Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Khung chính sách FDI của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 111 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh.
Thực trạng và giải pháp

Sinh viên thực hiện : Ngô Thị Nguyệt
Lớp : A 7
Khoá : K43B
Giáo viên hướng dẫn : GS.TS. Nguyễn Thị Mơ



Hà Nội, 2008


MC LC


DANH MC CC CH VIT TT
LI NểI U 1


Ch-ơng 1: Những vấn đề cơ bản về đầu t- trực tiếp n-ớc
ngoài d-ới hình thức doanh nghiệp liên doanh 4
I. Tổng quan về đầu t- trực tiếp n-ớc ngoài (FDI) 4
1. Những vấn đề cơ bản về đầu t- trực tiếp n-ớc ngoài 4
1.1. Khái niệm 4
1.2. Đặc điểm 5
1.3. Các hình thức đầu t- trực tiếp n-ớc ngoài 7
2. Tác động của đầu t- trực tiếp n-ớc ngoài đối với các n-ớc đang
phát triển 8
2.1. Những tác động tích cực 8
2.2. Những tác động tiêu cực 15
II. Doanh nghiệp liên doanh - hình thức chủ yếu trong đầu
t- trực tiếp n-ớc ngoài tại n-ớc nhận đầu t- 18
1. Khái niệm 18
2. Những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp liên doanh 20
2.1. Đặc điểm về mặt kinh doanh 20
2.2. Đặc điểm về mặt pháp lý. 22
3. Phân biệt hình thức doanh nghiệp liên doanh với các hình thức
đầu t- khác 23
3.1. Hình thức doanh nghiệp liên doanh với hình thức doanh nghiệp 100%
vốn đầu t- n-ớc ngoài. 23
3.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh với hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh (BCC) 24
4. Ưu nh-ợc điểm của hình thức doanh nghiệp liên doanh 25
4.1. Ưu điểm 25
4.2. Nh-ợc điểm 30
Ch-ơng 2: Thực trạng đầu t- trực tiếp n-ớc ngoài vào
Việt Nam d-ới hình thức doanh nghiệp liên doanh. 31
i. Thực trạng hoạt động đầu t- trực tiếp n-ớc ngoài vào
Việt Nam d-ới hình thức doanh nghiệp liên doanh 31

1. Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam d-ới hình thức doanh
nghiệp liên doanh 31
1.1. Số liệu FDI vào doanh nghiệp liên doanh qua các năm 31
1.2. Cơ cấu vốn FDI d-ới hình thức doanh nghiệp liên doanh từ 1988 đến
2007 42
2. Tình hình triển khai hoạt động của các dự án liên doanh tại Việt
Nam 53
2.1. Về vấn đề góp vốn của hai bên đối tác liên doanh 53


2.2. Về vấn đề quản lý và đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp liên doanh 55
II. Đánh giá về thực trạng và tác động của các doanh
nghiệp liên doanh đối với kinh tế đất n-ớc 56
1. Các mặt tích cực 56
1.1. Tạo ra các kênh thu hút vốn đầu t- trực tiếp n-ớc ngoài góp phần
thực hiện và đấy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n-ớc
56
1.2. Tăng thu ngân sách, tạo việc làm và tạo ra cơ chế thúc đẩy việc nâng
cao năng lực cho ng-ời lao động Việt Nam 57
1.3. Góp phần chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại cuả thế giới vào
Việt Nam đồng thời phục hồi và phát triển các doanh nghiệp trong n-ớc. 59
1.4. Tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới,
ph-ơng thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho nền kinh tế n-ớc ta từng
b-ớc chuyển dịch theo h-ớng của một nền kinh tế hiện đại 60
2. Các mặt hạn chế và nguyên nhân 62
2.1.Những tồn tại trong việc thực hiện triển khai các dự án liên doanh 62
2.2. Những tồn tại trong việc lựa chọn đối tác liên doanh 63
2.3. Những tồn tại trong quá trình góp vốn của liên doanh 64
2.4. Những tồn tại trong đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh và quản lý

tài chính 66
2.5. Những tồn tại trong việc thành lập hội đồng quản trị 69
2.6. Những tồn tại trong chuyển giao công nghệ và nghiên cứu thị tr-ờng
70
2.7. Những tồn tại trong vấn đề lao động 71
2.8. Những tồn tại khác 73
Ch-ơng 3: Một số giải pháp tăng c-ờng đầu t- trực tiếp
n-ớc ngoài vào Việt Nam d-ới hình thức doanh nghiệp liên
doanh trong thời gian tới 74
i. Dự báo sự phát triển của doanh nghiệp liên doanh và thu
hút FDI vào doanh nghiệp liên doanh trong thời gian tới 74
1. Cơ sở để dự báo 74
1.1. Vị thế của Việt Nam trêm tr-ờng quốc tế 74
1.2. Tình hình phát triển kinh tế chính trị xã hội trong n-ớc trong những
năm gần đây 76
1.3. Định h-ớng thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian tới 81
2. Số liệu dự báo 88
II. Các giải pháp cụ thể 89
1. Nhóm giải pháp về phía nhà n-ớc 89
1.1. Hoàn thiện môi tr-ờng pháp lý và thủ tục hành chính 89
1.2. Tăng c-ờng công tác quản lý nhà n-ớc đối với các dự án liên doanh.89
1.3. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật 91
1.4. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu t 91


1.5. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật cho các
doanh nghiệp liên doanh đồng thời phát triển thị tr-ờng lao động có tổ
chức tại các địa bàn trong cả n-ớc 93
1.6. Giải quyết những v-ớng mắc liên quan đến vốn góp bên Việt Nam 94
1.7. Lựa chọn đối tác n-ớc ngoài tham gia liên doanh: 95

2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp Việt Nam tham gia
liên doanh 97
2.1. Tr-ớc khi quyết định liên doanh, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn của đơn vị mình. 97
2.2. Bố trí cán bộ có năng lực phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong
doanh nghiệp liên doanh 98
2.3. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nỗ lực hết mình để nâng cao
năng lực cạnh tranh và trở thành đối tác tin cậy trong doanh nghiệp liên
doanh 98
KT LUN 99
DANH MC TI LIU THAM KHO 100













DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


STT
Chữ viết
tắt

Nghĩa đầy đủ
Nghĩa tiếng Anh
Nghĩa tiếng Việt
1
APEC
Asian pacific Economic
Cooporation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á
Thái Bình Dương
2
ASEAN
The Association of South East
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
á
3
AFTA
The Asean Free Trade Area
Hiệp định tự do Asean
4
BOT
Build - Operate - Tranfer
Xây dựng - Kinh doanh -
Chuyển giao
5
BT
Build - Tranfer
Xây dựng - Chuyển giao
6
BTO

Build - Tranfer- Operate
Xây dựng - Chuyển giao- Kinh
doanh
7
EU
European Union
Liên minh châu Âu
8
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
9
GDP
Gross Dometic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
10
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
11
ODA
Official Development
Hỗ trợ phát triển chính thức
12
OECD
Organization for Economic
Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
13

TNCs
Trans-national Corperations
Công ty đa quốc gia
14
UNCTAD
United Nations Conference on
Trade and Development
Hội nghị về thương mại và phát
triển của Liên Hiệp Quốc
15
USD
The United States of Dollar
Đồng Đôla Mỹ
16
WTO
World Tade Organization
Tổ chức thương mại thế giới



1
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đổi mới kinh tế, hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài
(FDI) ở Việt Nam những năm vừa qua đã diễn ra rất sôi động, cho dù đã có những
bước thăng trầm song khu vực kinh tế vốn FDI đã có những bước tăng trưởng khá
ngoạn mục và gắn bó ngày càng chặt chẽ với các nền kinh tế khu vực và thế giới.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang ngày càng khẳng định vai
trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung

quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong
giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và đầu tư rút ra nhận
định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào
GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản
xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm
(đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách
Nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lớn lao động. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải
tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, các dự án FDI cũng có tác động
tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc
trong các dự án FDI, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nnghiệp
hóa -hiện đại hóa đất nước, tạo tiền đề thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Thông qua kênh FDI, chúng ta có thể khai thác, phát
huy tốt hơn tiềm năng, lợi thế so sánh của đất nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
và đang là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt trong giai đoạn mới hiện
nay khi toàn cầu hóa kinh tế đang phát triển mạnh mẽ và trở thành một xu hướng tất
yếu thì đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một “mệnh lệnh” mà tất cả các quốc
gia đều quyết tâm theo đuổi. Việt Nam là một nước đang phát triển với vị thế trong
khu vực và trên trường quốc tế ngày một nâng cao qua từng năm với nhiều sự kiện
được thế giới công nhận như việc Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình
thường vĩnh viễn đối với Việt Nam, là thành viên của các tổ chức quốc tế như
ASEAN, APEC, WTO, thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên
hiệp quốc, cũng không thể nằm ngoài xu thế này.


2
Hiện nay hoạt động FDI đổ vào Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều
hình thức khác nhau như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên
doanh, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, BTO,…Trong
đó doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài đã phát triển

sớm nhất và thực sự đã đem lại nhiều lợi thế cho cả nhà đầu tư Việt Nam và nhà
đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư Việt Nam, khi tham gia doanh nghiệp
liên doanh, ngoài việc được phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư Việt
Nam còn có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện đại, phong cách và trình độ quản
lý kinh tế tiên tiến. Đối với bên nước ngoài, lợi thế được hưởng là được đảm bảo
khả năng thành công cao hơn do môi trường kinh doanh, pháp lý hoàn toàn xa lạ
nếu không có bên Việt Nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đây là những mặt mạnh
của đầu tư FDI theo hình thức doanh nghiệp liên doanh, sự tăng trưởng mạnh mẽ số
lượng doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới đã chứng
minh sự nhận định thực tế này. Tuy nhiên, thời gian vừa qua hình thức doanh
nghiệp liên doanh chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp trong đầu tư trực tiếp nước ngoài do
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, chính vì vậy việc nghiên cứu thực trạng hoạt
động của các doanh nghiệp liên loanh và đưa ra được những giải pháp thiết thực
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua hình thức
doanh nghiệp liên doanh là hết sức cần thiết và hữu ích trong giai đoạn phát triển
kinh tế của Việt Nam hiện nay. Chính vì thế vấn đề “Thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh. Thực trạng
và giải pháp” được sinh viên chọn làm đề tài nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp
Đại học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở đánh giá thực trạng thu hút FDI để thành
lập doanh nghiệp theo hình thức doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam trong thời
gian vừa qua, đặc biệt nêu rõ những cơ hội, thách thức và bất cập, khóa luận đề xuất
những giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào các doanh nghiệp liên doanh tại
Việt Nam trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của khóa luận :
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về FDI, về doanh nghiệp liên doanh và sự cần
thiết phải thu hút FDI dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh vào Việt Nam.



3
- Đánh giá thực trạng FDI vào doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam trong
thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam thông
qua hình thức doanh nghiệp liên doanh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: là những vấn đề về thu hút FDI vào
Việt Nam thông qua hình thức doanh nghiệp liên doanh.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu thực trạng hoạt động thu hút FDI
vào Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh trong giai đoạn từ những
năm 1988 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
tổng hợp như: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải, quy nạp,…
5. Bố cục của khóa luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận được trình bầy trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức
doanh nghiệp liên doanh
Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam dưới hình thức
doanh nghiệp liên doanh.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh trong thời gian tới.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Giáo sư Tiến sĩ
Nguyễn Thị Mơ - người trực tiếp hướng dẫn em làm khóa luận tốt nghiệp. Trong
suốt quá trình làm khóa luận, cô đã tận tâm giúp đỡ, vạch kế hoạch làm khóa luận
một cách tối ưu và đã chỉ ra những điểm cần khắc phục giúp em hoàn thiện khóa
luận tốt nghiệp Đại học của mình. Ngoài ra, em xin cảm ơn Tiến sĩ Tống Quốc Đạt,
Phó Vụ trưởng Vụ Kết cấu Hạ tầng và Đô thị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tạo mọi

điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình thu thập các số liệu dữ liệu để hoàn
thành khóa luận này. Do điều kiện thời gian có hạn cũng như hạn chế về mặt kiến
thức nên khóa luận tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em xin được


4
sự góp ý của các Thầy, các Cô cùng toàn thể các bạn giúp em rút ra được những
kinh nghiệm quý báu của bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI DƢỚI
HÌNH THỨC DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Những vấn đề cơ bản về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
1.1. Khái niệm
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment-FDI) được
đưa ra trong báo cáo đầu tư thế giới năm 1996 của Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về
Thương mại và Phát triển UNCTAD (United Nation Conference on Trade and
Development) theo đó “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích
và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài
hoặc chi nhánh doanh nghiệp”
1
.
Theo Báo cáo cán cân thanh toán năm 2002 của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
(International Monetary Fund, IMF) thì: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt
động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh
nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu
tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”
2


Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic
Cooperation and Development - OECD) thì: “Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư
được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp
đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản
lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:

1
Nguồn: Phan Thị Vân, giảng viên khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Đại học Ngoại Thương.,
Ôn tập Đầu tư nước ngoài.
2
Nguồn: Phan Thị Vân, giảng viên khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Đại học Ngoại Thương.,
Ôn tập Đầu tư nước ngoài.



5
- Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư.
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
- Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
- Cấp tín dụng dài hạn (>5 năm)
- Quyền kiểm soát: nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở
lên.”
3

Luật Đầu tư Việt Nam năm 2005 có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực
tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư ra nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư
trực tiếp nước ngoài”. Theo Luật Đầu tư Nước ngoài Việt Nam năm 1996 thì "Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng

tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật này”
4

Từ các khái niệm về FDI nêu trên có thể kết luận:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm
lâu dài và phản ánh lợi ích dài hạn và quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một
nền kinh tế (được gọi là chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ)
trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư
nước ngoài (được gọi là doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp chi nhánh hay chi
nhánh nước ngoài).
- FDI chỉ ra rằng chủ đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với
việc quản lý doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác. Tiếng nói hiệu quả trong
quản lý phải đi kèm với một mức độ sở hữu cổ phần nhất định thì mới được coi là
FDI.
1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm
lợi nhuận. Do chủ thể là tư nhân nên FDI có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi nhuận.

3
Nguồn: Phan Thị Vân, giảng viên khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Đại học Ngoại Thương., Ôn tập
Đầu tư nước ngoài
4
Nguồn: Website Bộ kế hoạch và đầu tư:



6
Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến
hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các

chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích
tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
Thứ hai, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu
trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để
giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật các
nước thường quy định không giống nhau về vấn đề này. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này
là 10%, Pháp và Anh là 20%, theo quy định của CECD (1996) thì tỷ lệ này là 10%
các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của các doanh nghiệp - mức được công
nhận cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh
nghiệp, còn ở Việt Nam trong Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 có
quy định rõ nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn tối thiểu 30% vốn pháp định của dự
án nhưng theo Luật Đầu tư năm 2005 không còn quy định về tỷ lệ vốn góp của phía
nước ngoài. Tuy nhiên đối với một số ngành, lĩnh vực vẫn quy định tỷ lệ vốn góp
của phía nước ngoài cũng như hình thức đầu tư để phù hợp với cam kết WTO, ví dụ
: Bảo hiểm, y tế, giáo dục, dịch vụ giao nhận (đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt buộc
phải dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh với tỷ lệ vốn góp phía nước ngoài
chiếm tối đa là 49% tổng vốn đầu tư)
5
.
Thứ ba, tỷ lệ vốn góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ
quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được
phân chia dựa vào tỷ lệ này. Nếu nhà đầu tư góp đủ 100% vốn pháp định, đối tượng
đầu tư thuộc sở hữu nhà đầu tư và nhà đầu tư có toàn quyền quyết định trong việc
quản lý, điều hành.

5
Nguồn: Ban công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam (2006), Phần II Biểu cam kết dịch vụ, Hà Nội.




7
Thứ tƣ, thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ
không phải lợi tức.
Thứ năm, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và
tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự chọn lựa lĩnh
vực đầu tư, hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ
cho mình, do đó sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Vì thế, hình thức
này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không ràng buộc về chính trị, không
để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư, cũng không gây các sức
ép về kinh tế, chính trị, xã hội như nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
Thứ sáu, FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận
đầu tư. Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ
thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực bưu chính viễn
thông của Việt Nam, hầu hết các công nghệ mới trong lĩnh vực này có được nhờ
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài.
Thứ bẩy, FDI ít dao động hơn các loại vốn khác vì FDI thường được chi cho
các “tài sản mạnh” như nhà máy thiết bị, vốn vào thông qua FDI sẽ không dễ bị rút
ra khỏi nước trong thời gian khủng hoảng như các loại nợ khác. Một công ty không
thể bán nhà máy và rút ra khỏi nước nhanh như một ngân hàng bán trái phiếu của
nước đó hoặc từ chối không cho đáo hạn các khoản nợ ngắn hạn. Kể cả trong những
trường hợp FDI được đầu tư vào các ngành công nghiệp dịch vụ như ngân hàng hay
quảng cáo, nhà đầu tư nước ngoài cũng phải bỏ nhiều công sức và thời gian để phát
triển doanh nghiệp và đưa vào hoạt động, và chủ dự án sẽ không dễ dàng bỏ dự án
của họ. Vì vậy FDI được coi là ít có khả năng làm trầm trọng một cuộc khủng hoảng
hơn các loại nợ khác, như trường hợp khủng hoảng Châu Á vào cuối thập kỷ 90.
Kinh nghiệm trong những năm 90 cho thấy FDI khó thay đổi hơn nhiều so với các
loại nợ khác.
1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài



8
Các dự án FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau nhưng
trên thực tiễn, các dự án FDI thường được thực hiện theo các hình thức phổ biến
sau:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân): Nhà đầu tư nước ngoài góp
100% vốn đầu tư của dự án.
- Doanh nghiệp liên doanh (Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên, Công
ty cổ phần, Công ty hợp danh): Nhà đầu tư nước ngoài góp một tỷ lệ vốn nhất định
trong tổng vốn đầu tư của dự án.
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh - BCC: Việc
đầu tư thông qua hợp đồng giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước
mà không hình thành pháp nhân mới.
Ngoài ra còn một số hình thức khác như dự án BOT (Xây dựng-Kinh doanh-
Chuyển giao), BTO (Xây dựng-Chuyển giao-Kinh doanh), BT (Xây dựng-Chuyển
giao). Bên cạnh đó, Chính phủ các nước sở tại còn xây dựng những khu vực đầu tư
đã được hoàn thiện về cơ sở hạ tầng phục vụ cho công việc sản xuất kinh doanh với
những điều kiện ưu đãi và khuyến khích trong lãnh thổ nước mình như khu chế
xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế.
2. Tác động của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đối với các nƣớc đang phát triển
2.1. Những tác động tích cực
2.1.1. Bổ sung vốn cho nền kinh tế
Trong thời kỳ đầu mới phát triển, trình độ kinh tế của các nước đang phát
triển thấp, GDP tính theo đầu người thấp vì vậy khả năng tích lũy vốn trong nội bộ
nền kinh tế rất hạn chế. Trong khi đó nhu cầu về vốn để phát triển nhằm rút ngắn
khoảng cách với nhóm các nước công nghiệp phát triển lại lớn. Bên cạnh đó, ở
nhiều nước tâm lý chung của dân chúng là chưa yên tâm bỏ vốn đầu tư tiến hành
sản xuất, kinh doanh do cơ chế huy động vốn chưa rõ ràng, chưa phù hợp. Trong

khi đó nhu cầu vốn đầu tư để phát triển nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước
công nghiệp phát triển lại rất lớn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, với vai trò là một


9
nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, giúp các nước kể trên giải được bài toán thiếu vốn
đầu tư và dần thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn.
Trong các nguồn vốn nước ngoài thì nguồn vốn FDI được đánh giá là rất quan
trọng đối với nhiều nước. FDI chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội của các nước đang và kém phát triển. Trong giai đoạn 1988-2003, FDI
thường xuyên chiếm khoảng 10% tổng vốn đầu tư cho tài sản cố định ở các nước
đang và kém phát triển. Có những nước FDI chiếm trên 30% thậm chí 50% tổng
vốn đầu tư cho tài sản cố định hàng năm, ví dụ như Sudan, Angola, Gambia,
Bolivia, Arrmenia, Singapore,…Từ năm 1993 đến nay, FDI luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển. Đặc biệt trong giai
đoạn 1998-2003, FDI chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư nước ngoài ở các nước đang
phát triển.
Ngoài ý nghĩa bổ sung đáng kể cho đầu tư phát triển kinh tế, cần nói đến chất
lượng của vốn FDI. Sự có mặt của nguồn vốn này đã góp phần tạo điều kiện cho
nguồn vốn Nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội ưu tiên (cơ sở hạ tầng,
các công trình phúc lợi xã hội,…). Nguồn vốn này cũng góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước. Vốn trong dân được kích thích đưa vào
sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước phải tăng cường đầu tư và chú ý
đến hiệu quả đầu tư trong điều kiện phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn
FDI. Các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra các liên kết với các công ty trong nước
nhận đầu tư thông qua các mối quan hệ cung câp dịch vụ, nguyên vật liệu, gia công.
Qua đó FDI thúc đẩy đầu tư trong nước phát triển, gắn kết các công ty trong nước
với thị trường thế giới. Nhờ vậy, các tiềm năng trong nước được khai thác với hiệu
quả cao.
2.1.2. FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và chuyển giao kĩ năng quản lý

Các nước đang phát triển rất cần vốn cũng như công nghệ để phát triển kinh
tế. Họ có thể có được công nghệ tiên tiến hiện đại thông qua hoạt động ngoại
thương, cấp gấy phép sử dụng công nghệ hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong
đó công nghệ có được thông qua FDI có thể nói là nhiều ưu điểm hơn cả.


10
Thông qua FDI doanh nghiệp có thể có được “công nghệ trọn gói”. Các công
nghệ mà các chủ đầu tư nước ngoài chuyển giao cho các nước đang phát triển
thường dưới dạng những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết
kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ
marketing. Ngày nay, việc chuyển giao công nghệ trong thời đại hiện nay khác rất
nhiều so với trước đây về mặt cách thức cũng như nhận thức. Việc chuyển giao
không chỉ đơn thuần là chuyển giao các máy móc, thiết bị mà chuyển giao ở đây
liên quan đến quá trình sử dụng dây chuyền công nghệ, kỹ năng sử dụng công nghệ
và phần mềm công nghệ. Do hoạt động chuyển giao công nghệ ngày càng trở nên
phức tạp cho nên FDI đã trở thành kênh chuyển giao công nghệ đạt hiệu quả cao
nhất với thời gian thấp nhất và tiết kiệm chi phí. Bởi lẽ công nghệ đã được các công
ty đa quốc gia chuyển giao trực tiếp phần cứng (máy móc thiết bị) và phần mềm
(quy trình hoạt động của công nghệ) từ nước đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau
khi chuyển giao, công nghệ trực tiếp được các chuyên gia kỹ thuật lành nghề của
nước đi đầu tư đưa vào hoạt động mà không gặp bất kỳ trở ngại nào, do các chuyên
gia kỹ thuật đã nắm bắt những công nghệ này ở nước mình. Một dây chuyền công
nghệ hoặc một quy trình sản xuất nếu mua trực tiếp sẽ đắt hơn rất nhiều lần khi nó
được chuyển giao giữa công ty mẹ sang công ty con. Bởi vì việc nhập khẩu một
công nghệ mới sẽ đi kèm theo đó là việc đào tạo các chuyên gia sử dụng và nắm bắt
công nghệ nhập khẩu. FDI không chỉ mang lại công nghệ cho các nước thông qua
con đường chuyển giao từ nước ngoài vào mà còn bằng cách xây dựng các cơ sở
nghiên cứu và phát riển, đào tạo cho đội ngũ lao động ở nước chủ nhà để phục vụ
cho các dự án đầu tư. Chi phí cho nghiên cứu và phát triển của các chi nhánh nước

ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí cho nghiên cứu và phát triển ở nhiều
nước đang phát triẻn. Ví dụ trong những năm 1990 tỷ trọng này của các chi nhánh
nước ngoài ở Hungary, Singapore và Đài Loan là trên 50%. Như vậy FDI giúp các
nước đang phát triển học hỏi, từ đó phát triển được khả năng công nghệ của chính
mình. Chuyển giao công nghệ thông qua FDI đã làm cho khoảng cách công nghệ
giữa các nước phát triển và các nước chậm và đang phát triển bị thu hẹp.


11
FDI giúp phá vỡ sự cân bằng hiện thời của thị trường và buộc các hãng nội
địa đổi mới. Thông qua FDI, các công ty nước ngoài sẽ đem công nghệ tiên tiến hơn
từ công ty mẹ vào sản xuất ở nước sở tại thông qua thành lập các công ty con hay
chi nhánh. Vì vậy, hoạt động của các doanh nghiệp FDI sẽ khuyến khích nhưng
cũng gây áp lực về đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, chuyển giao công nghệ cũng có thể có được thông qua việc di
chuyển lao động. Thông qua FDI, kiến thức, kĩ năng, tay nghề lao động được truyền
bá vào nước nhận FDI. Tác động này xuất hiện khi các doanh nghiệp FDI tuyển
dụng lao động nước sở tại đảm nhận các vị trí quản lý, các công việc chuyên môn
hoặc tham gia nghiên cứu và triển khai. Tuy nhiên tác động này chỉ phát huy tác
dụng khi đội ngũ lao động có trình độ này ra khỏi doanh nghiệp FDI và chuyển
sang làm việc tại các doanh nghiệp trong nước hoặc tự thành lập doanh nghiệp và
sử dụng những kiến thức tích lũy được vào công việc kinh doanh tiếp đó.
2.1.3. FDI góp phần tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực, tăng thu nhập
FDI giúp cho các nước đang phát triển tận dụng được lợi thế về nguồn lao
động dồi dào. Ở nhiều nước, khu vực có vốn FDI tạo ra số lượng lớn việc làm cho
người lao động đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung số lượng và tỷ trọng
việc làm trong khu vực có vốn FDI trong tổng lao động ở các nước đang phát triển
có xu hướng tăng lên.
Bên cạnh đó, FDI góp phần vào việc đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao

động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI thường cao hơn trong
các doanh nghiệp trong nước. Với tiêu chí coi hiệu quả làm việc là ưu tiên hàng đầu
trong tuyển dụng và sử dụng lao động, các doanh nghiệp có vốn FDI thường xây
dựng được một đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác phong công nghiệp,
có kỷ luật cao. Đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư tham gia quản lý hoặc phụ
trách kỹ thuật trong các dự án FDI trưởng thành nhiều mặt. Phần lớn số lao động
cấp cao này được tham gia đào tạo, huấn luyện ở trong và ngoài nước, được tiếp thu
những kinh nghiệm quản lý điều hành của các nhà kinh doanh nước ngoài.


12
Nhiều nghiên cứu cho thấy tiền lương trả cho lao động trong các doanh
nghiệp có vốn FDI lớn hơn trong các doanh nghiệp trong nước. Điều này không chỉ
đúng ở các nước đang phát triển mà còn đúng cả ở các nước công nghiệp phát triển.
Lý do chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn FDI thường có xu hướng đầu tư vào các
ngành hoặc các địa bàn có mức lương tương đối cao ở nước nhận đầu tư, hoặc
thường thuê lao động có tay nghề cao, hoặc nhờ công nghệ chủ đầu tư đem vào
hiện đại hơn nên có thể đem lại năng suất cao hơn, do đó tiền lương trả cho lao
động cao hơn,…Theo nghiên cứu của Lipsey, các doanh nghiệp có vốn FDI ở các
nước Mexico, Maroc, Venezuela. Indonesia, Singapore, Đài loan, Trung Quốc,
Hồng Kông và Malaysia trả lương cho lao động cao hơn các doanh nghiệp trong
nước và các doanh nghiệp trong cùng ngành.
Tác động lan truyền của bộ phận lao động trong khu vực FDI rất có ý nghĩa.
Các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong nước được kích thích nâng cao trình độ
khi giao dịch với các đối tác nước ngoài. Người lao động, nhất là lực lượng lao
động trẻ, mong muốn tìm việc làm trong các doanh nghiệp có vốn FDI để được thử
sức trong một môi trường năng động hơn và có thu nhập cao hơn đã quân tâm hơn
đến việc nâng cao trình độ và tay nghề.
2.1.4. FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Những thập kỷ đầu trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, FDI vào các nước

đang phát triển chủ yếu nhằm khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ
cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Ngày nay, FDI đang trở thành một yếu tố
tạo ra sự chuyển biến cơ cấu kinh tế tích cực ở các nước nhận đầu tư, FDI chủ yếu
được tiến hành bởi các tập đoàn xuyên quốc gia và thường tập trung vào các ngành
công nghiệp và dịch vụ, vì vậy FDI đáp ứng được nhu cầu phát triển các ngành này
của các nước đang phát triển. Tỷ trọng FDI vào nông nghiệp trong tổng FDI vào các
nước đang phát triển giảm từ 12% giai đoạn 1989-1991 xuống 10% giai đoạn 2001-
2002. Tỷ trọng FDI vào các ngành chế tạo cũng giảm mạnh nhưng vẫn ở mức cao
(con số tương đương cho hai giai đoạn là 53% và 40%). Trong khi đó tỷ trọng FDI
vào lĩnh vực dịch vụ tăng mạnh từ 35% giai đoạn 1989-1991 lên 50% giai đoạn
2001-2002. Với tỷ trọng vốn FDI vào các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng


13
tăng, nguồn vốn này đã góp phần tăng nhanh tỷ trọng và sản lượng, việc làm, xuất
khẩu,… của các ngành công nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế của các nước đang
phát triển. Tỷ trọng của các ngành kinh tế truyển thống (nông nghiệp, khai thác, )
giảm mạnh.
2.1.5. FDI góp phần tích cực vào các cân đối lớn của nền kinh tế
Các dự án FDI góp phần ổn định kinh tế vĩ mô của các nước đang phát triển.
Các cân đối lớn của nền kinh tế như cung cầu hàng hóa trong nước, xuất nhập khẩu,
thu chi ngân sách đều thay đổi theo chiều hướng tích cực nhờ sự đóng góp của FDI.
- FDI đối với cung cầu hàng hóa trong nước: Trong giai đoạn đầu mới phát
triển, do trình độ phát triển thấp, công nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu, thiếu vốn,…
nên năng lực sản xuất của khu vực kinh tế trong nước của các nước đang phát triển
rất yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào nhập khẩu. Nguồn vốn FDI vào đã giúp các nước giải quyết được
khó khăn trên. Khu vực có vốn FDI đáp ứng một phần nhu cầu hàng hóa trong
nước, làm giảm căng thẳng cung cầu, giảm sự phụ thuộc hàng nhập khẩu. Trong
những năm sau, khi FDI vào sản xuất vật chất ngày càng tăng thì các doanh nghiệp

có vốn FDI tham gia cung ứng ngày càng nhiều các loại hàng hóa cho tiêu dùng
trong nước. Trong cơ cấu nhập khẩu, tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm xuống. Thêm
vào đó, chất lượng hàng hóa đáp ứng được nhu cầu trong nước, chủng loại hàng hóa
phong phú từ hàng tiêu dùng cá nhân, hàng tiêu dùng gia đình đến hàng tiêu dùng
cao cấp.
- FDI đối với xuất nhập khẩu: Không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, FDI ngày
càng hướng mạnh vào xuất khẩu. Nguồn ngoại tệ đáng kể từ xuất khẩu đã giúp các
nước đang phát triển cải thiện cán cân thương mại. Do nhu cầu hàng hóa trong nước
được đáp ứng tốt hơn và có nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu mà nhập khẩu cũng thay
đổi theo hướng tích cực. Cơ cấu nhập khẩu thay đổi mạnh, tỷ trọng hàng máy móc
thiết bị, công cụ sản xuất tăng. FDI còn có những tác động tích cực đến cán cân
vãng lai và cán cân thanh toán nói chung. Ngoài nguồn thu từ xuất khẩu, các dịch
vụ phục vụ các nhà đầu tư thu ngoại tệ được mở rộng và phát triển. Khách quốc tế
đến các nước đang phát triển với mục đích tìm hiểu cơ hội đầu tư tăng lên, dịch vụ


14
du lịch, khách sạn, vận chuyển hàng không,…cũng theo đó mà phát triển. Về lâu
dài FDI có ảnh hưởng tích cực cho cán cân thanh toán nói chung. Nguồn thu từ xuất
khẩu và từ các dịch vụ thu ngoại tệ sẽ ngày xàng tăng, còn nhu cầu nhập khẩu sẽ ổn
định.
- FDI đối với tăng trưởng GDP và thu ngân sách Nhà nước: FDI giúp các
nước tăng GDP, ở nhiều nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng của khu vực có
vốn FDI thường cao hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn trong nước,
chính vì vậy FDI góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế, thúc
đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn FDI
trong cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế ngày càng tăng. Khu vực này liên tục có
tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình của nền kinh tế. FDI cũng góp phần tăng
thu cho ngân sách nước nhận đầu tư thông qua thuế và tiêu dùng các dịch vụ công
cộng.

- Mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị
trường thế giới: Vai trò này của FDI thể hiện rất rõ nét ở các nước áp dụng chính
sách thu hút FDI hướng vào xuất khẩu. Sự xuất hiện xủa các dự án FDI đi kèm với
công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại đã giúp các nước nâng cao chất lượng và đa
dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Các dự án FDI tạo ra nhứng sản phẩm có chất
lượng cao hơn, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế hơn. Bên cạnh đó thông qua các mối
quan hệ sẵn có của các chủ đầu tư nước ngoài hàng hóa của các doanh nghiệp có
vốn FDI tiếp cận được thị trường thế giới. Như vậy, FDI đã vừa làm tăng năng lực
xuất khẩu vừa mở rộng thị trường xuất khẩu cho các nước nhận đầu tư, ở nhiều
nước kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của các
doanh nghiệp có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của các nước. Trong lĩnh vực chế tạo, kim ngạch xuất khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ ở các nước NICs châu Á, những nước đã
sớm áp dụng chính sách thu hút FDI hướng vào xuất khẩu, chiếm trên 60% tổng
doanh thu trong những năm 1980, trong khi đó tỷ trọng này thấp hơn rất nhiều chưa
đến 20% ở các nước Châu Mỹ La Tinh, các nước duy trì chính sách sản xuất thay
thế nhập khẩu đến những năm 1980. Đầu những năm 1990, khi các nước Châu Mỹ


15
La Tinh chuyển sang áp dụng chính sách thu hút FDI hướng vào xuất khẩu, năng
lực xuất khẩu của các nước này tăng lên đáng kể và khu vực có vốn FDI đã chiếm
tới 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Brazil.
Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng thay đổi theo hướng tích cực. Trị giá hàng công
nghiệp ngày càng tăng. Một phần do các doanh nghiệp FDI chủ yếu xuất khẩu hàng
công nghiệp chế biến. Một số nước như Trung Quốc, Costa Rica, Hungary, Ireland,
Mexico,…đã rất thành công trong việc tăng thị phần một số mặt hàng trên thị
trường thế giới.
- Củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới: Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt

động đầu tư nước ngoài ngày càng có ý nghĩa và vai trò quan trọng. Quan hệ đầu tư
góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển. Cam kết bảo đảm
cho hoạt động FDI và hiệu quả của các dự án FDI là cơ sở để các nước đang phát
triển thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác (ODA, tín dụng quốc tế,…).
Quan hệ thương mại của các nước mở rộng theo quá trình phát triển của các doanh
nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp FDI trong giai đoạn xây dựng cơ bản có nhu
cầu nhập khẩu rất lớn. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp này có nhu cầu
nhập khẩu nguyên vật liệu và xuất khẩu sản phẩm. Ngoại thương của các nước nhận
đầu tư được mở rộng cả về chủng loại hàng hóa cũng như thị trường nhờ rất nhiều
vào các doanh nghiệp có vốn FDI. Thông qua các dự án FDI, nhất là các dự án của
các công ty xuyên quốc gia, các nước đang phát triển từng bước tham gia vào phân
công lao động quốc tế và vào hệ thống sản xuất thế giới. Hoạt động FDI góp phần
làm phong phú, đa dạng và sâu sắc các quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước đang
phát triển. Nền kinh tế trong nước dần dần tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. Điều này tạo thuận lợi cho các nước tham gia vào các hiệp định
hợp tác kinh tế song phương, đa phương.
2.2. Những tác động tiêu cực
2.2.1. Nếu phía nước ngoài nắm quá nhiều quyền sở hữu thì “giảm vốn” có thể xảy
ra


16
Khi các công ty nước ngoài bắt đầu đã thích nghi và có lãi, họ bắt đầu chuyển lợi
nhuận về nước họ. Làm như vậy đồng nội tệ sẽ bị đổi sang ngoại tệ của nước đầu tư và vốn
sẽ bị rút ra khỏi nước chủ nhà. Nếu công ty nước ngoài này đủ lớn thì nước chủ nhà sẽ phải
đối mặt với khả năng kiệt quệ về vốn trầm trọng. Đây là một mối lo ngại lớn nếu trong thời
gian khủng hoảng mà công ty nước ngoài lại đột nhiên chuyển toàn bộ lãi không chia về
nước. Việc này sẽ gây nên một tác động tương tự như khi chủ nợ nước ngoài từ chối không
cho đáo hạn các khoản nợ ngắn hạn, nước này sẽ bị đói vốn và tình hình kinh kế suy sụp có
thể trở nên trầm trọng hơn nữa. Đôi lúc yếu tố này được coi là một trong những rủi ro lớn

nhất nếu như một nước quá phụ thuộc vào FDI.
Có thể tạo cạnh tranh không có lợi cho các công ty nội địa và có thể dẫn đến việc các
công ty đa quốc gia chi phối toàn bộ thị trường.
Vì các công ty đa quốc gia thường có kỹ năng, công nghệ và vốn mà các công
ty nội địa không thể theo kịp, FDI có thể tạo cạnh tranh bất lợi cho các công ty nội
địa. Đây được coi là rủi ro đáng kể nhất, tuy việc đánh giá mức độ khá phức tạp.
Chắc chắn là các công ty nội địa sẽ bị ảnh hưởng, kể cả phải rút ra khỏi ngành kinh
doanh, và sẽ làm tăng số người bị thất nghiệp. Tuy nhiên cũng phải công nhận là
trong nhiều trường hợp cạnh tranh từ các công ty nước ngoài kinh doanh có hiệu
quả có thể được coi là có lợi cho cả nền kinh tế nói chung, giúp cải thiện năng suất,
buộc các công ty nội địa phải hiện đại hoá và kinh doanh có hiệu quả hơn. Do đó
cần phải xác định xem các công ty nội địa có thể nâng cao năng lực cạnh tranh hay
họ sẽ bị khả năng cạnh tranh của các công ty nước ngoài bóp chết. Nếu là trường
hợp thứ hai thì có lẽ FDI cần được xem xét kỹ thêm.
Với ưu thế về nguồn vốn dồi dào, kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng quản lý các
công ty đa quốc gia có thể đẩy tất cả các công ty cạnh tranh nội địa ra khỏi thị
trường. Một khi đã đoạt được độc quyền các công ty đa quốc gia có thể tăng giá, thu
thêm lợi nhuận và xoá bỏ tất cả những lợi ích FDI có thể mang lại. Độc quyền cho
dù có được bằng cách nào đi nữa thì vẫn là một rủi ro của FDI, loại rủi ro cần được
xem xét kỹ lưỡng trong mọi trường hợp.
2.2.2. Nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ:


17
Độc quyền về công nghệ là sức mạnh, là con át chủ bài của các công ty đa
quốc gia. Như một nguyên tắc các công ty đa quốc gia không bao giờ chuyển giao
những công nghệ tiên tiến nhất của mình cho các chi nhánh ở các nước đang phát
triển. Không phải lúc nào việc chuyển giao công nghệ cũng mang ý nghĩa tốt đẹp.
Mục đích của các tập đoàn đa quốc gia là tiết kiệm tư bản, tiếp tục kéo dài chu kỳ
sống của công nghệ đã trở nên lạc hậu tại nước họ, mang nó đến những nước đang

khát vốn và nghèo về công nghệ. Điều này đã được đề cập đến trong Lý thuyết
“Vòng đời quốc tế của sản phẩm” (International product life cycle- IPLC) của
Raymond Vernon. Theo đó sau khi đã sử dụng hết khấu hao dây chuyền công nghệ,
khi nhu cầu về sản phẩm trong nước giảm, trong khi nhu cầu ở nước ngoài lại tăng
thì sản xuất được mở rộng thông qua FDI, những nhà máy ở nước ngoài bắt đầu
được xây dựng. Và nước xuất khẩu thì đang nghiên cứu để áp dụng công nghệ vượt
trội hơn, hiệu quả hơn, còn nước nhập khẩu thì xây dựng vòng đời mới cho những
kỹ thuật bị bỏ đi.
Các công ty đa quốc gia đã nhận ra tính hai mặt của việc đầu tư công nghệ tại
các nước đang phát. Họ cho rằng một mặt, khi chia sẻ bí mật bản quyền trí tuệ với
các chi nhánh tại các nước nhận đầu tư rất dễ dẫn đến việc rò rỉ các thông tin về bí
mật công nghệ, về bản quyền trí tuệ. Mặt khác, nếu các doanh nghiệp liên doanh ở
bản địa có tham vọng thì họ rất có thể tận dụng những kinh nghiệm, những kỹ thuật
họ đã được tiếp cận để phát triển thương hiệu riêng của mình. Khi điều này xảy ra,
các công ty đã quốc gia phải đối mặt với những đối thủ đầy nguy hiểm, hiểu rõ về
mình. Vì thế chuyển giao những công nghệ đã qua sử dụng, những công đã lạc hậu,
gây hao mòn ở chính quốc cho các nước nhận đầu tư là một cách để sản phẩm sản
xuất ra tại các nước đang phát triển không đủ sức cạnh tranh cũng như đánh bại sản
phẩm của công ty mẹ trên thị trường quốc tế và chính quốc. Có thể nói xu hướng
của các nhà đầu tư là không muốn phổ biến công nghệ của mình, đặc biệt dưới hình
thức liên doanh. Một ví dụ điển hình là các nhà đầu tư Nhật Bản rút từ đầu tư nước
ngoài về đẩu tư trong nước trong thời gian gần đây với khối lượng lớn nhằm bảo
toàn công nghệ.


18
Như vậy, vô hình chung các nước đang phát triển trở thành nơi tập kết của
những công nghệ lạc hậu, đã hết khấu hao ở các nước tư bản phát triển. Chẳng bao
lâu sau khi các nhà đầu tư kết thúc công việc của mình, khi chuyển giao công nghệ
được tiến hành, nước đang phát triển sẽ được chuyển giao những công nghệ đã quá

lạc hậu. Chi phí họ bỏ ra để khắc phục những hậu quả từ công nghệ lỗi thời ấy: ô
nhiễm môi trường, vấn đề an toàn lao động, năng suất thấp so với năng suất trung
bình của thế giới là rất lớn.
Với chiêu bài xuất khẩu công nghệ vào các nước phát triển thông qua FDI các
công ty đa quốc gia đã giải quyết được những công nghệ bỏ đi, không phù hợp với
nền sản xuất của họ. Còn các nước đang phát triển tưởng như được mở rộng, được
tiếp cận với quy trình kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Nhưng chẳng bao lâu họ sẽ
nhận ra rằng họ đang bị khống chế về công nghệ, khoảng cách của họ với các nước
công nghiệp phát triển đang ngày càng xa dần, rằng họ đang trở thành sân sau,
thành “ bãi rác công nghệ”, nơi tập trung những dây chuyền lạc hậu, nơi tồn đọng
những công nghệ không còn được sủng ái nữa.
2.2.3 Phản đối của xã hội và mất trật tự xã hội có thể xảy ra.
Khi mọi người nhận ra là các công ty nước ngoài nắm quá nhiều quyền, đặc
biệt là độc quyền trong cách ngành dịch vụ công cộng như cấp nước, điện, dịch vụ
điện thoại, thì người dân có thể sẽ bất bình và phản kháng. Việc này có thể dẫn tới
môi trường kinh doanh thù địch, và mất trật tự xã hội và trong trường hợp xấu nhất
có thể dẫn tới mất ổn định chính trị. Sự việc này đã xảy ra ở Cochabamba, Bolivia
năm 2000, khi một tập đoàn nước ngoài đứng đầu là công ty Bechtel giành được
quyền cung cấp nước, tăng giá nước lên gấp đôi dẫn đến một cuộc đình công lớn và
giao thông hoàn toàn bị ngưng trệ. Trong trường hợp này chính phủ Bolivia thay
ngược lại chính sách tư nhân hóa và Bechtel buộc phải rút ra khỏi Bolivia.
2.2.4. Các cơ sở sản xuất mới có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường
Một trong những phê phán phổ biến nhất về FDI là các công ty đa quốc gia
thường cố để chuyển các nhà máy ô nhiễm của họ đến những nơi luật môi trường ít
chặt chẽ nhất. Đúng là phần lớn các nước đang phát triển có ít quy định về môi
trường hơn, và ít khả năng để thực thi những luật này hơn các nước phát triển. Tuy


19
nhiên, khi trong một vài trường hợp các công ty đa quốc gia đã gây nên những tai

nạn nghiêm trọng làm tổn hại rất lớn đến môi trường (như trường hợp thảm hoạ ở
công ty sản xuất chất hoá học Bhopal, hay những ô nhiễm do dầu gây ra ở miền
nam Nigeria), khi các công ty nước ngoài chịu phần trách nhiệm lớn về gây ô
nhiễm, hơn nhiều so với các công ty nội địa.
II. DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH - HÌNH THỨC CHỦ YẾU TRONG ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ
1. Khái niệm
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài (gọi tắt liên doanh nhiều khi còn
được gọi là liên doanh quốc tế) là một hình thức của sự phân công lao động quốc tế
và là kết quả của sự phát triển theo chiều sâu của quan hệ kinh tế quốc tế. Doanh
nghiệp liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của FDI khi mới thâm
nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt
động hợp tác.
Khái niệm về doanh nghiệp liên doanh được xem xét ở các góc độ nghiên
cứu khác nhau:
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm về liên doanh
như sau: “Trên quan điểm cạnh tranh, liên doanh là một hình thức nằm giữa hoạt động
và liên minh trong đó hai hoặc nhiều công ty liên kết hoạt động với nhau trong một
hoặc hơn các lĩnh vực sau đây:
a. Tiến hành các hoạt động mua và bán.
b. Khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển và điều hành các
hoạt động sản xuất.
c. Nghiên cứu và triển khai.
d. Hoạt động, chế tạo và xây dựng.”
Như vậy, theo định nghĩa này, liên doanh không phải là quan hệ hợp đồng đơn
giản mà nó cao hơn hình thức quan hệ có tính chất liên minh chặt chẽ và đầy đủ với
sự tham gia của nhiều bên và có quy mô lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác
nhau. Định nghĩa đã cố gắng tính đến một loạt các tình huống liên quan đến hình
thức pháp lý của liên doanh, tính đa dạng của đối tác cũng như các lĩnh vực, các loại



20
hình hoạt động và mục tiêu đạt tới của liên doanh. Liên doanh không phải là một
liên kết đơn giản mà là một mối quan hệ hữu cơ giữa các đối tác trong một thời gian
dài.
Trong cuốn sách kinh doanh quốc tế (International Business) của tác giả Dav
Khenbatv và Riad Ajiami - Trường đại học tổng hợp America liên doanh được định
nghĩa là : “Những thoả thuận kinh doanh trong đó hai hoặc nhiều công ty hoặc thực
thể kinh doanh kết hợp với nhau để hình thành một hoạt động kinh doanh nhất định.
Các liên doanh có thể được thành lập giữa hai công ty đa quốc gia, giữa một công
ty đa quốc gia và Chính phủ hoặc giữa một công ty đa quốc gia với các nhà kinh
doanh địa phương”.
Định nghĩa này đã chỉ ra được liên doanh về thực chất là những thoả thuận
kinh doanh giữa hai hoặc nhiều bên. Các đối tác có thể là các công ty đa quốc gia,
Chính phủ hoặc các nhà kinh doanh địa phương. Cách thức kết hợp các chủ thể
tham gia liên doanh cũng được xem như là một tiêu chuẩn để phân loại liên doanh.
Tuy vậy, yếu tố quốc tịch của các bên tham gia liên doanh - một căn cứ quan trọng
để phân biệt liên doanh trong nước với liên doanh nước ngoài vẫn chưa được đề cập
thích đáng trong định nghĩa này.
Luật Đầu tư Việt Nam năm 2005 vấn còn khái niệm liên doanh, nhưng không
có định nghĩa rõ ràng trừ quy định thành lập tổ chức liên giữa nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài là một hình thức đầu tư trực tiếp. Theo luật đầu tư nước
ngoài năm 1996 thì doanh nghiệp liên doanh được định nghĩa như sau: “Doanh
nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại
Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh và hiệp định ký giữa Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài là doanh nghiệp do
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc
do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư ưnớc ngoài trên cơ sở hợp đồng
liên doanh.”
Định nghĩa này đã nhấn mạnh đến khía cạnh pháp lý của một liên doanh và cho

rằng hợp đồng liên doanh, điều lệ doanh nghiệp liên doanh cũng như pháp luật nước

×