ích của lao động. Đây là quan niệm phổ biến của thời kỳ kinh tế
hiện vật, phủ nhận kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội, từ đó, đã gây

cản trở cho sự phát triển của các ngành dịch vụ.
Những quan điểm gần đây đã khắc phục được tính phiến diện của quan
niệm kể trên. Trong Từ điển kinh tế Megabook.ru, dịch vụ được hiểu là công
việc được thực hiện theo đơn đặt hàng nhưng không tạo ra sản phẩm có hình
thái độc lập mới. Trong Từ điển thuật ngữ kinh tế, dịch vụ là những dạng
hoạt động, công việc, mà trong quá trình thực hiện chúng không tạo ra sản
phẩm vật chất có hình thái vật thể mới, nhưng làm cho sản phẩm hiện có đã
được tạo ra thay đổi về chất. Đó là của cải được cung cấp không phải dưới
hình thái hiện vật, mà là dưới hình thái hoạt động.


8

Từ những quan điểm trên, có thể thấy điểm chung trong các quan niệm
về dịch vụ là đều coi dịch vụ là kết quả có ích của một dạng lao động đặc thù.
Kết quả đó được biểu hiện ra dưới hình thái phi vật thể hay vô hình. Trong tác
phẩm “Các học thuyết về giá trị thặng dư”, C. Mác cũng đã sử dụng thuật ngữ
sự phục vụ để thể hiện khái niệm dịch vụ. Theo đó, có thể hiểu dịch vụ là
những hiệu quả có ích của những lao động cụ thể tồn tại dưới hình thái sản
phẩm vô hình. Như vậy, dịch vụ là loại hình sản phẩm đặc thù của lao động,
là hiệu quả có ích của lao động cụ thể, tồn tại dưới hình thái phi vật thể.
Những đặc điểm chủ yếu của dịch vụ so với các sản phẩm lao động hữu hình
bao gờm:
Thứ nhất, dịch vụ là sản phẩm vơ hình. Sản phẩm hữu hình có thể dễ
dàng định lượng và tiêu chuẩn hóa. Cịn kết quả của hoạt động dịch vụ, mặc
dù có thể cảm nhận, đánh giá, nhưng rất khó lượng hố vì khơng tách riêng ra
dưới hình thái hiện vật được. Phần lớn công việc của những người làm dịch
vụ thường biến đi ngay khi làm xong, rất ít khi để lại một dấu vết hay một giá
trị nào đó để sau này có thể cho ta nhận được một số lượng dịch vụ ngang như
thế. Kết quả một số dịch vụ nhất định có thể tồn tại như một giá trị sử dụng có

hình thái độc lập tách khỏi người sản xuất và người tiêu dùng, có thể duy trì
sự tồn tại, lưu thông trong một khoảng thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng
như những tác phẩm nghệ thuật, Nhưng, thực ra, giá trị sử dụng của chúng
không phải là bản thân yếu tố vật chất của sản phẩm tồn tại độc lập đó, mà là
“cái hồn” của những tác phẩm đó, thể hiện ở cái đẹp, cái hay mà từng người
tiêu dùng cảm thụ được. Cũng có những dịch vụ phải có sản phẩm vật chất
kèm theo, làm trung gian, như dịch vụ cung ứng bữa ăn trên máy bay hay trên
xe lửa, hoặc là dịch vụ cho thuê nhà.... nhưng bản thân dịch vụ đó vẫn là vơ hình.


9

Thứ hai, phần lớn dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời, nên dịch
vụ khơng thể tích luỹ, để dành. Sản phẩm hiệu vật có thể tách rời sản xuất với
tiêu dùng, có thể tích trữ trong kho, nhưng dịch vụ thì thường sản xuất đến
đâu tiêu dùng đến đấy, khơng tiêu dùng sẽ bỏ phí vì dịch vụ khơng thể tích
trữ, để dành. Ví dụ, khi xe chở khách, người lái xe tạo ra sự di chuyển đến
đâu thì hành khách hưởng thụ đến đó. Nếu xe có 4 chỗ mà chỉ có một người
ngồi thì ba chỗ cịn lại sẽ bị bỏ phí, khơng thể để dành cho lần sau được.
Thứ ba, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự tiếp xúc trực
tiếp hay sự tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và người được thụ hưởng
dịch vụ. Sản phẩm hiện vật có thể đánh giá thơng qua các tiêu chuẩn cụ thể về
chất lượng mà khơng cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người sản xuất và
người tiêu dùng. Còn chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự giao tiếp,
thái độ và năng lực đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, đem lại sự hài
lòng và thiện cảm của khách hàng đối với người phục vụ.
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình dịch vụ cũng trở thành hàng
hoá. Bên cạnh những hàng hoá hiện vật, trên thị trường còn có những hàng
hóa vơ hình hay dịch vụ, như dịch vụ của bác sĩ, giáo viên, luật sư, v.v. Giá trị
sử dụng của dịch vụ là cũng đáp ứng một nhu cầu nào đó của người mua. Để

tạo ra dịch vụ cũng cần tới những chi phí lao động nhất định. Những người
làm dịch vụ cũng cần nhận được thu nhập bằng tiền từ hoạt động dịch vụ của
mình, đồng thời những người được thụ hưởng dịch vụ cũng phải chi tiền để
được hưởng thụ những dịch vụ đó. Việc mua những dịch vụ hoàn toàn không
khác gì chi tiền mua bất cứ loại hàng hóa nào khác, vì vậy, dịch vụ cũng có
giá trị trao đổi. Căn cứ chủ yếu để xác định giá cả thị trường của dịch vụ là
chi phí sản xuất ra chúng.


10

Khi lực lượng sản xuất còn chưa phát triển, các sản phẩm mang hình thái
vật thể như nơng sản, sản phẩm của các ngành cơng nghiệp… có vai trị nền
tảng trực tiếp của đời sống xã hội, vì vậy việc sản xuất ra chúng là quan tâm
hàng đầu của xã hội. Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, số lượng và
chủng loại các sản phẩm phi vật thể tăng dần, có vai trị khơng những đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân ngày càng tăng của xã hội, mà cịn có tác động
ngày càng lớn tới các ngành sản xuất sản phẩm vật thể. Vì vậy, tốc độ phát
triển của các hoạt động dịch vụ có xu hướng tỷ lệ thuận với trình độ phát triển
của sản xuất xã hội, các ngành dịch vụ cũng được hình thành và mở rộng
không ngừng dưới tác động của phân công lao động xã hội.
Ngày nay có nhiều cách phân loại dịch vụ. Theo nguồn gốc hình thành
sản phẩm dịch vụ được phân loại theo ngành, lĩnh vực như dịch vụ giao thông
vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, y tế, giáo dục, du lịch, tài chính ngân
hàng, quản lý nhà nước …. Theo tính chất kinh tế - xã hội của dịch vụ trong
nền kinh tế thị trường có thể phân biệt dịch vụ có tính chất thị trường và dịch
vụ có tính chất phi thị trường. Dịch vụ có tính chất phi thị trường là các dịch vụ
được cung cấp miễn phí hoặc với giá cả thấp ở mức khơng bù đắp được những chi
phí tạo ra chúng.
Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tác động lẫn nhau chặt chẽ; dịch vụ là

một điều kiện để phát triển sản xuất, kinh doanh. Sự phát triển dịch vụ hợp lí,
có chất lượng cao là một biểu hiện của nền kinh tế phát triển và một xã hội
văn minh.
Do ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn nên hoạt động dịch vụ trở thành lĩnh
vực kinh tế quan trọng, có vị trí lớn trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia phát
triển.


11

Dịch vụ là những hoạt động cần thiết, tất yếu được nẩy sinh từ yêu cầu của
các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội và nhu cầu đời sống của
con người. Dịch vụ sản xuất ra các điều kiện nhằm phục vụ các hoạt động xã
hội và đời sống con người. Các sản phẩm của dịch vụ cũng là những hàng hoá
được mua bán trao đổi trên thị trường. Dịch vụ vừa là nguyên nhân, vừa là kết
quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Xã hội phát triển càng cao
thì lĩnh vực sản xuất dịch vụ có xu hướng phát triển ngày càng tăng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhất là nền kinh tế tri thức, trong
GDP và cơ cấu lao động xã hội, cơ cấu kinh tế quốc dân, dịch vụ là một bộ
phận hàng hóa vơ hình ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Dịch vụ là nguồn của
cải vô tận, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

Việc làm
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã
hội loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm trong thế giới
xung quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi xã
hội phát triển, những hoạt động lao động sản xuất nói chung ấy, được phân
chia thành những ngành nghề cụ thể khác nhau và người lao động được làm
việc trong những lĩnh vực phù hợp với khả năng của mình. Mỗi người tham

gia lao động sản xuất với một việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống
bản thân và đóng góp cho xã hội.
Việc làm trước hết là biểu hiện của hoạt động lao động sản xuất ở mỗi
người lao động. Nếu lao động là hoạt động của xã hội nói chung, phản ánh
bản chất của con người nói chung thì việc làm là hoạt động lao động cụ thể
của mỗi người lao động tham gia vào quá trình lao động xã hội chung đó.


12

Giống như lao động, việc làm cũng phản ánh mối quan hệ giữa người lao
động với giới tự nhiên. Bởi vì để làm việc người lao động cũng phải sử dụng
sức thần kinh cơ bắp của mình cùng với cơng cụ lao động, tác động một cách
có ý thức, có mục đích lên đối tượng lao động, biến những vật thể tự nhiên
thành của cải phục vụ nhu cầu con người. Chính vì vậy, việc làm cũng chịu
tác động bởi những qui luật và điều kiện tự nhiên.
Mặt khác, khi nói đến việc làm là nói đến những yếu tố người lao động,
đối tượng lao động và tư liệu lao động. Người lao động với kỹ năng chun
mơn của mình, kết hợp với tư liệu sản xuất, hoạt động trong một lĩnh vực nhất
định của cơ cấu kinh tế xã hội, chính là việc làm của anh ta. Người lao động
có việc làm là người giữ một vị trí trong cơ cấu chung đó. Vì vậy, việc làm
cũng chịu tác động của các qui luật kinh tế, xã hội.
Như vậy, việc làm cũng như lao động của con người nói chung thể hiện
mối quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên, giữa những người lao
động với nhau và với xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc làm là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý
trong đó lao động diễn ra. Lao động là phạm trù vĩnh viễn của xã hội lồi
người, thì việc làm khơng phải như vậy. Xét trên tổng thể có những nơi,
những lúc có hiện tượng người lao động khơng có việc làm trong khi hoạt
động lao động sản xuất của con người khơng bao giờ ngừng lại. Việc làm nói

lên mối quan hệ của con người với chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã
hội cần thiết mà trong đó một q trình lao động cụ thể được diễn ra. Nói đến
việc làm là nói đến cơng việc của người lao động với những ngành nghề, công
việc cụ thể; là những hoạt động cụ thể của người lao động, đáp ứng nhu cầu
xã hội, nhu cầu cá nhân của người lao động.
Tóm lại, có thể nói lao động là cái chung và việc làm là cái riêng. Việc
làm là phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế xã hội. Trên khía cạnh


13

xã hội, việc làm phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong
những giới hạn nhất định, trong đó q trình lao động được diễn ra, là cơ sở
để các mối quan hệ xã hội tồn tại trong mối liên hệ đan xen, liên kết với nhau
phát triển theo hướng lành mạnh. Trên khía cạnh kinh tế việc làm thể hiện
mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người
và yếu tố vật chất trong lao động sản xuất.
Vấn đề việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Đó là cơng việc
của mỗi cá nhân nhưng lại gắn liền với xã hội. Có việc làm, khơng những người lao
động có thu nhập ni sống bản thân mà còn tạo ra một lượng của cải cho xã hội.
Mác đã nói: “Với những điều kiện khác khơng thay đổi thì khối lượng và giá trị của
sản phẩm tăng lên theo tỷ lệ thuận với số lượng lao động được sử dụng” [32, tr.75].
Việc làm là một vần đề có ý nghĩa kinh tế xã hội và chính trị quan trọng
của một quốc gia. Hiện nay đảm bảo an toàn việc làm là một trong những yếu
tố cơ bản của sự phát triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và xu thế
chủ động hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta hiện nay đang tạo ra những cơ
hội và thách thức về lao động, việc làm cho người lao động. Chính vì vậy
nhận thức đúng đắn về việc làm là vấn đề quan trọng tạo cơ sở lý luận để đưa
ra những giải pháp tích cực giải quyết việc làm, phát huy nguồn lực lao động
của xã hội.

Trước đây, trong cơ chế cũ việc làm của người lao động thường do nhà
nước giải quyết với chế độ “biên chế” suốt đời. Người lao động có việc làm
được xã hội tôn trọng và thừa nhận là những người làm việc trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp của nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh, với
quan niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, xã hội
khơng thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không
đầy đủ. Quan điểm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước ở người lao động khi
họ cần việc làm.


14

Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, quan niệm trên về
việc làm đã thay đổi. Quan điểm mới về việc làm được thể hiện ở Luật lao
động của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2002. Điều
13, chương 2 (việc làm) của Luật qui định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra
nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ”.
Từ qui định trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về việc làm: Việc làm
là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu, miễn là không vi phạm
pháp luật để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm
trên đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, mở ra một thị
trường việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực hiện mục
tiêu giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Nghiên cứu việc làm cho người lao động trong một quốc gia, địa phương
và trong một thời kỳ nhất định người ta còn quan tâm đến các vấn đề việc làm
đầy đủ và thiếu việc làm.

Việc làm đầy đủ có thể hiểu là sự thỏa mãn nhu cầu về việc làm của
người lao động. Mọi người lao động có nhu cầu việc làm đều có thể tìm được
việc làm một cách nhanh chóng. Tuy nhiên mức độ đảm bảo việc làm cho
người lao động cịn tùy thuộc vào trình độ kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể
của mỗi nước.
Ví dụ: ở Đan Mạch thời gian trung bình mà một người phải đổi để được
giới thiệu một việc làm mới là 14 tuần, ở Đức là 15 tuần.
Đối với nước ta, đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động đang là
một khó khăn và khả năng tạo mở việc làm của nền kinh tế chưa lớn. Chúng


15

ta tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ kỹ thuật, tay
nghề của cơng nghiệp hóa. Chình vì vậy thiếu việc làm đầy đủ cả vơ hình và
hữu hình là hiện tượng phổ biến trong xã hội.
Việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc
làm cho người lao động. Nó khơng những đưa lại thu nhập cao cho người lao
động mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do
lựa chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác của sản xuất.
Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện phát triển
phong phú đời sống tinh thần.
Dịch vụ việc làm
Dịch vụ việc làm được hiểu là hoạt động môi giới việc làm giữa người sử
dụng lao động và người lao động, nhằm chắp nối cung – cầu về lao động trên
thị trường lao động.
DVVL đã phát triển từ lâu trên thế giới. Ở nhiều nước, hoạt động DVVL
được tổ chức thành hệ thống, được trang bị các phương tiện hiện đại nhằm thu

thập, phân tích và cung cấp thông tin thị trường lao động cho người sử dụng
lao động, người lao động cũng như các cơ quan chức năng liên quan. Người
lao động có thể tiếp cận thơng tin bằng nhiều hình thức để tìm kiếm cơ hội
việc làm thuận tiện và nhanh chóng.
Nội dung hoạt động dịch vụ việc làm
Với chức năng kết nối cung - cầu lao động, DVVL giữ vai trị trong hình
thành phát triển thị trường lao động. Các trung tâm giới thiệu việc làm đã và
đang là cầu nối cần thiết, hữu ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Trên thế giới, dịch vụ việc làm diễn ra ở hầu hết các nước, tập trung theo
hai mơ hình chủ yếu là theo ngành dọc và theo đơn vị hành chính với mức độ


16

phân cấp khác nhau. Việt Nam hiện nay có cả hai loại hình là DVVL cơng và
DVVL tư. Hiện cả nước có hơn 130 Trung tâm giới thiệu việc làm, trong đó
64 trung tâm trực thuộc các Sở Lao động – Thương binh và xã hội, 66 trung tâm
thuộc các bộ, ngành, tổ chức đoàn thể và các ban quản lý khu công nghiệp – khu
chế xuất.
Nội dung hoạt động DVVL bao gồm tư vấn việc làm, học nghề và các
chính sách liên quan; giới thiệu và cung ứng lao động theo yêu cầu của doanh
nghiệp; thu thập, phân tích và cung ứng thông tin thị trường lao động thực
hiện các hoạt động sự nghiệp về bảo hiểm thất nghiệp.
- Về tư vấn việc làm
Tư vấn là tiến trình tương tác giữa người tư vấn khách hàng, trong đó
người tư vấn sử dụng kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp của mình giúp khách
hàng thấu hiểu hồn cảnh của mình và tự giải quyết vấn đề của mình.
Theo từ điển Tiếng Việt , “Tư vấn là đóng góp ý kiến về các vấn đề được
hỏi đến, nhưng khơng có quyền quyết định”.
Người sử dụng dịch vụ tư vấn tại các cơ sở DVVL gồm nhiều loại khác

nhau, mỗi đối tượng có nhu cầu được tư vấn các vấn đề khác nhau, vì vậy cần
phân loại và định hướng nội dung dịch vụ cần tư vấn và thường có các nhóm:
người lao động trên đường tìm việc, người lao động thất nghiệp, sinh viên học
sinh mới ra trường, cơ sở dạy nghề… và tương ứng từng nhóm có những vấn
đề đặt ra khác nhau.
Mục tiêu tư vấn là phương pháp quan trọng mà các cơ sở DVVL sử dụng
để cung cấp thông tin hữu ích và tư vấn cho người tìm việc, người sử dụng lao động
và các tổ chức khác trong thị trường lao động, nhằm giúp họ tìm ra quyết dịnh về
nghề nghiệp, việc làm, tự tạo việc làm, di chuyển lao động, đào tạo và tuyển dụng.


17

Tư vấn thường được tổ chức dưới các hình thức: nói chuyện hướng
nghiệp, hội nghị nghề nghiệp, nói chuyện tại các cơ sở DVVL, trao đổi giữa
các cá nhân, nói chuyện thông qua các phương tiện thông tin…
Dịch vụ tư vấn có thể cung cấp cho từng cá nhân hoặc tập thể. Đối với cá
nhân thường phù hợp và có hiệu quả nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân trong
quá trình tiếp cận việc làm. Quá trình diễn ra trực tiếp giữa cán bộ DVVL và
cá nhân, đòi hỏi cán bộ phải thường xun cập nhật thơng tin và có hiểu biết
lĩnh vực mình phụ trách. Tuy nhiên, tư vấn cá nhân thường mất nhiều thời
gian hạn chế số lượng người được tìm hiểu thơng tin. Đối với tư vấn tập thể
trước hết địi hỏi lựa chọn đối tượng có cùng đặc điểm nhu cầu tìm kiếm
thơng tin cơ bản giống nhau mới phù hợp nội dung tư vấn.
Trong quá trình giúp đỡ người lao động tìm việc, các cơ sở DVVL
thường hỗ trợ bằng cách đóng góp ý kiến cho người lao động về học nghề, về
việc làm, về kỹ năng thi tuyển, về tự tạo việc làm, về chính sách, pháp luật lao
động. Hỗ trợ người sử dụng lao động về tuyển dụng, quản trị và phát triển
nguồn nhân lực, về sử dụng và phát triển việc làm..
Cán bộ phụ trách cơng tác tư vấn địi hỏi phải nắm và hiểu các vấn đề

liên quan đến dịch vụ việc làm để đóng góp ý kiến cho người lao động, người
sử dụng lao động quyết định về việc chọn nghề, về việc làm, lựa chọn việc làm và
tuyển dụng, tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ trong quá trình quan hệ
lao động.
- Về giới thiệu việc làm
Giới thiệu việc làm là giúp người lao động đang trên đường tìm việc và
người sử dụng lao động gặp nhau trao đổi, thỏa thuận về việc làm và các điều
kiện liên quan trong quan hệ lao động.
Giới thiệu người lao động để chắp nối việc làm còn trống được diễn ra
theo các bước: tiếp nhận người lao động đăng ký tìm việc làm. Tiếp nhận


18

đăng ký là q trình phỏng vấn thu thập thơng tin người lao động về trình độ
được đào tạo, nghề nghiệp, kinh nghiệm và các vấn đề liên quan, lưu giữ
thơng tin người tìm việc. Đồng thời DVVL cịn khai thác hoặc tiếp nhận đăng
ký chỗ việc làm trống có nhu cầu tuyển dụng cũng là quá trình phỏng vấn thu
thập thông tin về chỗ việc trống và các điều kiện làm việc, môi trường làm
việc, các chế độ liên quan… trên cơ sở đó giới thiệu người lao động đến chỗ
việc làm trống phù hợp.
Như vậy, giới thiệu việc làm là q trình trong đó cơ sở DVVL có những
thông tin về chỗ việc làm trống và giới thiệu cho người tìm việc đến địa chỉ
của người sử dụng lao động để tìm hiểu và có thể đi đến thỏa thuận về việc
làm; hoặc cơ sở DVVL có thơng tin về người tìm việc và giới thiệu cho người
sử dụng lao động để tiếp xúc và có thể đi dến những thỏa thuận tuyển dụng
[31, tr.452].
Trong giới thiệu việc làm còn quan tâm đến kết quả là hai bên thỏa thuận
chấp nhận xác lập quan hệ lao động.
Tuy nhiên, khi giới thiệu người lao động đang trên đường tìm việc đến

với người sử dụng lao động phù hợp là một quá trình mà cán bộ DVVL phải
am hiểu ngành nghề, nhu cầu về đặc điểm của việc làm trống mới đảm bảo
chất lượng, nâng cao kết quả chắp nối thành công trong giới thiệu việc làm.
- Về cung ứng lao động
Cung ứng lao động thường xảy ra khi người sử dụng có kế hoạch tuyển
dụng lao động số lượng nhiều, hầu hết các vị trí việc làm trống được mô tả cụ
thể và người sử dụng lao động đã tìm hiểu và tin chắc cơ sở DVVL có năng
lực thực hiện giúp họ tuyển chọn lao động có trình độ, kỹ năng phù hợp.
Cung ứng lao động là một loại dịch vụ mà các cơ sở DVVL có thể cung
cấp cho người sử dụng lao động. Cung ứng lao động được dùng để chỉ việc cơ
sở DVVL và người sử dụng lao động ký kết hợp đồng cung ứng lao động,


19

trong đó cơ sở DVVL chịu trách nhiệm tuyển chọn và cung cấp đủ số lượng
lao động đáp ứng các yêu cầu về kỹ năng, tay nghề và các đòi hỏi khác của
người sử dụng lao động [31, tr.452].
- Thông tin thị trường lao động
+ Thị trường lao động
Thị trường lao động khác với thị trường hàng hóa ở chỗ, nó thể hiện
phần lớn những biểu hiện kinh tế - xã hội của cả xã hội và có rất nhiều nhân
tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nó.
Có thể hiểu đơn giản thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi giữa
kỹ năng lao động và tiền lương [22, tr.28]
Thị trường lao động có các yếu tố chính sau:
Cung lao động: là những người có khả năng lao động, đang tích cực đi
tìm việc làm hoặc đang làm việc
Cung thực tế: bao gồm tất cả những người đủ tuổi lao động, ở Việt Nam
quy định người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và tất cả những người thất

nghiệp có nguyện vọng đi tìm việc làm.
Cung tiềm năng: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc
và những người thất nghiệp; cả những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ hoặc khơng có nhu
cầu tìm việc.
Cầu lao động: chỗ việc làm trống hiện có và tổng mức việc làm
Xét về số lượng lao động, trong điều kiện năng suất lao động không đổi,
cầu lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ phát triển sản xuất, kinh
doanh. Nếu quy mô sản xuất, kinh doanh không đổi, cầu lao động tỷ lệ nghịch
với năng suất lao động.
Xét về chất lượng lao động, việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất
lao động đòi hỏi doanh nghiệp phải bổ sung lực lượng lao động có chất lượng cao,


20

đó là lao động có trình độ tay nghề giỏi, thông thạo nhiệm vụ chuyên môn, chịu áp
lực công việc, có ý thức, tác phong cơng nghiệp, chấp hành kỷ luật lao động tốt.
Các trung gian thị trường lao động: cơ chế và các tổ chức hỗ trợ việc làm
kết nối giữa người lao động và chỗ việc làm trống (người sử dụng lao động).
+ Thông tin thị trường lao động:
Thị trường lao động lại khá phức tạp và để hiểu rõ hơn, chúng ta còn
hiểu thêm các đặc điểm của lực lượng lao động, điều kiện làm việc các loại
cơng việc hiện có và đặc điểm phân bổ chúng.
Thơng tin thị trường lao động đóng vai trị quan trọng đối với các cơ sở
DVVL. Thông tin thị trường lao động giúp cơ sở DVVL nâng cao vai trị của
mình trên thị trường lao động bằng việc cung cấp thông tin có chất lượng về:
Việc làm và các thiếu hụt kỹ năng; các xu hướng và cơ hội việc làm, các khu
vực kinh tế, ngành nghề đang có xu hướng phát triển. Đồng thời giúp các cơ
sở DVVL tiếp cận đầy đủ các thông tin để xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt

động.
1.1.1.2. Các loại hình dịch vụ việc làm
Theo quy định của pháp luật lao động, tổ chức giới thiệu việc làm có thể
chia thành hai loại hình. Trung tâm giới thiệu việc làm là cơ sở dịch vụ việc
làm được hiểu là DVVL công và doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm
là cơ sở dịch vụ việc làm được hiểu là DVVL tư.
Nhiệm vụ các Trung tâm giới thiệu việc làm và các hoạt động giới thiệu
việc làm doanh nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung, theo Thông tư số 27/TTBLĐTBXH ngày 20 tháng 11 năm 1008 của Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội, được thực hiện như sau:
Hoạt động tư vấn bao gồm:
Tư vấn học nghề cho người lao động về lựa chọn nghề, trình độ đào tạo,
nơi học phù hợp với khả năng, nguyện vọng.


21

Tư vấn việc làm cho người lao động về lựa chọn công việc phù hợp với
khả năng nguyện vọng; về kỹ năng thi tuyển; về tự tạo việc làm, tìm việc làm
trong và ngoài nước.
Tư vấn người sử dụng lao động về tuyển dụng lao động; về quản trị và
phát triển nguồn nhân lực, về sử dụng lao động và phát triển việc làm.
Tư vấn về các chính sách, pháp luật lao động cho người lao động, sử
dụng lao động.
Hoạt động giới thiệu việc làm cho người lao động, cung ứng lao động
và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động gồm:
Giới thiệu việc làm cho người lao động cần tìm việc với doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức, cá nhân cần tuyển lao động;
Cung ứng lao động đã được chọn lựa thông qua hồ sơ tuyển dụng phù
hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động.
Tuyển lao động qua thi tuyển để chọn lựa những người đủ tiêu chuẩn,

điều kiện, đáp ứng yêu cầu cảu người sử dụng lao động.
Hoạt động thu thập, phân tích và cung ứng thông tin thị trường lao
động, bao gồm:
Nhu cầu tuyển lao động, nhu cầu tìm việc làm
Tiêu chuẩn lao động, tiền lương, tiền công trên địa bàn hoạt động, của
vùng và cả nước.
Riêng đối với các Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội, từ năm 2010 thêm nhiệm vụ thực hiện chính sách
bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật lao động.
Cơ sở dịch vụ việc làm công (TTGTVL)
Trước khi Tổ chức Lao động quốc tế công nhận DVVL tư, năm 1949 đã
thông qua Công ước số 96 hướng tới sự độc quyền DVVL công và kêu gọi
bãi bỏ DVVL tư. Xuất phát từ DVVL cơng khơng thu phí sẽ đáp ứng thỏa


22

đáng các nhu cầu của người tìm việc cũng như người sử dụng lao động. Đến
năm 1994, mặc dù trên thực tế vẫn thực hiện nhưng dần khơng cịn phù hợp.
Đến 1997 một Công ước mới được Tổ chức Lao động quốc tế đưa ra, Công
ước 181 và đề xuất 188 đã hợp pháp hóa các DVVL tư.
Ở Việt Nam, DVVL ra đời muộn, đồng thời với việc từng bước chuyển
đổi nền kinh tế, DVVL cơng ngay từ khi hình thành phát triển theo hướng
trước hết là DVVL công.
Dịch vụ việc làm công (TTGTVL): Theo quy định hiện hành là đơn vị
sự nghiệp có thứ tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên, là tổ
chức thuộc lĩnh vực hoạt động xã hội do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội thành lập.
Dịch vụ việc làm công (TTGTVL) do Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
tỉnh, Thành phố, Thủ trưởng cơ quan Trung ương các tổ chức chính trị - xã

hội, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ quyết định thành lập Trung tâm thuộc quyền quản lý của mình.
Các trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động vì mục tiêu xã hội, hoạt động phi
lợi nhuận. Chi phí hoạt động các Trung tâm tự đảm bảo một phần và được
ngân sách đài thọ.
Các trung tâm thu phí của người sử dụng lao động về tư vấn, giới thiệu
việc làm, cung ứng lao động và tuyển dụng lao động theo yêu cầu của người
sử dụng lao động, không thu phí của người lao động khi sử dụng dịch vụ của
trung tâm. Từ khi chính sách bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực việc tổ chức
thực hiện chính sách Bảo hiểm thất nghiệp đối với người thất nghiệp khi
tham gia Bảo hiểm thất nghiệp được Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp đài thọ cho
hoạt động này.
Hệ thống DVVL công ở nước ta đã được hình thành và ngày càng phát
triển cả về số lượng và chất lượng hoạt động. Không chỉ được hình thành và


23

phát triển các đơn vị thuộc địa phương mà còn phát triển ở cả các tổ chức
chính trị - xã hội. Hoạt động các Trung tâm GTVL cơ bản đáp ứng được yêu
cầu của thị trường lao động; từng bước phù hợp với quy định quốc tế về hoạt
động của tổ chức DVVL.
Các trung tâm giới thiệu việc làm đã được các cơ quan chủ quản và
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm hỗ trợ đầu tư nâng cao năng lực
trung tâm. Từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động, thu hút được người sử
dụng lao động và người lao động sử dụng dịch vụ của các trung tâm ngày
một tăng, góp phần tích cực hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động
đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển thị trường lao động.
Cơ sở dịch vụ việc làm tư (DNHGTVL)
Nền kinh tế thế giới nhiều quốc gia có chính sách kinh tế phù hợp mang

lại sự tăng trưởng mạnh mẽ. Tồn cầu hóa và sự phát triển về mặt công nghệ
thông tin đã và đang giữ vai trò quan trọng. Tốc độ phát triển và thay đổi đã
đang và sẽ tiếp tục diễn ra nhanh chóng. Khoảng cách thiếu hụt về kỹ năng
lao động trong các thị trường lao động đang gặp phải những thách thức. Để
nhanh chóng và đáp ứng thực tế phát triển và nhu cầu thị trường luôn thay
đổi, các nước đã có cuộc cải cách thiên về quan điểm làm cho thị trường lao
động có hiệu quả hơn, thích ứng thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế. Một trong những cải cách đó là giải quyết vai trò DVVL và DVVL tư
được Tổ chức lao động quốc tế hợp pháp hóa từ năm 1997.
Ở Việt Nam cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, việc chấp nhận DVVL
tư cũng như hoạt động DVVL công nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng thị
trường lao động, năm 2005 chính thức được công nhận hợp pháp. Tuy nhiên,
DVVL tư hoạt động phải đặt dưới sự giám sát, có điều kiện được cấp phép
hoạt động và Nhà nước quy định chỉ cho thu những khoản phí và mức thu nhất
định nhằm bảo đảm rằng có tác động tích cực cho sự phát triển hệ thống DVVL.


24

Dịch vụ việc làm tư: Doanh nghiệp hoạt động GTVL là Doanh nghiệp
thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Có
thể nói doanh nghiệp hoạt động GTVL hoạt động gắn liền với lợi ích kinh tế.
Sự phát triển của thị trường lao động, nhu cầu đa dạng của người sử
dụng lao động và người lao động tăng. DVVL công chưa đủ nguồn lực đáp
ứng, đồng thời DVVL công ưu tiên khai thác hỗ trợ giải quyết việc làm cho
lao động yếu thế. Các việc làm đặc thù có thu nhập cao khai thác tốn thời
gian và chủ yếu hỗ trợ người lao động đã có điêu kiện tham gia thị trường lao
động, nhằm hướng đến thu nhập cao chưa được quan tâm. Thực hiện chủ
trương xã hội hóa các lĩnh vực, Nhà nước đầu tư củng cố và phát triển DVVL
công, đồng thời Nhà nước mở rộng DVVL cho doanh nghiệp tham gia, tạo

thuận lợi nữa cho mọi người lao động, có thể chọn lựa địa vị cung cấp dịch
vụ phù hợp nhu cầu cá nhân.
Doanh nghiệp hoạt động GTVL được thu phí tư vấn, giới thiệu việc làm
của người lao động, người sử dụng lao động. Thu phí cung ứng và tuyển
dụng lao động của người lao động, người sử dụng lao động.
Từ năm 2005 đến nay, các doanh nghiệp hoạt động GTVL đã tham gia
cung cấp DVVL cho người lao động và người sử dụng lao động, đặc biệt việc
làm có thu nhập cao, kịp thời lấp đầy chỗ việc làm trống ngày càng tăng. Các
cơng ty với hình thức săn đầu người đi đầu trong việc tìm kiếm, đào tạo, chắp
nối việc làm đặc thù có thu nhập cao cho người lao động.
Các doanh nghiệp hoạt động hợp pháp đã đầu tư xây dựng lực lượng
nhân sự và điều kiện làm việc, tạo điều kiện người sử dụng dịch vụ tiếp cận
trực tuyến trên hệ thống mạng, góp phần nâng cao cơ hội tìm kiếm việc làm
cho các đối tượng.
DVVL cơng và doanh nghiệp hiện nay chưa phải là kênh duy nhất cung
cấp dịch vụ hỗ trợ người lao động về việc làm, người sử dụng lao động về


25

tuyển dụng. Họ khơng hồn tồn dựa vào các cơ sở DVVL để tìm việc mà
thơng qua nhiều kênh khác nhau như các phương tiện thông tin đại chúng,
các đơn vị hướng nghiệp…
1.1.1.3. Các đặc trưng của dịch vụ việc làm
Đặc trưng chung của DVVL
Một là, DVVL là một trong những chức năng chung thị trường lao động.
Làm nhiệm vụ sắp xếp người lao động vào các chỗ việc làm trống và phục vụ
như là đối tác của người tìm việc và người sử dụng lao động. Người lao động
và người sử dụng lao động giao kết hợp đồng lao động với nhau trên cơ sở
môi giới, kết nối của các cơ sở DVVL.

Hai là, khách hàng sử dụng dịch vụ của đơn vị là người sử dụng lao
động và người lao động. Trong đó, cơ sở DVVL khơng bố trí việc làm trực
tiếp mà cung cấp dịch vụ cho người sử dụng lao động và người lao động,
đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Ba là, DVVL là nơi cung cấp thơng tin về các điều kiện có liên quan
đến việc làm và ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với kết nối cung và
cầu lao động. Trực tiếp là tạo ra sự gặp gỡ giữa cơ sở DVVL, người lao
động, người sử dụng lao động, kết quả sắp xếp được việc làm thông qua môi
giới chắp nối. Gián tiếp là thông qua cung cấp thông tin và tư vấn cho người
làm việc tự tìm việc hoặc người sử dụng lao động tìm lao động phù hợp mà
khơng có sự trợ giúp trong q trình đó từ cơ sở DVVL.
Đặc trưng từng loại hình dịch vụ việc làm
+ Dịch vụ việc làm công:
Được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thành lập và
đầu tư, hoạt động thuộc lĩnh vực xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận.
Người lao động sử dụng dịch vụ khơng phải mất phí và phần lớn là
những đối tượng yếu thế trên thị trường lao động. Người sử dụng lao động


×