Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Quan điểm về đặc trưng bản chất và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội của hồ chí minh và sự vận dụng của đảng vào công cuộc đổi mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.62 KB, 8 trang )

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN NHÓM 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 2: Quan điểm về đặc trưng bản chất, về biện pháp xây
dựng CNXH của Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng vào công
cuộc đổi mới hiện nay.
ĐỀ CƯƠNG
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất, về biện pháp xây dựng
CNXH
1. Con đường hình thành tư duy Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của CNXH
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng CNXH
3.1. Những mục tiêu cơ bản
3.2. Các động lực của chủ nghĩa xã hội
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH vào công cuộc đổi mới hiện
nay
1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các
nguồn lực, trước hệ là nguồn lực nội sinh để thực hiện CNH, HĐH đất nước
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm để
xây dựng CNXH.
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất, về biện pháp xây dựng
CNXH
1. Con đường hình thành tư duy Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng biết đến tư
tưởng XHCN sơ khai ở phương Đông qua “thuyết đại đồng” của Nho giáo… Sau khi ra nước
ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong Chủ nghĩa Mác-
Lênin lý tưởng về một xã hội nhân đạo trong đó “sự phát triển tự do của mõi người là điều
kiện tự do cho tất cả mọi người”. Khi đến nước Nga, Người đã thấy “Chính sách kinh tế mới


của Lênin và những thành tựu bước đầu của nhân dân Xôviết trên con đường xây dựng một
chế độ xã hội mới.
Đó là những cơ sở và thực tiễn góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt
Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc.
Người đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng của Mác con đường chân chính
để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Người đã viết: “… chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp
công nhân toàn thế giới”.
- Hồ Chí Minhtiếp cận CNXH từ phương diện đạo đức. Theo Hồ Chí Minh “không có chế
độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét các lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó
được thoả mãn bừng chế độ XHCN”. Từ đó, Người tin tưởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ
vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự ngiệp xây dựng
CNXH và giải phóng loài người”.
- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ truyền thống lịch sử, văn hoá và con người Việt
Nam.Văn hoá Việt Namlấy nhân nghĩa làm gốc. có truyền thống trọng dân, khoan dung, hoà
mục để hoà hoà đồng. Văn hoá Việt Nam là văn hoá trọng trí thức, hiền tài.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản chất nhân văn và văn
hoá; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và giải
phóng con người.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của CNXH
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm
chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây
dựng CNXH.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của nhân dân là Nhà nước được thành lập bằng
con đường bầu cử dân chủ, trực tiếp. Nhân dân là người trực tiếp bầu ra người đại diện để
thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề về quyền lực nhà nước vì lợi ích của nhân dân.
Nhân viên các cơ quan nhà nước do nhân dân bầu ra để thực thi, thừa hành quyền lực của
nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 14 ngày
8/9/1945 mở cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội. Với sự kiện trọng đại này, dân tộc

Việt Nam sau khi là dân tộc đầu tiên ở Đông Nam Á thực hiện thành công cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, trở thành dân tộc đầu tiên thiết lập nhà nước với hình thức dân chủ nhân
dân cao nhất là phổ thông đầu phiếu. Đây có thể xem như sự kiện hiếm có trong lịch sử. Sau
cuộc tổng tuyển cử hoàn toàn tự do, dân chủ (ngày 6/1/1946), Quốc hội khoá I ra đời. Đây là
Quốc hội của khối đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Hồ Chí Minh được kết
tinh ở đỉnh cao là Hiến pháp năm 1946. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là nhà nước
kiểu mới mà ở đó các tầng lớp nhân dân đều có người đại diện của mình Nhà nước không
phân biệt giai cấp. Mọi công dân đều có quyền tham gia vào hoạt động của Nhà nước thông
qua người đại diện do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc bằng chính công việc mà công dân trực
tiếp thực hiện. Để không ngừng phát huy bản chất nhà nước, Hồ Chí Minh đã giáo dục cán
bộ, viên chức Nhà nước phải thương yêu dân, dựa vào dân, lắng nghe học hỏi nhân dân, việc
gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh và Người là mẫu
mực cho phẩm chất đó. Theo Người, quan điểm về nhà nước của dân thật dễ hiểu. Đó là nhà
nước mà nhân dân là chủ đất nước chứ không phải là vua. Chính quyền từ cơ sở đến trung
ương đều do dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và phục vụ lợi ích nhân dân. Cán
bộ nhà nước là người "đầy tớ" của nhân dân chứ không phải là ông quan cách mạng.
Đã là nhà nước của nhân dân, do nhân dân thì đương nhiên sự tồn tại của nhà nước đó
cũng vì lợi ích của nhân dân. Mọi chính sách, pháp luật của nhà nước đều hướng về lợi ích
của người lao động. Do vậy, trong "Thư gửi các uỷ ban nhân dân các kì, tỉnh, huyện, làng…"
Người viết: "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có ý nghĩa gì. Chính phủ ta hứa với dân sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh
phúc".
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người với
người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc
sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn

có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp
đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng CNXH
3.1. Những mục tiêu cơ bản
Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩ xã hội về mặt lý luận là quan trọng,
nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then
chốt, có ý nghĩa phương pháp luận trong quan trọng của Hồ Chí Minh là Người đã đề ra các
mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩ xã hội ở nước ta trong mỗi giai đoạn
cách mạng khác nhau. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ nghĩ xã hội được
biểu hiện với việc thoả mãn các nhu cầu, lợi ích thiết thực của người lao động, theo các nấc
thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng động của chế độ xã hội mới.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩ xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là
một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó cũng
chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là
nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế chế độ xã hội mà chúng ta
phấn đấu xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là nét đặc sắc, thể
hiện phong cách, năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều
cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục
đích của chủ nghĩa xã hội là gi? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” Hoặc “Mục
đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. Có khi Người
nói một cách gián tiếp, không nắhc đến chủ nghĩa xã hội, nhưng xét về bản chất đó cũng
chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Người. Kết thúc Di chúc, Hồ Chí

Minh viết: Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toan dân, toàn quân ta đoàn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh,
và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Cách tư duy lấy chủ nghĩa xã hội làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt
động thực tiễn cần phải bổ sung bằng sự tác động ngược trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải
được làm rõ bởi hang loạt các quan hệ khác.
Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại
trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người, hình
thành các nhân cách phát triển tự do. Hồ Chí Minh cho rằng: “chúng ta phải xây dựng một xã
hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”
- Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lên thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của dân, do
dân và vì dân.Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ
thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời mà đi đôi với nhau.
- Mục tiêu kinh tế: theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được
đảm bảo và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế chúng ta
xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công- nông nghiệp hiện đại, khoa học và
kĩ thuật tiên tiến, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
cần phát triển toàn diện các ngành mà những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công – nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế
nước nhà”.
- Mục tiêu văn hoá - xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hoá là mục tiêu cơ bản của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Về bản chất của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Người khẳng định: “Phải xã hội chủ nghĩa về nội dung”. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải
làm cho phong trào văn hoá vừa có bề rộng vừa có bề sâu. Hồ Chí Minh đặt lên hang
đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Người cho rằng
muốn có chế độ xã hội chủ nghĩa phải có con người xã hội chủ nghĩa, mà muốn có
con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa.Tư tưởng xã hội chủ
nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa

Mác- Lênin, nâng cao long yêu nước chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh luôn gắn tài
năng với đạo đức :người có tài mà không có đức là hỏng”,dĩ nhiên đức cũng phải đi
đôi với tài nếu không có tài thì không làm được việc gì cả. Cũng như vậy, Người luôn
gắn phẩm chất chính trị vói trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ trong đó: “chính
trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác”. Hai mặt đó gắn kết trong một con người do
đó tất cả mọi người phải luôn trau dồi đạo đức và tài năng.
3.2. Các động lực của chủ nghĩa xã hội
Hệ thống động lực của CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, trong đó bao
trùm lên tất cả các động lực con người, trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.
- Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát
triển đất nước.
- Phát huy sức mạnh con người được giải phóng, được làm chủ. Để phát huy sức mạnh
này phải tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người; phát huy động lực chính trị,
tinh thần, đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công
bằng xã hội…
- Khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của CNXH.
+ Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm.
Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của CNXH. Người cách mạng
phải tiêu diệt nó”.
+ Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, “bạn đồng hành của thực dân phong
kiến”, vì “Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại
đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”. Hồ Chí Minh cho rằng, một dân tộc
mà có nhiều người tham ô, lãng phí, quan liêu, thì không thể nói dân tộc ấy có chủ nghĩa
yêu nước. Yêu nước là không tham ô, không lãng phí, mình vì mọi người, mọi người vì
mình, sống hết mình vì sự nghiệp, vì công việc, làm tròn bổn phận của người xây dựng
và người bảo vệ.
+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng không chịu học tập cái mới…Đó
cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH vào công cuộc đổi mới hiện
nay

1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội lớn, nhưng cũng chứa đựng không ít những
thách thức, nguy cơ. Do vậy để bảo đảm đưa đất nước phát triển và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận ấy vào công cuộc đổi mới của đất
nước.
Đối với cán bộ, đảng viên học tập , quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là tự trang bị cho mình một năng lực nhận thức khoa học và hành động cách mạng
đúng đắn. Qua đó tu dưỡng, rèn luyện , phấn đấu cho lý tưởng tất cả vì độc lập tự do của dân
tộc vì hạnh phúc của nhân dân. Học tập, trau dồi lý luận là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng
viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận đối với
thực tiễn. Theo Người , lý luận “là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Vì vậy, “lý luận
như kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế”. Do đó Đảng
phải có trách nhiệm tổ chức để cán bộ, đảng viên có điều kiện học tập nâng cao trình độ lý
luận.
Học tập, vận dụng lý luận phải quán triệt quan điểm thực tiễn để ngăn ngừa bệnh giáo điều
cũng như bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Nếu lý luận xa rời thực tiễn thì sớm muộn cũng dẫn
đến giáo điều, sách vở hay theo cách nói của Hồ Chí Minh là lý luận suông. Học tập, vận
dụng lý luận phải gắn liền với đấu tranh với những quan điểm sai trái, nhằm bảo vệ và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có sức
mạnh to lớn đối với sự nghiệp cách mạng cuả Đảng và nhân dân ta, do đó phải nêu cao cảnh
giác, đấu tranh không khoan nhượng với mọi quan điểm sai trái. Học tập đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh là noi gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đặt lợi ích của đân
tộc, của Đảng, của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Nói đến tư tưởng Hồ Chí
Minh là nói đến lý luận cách mạng hành động, lý luận gắn chặt với thực tiễn, nói đi đôi với
làm
Để đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát
triển theo chiều sâu, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm mà Hồ Chí Minh đã

nêu ra. Đó là phải dựa vào sức mạnh toàn dân, phát huy được tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, lòng tự tôn dân tộc, ý chí thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu của mỗi người dân.Coi
đại đoàn kết toàn dân là động lực để phát triển kinh tế- xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là
nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển kinh tế nhiều thành phần phải đi đôi
với củng cố kinh tế nhà nước đủ sức phát huy vai trò chủ đạo để nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội và
đảm bảo an ninh quốc phòng. Tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng chuẩn
mực đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nếp
sống xã hội tốt đẹp, gia đình văn hoá, lối sống tình nghĩa, đoàn kết , hoà hiếu. Xây dựng cái
mới phải gắn liền với cải tạo những thói hư tật xấu, đấu tranh không khoan nhượng với căn
bệnh có nguy cơ xói mòn bản chất tốt đẹp cuả chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đấu tranh hiệu
quả với những căn bệnh đó đòi hỏi vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Mỗi
cán bộ, đảng viên phải nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích
của Đảng, của dân tộc lên trên hết thảy lợi ích cá nhân.
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước
hệ là nguồn lực nội sinh để thực hiện CNH, HĐH đất nước
CNH, HĐH là con đường tất yếu phải đi của đất nước ta. Chúng ta phải tranh thủ thành
tựu cách mạng khoa học và công nghệ, các điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh
chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường
quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng
lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải phát huy mọi
nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo
tinh thần đó, ngày nay, CNH, HĐH đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có
phát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử sụng hhiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
Trong nội lực nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức lao động,
của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng và phát triển toàn
đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:

- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ
dân hủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa phương, cơ
sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội.
- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy
liên minh công- nông- trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội vững chắc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng
tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc cách mạng
khoa học, công nghê, xu hướng toàn cầu hoá. Chúng ta cần ra sức tranh thủ các cơ hội do xu
thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế chính sách đúng để thu hút
đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vây, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp tác phải đi
đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của mọi
người Việt Nam nhằm góp phần gia tăng tiềm lực quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và bản sắc
văn hoá dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột của nước nhà, để không
tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. CHỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh
mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hoá loài người, làm phong
phú, làm giàu nền văn hoá của dân tộc.
4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm để xây dựng CNXH.
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân cần đến vai trò của một Đảng cách mạng chân chính, một Nhà nước thật sự của dân, do
dân và vì dân. Muốn vây, phải:
- Xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyề. một Đảng đạo đức văn minh. Cán bộ
Đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn lãnh đạo nhân dân, vừa hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân gương mẫu trong mọi việc.

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để phục vụ đời
sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành mmột đội ngũ cán bộ liêm khiết, tận
trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền những “ông
quan cách mạng”, lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầ lợi ích riêng; phát huy vai trò của
nhân dân trong việc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; giữ vững ổn định chính
trị - xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng hái đẩy
mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước nhà. Trong điều
kiện đất nước còn nghèo, tiết kiện phải trỏ thành quốc sách, thành một chính sách kinh tế lớn
và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi văn hoá như Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một
dân tộc biết cần, biết kiệm” là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ tháng
được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
* Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, nhất là từ khi tiến hành cuộc vận động xây dựng chính
đốn Đảng, đại bộ phận cán bộ, đảng viên đã nêu cao tinh thần tiền phong gương mẫu, rèn
ruyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, được nhân dân tin yêu, mến phục. Tuy nhiên, như Nghị
quyết Đại hội X của Đảng nhận xét: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán
bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực”. Những “lầm lỗi ” mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cảnh báo từ 62 năm trước nay vẫn diễn ra với mức độ trầm trọng và tinh vi
hơn, trắng trợn hơn. “ Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn ra nghiêm
trọng, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; bệnh cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, tình trạng “chạy
chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp” … đã làm cho nhân dân bất bình, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, đã và đang là những cản trở công cuộc đổi
mới và là thách thức lớn đối với sự tồn vong của Đảng và của chế độ.
Cuộc vận động chính trị “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một chủ
trương đúng đắn nhằm khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, đấu
tranh khắc phục sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống…Cuộc vận động đã được nhân
dân hưởng ứng và đặt nhiều kỳ vọng. Hiệu quả thực sự của cuộc vận động là ở những ứng xử
và hành động cụ thể trong cuộc sống, chứ không phải là những lời nói hoặc những bài viết

hoa mỹ. Vì vậy, điều quan trọng là trên cơ sở nhận thức về giá trị đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi
cán bộ, đảng viên dù ở bất kỳ cương vị công tác nào, còn đương chức hay đã nghỉ hưu cần
“công bình, chính trực”, và có lòng tự trọng, dũng cảm vượt qua những trói buộc của chủ
nghĩa cá nhân, thành thật nhận ra những “lầm lỗi ” và “hết sức sửa chữa”. Mặt khác, tổ chức
đảng, nhất là chi bộ cần có biện pháp kiểm tra, giám sát phát hiện, uốn nắn kịp thời những
lầm lỗi của đảng viên, giúp đảng viên sữa chữa, nếu không chịu sửa chữa thì phải kiên quyết
xử lý thích đáng, “không khoan dung” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn. Đó vừa là
đòi hỏi bức thiết của Đảng đồng thời là mong muốn của nhân dân đối với mỗi cán bộ, đảng
viên.

×