Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

NGUỒN VỐN CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DNNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.9 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHOA: KINH TẾ
Bài tiểu luận nhóm 10:
NGUỒN VỐN CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC
TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG DNNN
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2009.
2
THÀNH VIÊN NHÓM 6
:
1:
2:
3:
4:
5:
THÀNH VIÊN NHÓM 10:
1:
2:
3:
4:
5:
MỤC LỤC
Chương I : cơ sở lý luận
I. Vốn và nguồn vốn trong doanh nghiệp
1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn
2. Bản chất, vai trò của của nguồn vốn
3. Nguồn vốn trong doanh nghiệp
3.1 Nguồn vốn chủ sở hữu
3.2 Nguồn vốn nợ
II – doanh nghiệp Nhà nước


1. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp doanh nghiệp nhà nước
2. Vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước
2.1 Khái niệm
2.2 Nội dung của vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
2.2.1 theo mục đích sử dụng
2.2.2 Theo nguồn gốc sở hữu vốn
Chương II. Thực trạng vấn đề sử dụng vốn của DNNN Việt Nam
I. Theo mục đich sử dụng
1. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
2. Vốn lưu động bổ sung
3. Các loại vốn khác
II. Theo nguồn gốc sở hữu vốn
1 Thực trạng huy động vốn chủ sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
1.1 ngân sách nhà nước
1.2n góp liên doanh, liên kết, vốn cổ phần hóa
2. Thực trạng sử dụng vốn nợ ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay
III. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển của các
doanh nghiệp Nhà nước
Chương III . Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động
và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong các DNNN hiện nay.
1. Ở tầm vĩ mô .
2. Ở tầm vi mô
3
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương hàng đầu của
Đảng nhằm xây dựng một nền móng kinh tế vững chắc, sãn sàng đi lên sản xuất
lớn. Để thực hiện được thành công, chúng ta cần đảm bảo nguồn vốn cho nền
kinh tế và cho từng doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam
đang phải cành tranh hết sức khốc liệt để có thể tồn tại và có được chỗ đứng trên
thương trường mà một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của

doanh nghiệp là sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất, làm thế nào huy động nguồn
ngân quỹ với chi phí thấp và phương tiện thanh toán nhanh nhất….Vấn đề này
đối với các doanh nghiệp nhà nước lại càng khó khăn hơn khi mà việc huy động
và sử dụng vốn vẫn mang tính bao cấp. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển
xứng đáng với vai trò đầu tàu của nền kinh tế, các DNNN phải sử dụng hợp lí
nguồn lực sẵn có, cải tiến máy móc thiết bị để không ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành….Và trên hết là việc huy động và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, nhóm sinh viên đầu tư xin nghiên cứu
đề tài:
“ Nguồn vốn của trong doanh nghiệp và thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát
triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.

4
Chương I : CỞ SỞ LÝ LUẬN
I. Vốn và nguồn vốn trong doanh nghiệp
1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn
Vốn(C) là biểu hiện bằng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư.
Các nguồn lực có thể là của cải vật chất tài nguyên thiên nhiên là sức lao động
và tất cả các tài sản vật chất khác.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu
tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.
2. Bản chất, vai trò của của nguồn vốn đầu tư
2.1. Bản chất của nguồn vốn
Xét về bản chất ,nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất
xã hội .Điều này được kinh tế học cổ điển ,kinh tế học chính trị Mac –Lênin và

kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “của cải của các dân tộc ” Adam Smith,một đị diện điển
hình của kinh tế cổ điển đã khẳng định:Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia
tăng vốn .Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm .Nhưng
dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa ,nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao
giờ tăng lên”.
C.Mac đã chứng minh rằng : Trong một nền kinh tế với hai khu vực ,khu
vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng .Cơ cấu
tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần tiêu hao
vật chất ,(v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra .Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái
sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m)của
khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là :
( v + m)I > (c)II
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
5
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ
bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế ( của cả hai khu vực) mà còn
phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất
tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c + v + m)II < (v + m)I + (v + m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản
phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh
tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô
vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô
cho đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử
dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản
xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm trong sinh hoạt ở cả hai

khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của Mác, con
đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản
xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và trong tiêu dùng. Hay nói cách
khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự
gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được nhà kinh tế
học hiện đại chứng minh. John Maynard keynes đã chứng minh được rằng: Đầu
tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông
cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng,
tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
vậy Đầu tư = Tiết kiệm
Hay: I = S
Theo Keynes, sự cân bằng trên xuất phát từ mối quan hệ của các giao dịch
giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng.
6
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân
và tiết kiệm của chính phủ.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn
hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước
khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn
nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong
trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài
khoản vãng lai CA = S – I
CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội bộ

của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư
từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong
những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh
tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai
thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
2.2 Vai trò của nguồn vốn đầu tư:
Để thực hiện hoạt động đầu tư phát triển thì phải có vốn. Vốn là chìa khoá
để thực hiện mọi mục tiêu của doanh nghiệp.
Mac đã chỉ ra nguồn gốc của vốn tích luỹ là lao động thặng dư do người
lao động tạo ra, và nguồn vốn đó khi đem vào việc mở rộng và phàt triển sản
xuất thì nó vận động như thế nào. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
Mac đã tìm thấy quy luật vận động tư bản (vốn) mà quy luật này nếu ta trừu
tượng những biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy bổ ích rằng công thức:
T – H –(SLĐ-TLSX) SX H’ T’
Công thức đó đã chỉ ra rằng bất kì một doanh nghiệp nào muốn thực hiện
quá trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua-Sản xuất-
Bán hàng. Công thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của vốn đầu
tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trinh vận động
liên tục của các hoạt động sản xuất kinh doanh thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm
7
năng, chứ nó chưa đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi các cá nhân, mỗi doanh
nghiệp và toàn xã hội. Tích luỹ vốn (tư bản) theo Mac là: “Sử dụng giá trị thặng
dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản ”. Từ những
phân tích trên Mac đã chỉ ra bản chất của quá trình tích luỹ vốn trong các doanh
nghiệp tư bản chủ nghĩa: “Một khi kết hợp được sức lao động và đất đai tức là
hai nguồn gốc đầu tiên của cải, thì tư bản có một sức bành chướng cho phép nó
tăng những yếu tố tích luỹ của nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như
do lượng của bản thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượng của
những tư liệu sản xuất (trong đó tư bản tồn tại) đã được sản xuất ra quyết định”.

Yêu cầu khách quan của tích luỹ vốn đã được Mac khẳng định do những
nguyên nhân sau :”Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa thì quy mô tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh
trong điều kiện bình thường cũng tăng lên.”
Từ đó Mac khẳng định :” Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản nếu muốn
duy trì tư bản củ mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng thêm mẫi lên và
không thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó ngày càng tăng lên được nếu không có
sự tích luỹ ngày càng nhiều thêm”. Mac còn chỉ ra rằng những nhân tố quy định
quy mô của tích luỹ : khối lượng giá trị thặng dư (lơị nhuận) năng suất lao động
xã hội và quy mô vốn ban đầu (lượng tư bản ứng trước)
Như vậy, cùng với lao động, vốn (tư bản) là một trong các yếu tố đầu vào
sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ.Công nghệ sản xuất hiện có quyết định mức sản
lượng được sản xuất ra từ một lượng tư bản và lao động nhất định. Hàm này cho
biết các nhân tố sản xuất quyết định mức sản lượng được sản xuất ra như thế
nào. Nếu kí hiệu Y là sản lượng thì ta có hàm sản xuất như sau:
Y = F(K,L)
Phương trình này nói rằng sản lượng là một hàm của khối lượng tư bản và
lao động. Tức là hàng hoá, dịch vụ được tạo ra phu thuộc vào lượng tư bản sẵn
có. Nhiều tư bản cho phép sản xuất nhiều sản phẩm hơn.
* Vốn là yếu tố quan trọng đồi với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế
• Trên thị trường vốn
Ta có đẳng nhất thức nền kinh tế quốc dân như sau:
8
Y – C – G = I
Dưới hình thức này, đồng nhất thức của tài khoản kinh tế quốc dân phản
ánh tiết kiệm bằng đầu tư. Chúng ta có thể tách tiết kiệm quốc dân thành hai
phần, nhằm phân biệt tiết kiệm của hộ gia đình và tiết kiệm của chính phủ:
(Y-C-T)+(T-G)=I
Trong đó T là thuế
Biểu thức (Y-C-T) là tiết kiệm tư nhân.

Biểu thức (T-G) là tiết kiệm chính phủ
Nếu chi tiêu nhiều hơn thu, chính phủ bị thâm hụt ngân sách thì tiết kiệm
công cộng mang dấu âm.
Tiết kiệm quốc dân bằng tiết kiệm chính phủ cộng tiết kiệm tư nhân.
Trên thị trường tài chính
Lãi suất vừa là chi phí đi vay vừa là lợi ích đi vay. Chính vì thế nó đóng vai trò
điều chỉnh cân bằng trên thị trường vốn, đồng thời nó cho thấy vai trò của tiết
kiệm đối với tăng trưởng kinh tế
S(r) = I(r)
Ta có sơ đồ thị trường vốn:
Nhìn vào sơ đồ ta thấy, bất kì sự thay đổi nào ảnh hưởng đến cung vốn sẽ
ảnh hưởng đến lãi suất và thông qua đó ảnh hưởng đến đầu tư. Nếu chính phủ
thực hiện chính sáh tài khoá thắt chặt làm tiết kiệm chính phủ tăng, đương cung
vốn dích sang phải dẫn tới lãi suất giảm, đầu tư tăng làm sản lượng tăng. Như
vậy, sự cắt giảm tiêu dùng sẽ giải phóng nguồn lực cho đầu tư.
Một nghiên cứu khác cũng khẳng định vai trò của vốn đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế, đó là hệ số ICOR
I(r)
r
I
9
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng
truởng ở mức trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt được ở mức từ 15% đến 20%
so vớI GDp tuỳ thuộc vào ICOR của từng nước.
Vốn đầu tư
ICOR =
GDP do vốn tạo ra

Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư

Mửc tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
3. Nguồn vốn trong doanh nghiệp
1. Nguồn vốn chủ sở hữu
a. Vốn ban đầu:
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có
một số vốn ban đầu nhất định, do các cổ đông_ chủ sở hữu góp. Khi nói đến
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức
sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình
thức tạo vốn của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước chính là nhà nước. Hiện
nay, cơ chế quản lí tài chính nói chung và quản lí vốn của doanh nghiệp nhà
nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với doanh nghiệp. Chẳng hạn với công ty cổ phần, vốn do các cổ
đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi một cổ đông
đóng góp là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên
giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số
dạng tương đối khác nhau do đó, cách thức huy động vốn của các công ty này
cũng khác nhau.
10
b. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia:
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. giúp doanh nghiệp giảm
đước chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Để có được lợi nhuận để lại thì trước tiên doanh nghiệp phải đang hoạt
động, có lợi nhuận và được phép tiếp tục đầu tư. Đối với doanh nghiệp nhà nước
việc tái đầu tư còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của nhà nước.
Đối với công ty cổ phần việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố

nhạy cảm. Đó là mối quan hệ giữa việc chi trả cổ tức và giữ lại lợi nhuận để tái
đầu tư. Khi công ty để lại lợi nhuận, tức là cổ đông không được nhận cổ tức, bù
lại họ có quyền sở hữu số cổ phần tăng lên của công ty.
 Khi giải quyết vấn đề này cần lưu ý một số yếu tố có liên quan như:
- Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ.
- Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước.
- Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ
phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
- Hiệu quả của việc tái đầu tư.
c. Phát hành cổ phiếu:
 Là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp và là nguồn tài chính dài
hạn rất quan trọng của doanh nghiệp.
♦ Cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường( còn gọi là cổ phiếu thông thường)là loại cổ phiếu thông
dụng nhất, đồng thời là chứng khoán quan trọng nhất đước trao đổi, mua bán
trên thị trường chứng khoán.
♦ Cổ phiếu ưu tiên:
Được hiểu là loại cổ phiếu phát có kèm theo một số điều kiện ưu tiên cho
nhà đầu tư sở hữu nó. Thường chỉ chiểm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ
phiếu được phát hành.
Cổ phiếu ưu tiên thường có cổ tức cổ định. Người chủ sở hữu cổ phiếu
này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thông thường.
11
Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là
thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty,cổ
tức được lây từ lợi nhuân sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên.
♦ Chứng khoán có thể chuyển đổi
Ở một số nước, các công ty có thể phát hành những chứng khoán kèm theo
những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lựa chọn
cho phép các bên (công ty,người đầu tư) có thể chuyển đổi

3.1. Nguồn vốn nợ:
a) Phát hành trái phiếu công ty.
Đối với các công ty nhà nước tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn thì không được phép phát hành cổ phiếu mà chỉ có thể phát hnàh trái
phiếu. Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
• Phân loại:
Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại trái phiếu này thường được sử dụng
nhiều nhất, phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi xuất được
ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Tính
hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào những yếu tố sau:
 Lãi suất của trái phiếu.
 Kỳ hạn của trái phiếu.
 Uy tín của doanh nghiệp.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi: thực ra lãi suất của loại trái phiếu này phụ
thuộc vào nguồn lãi suất quan trọng khác. Trong điều kiện có mức lạm phát khá
cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu
việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên loại trái phiếu này có một vài nhược điểm
là doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều
này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính; việc quản lý trái
phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo điều
chỉnh lãi suất.
Trái phiếu có thể thu hồi: tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời
gian nào đó. Loại trái phiếu này phải được quy định ngay từ đầu để khách hàng
12
biết. Loại trái phiếu này có những ưu điểm như: có thể sử dụng như một cách
điều chỉnh lượng vốn sử dụng, khi không cần thiết doanh nghiệp có thể mua lại
các trái phiếu đó và thay bằng nguồn tài chính khác.
Chứng khoán có thể chuyển đổi: cho phép doanh nghiệp, người đầu tư có
thể lựa chọn cách đầu tư có lợi và thích hợp. Có một số hình thức chuyển đổi

như:
Giấy bảo đảm : người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ
phiếu thường được quy định trước với giá cả và thời gian xác định.
Trái phiếu chuyển đổi : là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành
một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên
thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
b) Nguồn vốn tín dụng ngân hàng
Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không
chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngắn hạn ngân
hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc
biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của
doanh nghiệp.
♦ Phân loại.
• Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân thành ba loại:
 Vay dài hạn: thường tính từ 3 năm trở lên, có nơi tính 5 năm. Có lãi
suất cao, vì mang nhiều rủi ro cho người cho vay.
 Vay trung hạn: Từ 1 đến 3 năm. Có lãi suất thấp hơn vay dài hạn.
 Vay ngắn hạn : dưới 1 năm. Có lãi suất thấp nhất.
• Theo tính chất và mục đích sử dụng, có thể phân thành các loại:
 Vay để đầu tư tài sản cố định.
 Vay đầu tư tài sản lưu động.
 Vay theo dự án.
13
♦ Hạn chế.
1. Điều kiện tín dụng: các doanh nghiệp muốn vay vốn tại các ngân
hàng thương mại phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin
cần thiết mà ngân hàng yêu cầu.
2. Các điều kiện đảm bảo tiền vay: khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói

chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có
bảo đảm tín dụng, phổ biến nhất là bằng tài sản thế chấp.
3. Sự kiểm soát của ngân hàng: không gây ra vấn đề gì quá lớn cho
doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp điều đó cũng làm
cho DN có cảm giác bị kiểm soát.
4. Lãi suất vốn vay: Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải
gánh chịu chi phí vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Sử dụng vốn vay phải đảm bảo hợp lí, đúng mục đích, quản lí sử
dụng đúng quỹ tiền mặt, kì trả nợ và kì thu tiền, kế hoạch sản xuất
kinh doanh phải được bám sát thực tế…. nếu không vốn vay sẽ trở
thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp.
c. Nguồn vốn tín dụng thương mại
Tín do dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được
biểu hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại xuất
hiện là do sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng. Do đặc tính thời vụ trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm khiến các doanh nghiệp phải mua bán chịu hàng hóa. .
Hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn
của các doanh nghiệp tạm thời thiếu, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu
thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác, sự tồn tại của hình thức tín dụng này
giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời hoạt động
sản xuất kinh doanh.
● Hạn chế
 Hạn chế về quy mô tín dụng: Tín dụng thương mại là do các doanh nghiệp
cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi
vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng đươc.
 Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kì sản xuất của
các doanh nghiệp có thể không phù hợp với nhau, vì vậy mà khi thời hạn
14
mà người cho vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù
hợp nhau thì tín dụng này không thể xảy ra.

 Hạn chế về phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới
hình thức hàng hóa, vì vậy mà doanh nghiệp chỉ có thể cung cấp được tín
dụng cho một số doanh nghiệp nhất định, những doanh nghiệp cần hàng
hoá đó để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ để bán ra
II . Doanh nghiệp nhà nước .
1. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp doanh nghiệp nhà nước
 Khái niệm: Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là những doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh hoặc hoạt động công ích , do Nhà nước đầu tư 100% vốn
hoặc giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp để nhà nước có thể chi phối
hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra.
 Vai trò của DNNN:
• Doanh nghiệp nhà nước phải là công cụ kinh tế quan trọng để nhà
nước trực tiếp tác động đến các quá trình kinh tế xã hội , điều tiết vĩ
mô , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH-HĐH.
• Kinh tế nhà nước nói chung , DNNN nói riêng đóng vai trò mở
đường và tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát
triển. DNNN phải thể hiện được sự phân công và phối hợp một
cách hợp lí về chức năng giữa khu vực DNNN với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác .
• Kinh tế nhà nước trong đó DNNN đóng vai trò quan trọng trong
việc khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường , tạo
điều kiện cho việc xây dựng chế độ xã hội mới .
• DNNN đi đầu trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng
đồng , đặc biệt đối với địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh , với các vùng kinh tế khó khăn , vùng sâu , vùng xa.
DNNN còn những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng tới vai trò chủ đạo của
nền kinh tế nhà nước và là nhân tố gây cản trở, làm giảm hiệu quả hoạt động
nói chung và hiệu quả đầu tư phát triển nói riêng của khối donh nghiệp này:
15

Thứ nhất: Số lượng nhiều ,dàn trải, trong khi quy mô vốn không lớn,
công nghệ lạc hậu .
Thứ hai: Chưa giải quyết tốt vấn đề sở hữu, đại diện sở hữu nhà nước
trong doanh nghiệp, cơ chế quản lí của cơ quan nhà nước đối với hoạt
động trong doanh nghiệp chậm đổi mới .
Bên cạnh đó , tình trạng kém năng động , trông chờ ỷ lại Nhà nước là
nguyên nhân chính gây ra tình trạng kém hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của DNNN.
2. Vốn đầu tư phát triển trong DNNN
2.1 . Khái niệm
Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn
trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những
16
tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ ( tri thức, kỹ năng …),
gia tăng năng lực sản xuất, tạo việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Từ đó có thể nêu ra khái niệm về đầu tư phát triển của DNNN như sau:
Đầu tư phát triển của DNNN là hoạt động chi dùng vốn cùng các nguồn lực
khác trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản ( tài sản
vật chất hữu hình và tài sản vô hình ) của DNNN, tạo thêm việc làm và nâng cao
đời sống của mỗi thành viên trong đơn vị.
2.2 . Nội dung của vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Tùy vào các cách thức đánh giá khác nhau mà ta có thể phân loại vốn đầu
tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước thành các dạng sau:
2.2.1 Theo mục đích sử dụng
a. Vốn đầu tư cơ bản của là số vốn đầu tư để tạo ra tài sản cố định. Nó bao gồm
vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ. Vốn đầu tư
xây dựng cơ bản là một thuật ngữ đã được sử dụng khá quen thuộc ở nước ta với
nội dung bao hàm những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng
lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế.
 Về thực chất vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm những chi phí

làm tăng thêm giá trị tài sản cố định. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản gồm
2 bộ phận hợp thành: vốn đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới TSCĐ mà ta
quen gọi là vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ.
 Về nội dung chỉ tiêu: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa
chữa lớn TSCĐ bao gồm:
 Chi phí cho việc thăm dò, khảo sát và quy hoạch xây dựng
chuẩn bị cho việc đầu tư;
 Chi phí thiết kế công trình;
 Chi phí xây dựng;
 Chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và những chi phí
khác thuộc nguồn vốn đầu tư XDCB;
 Chi phí cho việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và máy
móc thiết bị, sửa chữa lớn các TSCĐ khác.
17
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của vốn đầu tư cơ bản được
sử dụng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như đã nêu trên.
b. Vốn lưu động bổ sung: B
Bao gồm những khoản đầu tư làm tăng thêm tài sản lưu động trong kỳ
nghiên cứu, đó là những khoản đầu tư mua công cụ, dụng cụ không đủ tiêu
chuẩn là tài sản cố định; mua nguyên liệu, vật liệu nhiều hơn năm trước (Không
kể số tiền mặt còn tồn quỹ, tiền đang gửi ngân hàng và vàng bạc, đá quý chưa sử
dụng vào mua sắm tài sản).
c. Vốn đầu tư phát triển khác:
Bao gồm tất cả các khoản đầu tư của doanh nghiệp nhằm tăng năng lực
phát triển của doanh nghiệp. Nó bao gồm tất cả các khoản đầu tư tăng thêm cho:
• Chi phí cho công việc thăm dò; khảo sát, thiết kế quy hoạch
• Chi phí cho việc triển khai thực hiện các chương trình, mục tiêu xã
hội
• Chi phí cho việc thực hiện chương trình bảo vệ môi trường
• Chi phí cho việc thực hiện các chương trình nghiên cứu, triển khai,

đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực;
2.2.2 Theo nguồn gốc sở hữu về vốn
a. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước hình thành cơ bản hình
thành từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên đó không phải là nguồn vốn chủ sở hữu
duy nhất trong doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao gồm vốn góp liên doanh,
liên kết đóng góp cổ phần của nhiều thành phần kinh tế khác.
b. Vốn nợ
Vốn nợ của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ việc phát hành trái
phiếu doanh nghiệp và từ vay tín dụng thương mại. Về cơ bản nguồn gốc huy
động vốn của doanh nghiệp nhà nước không có nhiều khác biệt với doanh
nghiệp không thuộc nhà nước, nhưng doanh nghiệp nhà nước có những lợi thế
nhất định về khả năng huy động cũng như những lợi thế về thủ tục trong huy
động vốn nợ.
18
Chương II. Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng
vốn của DNNN Việt Nam hiện nay.
I. Theo mục đích sử dụng.
1. Đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư xây dựng cơ bản là một phần rất quan trọng trong chiến lược kinh
doanh và phát triển của doanh nghiệp vì vậy 1 phần lớn vốn đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước được sử dụng để đầu tư xây dựng cơ bản. Cụ thể từ năm
2001đến năm 2005 tổng lượng vốn sử dụng trên 85600 tỷ đồng, bình quân hàng
năm bằng 125%, riêng năm 2006 đạt trên 30000 tỷ đồng bằng 137,8% so với
năm 2005.
2. Vốn lưu động bổ sung
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 lượng hàng tồn trữ tại các
doanh nghiệp nhà nước là tương đối lớn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn
vốn của doanh nghiệp khoảng từ 20% đến 25% và đang có su hướng giảm đần
qua các năm . Đây là một tín hiệu tốt, nó thể hiện tình hình sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp nhà nước đang trên đà phát triển, việc sản xuất và tiêu thụ
ngày một thuận lợi.
3. Vốn đầu tư phát triển khác.
a) Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ
Đây là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của doanh
nghiệp. Nhưng thực tế vẫn chưa được chú trọng đầu tư, các hoạt động này chỉ
chiến khoảng từ 1% đến 3% tổng lượng đầu tư của doanh nghiệp. Và nhà nước
vẫn đang khuyến khích các doanh nghiệp tích cực đầu tư vào lĩnh vực này để
phần nào tăng cường cho nền công nghệ vốn đang còn lạc hậu của nước ta
b) Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là động lực quan trọng nhất, là nhân tố chủ yếu quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy đầu tư phát triển
nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các doanh nghiệp. Hàng loạt
các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn đã và đang mở những lớp đào tạo ngay
tại chính doanh nghiệp mình tạo ra 1 lực lượng lao động có đầy đủ chuyên môn
19
phù hợp nhất với nhu cầu của doanh nghiệp và ngoài ra còn cung cấp cho những
doanh nghiệp khác cùng địa bàn. Đây là một hướng đầu tư tích cực đang được
nhà nước khuyến khích bằng nhiều chính sách cụ thể như nghị định 143 CP của
chính phủ ban hành ngày 15/6/2005 về việc tổ chức đào tạo nhân lực tại các
doanh nghiệp…
c) Đầu tư phát triển tài sản vô hình
Trong thời đại kinh tế thị trường đang phát triển ngày một hoàn thiện
nhưngày nay tài sản vô hình của doanh nghiệp là 1 yêu tố quan trọng nó quyết
định khả năng tiêu thụ của sản phẩm và giá cả của chúng trên thị trường. Vì lẽ
đó hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước đang đầu tư rất mạnh tay để nâng cao
giá trị tài sản vô hình trong doanh nghiệp bao gổm: thương hiệu, hoạt động
marketing, quảng cáo phân phối… chiếm khoảng từ 18% đến 22% tổng lượng
đầu tư của doanh nghiệp
d) Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp

Việc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác đang dần trở thành 1
su hướng mới trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp nhà nước. Hiện
nay 1 bộ phận lớn các doanh nghiệp thực hiện liên doanh liên kết tạo thành
những tập đoàn lớn mạnh như tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn pertronimex V.V…
Ngoài ra 1 xu hướng khác đang hình thành và ngày càng phát triển mạnh
mẽ đó là đầu tư ra nước ngoài. Đây là một hướng đi mới là một tín hiệu tốt cho
nền kinh tế Việt Nam, nó khẳng định các doanh nghiệp nhà nước đang ngày
càng lớn mạnh đủ tiềm lực kinh tế để kinh doanh ở những thị trường mới, không
chỉ quẩn quanh ở “ao làng” nữa.
II. Theo nguồn gốc sở hữu vốn
1 Thực trạng huy động vốn chủ sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước hiện
nay.
a)Vốn ngân sách nhà nước
Đây là nguồn vốn lớn và chiếm tỷ trọng thường xuyên của doanh nghiệp
nhà nước. Có nguồn vốn ngân sách vừa là một thế mạnh nhưng cũng tạo không
ít hạn chế trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp
20
Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước
(DNNN) vì là người cấp vốn đầu tư ban đầu và đầu tư bổ sung cho doanh
nghiệp. Như vậy, cho dù theo quy định của pháp luật, DNNN có quyền sử dụng,
định đoạt vốn và tài sản trong kinh doanh để tạo ra lợi nhuận, nhưng vai trò chủ
sở hữu đối với các tài sản trong doanh nghiệp vẫn thuộc về Nhà nước.
Việc xác định chủ sở hữu đối với tài sản trong DNNN liên quan trực tiếp
đến nguyên tắc phân chia, sử dụng lợi nhuận thu được từ nguồn vốn do Nhà
nước cấp và từ vốn của bản thân doanh nghiệp tự đầu tư, nhất là xác định tỷ lệ
lợi nhuận mà doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp vào ngân sách Nhà nước (NSNN).
Do đó, khi chưa có quy định cụ thể, rõ ràng làm căn cứ để phân định tài sản
thuộc về sở hữu Nhà nước và tài sản thuộc sở hữu của tập thể người lao động
trong doanh nghiệp để xác định phạm vi trách nhiệm đối với từng tài sản đó, thì
các nguyên tắc để bảo đảm quyền tự chủ về tài chính trong kinh doanh, bảo toàn

vốn, ổn định nguồn thu cho NSNN sẽ khó thực hiện. Mặt khác, nếu vẫn quan
niệm tài sản trong DNNN thuộc sở hữu Nhà nước và lợi nhuận làm ra đều phải
nộp cho Nhà nước, thì sẽ không tạo ra động lực gắn bó người lao động với hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp, khi họ đưa lợi nhuận thu được, tức tài sản
thuộc sở hữu của tập thể người lao động để tái đầu tư sản xu t kinh doanh trong
doanh nghiệp. Hiện nay, chế định về sở hữu tài sản trong DNNN vẫn chưa quy
định rõ các căn cứ để xác định chế độ sở hữu khác nhau đối với các nguồn vốn,
tài sản trong DNNN và các nguyên tắc, chế độ phân phối lại lợi nhuận thu được
từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đứng trước cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì sự can thiệp
trực tiếp của Nhà nước có khi làm giảm khả năng cạnh tranh trong phần đông
các DNNN. Một thực tế là, DNNN làm ăn thua lỗ, đến cuối năm 2004 chỉ còn
25% DNNN đang hoạt động có hiệu quả, “cơ chế tái bao cấp” trở thành phổ
biến, việc khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đã gây thiệt hại không nhỏ cho ngân sách
Nhà nước, song không xác định được trách nhiệm thuộc về hoạt động kinh
doanh yếu kém của doanh nghiệp hay thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nước.
Thực hiện chế độ phân cấp, uỷ quyền, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính là
người thực hiện quyền và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản
trong DNNN (theo NĐ 34/CP). Song trên thực tế, UBND cấp tỉnh, các Bộ quản
21
lý ngành cũng có một số quyền của đại diện chủ sở hữu như quyết định bổ sung
vốn lưu động, quyết định phương án đầu tư vốn vào các dự án liên doanh, quyền
phê duyệt các phương án thế chấp, cầm cố các tài sản có giá trị lớn Như vậy,
rõ ràng có sự chồng chéo trong việc thực hiện quyền của chủ sở hữu là Nhà
nước với tư cách là người góp vốn đối với việc quản lý vốn, tài sản trong doanh
nghiệp. Hiện nay, chúng ta đang có quá nhiều đại diện sở hữu, có quá nhiều cơ
quan Nhà nước và thực hiện quyền quản lý Nhà nước, việc chỉ đạo, quản lý hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như việc tổ chức thực hiện các kế
hoạch kinh doanh khó có thể bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, có hiệu quả, gây
khó khăn, lúng túng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều

đáng chú ý là do có nhiều cơ quan quản lý, đại diện chủ sở hữu nên khi doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp luật thì việc xác định trách
nhiệm cũng rất khó khăn.
b) Vốn góp liên doanh, liên kết, vốn cổ phần hóa
Sau hơn 15 năm (1998-2008) thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu các
DNNN cho thấy: CPH đã tạo ra cho DN có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà
nước, người lao động trong DN, cổ đông ngoài DN; trong đó, người lao động
trong DN trở thành người chủ thực sự trong phần góp vốn của mình.
Trong báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện cổ phần hóa DNNN
tại phiên họp thứ 43 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 21/9/2006 đã chỉ rõ:
Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, số lượng DNNN được cổ phần hoá
tăng đáng kể, nhưng nhìn chung việc triển khai còn khá chậm. Tính đến
31/12/2005, cả nước mới cổ phần hoá được 2.935 DNNN. Số doanh nghiệp
được cổ phần hoá tăng nhiều, nhưng số vốn mới chiếm 12% tổng số vốn trong
các DNNN. Nếu trừ đi phần vốn Nhà nước còn giữ lại gần 50% trong các doanh
nghiệp cổ phần hoá, thì thực chất tỷ lệ trên chỉ còn khoảng 6%. So với mục tiêu
của Nghị quyết TW 9 (khoá IX) thì còn chậm, nhất là các doanh nghiệp có qui
mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Theo kế hoạch cổ
phần hóa DNNN tại báo cáo này, đến năm 2008 sẽ cổ phần hóa toàn bộ 5 Ngân
hàng thương mại Nhà nước.
Cùng với việc cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Chính
phủ đã quyết tâm từ nay đến 2010 cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp, tập
22
trung nhiều nhất vào 2 năm 2007-2008. Sau 2010, cả nước còn khoảng 550
DNNN, trong đó có 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh quốc
phòng, sản xuất cung ứng sản phẩm dịch vụ thiết yết.
2. Thực trạng sử dụng vốn nợ ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2007, tổng vốn chủ sở hữu của 70
tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 323 nghìn tỷ đồng, nhưng số vốn huy động
của các doanh nghiệp này đã lên tới hơn 448 nghìn tỷ đồng, gấp 1,4 lần vốn chủ

sở hữu. Một số tập đoàn, tổng công ty có hệ số vay nợ trên vốn chủ sở hữu quá
cao. Có 28/70 tập đoàn, tổng công ty còn đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp, chủ
yếu vào lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm với giá trị hơn 23.344 tỷ
đồng, gấp 8,7 lần vốn chủ sở hữu.
Bộ Tài chính nhận định, hiện nay, do Nhà nước chưa có cơ chế giám sát
chặt chẽ hoạt động này nên có nhiều Cty Nhà nước huy động vốn quá lớn, dư nợ
phải trả cao gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, dẫn đến khả năng thanh toán không
đảm bảo, ảnh hưởng đến an ninh tài chính.
Tính đến 9 tháng đầu năm 2008, trong số 70 tập đoàn, TCty thì có 30 đơn
vị có hệ số nợ phải trả trên vốn vượt trên 3 lần, thậm trí nhiều DN vượt trên 20
lần như TCty Xây dựng công trình giao thông 5 gấp 42 lần, TCty Xây dựng
công trình giao thông 1 gấp 22,5 lần, TCty Lắp máy VN gấp 21,5 lần, Tập đoàn
công nghiệp Tàu thuỷ VN gấp 21,8 lần
Ngoài ra, một số DN huy động vốn từ các Cty tài chính, ngân hàng có vốn
góp của tập đoàn, TCty Nhà nước cũng rất rủi ro do được hưởng nhiều ưu đãi
như không bắt buộc phải có đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay, thủ tục vay vốn
đơn giản… dễ dẫn đến đổ vỡ dây chuyền khi mất khả năng thanh toán.
Trong khi đó, do hiện nay quy định không hạn chế phạm vi ngành nghề,
lĩnh vực và quy mô đầu tư vốn ra ngoài DN nên trong thời gian vừa qua nhiều
DNNN đã góp vốn đầu tư hoặc mua cổ phần, vốn góp tại nhiều DN khác, phân
tán vào nhiều lĩnh vực kể cả không thuộc lĩnh vực ngành nghề chủ yếu. Đáng
chú ý, một số tập đoàn, TCty đã dành một lượng vốn khá lớn đầu tư vào ngân
hàng, bảo hiểm hoặc mua bán cổ phiếu trên thị trường.
Theo báo cáo của 70 tập đoàn, TCty thì có tới 28 đơn vị hoạt động đầu tư
chứng khoán, thành lập Cty chứng khoán, đầu tư vào Cty quản lý quỹ, ngân
23
hàng thương mại, Cty bảo hiểm với giá trị đầu tư là 23.344 tỷ đồng, chiếm 8,7%
vốn chủ sở hữu và 20% tổng số vốn đầu tư ra ngoài.
Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí đầu tư 5.780 tỷ đồng, trong đó ngân hàng 1.100
tỷ đồng, Cty chứng khoán 76,5 tỷ đồng, Cty tài chính 4.005 tỷ đồng, Cty bảo

hiểm 570 tỷ đồng, quỹ đầu tư 29 tỷ đồng; Tập đoàn công nghiệp Tàu thuỷ VN
đầu tư 1.894 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực ngân hàng 344 tỷ đồng, bảo hiểm 1.462
tỷ đồng (Bảo Việt), quỹ đầu tư 88 tỷ đồng
Với tình hình thị trường chứng khoán đi xuống tới 50%, bất động sản
đóng băng, kinh doanh ngân hàng ngày càng khó khăn, khả năng trả nợ ngân
hàng của các tổng công ty lớn là câu hỏi lớn.
Nhiều doanh nghiệp sử dụng vốn vay để đầu tư chéo, mua cổ phiếu của
ngân hàng, mua của nhau và của các công ty mới thành lập trong các lĩnh vực
nóng. Khi mà cổ phiếu IPO cũng như trên sàn niêm yết đều giảm mạnh, sẽ tạo ra
thua lỗ dây chuyền giữa các công ty với nhau. Thua lỗ tài chính chắc chắn nhiều,
không biết liệu doanh nghiệp lấy tiền ở đâu ra để trả vốn vay.
Trong khi nền kinh tế gặp không ít khó khăn, lạm phát tăng, lãi suất vay
ngân hàng tăng. Doanh nghiệp không có đủ lợi nhuận để vừa trả lãi ngân hàng
cho số vốn đi vay, vừa phải bù vào phần vốn đã mất do đầu tư nhiều vào chứng
khoán và bất động sản.
III. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư
phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
1. Tầm vĩ mô:
Thứ nhất, công tác quy hoạch đầu tư chưa được chú trọng và còn bất hợp
lý. Quá trình xây dựng kế hoạch phát triển ngành vùng còn chưa căn cứ vào thực
tế cung cầu thị trường, điều này dẫn đến hoạt động đầu tư chồng chéo, thất thoát
nhiều, hiệu quả đầu tư giảm.
Thứ hai, cơ chế quản lý vốn trong doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất
cập,chưa thích ứng với cơ chế thị trường.Thể hiện:Một là, vai trò chủ sở hữu về
vốn, tài sản của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước không rõ ràng và còn
nhiều chồng chéo, chế độ đại diện chủ sở hữu gián tiếp nhiều khi gây khó khăn
cho hoạt động của doanh nghiệp,làm giảm tính năng động của kinh tế nhà
24
nước.Hai là,nhà nước vừa làm chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, vừa chủ
sỏ hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nên vừa can thiệp quá sâu vào tình

hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vừa buông lỏng khâu kiểm tra
giám sát.
Thứ ba, những nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách, luật pháp có liên
quan đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Một số chính sách hiện tại chưa
được sửa đổi phù hợp với tình hình mới, một số thiếu sót hoặc chồng chéo như
giữa luật doanh nghiệp nhà nước(2003) và luật DN (2005),luật tiền lương,luật
phá sản, luật đấu thầu…
Thứ tư, ngoài mục tiêu kinh doanh như các thành phần kinh tế khác,
doanh nghiệp nhà nước còn có trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ xã hội.
Theo đuổi nhiều mục tiêu nên hiệu quả kinh doanh hiệu quả đầu tư thường thấp.
Đây cũng chính là cái cớ để các nhà quản lý biện hộ cho hoạt động kinh doanh
kém hiệu quả của mình.
2. Ở doanh nghiệp:
Thứ nhất, tình hình tài chính không minh bạch, thiếu lành mạnh là trở
ngại lớn nhất cho hoạt động huy động vốn ở doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề này
liên quan đến công nợ, số nợ “khoanh”, nợ “treo” không được giải quyết dứt
điểm.Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau, doanh nghiệp
nhà nước có các khoản nợ phải trả và phải thu đều rất lớn và có xung hướng
tăng, làm ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận các nguồn vốn, khả năng mở
rộng đầu tư, đổi mới công nghệ, do đó còn ảnh hưởng tới cả hiệu quả đầu tư
trong tương lai.
Thứ hai, công tác chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư theo dự án của
nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện theo đúng thủ tục quy định. Công
tác thẩm định, đấu thầu còn tồn tại nhiều bất cập, tiềm ẩn những nguy cơ làm
suy giảm hiệu quả hoạt động đầu tư, dẫn đến giảm hiệu quả huy động và sử
dụng vốn.
Thứ ba,do những yếu kém về trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ và trình
độ tay nghề của CBCNV trong doanh nghiệp nhà nước.Trình độ của một bộ
phận không ít cán bộ điều hành quản lý doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu
cầu của cơ chế thị trường, gây suy giảm, thất thoát trong sử dụng vốn đầu tư.

25
Chương III . Một số giải pháp về huy động và sử dụng vốn
đầu tư phát triển trong các DNNN hiện nay.
I. Về mặt vĩ mô .
Thứ nhất : Hoàn thiện cơ chế quản lí hoạt động đầu tư DNNN
Trước hết, nhà nước cần tăng cường quyền tự chủ cho các DNNN, để các
DNNN tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo toàn và
phát triển vốn DN tự huy động, tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ, khoản thua
lỗ. Nhà nước chỉ hỗ trợ về tài chính cho những trường hợp thua lỗ vì nguyên
nhân khách quan. Đối với những trường hợp nhất thiết phải bảo hộ thì phải có
thời hạn rõ ràng và điều kiện, nhằm nâng cao hiệu quả thực sự cho các DN.
Tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mơí, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh
doanh của khu vực DNNN, trọng tâm là cổ phần hoá mạnh hơn nữa, đẩy nhanh
tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các DNNN cổ phần hoá, kể cả một số tổng
công ty và các DN lớn trong các ngành mà Nhà nước không nắm giữ 100℅ vốn.
Cần khẩn trương xoá bỏ tình trạng đặc quyền kinh doanh của DNNN phù
hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước có cơ chế kiểm soát, điều
tiết hoạt động đối với các doanh nghiệp có thị phần lớn, có thể khống chế thị
trường, trước hết là thị trường các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu đối với an sinh xã
hội.
Thứ hai : Xây dựng chiến lược, chủ trương đầu tư hợp lí, phù hợp với
mục tiêu và định hướng phát triển của đất nước.
Chiến lược là cơ sở quan trọng để lập các quy hoạch và kế hoạch, đặc biệt
là các quy hoạch và kế hoạch đầu tư của DNNN. Chiến lược đúng, chủ trương
đầu tư đúng là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của
ngành và DN. Ngược lại, chủ trương đầu tư sai sẽ không có hiệu quả đầu tư
hoặc hiệu quả đầu tư rất thấp kém.
Trong thời gian tới, nhà nước phải hạn chế đầu tư vào những lĩnh vực đã
bão hoà như sắt thép, xi măng, mía đường và sớm sửa đổi quy chế đấu thầu theo
hướng tăng thêm quyền quyết định và trách nhiệm đầu tư cho DN. Khuyến

26

×