Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Paper67 10 22 cbdc vietnam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.17 KB, 10 trang )


Huân chương Lao động
hạng Ba (1987)

Huân chương Lao động
hạng Nhì (1992)

Huân chương Lao động
hạng Nhất (2010)

NĂM THỨ 70

MỤC LỤC SỐ 19 THÁNG 10/2022

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
VÌ AN SINH XÃ HỘI

3- Phát huy tính bổ sung các lợi thế để
PHĨ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. Nguyễn Thị Thanh Bình - Phụ trách
ThS. Nguyễn Thanh Nghị
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP
PGS., TS. Nguyễn Kim Anh - Chủ tịch
ThS. Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Chủ tịch TT
TS. Tơ Huy Vũ
TS. Nguyễn Thị Hịa
ThS. Tạ Quang Đơn
ThS. Nguyễn Đức Long
ThS. Lê Thị Thúy Sen


ThS. Lê Anh Dũng
TS. Phạm Chí Quang
TS. Nguyễn Xuân Bắc
TS. Lê Anh Xuân
ThS. Đặng Duy Cường
PGS., TS. Phạm Thị Hoàng Anh
TS. Nguyễn Tú Anh
TS. Nguyễn Tuấn Anh
TS. Bùi Hữu Toàn
TS. Nguyễn Quốc Hùng
TS. Đoàn Văn Thắng
TS. Dương Quyết Thắng
TS. Quách Hùng Hiệp
ThS. Nguyễn Quốc Cường
ThS. Nguyễn Thị Phượng
ThS. Lê Hồng Tùng
TỊA SOẠN
Số 64 Nguyễn Chí Thanh,
phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội
E-mail: -
-
Fax: (024) 39392192
THƯ KÝ - BIÊN TẬP
ĐT: (024) 39392185
(024) 38354807
PHÁT HÀNH, QUẢNG CÁO
ĐT: (024) 39392187

Giấy phép xuất bản số: 484/GP-BTTTT
In tại Cơng ty Cổ phần In Cơng đồn Việt Nam

17/167 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 024 38514997

Giá: 30.000 đồng

tối đa hóa lợi ích thương mại nơng sản
xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn mới.
PGS., TS. Nguyễn Thường Lạng

38-Tín dụng chính sách xã hội mang
nhiều giá trị đến với người nghèo tỉnh
Cao Bằng.

10- Ngành Ngân hàng chủ động triển khai

Hà Minh Phương

chính sách hỗ trợ lãi suất đồng bộ, thống
nhất từ Trung ương đến địa phương.
Hạ Lan
CÔNG NGHỆ NGÂN HÀNG
16- Tiền di động - Một năm nhìn lại.
PGS., TS. Hạ Thị Thiều Dao
Phùng Thị Hoàng An

TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

42- Tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung
ương: Kinh nghiệm thế giới và bài học đối
với Việt Nam.

Hoàng Thị Thanh Thúy,
Vũ Thị Hải Anh,

23- Tác động của độ bảo mật tới ý định
sử dụng ngân hàng di động trên địa bàn

Nguyễn Minh Sáng

Thành phố Hồ Chí Minh.
GS., TS. Hà Nam Khánh Giao
31- Phát triển tài khoản thanh toán cá
nhân nhằm thúc đẩy tài chính tồn diện

50- Phát triển kinh tế xanh: Kinh nghiệm
quốc tế và bài học đối với Việt Nam.
ThS. Đoàn Thị Cẩm Thư

ở Việt Nam hiện nay.
TS. Nguyễn Cảnh Hiệp
NGÂN HÀNG VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

NƠNG NGHIỆP VÀ NƠNG THƠN
36- Agribank Chi nhánh Hà Tĩnh II “đỡ

57- Bác Hồ chọn Phó Thủ tướng.

đầu” nơng dân làm giàu từ nông nghiệp.

Nguyễn Thu

TIN TỨC


TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

TIỀN KỸ THUẬT SỐ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG:
KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Hoàng Thị Thanh Thúy, Vũ Thị Hải Anh, Nguyễn Minh Sáng *
■ NGÀY NHẬN BÀI: 25/7/2022

■ NGÀY BIÊN TẬP: 09/8/2022

■ NGÀY DUYỆT ĐĂNG: 20/9/2022

Tóm tắt:
Trong thời đại bùng nổ công nghệ số, mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội có sự thay đổi sâu
sắc và tồn diện. Lĩnh vực tiền tệ cũng khơng nằm ngoài xu hướng ấy. Một số quốc gia đi đầu
bắt đầu quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và đưa vào sử dụng một hình thái tiền tệ mới. Đó là
tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (NHTW) (CBDC - Central Bank Digital Currency). Có
thể coi CBDC là bước ngoặt trong lịch sử hình thành của tiền kỹ thuật số. Vậy CBDC là gì? Đặc
điểm và ứng dụng CBDC như thế nào? Những quốc gia nổi bật nào trên thế giới đang nghiên
cứu, thử nghiệm hay triển khai CBDC…? Từ quan sát kinh nghiệm nghiên cứu, phát hành CBDC
của các quốc gia trên thế giới, bài viết phân tích những lợi ích, rủi ro mà CBDC có thể mang đến
cho Việt Nam. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đưa ra những đề xuất thích hợp đối với việc phát
hành CBDC nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh cho hệ thống tài chính nước nhà, đồng
thời tăng khả năng kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).
Từ khóa: CBDC; cơng nghệ sổ cái phân tán; công nghệ sổ cái tập trung; NHTW; tiền kỹ
thuật số.

THE CENTRAL BANK DIGITAL CURRENCY:
WORLD'S EXPERIENCE, LESSONS FOR VIETNAM
Abstract: In the Digital Era, profound and comprehensive changes have come to all aspects
of socio-economic life. The monetary sector is also not immune to such changes. Some leading
countries have begun the process of researching, testing and putting into use a new form
of currency - the Central Bank Digital Currency (CBDC). CBDC can be considered as a turning
point in the history of money. So what is CBDC? What are the characteristics and applications
of CBDC? Which prominent countries in the world are researching, testing or implementing
CBDC…? From observing the experience of researching and issuing CBDCs of countries around
the world, the article analyzes the benefits and risks that CBDC can bring to Vietnam. On that
basis, the study offers recommendations for the issuance of CBDCs in order to improve the
efficiency and competitiveness of the financial system of our country as well as increase the
ability to control money of SBV.
Keywords: Central bank; CBDCs; Centralized Ledger Technology (CLT); Digital currency;
Distributed Ledger Technology (DLT).
* Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

Chuyên mục này do
Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội tài trợ

42

TẠP CHÍ NGÂN HÀNG | SỐ 19 | THÁNG 10/2022


TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

1. Đặc điểm và ứng dụng tiền kỹ
thuật số của NHTW


Khái niệm
Cho đến nay, khơng có một định
nghĩa thống nhất chung duy nhất
về tiền kỹ thuật số. Theo Ngân
hàng Thanh toán quốc tế (BIS,
2015), tiền kỹ thuật số là tài sản
được thể hiện dưới dạng số, khơng
có hình thái vật chất như tiền giấy
và tiền xu truyền thống. Dựa trên
đối tượng phát hành, theo VEPR
(2021), tiền kỹ thuật số có thể
được phân chia thành 2 loại là tiền
kỹ thuật số của tư nhân (private
digital currency) và CBDC.
Theo một cách phân loại khác,
tiền kỹ thuật số bao gồm tiền điện
tử (electronic currency) và tiền
ảo (virtual currency) (Trần Hùng
Sơn, Hoàng Trung Nghĩa, 2019).
Sự khác biệt cơ bản giữa 2 loại tiền
này được xác định như sau: Tiền
điện tử là cơ chế thanh toán số cho
tiền pháp định và được gán mệnh
giá theo tiền pháp định; trong khi
tiền ảo không được gán mệnh giá
theo tiền pháp định và có đơn vị
tính tốn (unit of account) riêng
của nó (IMF, 2016). Thêm vào đó,
tiền điện tử chịu sự quản lý của cơ
quan Nhà nước, được phát hành

bởi các tổ chức tiền điện tử được
thành lập, hoạt động theo quy
định của pháp luật, và được chấp
nhận thanh toán bởi các cá nhân,
doanh nghiệp không phải là nhà
phát hành. Trái lại, tiền ảo không
chịu sự quản lý của cơ quan Nhà
nước, được phát hành bởi những
người phát triển phần mềm và
thường được chấp nhận thanh toán
trong một cộng đồng ảo nhất định
(Trương Thị Hồi Linh, 2020).
CBDC - đơi lúc cịn được gọi là
tiền điện tử của NHTW - là tiền
pháp định dưới dạng số (a digital
banknote). CBDC là một dạng
mới của tiền NHTW (Châu Văn
Thành, 2021). CBDC có đơn vị tài
khoản quốc gia, là một nghĩa vụ nợ

của NHTW và được đảm bảo bằng
tài sản do NHTW nắm giữ (VEPR,
2021). Kết quả là NHTW công
nhận độ tin cậy và sự hợp pháp của
việc phát hành CBDC.
Đặc điểm
CBDC là tài sản được lưu trữ giá
trị trên phương tiện điện tử. Loại
tiền này nếu được thiết kế tốt có
thể có chức năng là phương tiện

trao đổi với mức chi phí bằng 0,
lưu trữ giá trị an tồn và đơn vị
tính tốn ổn định (Lê Văn Hinh,
Nguyễn Tường Vân, 2021). Chủ
thể phát hành duy nhất của CBDC
là NHTW. CBDC là loại tiền có
chủ quyền, được quốc gia cơng
nhận là hình thức tiền tệ mới đại
diện cho tiền tệ quốc gia (Hà Thế
Việt, Nguyễn Xuân Hồng, 2021).
CBDC, một dạng đặc biệt của
tiền gửi có thể chuyển nhượng
(transferable deposits), có những
khác biệt cơ bản so với tiền mặt
vật chất (bao gồm tiền giấy và tiền
xu) như sau:
Thứ nhất, tiền mặt có chi phí
phát hành và có thể bị bạc màu,
nhàu nát hoặc rách cần phải được
in mới để thay thế. Điều này cũng
gây ra tác động xấu đến mơi trường.
Thêm vào đó, giao dịch bằng tiền
mặt có thể dẫn đến những rủi ro về
sức khỏe như truyền nhiễm bệnh
cho người dùng. CBDC khơng có
những rủi ro này do CBDC là dạng
tiền điện tử và giao dịch thông qua
các ứng dụng công nghệ số hiện
đại, tránh việc phải tiếp xúc trực
tiếp giữa người với người.

Thứ hai, người sở hữu tiền mặt
cũng có rủi ro bị mất mát, hao
hụt tài sản do cướp giật, cháy nổ.
Ngoài ra, việc vận chuyển và bảo
quản tiền cũng phát sinh nhiều chi
phí. Với những giao dịch lớn thì
việc kiểm đếm một lượng tiền lớn
gây tốn kém thời gian, cơng sức
và có thể có nhầm lẫn trong kiểm
đếm. CBDC khơng có những trục
trặc này.

Thứ ba, tiền mặt có thể bị làm
giả, đặc biệt là khi công nghệ in ấn
lạc hậu không cài đặt được những
hình ẩn hữu hiệu để chống làm giả.
CBDC là tiền ở dạng điện tử nên
khó bị làm giả hơn. Mặc dù vậy,
cơ sở hạ tầng của hệ thống CBDC
cũng cần phải được đảm bảo để
bảo vệ hệ thống trước các cuộc
tấn công mạng và các mối đe dọa
khác, cũng như đảm bảo chống
gian lận và giả mạo.
Thứ tư, giao dịch bằng tiền mặt
khiến khó truy vết các hoạt động
rửa tiền, trốn thuế, tài trợ khủng
bố hay các hoạt động bất hợp pháp
khác. Ngược lại, mỗi đồng CBDC,
tùy thuộc vào cơng nghệ được lựa

chọn, có thể được truy xuất đến tận
cùng mọi giao dịch liên quan đến
nó kể từ khi nó được phát hành.
Những thơng tin này, theo luật, có
thể được các cơ quan Nhà nước
sử dụng để hành pháp. Do đó,
dựa trên nền tảng cơng nghệ cao,
CBDC có thể góp phần giảm tội
phạm và cải thiện nguồn thu thuế
của Chính phủ.
Tuy nhiên, CBDC khác tiền gửi
có thể chuyển nhượng ở chỗ là
trong khi CBDC là nghĩa vụ nợ
của NHTW, thể hiện quyền truy
địi đối với NHTW (có thể là trực
tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào
mơ hình phát hành) thì tiền gửi
có thể chuyển nhượng là nghĩa vụ
nợ của các tổ chức trung gian tài
chính (là các ngân hàng thương
mại (NHTM)), thể hiện quyền truy
đòi trực tiếp đối với các NHTM,
không phải đối với NHTW
(Nguyễn Trung Anh, 2021). Thêm
vào đó, đối với CBDC, các đối tác
có thể chuyển tiền trực tiếp cho
nhau mà không cần thông qua hệ
thống ngân hàng. Giao dịch bằng
CBDC, tùy vào mơ hình và cơng
nghệ sử dụng, cũng có thể được

thực hiện ngoại tuyến, khơng cần
kết nối Internet đến thiết bị thực
hiện giao dịch.
SỐ 19 | THÁNG 10/2022 | TẠP CHÍ NGÂN HÀNG

43


TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

Thiết kế sổ cái
Về mặt thiết kế sổ cái thì
trong hệ thống CBDC, cấu trúc
của sổ cái có thể là sổ cái tập
trung (centralised ledger), sổ
cái phi tập trung (decentralised
ledger) hoặc kết hợp cả hai
(BIS, 2020). Thiết kế sổ cái phi
tập trung có thể được thực hiện
thông qua việc sử dụng công nghệ
sổ cái phân tán (distributed ledger
technology - DLT). Một sổ cái tập
trung có thể chỉ ghi lại tổng số
CBDC đã phát hành, với các cân
đối riêng lẻ được lưu trữ cục bộ
trên điện thoại thơng minh hoặc
thẻ là một ví dụ của dạng thiết kế
kết hợp.
Thiết kế sổ cái tập trung yêu
cầu đơn vị trung gian quản lý và

chuyển nhượng nghĩa vụ nợ, khiến
cho các tính năng chống gian lận
và bảo mật được kết hợp dễ dàng
hơn, trong khi sổ cái phi tập trung
có thể có tiềm năng thực hiện
thanh tốn ngang hàng và ngoại
tuyến (peer-to-peer and offline
payments) dễ dàng hơn. Một thiết
kế sổ cái kết hợp cả sổ cái tập trung
và phi tập trung có thể được phát
triển nhưng sự phức tạp của nó có
thể tạo ra gánh nặng lớn lên khả
năng vận hành của hệ thống (BIS,
2020). (Hình 1)
Cơng nghệ sổ cái phân tán sử
dụng các máy tính độc lập (được
gọi là nút) để ghi, chia sẻ và đồng
bộ hóa các giao dịch trong các sổ
cái điện tử tương ứng của chúng
(thay vì lưu trữ dữ liệu tập trung
như trong sổ cái truyền thống).
Sổ cái phân tán đảm bảo ghi lại
các tương tác và chuyển nhượng
“giá trị” ngang hàng (peer-to-peer)
mà không cần thực thể điều phối
tập trung. Tập hợp cơ sở dữ liệu
không được lưu trữ hay xác nhận
bởi bất kỳ một bộ máy trung ương
hay trung tâm nào. “Giá trị” đề
cập đến bất kỳ sự ghi nhận nào về

quyền sở hữu tài sản - chẳng hạn
44

TẠP CHÍ NGÂN HÀNG | SỐ 19 | THÁNG 10/2022

Hình 1: Mơ hình tiền điện tử truyền thống (sổ cái tập trung)
và tiền số thế hệ mới (sổ cái phân tán)

Hệ thống
thanh toán

Sổ cái tập trung

như tiền, chứng khoán, quyền sở
hữu đất - và cả quyền sở hữu thơng
tin cụ thể như danh tính, thông tin
sức khỏe và dữ liệu cá nhân khác
(World Bank, 2018). Sổ cái phân
tán có thể thay đổi cơ bản lĩnh vực
tài chính, khiến nó hiệu quả, linh
hoạt và đáng tin cậy hơn.
Ứng dụng
CBDC có thể được sử dụng trong
các giao dịch bán buôn/bán lẻ. Nếu
CBDC được phát hành nhằm phục
vụ giao dịch giữa các định chế tài
chính qua các thị trường tài chính
thì được gọi là CBDC bán bn
(a wholesale CBDC). Nếu CBDC
được phát hành nhằm phục vụ giao

dịch bán lẻ giữa các cá nhân trong
kinh doanh, mua sắm thì được gọi
là CBDC bán lẻ (a retail CBDC).
Hình thức CBDC bán bn có
thể cung cấp phương tiện mới thực
hiện thanh toán liên ngân hàng,
kể cả thanh toán xuyên biên giới,
làm tăng khả năng liên thơng của
hệ thống thanh tốn. Đồng CBDC
có thể được sử dụng để thanh tốn
bù trừ các khoản tiền có giá trị lớn
giữa NHTW và các NHTM của
một quốc gia. Loại tiền CBDC này
giống như tiền gửi của NHTM tại
NHTW. CBDC có thể giúp các
thanh tốn bán buôn và liên ngân
hàng được giải quyết nhanh hơn
và mở rộng được thời gian xử lý
(Lê Đạt Chí và cộng sự, 2021).

Sổ cái phân tán

Nguồn: BIS (2017)

Hình thức CBDC bán lẻ, tùy vào
cơng nghệ thiết kế, có thể cung cấp
mạng lưới thanh toán thay thế tiền
giấy và tiền xu đến người dân chưa
tiếp cận được ngân hàng và chưa
tiếp cận được Internet với giao

diện người dùng thân thiện, dễ sử
dụng. CBDC liên kết với bảng cân
đối tài sản của NHTW có khả năng
giao dịch điện tử mà khơng nhất
thiết phải có một tài khoản thanh
tốn bảo đảm từ NHTM. Điều
này giúp tăng khả năng tiếp cận
dịch vụ tài chính của người dân và
doanh nghiệp, góp phần phát triển
tài chính bao trùm.
Ứng dụng CBDC hợp lý giúp
các NHTW duy trì vai trị điều
hành chính sách tiền tệ và kiểm
sốt hệ thống tài chính. Thêm vào
đó, CBDC giúp khẳng định chủ
quyền tiền tệ của quốc gia, giảm
thiểu rủi ro và các mối đe dọa từ
các đồng tiền số do khu vực tư
nhân phát hành cũng như CBDC
của các quốc gia khác (Lê Văn
Hinh, Nguyễn Tường Vân, 2021).
Ngồi ra, khi có khủng hoảng
tài chính, sự chặt chẽ trong hợp
đồng, cam kết của NHTW với
các ngân hàng đầu tư có khả năng
ngăn chặn tình trạng hoảng loạn
dẫn đến tháo chạy tài chính. Mặt
khác, CBDC còn giúp thúc đẩy
nền kinh tế số, hướng đến một



TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

Bảng 1: Các giai đoạn phát triển và số lượng NHTW tham gia
Số lượng NHTW
ở mỗi giai đoạn

Trường hợp nghiên cứu
được lựa chọn

Đã hủy (Cancelled)

6

Singapore

Nghiên cứu (Research)

64

Ấn Độ

Thử nghiệm (Proof of concept)

15

Nhật Bản

Thí điểm (Pilot)


15

Trung Quốc

Ban hành (Launched)

2

Bahamas

Giai đoạn phát triển CBDC

Nguồn: Số lượng NHTW ở mỗi giai đoạn được cập nhật đến ngày 04/7/2022
từ />
Hình 2: Hiện trạng triển khai CBDC của các NHTW trên thế giới

Nguồn: được cập nhật đến ngày 04/7/2022

nền kinh tế không dùng tiền mặt,
nâng cao hiệu quả và cạnh tranh
trong thanh tốn.
Bên cạnh những lợi ích mà
CBDC có thể mang lại thì CBDC
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và
nhiều sự đánh đổi. Vận hành hệ
thống CBDC như thế nào vẫn
là vấn đề cần được nghiên cứu
thêm. Có thể NHTW vận hành
tồn bộ hệ thống, hoặc cũng có
thể cần thêm những đơn vị tham

gia khác nữa. Thêm vào đó, để
hệ thống có thể vận hành thì cần
phải có một hệ sinh thái hỗ trợ
(Châu Văn Thành, 2021). Chẳng
hạn như nhà cung cấp dịch vụ dữ
liệu, doanh nghiệp cung cấp và
duy trì ứng dụng và các đơn vị
cung cấp các thiết bị nhằm khởi
đầu và hỗ trợ thanh toán.

2. Kinh nghiệm phát triển CBDC
trên thế giới

Hiện tại, 90% NHTW trên thế
giới hiện đang trải qua các giai
đoạn phát triển CBDC (BIS,
2022). Bahamas nằm trong số ít
những quốc gia đầu tiên đã phát
hành CBDC (Sand Dollar). Hầu
hết các nước vẫn chưa thể hiện rõ
kế hoạch phát hành CBDC và vẫn
đang trong quá trình nghiên cứu.
Mỹ và Anh vẫn trong giai đoạn
trưng cầu dân ý và chưa thể hiện
ý định phát hành CBDC, trong
khi đó, Trung Quốc đã đi đến giai
đoạn thí điểm CBDC (e-CNY).
Nhật Bản vẫn chưa có kế hoạch
phát hành CBDC dù đã thực hiện
các giai đoạn thử nghiệm. Trong

khu vực ASEAN, Singapore và
Philippines đã hủy bỏ ý định thí

điểm CBDC bán lẻ và tập trung
theo đuổi CBDC bán bn, trong
khi đó Campuchia đã tiến tới giai
đoạn thí điểm (CBDC tracker,
2022). (Hình 2)
Bài viết sẽ lựa chọn ở mỗi giai
đoạn phát triển CBDC một trường
hợp nghiên cứu tìm hiểu kinh
nghiệm về các mục tiêu chính
sách, mơ hình vận hành, công
nghệ sử dụng và khung pháp lý
cho CBDC. (Bảng 1)
Mục tiêu chính sách
Một số mục tiêu chính sách
thường đặt ra cho CBDC gồm
có tài chính bao trùm, tăng khả
năng tiếp cận và hiệu quả cho hệ
thống thanh toán, tăng khả năng
phục hồi cho hệ thống thanh toán,
giúp đạt được mục tiêu của chính
sách tiền tệ và chủ quyền tiền tệ.
(Bảng 2)
Các quốc gia đã phát hành hay
đã có cam kết mạnh mẽ với CBDC
bán lẻ như Bahamas hay Trung
Quốc đều cần CBDC để phát triển
tài chính bao trùm. Bahamas là

quốc gia có rất nhiều đảo với cư
dân sống rải rác, việc xây dựng
một mạng lưới ATM trở nên khơng
có hiệu quả. 20% dân số Bahamas
khơng có tài khoản ngân hàng.
Trung Quốc tuy là một quốc gia
có tốc độ phát triển tài chính bao
trùm nhanh nhưng có 10% dân số
thường tập trung ở vùng xa vẫn
chưa tiếp cận được với dịch vụ tài
chính (Soderber và cộng sự, 2022).
Nhật Bản và Ấn Độ mặc dù
khơng nhằm đến mục tiêu tài chính
bao trùm nhưng vẫn cần CBDC để
đạt được hệ thống thanh toán hiệu
quả hơn. Nhật Bản và Bahamas
cần đến CBDC để giúp đối phó
với những tình huống khẩn cấp do
thảm họa thiên nhiên, giúp cho hệ
thống thanh tốn có khả năng phục
hồi cao hơn (BOJ, 2020; Soderber
và cộng sự, 2022).
Singapore với mức độ phát triển
tài chính bao trùm và hệ thống
SỐ 19 | THÁNG 10/2022 | TẠP CHÍ NGÂN HÀNG

45


TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ


Bảng 2: Mục tiêu phát hành CBDC của từng quốc gia
Quốc gia
Singapore
Ấn Độ
Nhật Bản
Trung Quốc
Bahamas

Tăng khả năng
Tài chính tiếp cận và hiệu
bao trùm quả cho hệ thống
thanh toán

ü
ü

Khả năng
phục hồi
của hệ thống
thanh toán

Cần phù hợp
với mục tiêu
của chính
sách tiền tệ

ü
ü
ü


ü
ü
ü
ü
ü

ü
ü
ü
ü
ü

Chủ
quyền
tiền tệ
ü

ü

Nguồn: Báo cáo của NHTW của các quốc gia khảo sát

Bảng 3: Phân bổ các chức năng phát hành CBDC giữa NHTW
và khu vực tư nhân
Phát hành (issuance) Xác thực (validation)
Quốc gia

Singapore
Ấn Độ
Nhật Bản

Trung Quốc
Bahamas




Lưu thông (transfer)

Sở hữu hệ
Sở hữu hệ
Sở hữu hệ
thống kỹ Vận hành thống kỹ Vận hành thống kỹ Vận hành
thuật
thuật
thuật
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0

0
0
0
x
x
*
*
*
*
x
x
x
x
x
x

x : NHTW
* NHTW cùng khu vực trung gian
0 : Đang để mở các khả năng phối hợp
Nguồn: Báo cáo của NHTW của các quốc gia khảo sát

thanh toán hiệu quả với 92% cung
tiền của Singapore là tiền gửi ngân
hàng. Singapore tại thời điểm
hiện tại vẫn chưa có kế hoạch cho
CBDC bán lẻ mà chỉ tập trung vào
các dự án CBDC bán buôn. Tuy
vậy, Singapore vẫn lo ngại khả
năng khi nền kinh tế đã số hóa ở
mức độ cao và nhiều cơ sở bán

hàng khơng chấp nhận sử dụng
tiền mặt thì cần phải có CBDC
để đáp ứng nhu cầu thanh tốn
(MAS, 2021).
Trung Quốc, Ấn Độ và Bahamas
đều xem CBDC cần phải đảm bảo
phù hợp cho các mục tiêu của chính
sách tiền tệ (RBI, 2022; Soderber
và cộng sự, 2022). Singapore và
Nhật Bản đều chỉ rõ lo ngại trước
khả năng tiền gửi ở NHTM giảm
xuống khi người dân đổ xô rút
tiền gửi chuyển sang CBDC, ảnh
hưởng đến khả năng cấp tín dụng
cho nền kinh tế (MAS, 2021;
RBI, 2022).
Trung Quốc còn xem CBDC cần
thiết để đạt được chủ quyền tiền
46

TẠP CHÍ NGÂN HÀNG | SỐ 19 | THÁNG 10/2022

tệ trước các đồng tiền kỹ thuật số
của nước ngoài (Soderber và cộng
sự, 2022). Ngay cả khi chưa có cơ
sở cần thiết để phát hành CBDC
bán lẻ, Singapore vẫn cân nhắc
đến khả năng bị cạnh tranh bởi
các đồng tiền kỹ thuật số của nước
ngồi (MAS, 2021).

Mơ hình vận hành
Cũng tương tự như hệ thống tiền
tệ hai cấp truyền thống, mơ hình
vận hành CBDC mà các nước chủ
yếu đang phát triển chủ yếu cũng
là mơ hình vận hành qua trung
gian. Ở mơ hình này, NHTW trực
tiếp phát hành nhưng được phân
phối thông qua khu vực trung gian
(định chế tài chính tư nhân hoặc
Nhà nước, các cơng ty cung cấp
dịch vụ thanh toán và dịch vụ trên
mobile phone (Soderber và cộng
sự, 2022). (Bảng 3)
Trong mơ hình vận hành qua
trung gian, có nhiều cách thức phối
hợp các chức năng giữa NHTW
và khu vực trung gian. Cần phân
biệt người sở hữu và người vận

hành hệ thống kỹ thuật. NHTW
có thể sở hữu hệ thống kỹ thuật
của một chức năng cụ thể nhưng
chức năng này lại được vận hành
bởi một công ty tư nhân. Ví dụ,
tại Bahamas, khu vực tư nhân vận
hành chức năng chống rửa tiền và
chống tài trợ mạng lưới khủng bố
trên hệ thống IT do NHTW sở hữu
(Soderber và cộng sự, 2022).

Một số chức năng cụ thể bài
viết khảo sát gồm có: Phát hành
(issuance), xác thực (validation),
cập nhật sổ cái khi tiền đang lưu
thông (transfer). Sổ cái tập trung
vốn là cách tiếp cận truyền thống
của các NHTW nhưng cơng nghệ
sổ cái phân tán chính là cách tiếp
cận mới đầy tiềm năng (Soderber
và cộng sự, 2022). Có 03 kiểu cập
nhật công nghệ sổ cái phân tán:
(i) NHTW vừa sở hữu hệ thống
kỹ thuật vừa tiến hành cập nhật;
(ii) NHTW sở hữu nhưng khu vực
trung gian cập nhật; (iii) Khu vực
trung gian sở hữu và cập nhật một
phần sổ cái dựa trên sự phê duyệt
của NHTW. Bahamas hiện đang
cập nhật sổ cái theo cách thứ nhất.
Cơng nghệ sử dụng
Hiện có hai cách tiếp cận về công
nghệ: (i) Sử dụng một nhà thầu
chính phối hợp với NHTW để vận
hành CBDC, Bahamas theo cách
thứ nhất và đang sử dụng nhà thầu
chính là NZIA; (ii) Sử dụng nguồn
lực nội bộ của NHTW kết hợp với
nhiều nhà thầu phù hợp cho nhiều
khu vực khác nhau, Trung Quốc
hiện đang lựa chọn cách thứ hai

trong các dự án thí điểm của mình.
Cơng nghệ sổ cái phân tán là lựa
chọn được nhiều NHTW hướng
tới. Bahamas hiện đang sử dụng
cơng nghệ sổ cái phân tán cho
CBDC của mình. Nhật Bản thử
nghiệm CBDC bán buôn với công
nghệ sổ cái phân tán từ 2016 (BOJ,
2020). Singapore đã thu thập các
phương án thiết kế công nghệ cho
CBDC từ khu vực tư nhân vào


TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

Bảng 4: Tóm tắt về lựa chọn công nghệ của các quốc gia
Nhà thầu chính cung cấp
nền tảng cơng nghệ

Sử dụng cơng nghệ sổ cái phân tán

Singapore
Ấn Độ

-

Đang nghiên cứu
Đang nghiên cứu

Nhật Bản


-

Đang thử nghiệm/thử nghiệm công nghệ
sổ cái phân tán cho CBDC bán bn

Trung Quốc

-

Thí điểm kết hợp cơng nghệ sổ cái phân
tán cùng với các công nghệ khác trên nền
tảng công nghệ sổ cái tập trung

Quốc gia

Bahamas

NZIA
Nguồn: Báo cáo của NHTW của các quốc gia khảo sát

Bảng 5: Tóm tắt về tình trạng khung pháp lý cho CBDC
Quốc gia
Singapore
Ấn Độ
Nhật Bản
Trung Quốc
Bahamas

Chưa cải cách

khung pháp lý

Khung pháp lý
đang được hoàn thiện
cho CBDC

Khung pháp lý
đã phù hợp cho CBDC
ü
ü

ü
ü
ü

Nguồn: Báo cáo của NHTW của các quốc gia khảo sát

tháng 6/2021. Phần lớn các giải
pháp công nghệ thu nhận được
đều xoay quanh công nghệ sổ cái
phân tán.
Trung Quốc đã thí điểm cơng
nghệ sổ cái phân tán và cho rằng
công nghệ sổ cái phân tán có thể
khơng đáp ứng được nhu cầu xử lý
giao dịch vào lúc cao điểm và hiện
đang theo đuổi công nghệ “hybrid”
(phối hợp sổ cái tập trung với công
nghệ sổ cái phân tán đồng thời mở
ra khả năng sử dụng các công nghệ

khác nhau dựa trên nền tảng căn
bản là sổ cái tập trung (Soderber
và cộng sự, 2022). (Bảng 4)
Khung pháp lý
Theo báo cáo từ BIS, tỷ trọng
các NHTW đã có cơ sở pháp lý sẵn
sàng phát hành CBDC tăng từ 18%
(2020) lên 26% (2021) (BIS, 2022).
Bahamas cũng đã ban hành Luật
NHTW Bahamas (Central Bank
of Bahamas Act, 2020) tạo cơ sở
pháp lý cho đồng Sand Dollar. Luật
về Dịch vụ thanh toán (Payment
Services Act) có hiệu lực vào năm
2020 cho phép NHTW Singapore
(MAS) có thể thích ứng với bối
cảnh mới của hoạt động thanh

tốn, tạo cơ sở pháp lý cho các
hình thức thanh toán điện tử và
giao dịch các đồng tiền kỹ thuật
số (MAS, 2021). Đạo luật về tài
chính (Finance Act) năm 2022 của
Ấn Độ cũng đã cung cấp cơ sở
pháp lý cho việc phát hành CBDC
(RBI, 2022).
Trung Quốc cũng đang chuẩn
bị dự thảo Luật NHTW (People’s
Bank of China Law) bổ sung hình
thức tiền kỹ thuật số vào định

nghĩa tiền tệ của mình tạo khung
pháp lý cho NHTW Trung Quốc
có thể phát triển CBDC, đồng
thời, dự thảo cũng cấm các tổ chức
phát hành tiền kỹ thuật số thay
cho CNY tạo vị thế độc quyền
cho NHTW đối với tiền kỹ thuật
số. Luật NHTW Nhật Bản (Bank
of Japan Act) hiện đang quy định
chức năng phát hành tiền giấy
(bank notes) cho NHTW Nhật Bản
và vì vậy hiện vẫn chưa có cơ sở
pháp lý cho CBDC. (Bảng 5)

3. Bài học đối với Việt Nam
trong việc phát triển CBDC

Các NHTW khơng thể đứng
ngồi xu hướng chuyển đổi số

mạnh mẽ của nền kinh tế số trên
toàn thế giới. Các quốc gia có
động cơ khác nhau để ban hành
CBDC. CBDC mang lại nhiều lợi
ích cũng như rủi ro tiềm tàng đối
với quốc gia phát hành. Đối với
NHNN, việc nghiên cứu và phát
triển CBDC là bước đi tất yếu
trong xu hướng phát triển chung
của toàn thế giới với rất nhiều lợi

ích và những khó khăn, hạn chế
nhất định.
Về mặt lợi ích, việc phát hành
CBDC sẽ có những tác dụng nhất
định đối với Việt Nam:
Thứ nhất, CBDC giúp hiện
đại hóa hệ thống thanh tốn góp
phần thúc đẩy nền kinh tế số tại
Việt Nam. Khi CBDC được phát
hành bởi NHNN dựa trên các nền
tảng công nghệ xây dựng tiền mật
mã như Blockchain sẽ giúp hiện
đại hóa hệ thống thanh tốn của
Việt Nam thông qua việc tạo điều
kiện cho các định chế tài chính và
các cơng ty Fintech ứng dụng và
thử nghiệm các công nghệ mới.
CBDC cũng giúp nâng cao độ tin
cậy, an toàn cũng như giảm thiểu
rủi ro của các giao dịch trong hệ
thống thanh tốn nhờ tính minh
bạch, xác minh và bảo mật của
công nghệ xây dựng tiền kỹ thuật
số. CBDC cũng là nền tảng hỗ
trợ giúp hệ thống ngân hàng Việt
Nam thực hiện thành cơng lộ trình
chuyển đổi số.
Thứ hai, CBDC giúp tiết giảm
chi phí in ấn, phát hành và quản
lý so với tiền giấy đồng thời hướng

đến tiêu chí xanh, thân thiện và
bảo vệ môi trường. Việc phát hành
CBDC giúp NHNN giảm thiểu
được các loại chi phí in ấn, phát
hành, vận chuyển và quản lý so với
tiền giấy. Bên cạnh đó, việc phát
hành tiền kỹ thuật số giúp NHNN
hướng đến hoạt động ngân hàng
xanh - thân thiện và bảo vệ môi
trường theo cam kết đạt mức phát
SỐ 19 | THÁNG 10/2022 | TẠP CHÍ NGÂN HÀNG

47


TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

thải rịng bằng "0" vào năm 2050
của Việt Nam tại COP26.
Thứ ba, CBDC giúp thúc đẩy tài
chính bao trùm tại Việt Nam. Khi
NHNN phát hành CBDC giúp gia
tăng tỷ lệ người dân tiếp cận dịch
vụ tài chính - nhất là đối với các
khách hàng trước đây chưa có tài
khoản ngân hàng ở vùng sâu, vùng
xa. Đặc biệt nếu CBDC được thiết
kế để sử dụng ngoại tuyến thì có
thể giúp các vùng chưa có điều
kiện truy cập Internet thực hiện

các giao dịch tài chính với chi phí
thấp bằng các thiết bị điện tử phổ
thơng, đơn giản.
Cuối cùng, CBDC giúp NHNN
nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong
việc điều hành chính sách tiền tệ.
Khi phát hành CBDC, NHNN có
cơng cụ để kiểm sốt chính xác
lượng cung tiền cũng như các
quyết định của NHNN đến thị
trường có tác động tức thời với độ
trễ rất thấp, từ đó nâng cao hiệu
quả và hiệu lực trong việc điều
hành chính sách tiền tệ.
CBDC có rất nhiều lợi ích nhưng
đi kèm theo đó là các rủi ro, hạn
chế mà NHNN cần phải lưu ý như:
Một là, CBDC làm gia tăng rủi
ro bảo mật hệ thống và các hoạt
động phi pháp. Khi phát hành
CBDC trên mơi trường số hóa sẽ
dễ dàng gây sự chú ý và là tâm
điểm cho các hành động vi phạm
cũng như tội phạm trên mơi trường
khơng gian mạng. Chính vì vậy,
rủi ro bảo mật hệ thống cũng gia
tăng theo các hành vi tấn công
trực tuyến, các giao dịch rửa tiền,
khủng bố hay các giao dịch khơng
hợp pháp do khó xác định chủ thể

thực hiện và các kỹ thuật tấn công
ngày càng tinh vi hơn.
Hai là, CBDC làm gia tăng rủi
ro trong điều hành chính sách tiền
tệ của NHNN. CBDC là công cụ
mới nên các nghiên cứu chuyên
sâu chưa nhiều, khơng có nhiều
tiền lệ cũng như các phương pháp,
48

TẠP CHÍ NGÂN HÀNG | SỐ 19 | THÁNG 10/2022

công cụ đo lường tác động của
CBDC lên lượng cung tiền, lãi
suất, lạm phát hay lượng tín dụng
của hệ thống ngân hàng đối với
nền kinh tế. Với vai trò là cơ quan
quản lý, NHNN đối mặt với rủi ro
và thách thức trong việc kiểm soát
cung tiền cũng như việc quản lý,
kiểm tra và giám sát để ngăn ngừa,
xử lý các rủi ro có thể xảy ra.
Ba là, CBDC có khả năng gia
tăng nguy cơ sụp đổ hệ thống và
mất thanh khoản của ngân hàng.
Với đặc tính dễ chuyển đổi, nhanh
chóng tức thời, chi phí thấp và thực
hiện liên tục tại bất kỳ thời điểm
nào trong ngày nên khi xảy ra các
cú sốc với hệ thống ngân hàng dễ

dẫn tới lượng rút tiền với quy mô
lớn trong thời gian ngắn tạo áp lực
thanh khoản và có khả năng gây
đổ vỡ hệ thống ngân hàng.
Bốn là, phát triển CBDC cần
phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng kỹ thuật số bài bản, có chiều
sâu. Mặc dù việc phát hành CBDC
có nhiều lợi ích và giúp tiết giảm
chi phí, tuy nhiên yêu cầu nguồn
vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật
số ban đầu rất lớn, bài bản và đồng
bộ cho toàn bộ hệ thống.
Cuối cùng, việc phát triển và
vận hành CBDC yêu cầu phải có
đội ngũ nhân sự có chun mơn và
năng lực kỹ thuật cao. Nghiên cứu
và phát triển CBDC là vấn đề rất
mới khơng chỉ ở Việt Nam mà cịn
trên phạm vi tồn thế giới. Chính
vì vậy, việc xây dựng được đội ngũ
nhân sự có chun mơn và năng
lực để quản lý, vận hành cũng là
một trong những điều kiện rất khó
khăn.
Tại Việt Nam, Quyết định số
942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chiến lược phát triển Chính phủ
điện tử hướng tới Chính phủ

số giai đoạn 2021 - 2025, định
hướng đến năm 2030 có giao
NHNN nghiên cứu, xây dựng và

thí điểm tiền ảo dựa trên công
nghệ chuỗi khối Blockchain giai
đoạn 2021 - 2023. Trong phiên
trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội
vào chiều 08/6/2022, Thống đốc
NHNN Nguyễn Thị Hồng cho
biết, NHNN Việt Nam được Chính
phủ giao nhiệm vụ thành lập ban
nghiên cứu tiền kỹ thuật số quốc
gia do Thống đốc làm Trưởng ban.
Như vậy rõ ràng Chính phủ cũng
như NHNN đã có những bước đi
thận trọng, vững chắc trong quá
trình nghiên cứu và phát triển tiền
kỹ thuật số của NHTW.
Sau quá trình nghiên cứu kinh
nghiệm của các quốc gia trên
thế giới cũng như thực tế tại Việt
Nam, nhóm nghiên cứu nhận thấy
xu hướng nghiên cứu và phát hành
CBDC ngày càng trở nên phổ biến
trên tồn thế giới. Chính vì vậy,
NHNN cũng cần phải có sự chuẩn
bị nhất định. Trong phạm vi của
nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu
đề xuất một số khuyến nghị chính

sách nhằm từng bước nghiên cứu,
phát hành và quản lý tiền kỹ thuật
số của NHTW tại Việt Nam.
(i) Hoàn thiện khung pháp
lý về quản lý và vận hành tiền
kỹ thuật số của NHTW tại
Việt Nam.
Hiện tại hệ thống pháp luật của
Việt Nam chưa công nhận các loại
tiền ảo, tiền điện tử, tiền mật mã
hay tiền kỹ thuật số. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu và phát hành
CBDC là xu hướng khó có thể
tránh khỏi, chính vì vậy NHNN
cần phải là đầu mối để hoàn
thiện khung pháp lý nhằm đưa ra
các quan điểm chính thống và lộ
trình của Việt Nam đối với tiền kỹ
thuật số của NHTW. Khung pháp
lý về quản lý tiền kỹ thuật số của
NHTW cần làm rõ các khái niệm,
định nghĩa, phân loại, tiêu chuẩn
kỹ thuật của CBDC tại Việt Nam.
Để tạo điều kiện cho CBDC sớm
vận hành thực tiễn thì NHNN có


TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

thể trình Chính phủ cho áp dụng

khung thể chế thử nghiệm có kiểm
sốt (Regulatory Sandbox) cho
CBDC giống trường hợp của tiền
di động (Mobile-Money). Việc hồn
thiện khung pháp lý chính là tiền đề
quan trọng nhất để xây dựng và phát
triển CBDC tại Việt Nam.
(ii) Về công nghệ, khuyến nghị
NHNN phát hành CBDC dựa
trên công nghệ sổ cái phân tán và
thử nghiệm ban đầu với CBDC
bán bn.
Sau q trình nghiên cứu lộ trình
nghiên cứu, phát triển CBDC của
các quốc gia trên thế giới cũng như
ưu và nhược điểm của từng loại và
công nghệ phát hành CBDC thì
nhóm nghiên cứu đề xuất NHNN
có thể phát hành theo cơ chế thử
nghiệm CBDC bán buôn theo
công nghệ sổ cái phân tán ở giai
đoạn đầu rồi sau đó tiến hành cải
tiến và hồn thiện theo lộ trình.
(iii) Nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ
thuật số quốc gia là yêu cầu bắt
buộc để tương thích với việc phát
hành CBDC tại Việt Nam.
Để tương thích với CBDC mới
phát hành, các hệ thống hạ tầng
kỹ thuật số của quốc gia cần phải

được nâng cấp và phát triển. Bên
cạnh đó, hệ thống cơng nghệ thơng
tin của các tổ chức tín dụng, đơn
vị thanh tốn và các doanh nghiệp
cũng cần phát triển, nâng cấp cho
tương thích với các tiêu chuẩn
của việc vận hành CBDC. Việc
nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật số
quốc gia cũng như của các doanh
nghiệp giúp nâng cao tính bảo mật,
hạn chế rủi ro để đảm bảo sự vận
hành ổn định của hệ thống.
(iv) NHNN cần tích cực hợp tác
quốc tế trong quá trình nghiên
cứu, phát hành và quản lý CBDC.
CBDC là vấn đề có tính liên
thơng hệ thống thanh tốn và hệ
thống tài chính tồn cầu nên trong
q trình nghiên cứu để phát triển
CBDC thì NHNN cần phải tích
cực hợp tác với IMF, các định chế

tài chính quốc tế và NHTW các
quốc gia khác trên thế giới nhằm
thống nhất khung pháp lý, chuẩn
hóa tiêu chuẩn kỹ thuật và đảm
bảo tính liên thơng của CBDC trên
phạm vi tồn cầu.
(v) Để đảm bảo thành cơng cho
việc phát hành CBDC thì nguồn

nhân lực chất lượng cao là yếu tố
quyết định.
Sau tất cả thì nguồn nhân lực
chính là yếu tố quyết định sự thành
cơng hay thất bại cho việc nghiên

cứu và phát hành CBDC tại Việt
Nam. Để chuẩn bị nguồn nhân lực
chất lượng cao thì NHNN cần có
kế hoạch xây dựng và đào tạo đội
ngũ chuyên gia đi kèm với các
chương trình quốc gia về phổ cập
kiến thức tài chính tồn dân.
CBDC đã trở thành xu hướng
và ngày càng được nhiều hơn các
NHTW trên thế giới nghiên cứu,
phát triển. Điều đó cũng khơng
phải là ngoại lệ với trường hợp của
NHNN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. BIS (2015). Digital Currencies, Committee on Payments and Market Infrastructure, November. https://
www.bis.org/cpmi/publ/d137.pdf, truy cập ngày 20/7/2022.
2. BIS (2017). BIS Quarterly Review: International banking and financial market developments.
September, ISSN: 1683-013X (online), truy cập ngày
21/7/2022.
3. BIS (2020). Central bank digital currencies: foundational principles and core features. Report no 1 in a
series of collaborations from a group of central banks, ISBN: 978-92-9259-427-5 (online), .
org/publ/othp33.pdf, truy cập ngày 21/7/2022.
4. BIS (2022). Gaining momentum - Results of the 2021 BIS survey on central bank digital currencies. BIS

Papers. truy cập ngày 21/7/2022.
5. BOJ (2020). The Bank of Japan’s Approach to Central Bank Digital Currency, 2020. BOJ Papers
truy cập ngày
21/7/2022.
6. CBDC tracker, , truy cập ngày 04/7/2022.
7. Châu Văn Thành (2021). Tiền số NHTW (CBDC) - Vài điều cơ bản. Discussion Paper. .
vn/vi/tien-so-ngan-hang-trung-uong-co-ban/, truy cập ngày 20/7/2022.
8. Hà Thế Việt và Nguyễn Xuân Hoàng (2021). Khái quát về tiền kỹ thuật số do NHTW một số quốc gia
phát hành và khuyến nghị về việc tiếp cận tiền kỹ thuật số tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số
Chuyên đề 01-2021.
9. IMF (2016). Virtual Currencies and Beyond: Initial Considerations, IMF Staff Discussion Note. https://
www.imf.org/external/pubs/ft/sdn/2016/sdn1603.pdf, truy cập ngày 20/7/2022.
10. Lê Đạt Chí, Trương Trung Tài và Nguyễn Triều Đông (2021). Tiền tệ kỹ thuật số và hệ thống tiền tệ
toàn cầu thế hệ mới. Kinh tế Việt Nam trên con đường chuyển đổi số, UEH University.
truy cập ngày 22/7/2022.
11. Lê Văn Hinh, Nguyễn Tường Vân (2021). Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương - quan điểm và
gợi ý cho Việt Nam. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số 229 - tháng 6/2021.
12. Mankiw, N. G. (2016). Principles of macroeconomics. Cengage Learning.
13. MAS (2021). A Retail Central Bank Digital Currency: Economic Considerations in the Singapore
Context. MAS Papers.
truy cập ngày 22/7/2022.
14. Nguyễn Trung Anh (2021). Cơ hội của tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương phát hành đối với hệ
thống tài chính tiền tệ. Tạp chí Ngân hàng, số 16, tháng 8/2021.
15. RBI (2022). Annual report 2021 - 2022.
truy cập ngày 22/7/2022.
16. Soderberg, G., Bechara, M., Bossu, W., Che, N. X., Kiff, J., Lukonga, I., ... & Yoshinaga, A. (2022). Behind
the Scenes of Central Bank Digital Currency: Emerging Trends, Insights, and Policy Lessons.  FinTech
Notes, 2022 (004).
17. Trần Hùng Sơn, Hoàng Trung Nghĩa (2019). NHTW và tương lai của tiền kỹ thuật số, NC02. Viện
Nghiên cứu Phát triển công nghệ ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM,

truy cập ngày 20/7/2022.
18. Trương Thị Hoài Linh (2020). Quy định về quản lý tiền điện tử của một số quốc gia trên thế giới và
Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng số 3, tháng 02/2020.
19. Viện Nghiên cứu Chính sách (VEPR) (2021). Development of digital currencies and policy
recommendations for Vietnam. Policy Brief. truy cập ngày 20/7/2022.
20. World Bank (2018). Blockchain & Distributed Ledger Technology (DLT), />en/topic/financialsector/brief/blockchain-dlt, truy cập ngày 21/7/2022.

SỐ 19 | THÁNG 10/2022 | TẠP CHÍ NGÂN HÀNG

49



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×