Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 101 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
  



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài:
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN
NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM




Họ và tên sinh viên
Lớp
Khoá
Giáo viên hướng dẫn
: Ph¹m ThÞ Kim Oanh
: Ph¸p 2
: 44 E
: ThS. Lª ThÞ Thu Hµ









Hà Nội, tháng 5 năm 2009



MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU 5
I. Nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 5
1. Nhãn hiệu 5
1.1. Khái niệm nhãn hiệu 5
1.2. Chức năng của nhãn hiệu 8
2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 9
2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 9
2.2. Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 11
2.3. Điều kiện để được bảo hộ nhãn hiệu 12
II. Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu 16
1. Cạnh tranh không lành mạnh 16
1.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh 16
1.2. Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh 21
2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu 23
3. Biện pháp xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn

hiệu 29
3.1. Biện pháp tự bảo vệ 29
3.2. Biện pháp hành chính 30
3.3. Biện pháp hình sự 33
3.4. Biện pháp dân sự 35
3.5. Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ
36
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM 38


I. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu
tại Việt Nam 38
1. Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu đang diễn ra
trong tất cả các ngành kinh tế 38
2. Số lượng các vụ việc cạnh trạnh không lành mạnh liên quan đến
nhãn hiệu có dấu hiệu tăng dần 47
3. Thủ đoạn của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu ngày càng tinh vi 49
4. Nguyên nhân 50
II. Thực trạng hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên
quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam 51
1. Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu tại Việt Nam 51
1.1. Pháp luật quốc tế 51
1.2. Pháp luật quốc gia 52
1.3. Nhận xét 53
2. Thực trạng hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu của các cơ quan thực thi và hỗ trợ thực thi 57
2.1. Các cơ quan thực thi 57

2.2. Các cơ quan hỗ trợ thực thi 69
3. Thực trạng hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu 70
4. Đánh giá hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu tại Việt Nam 71
4.1. Thành tựu 71
4.2. Hạn chế 72
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ
LÝ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN
HIỆU TẠI VIỆT NAM 74
I. Yêu cầu đối với hoạt động xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên
quan đến nhãn hiệu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 74


II. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam 76
1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu 76
2. Kiện toàn và tăng cường năng lực của hệ thống cơ quan thực thi 78
2.1. Giải pháp chung 79
2.2. Giải pháp cụ thể cho từng cơ quan thực thi 79
3. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh_
chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 85
4. Các giải pháp khác 88
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Công ước Paris


Hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ


QLCT
QLTT
TRIPS

WTO
SHTT
SHCN

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu
công nghiệp đuợc ký kết tháng
03/1883 tại Paris.
Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam
và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan
hệ thương mại, có hiệu lực từ ngày
10/12/2001.
Quản lý cạnh tranh
Quản lý thị trường
Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ
Tổ chức thương mại thế giới
Sở hữu trí tuệ

Sở hữu công nghiệp



1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường,
hoạt động thương mại và buôn bán trên thế giới ngày càng có nhiều tiến bộ cả
về chiều rộng và chiều sâu. Điều này đồng nghĩa với việc sẽ càng ngày càng
có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia vào mọi lĩnh vực của nền kinh
tế. Mỗi một chủ thể sản xuất, kinh doanh sẽ đưa ra thị trường nhiều sản phẩm
mà mình sản xuất. Do vậy, muốn lựa chọn được sản phẩm chất lượng đảm
bảo phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng tài chính của mình, người tiêu
dùng phải dựa vào nhãn hiệu được gắn trên mỗi sản phẩm. Vì vậy, ngày nay,
nhãn hiệu đóng một vai trò to lớn trong việc xây dựng danh tiếng cho hàng
hóa được chào bán, gia tăng doanh số, tăng lợi nhuận thu được cho doanh
nghiệp; đồng thời buộc chủ sở hữu nhãn hiệu cố gắng duy trì và nâng cao chất
lượng của hàng hóa, dịch vụ có sử dụng nhãn hiệu đó, nghĩa là nhãn hiệu góp
phần kích thích sự tiến bộ của kinh tế. Cũng chính bởi những lợi ích mà nhãn
hiệu đem lại mà trên thị trường xuất hiện rất nhiều vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu. Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đên
nhãn hiệu là các hành vi chiếm đoạt, sử dụng trái phép nhãn hiệu đang được bảo
hộ bởi các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đã có chỗ đứng trên thị trường
nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm mà không phải mất công tạo dựng hình ảnh và
uy tín.
Do đó để bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh chân chính, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát triển kinh
tế bền vững thì việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan

đến nhãn hiệu là một yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp nói chung và cạnh


2
tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nói riêng trong thời gian qua
nhưng hệ thống này vẫn tỏ ra còn nhiều bất cập. Các quy định về cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nằm tản mạn ở các văn bản khác
nhau, do đó gây khó khăn cho công tác thực thi và bảo hộ. Chính vì vậy, để
ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên
quan đến nhãn hiệu, cần phải xây dựng pháp luật phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và tương thích với các quy định quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
xử lý có hiệu quả các hành vi này.
Trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp, em đã chọn đề tài: “Cạnh
tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam” nhằm
nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực trạng cạnh tranh không lành mạnh
liên quan đến nhãn hiệu, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện hệ thống
pháp luật liên quan và nâng cao hiệu quả các hoạt động ngăn chặn và xử lý
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh này.
2. Tình hình nghiên cứu
Cạnh tranh không lành mạnh đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, các bài viết thường phổ biến dưới dạng bài báo,
tin điện tử và thường khai thác về đề tài cạnh tranh không lành mạnh nói
chung hoặc là cạnh tranh không lành mạnh trong liên quan đến lĩnh vực sở
hữu công nghiệp, như: “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam” của TS. Lê Danh
Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS nguyễn Ngọc Sơn, Nhà xuất bản Tư pháp Hà
Nội (2006), hay “ Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của PGS.TS.Lê Hồng Hạnh, ThS. Đinh Thị Mai Phương,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội (2004). Cho đến nay việc đi sâu

nghiên cứu về cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu còn rất
hạn chế.




3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu, khóa luận đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả ngăn chặn và xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
 Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu.
 Phân tích thực trạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên
quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ngăn chặn và xử
lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, sử dụng chuyên gia, kết hợp nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn. Các phương pháp này được sử dụng trong sự kết
hợp chặt chẽ với nhau.
5. Bố cục khóa luận
Ngoài lời nói đầu và kết luận, khoá luận có bố cục gồm 3 chương:
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh liên
quan đến nhãn hiệu.
Chƣơng II: Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến

nhãn hiệu tại Việt Nam.
Chƣơng III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam.
Để hoàn thành khóa luận, em đã cố gắng tìm tòi, tổng hợp và phân tích
các thông tin, tư liệu thu thu thập được. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời


4
gian và vốn kiến thức còn ít ỏi, kinh nghiệm chưa nhiều, khóa luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo tận tình
của các thầy cô trong trường và sự góp ý của bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn các cán bộ và lãnh đạo Cục Quản lý cạnh
tranh, Cục Sở hữu trí tuệ và đặc biệt là cô giáo, ThS. Lê Thị Thu Hà, đã nhiệt
tình hướng dẫn, giúp đỡ, cung cấp tài liệu quý báu để em có thể hoàn thành
khóa luận này.





















5
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU

I. Nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1. Nhãn hiệu
1.1. Khái niệm nhãn hiệu
Trong nền kinh tế thị trường, nhãn hiệu có vai trò đặc biệt quan trọng
khi nó được coi như một công cụ tạo ra sự khác biệt cho các sản phẩm trên thị
trường, tạo dựng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, thu hút khách hàng, tạo
dựng niềm tin cho người tiêu dùng, tạo dựng giá trị trong quá trình củng cố ấn
tượng từ người tiêu dùng đối với các hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Uy
tín của nhãn hiệu gây ấn tượng với người tiêu dùng còn tạo sức mạnh đẩy lùi hàng
ngoại tại thị trường nội địa và có khả năng đứng vững trên thị trường nước ngoài,
củng cố sức cạnh tranh của hàng hóa trên trường quốc tế [3, tr. 40].
Dựa vào chức năng của nhãn hiệu hàng hóa, có thể định nghĩa: “Nhãn
hiệu hàng hóa là một dấu hiệu dùng để nhận biết hàng hóa của một nhà sản
xuất và phân biệt chúng với các nhà sản xuất khác”[20].
Trên cơ sở quan điểm trên, mỗi nước đưa ra các dấu hiệu cụ thể có thể
được bảo hộ làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu được coi là nhãn hiệu ở mỗi nước là
khác nhau. Có những dấu hiệu có thể được coi là nhãn hiệu tại quốc gia này
nhưng lại không được bảo hộ tại quốc gia khác. Sự khác biệt trong khái niệm nhãn
hiệu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như: trình độ nhận thức của người tiêu dùng ở
mỗi quốc gia, đặc điểm thị trường, yếu tố văn hóa, đạo đức truyền thống và thói

quen sử dụng hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng Để cụ thể hóa nhận xét
trên, khóa luận xin đưa ra một số khái niệm nhãn hiệu được quy định trong luật
pháp của các quốc gia Hoa Kỳ, Pháp và Trung Quốc và Australia.


6
Tại Hoa Kỳ, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được quy định trong Luật
nhãn hiệu hàng hóa (Lanham Act năm 1946). Theo đó, nhãn hiệu hàng hóa
bao gồm “bất kỳ từ ngữ, tên, biểu tượng, hình ảnh hoặc sự kết hợp của các
yếu tố đó được sử dụng hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để phân biệt
hàng hóa hoặc dịch vụ của nhà sản xuất, kinh doanh này với hàng hóa, dịch
vụ của nhà sản xuất khác và để chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hóa[…]” [35].
Khái niệm nhãn hiệu được quy định tại Bộ luật Sở hữu trí tuệ của Pháp
cũng khá tương đồng với khái niệm nhãn hiệu hàng hóa của Hoa Kỳ, trong đó
quy định:
“Nhãn hiệu hàng hóa hoặc nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu có thể biểu
thị bằng đồ hoạ có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của cá nhân
hoặc pháp nhân. Dấu hiệu có thể bao gồm: i)từ ngữ, sự kết hợp của từ ngữ,
tên họ và tên địa lý, tên bút danh, chữ cái, chữ số, chữ viết tắt; ii)dấu hiệu có
thể nghe được như âm thanh, đoạn nhạc; iii)dấu hiệu hình như hình ảnh,
nhãn sản phẩm, dấu , đường viền, khắc chạm nổi, hình ảnh ba chiều, logo,
hình dáng sản phẩm hoặc bao bì sản phẩm, sự kết hợp , sự sắp xếp hoặc sắc
thái của màu sắc”[36].
Các dấu hiệu được coi là nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của Luật
nhãn hiệu hàng hóa Trung Quốc năm 2001 bao gồm: từ ngữ, hình ảnh, chữ
cái, chữ số, dấu hiệu ba chiều, sự kết hợp của màu sắc, và sự kết hợp của các
yếu tố đó có thể được đăng kí là nhãn hiệu hàng hóa [37].
Theo pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của Australia, “âm thanh, mùi vị
có thể được đăng kí. Thêm vào đó, nhãn hiệu hàng hóa được đăng kí ngay cả
khi chúng không có sẵn tính phân biệt với điều kiện là nhãn hiệu hàng hóa đó

đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng” [8, tr. 16].
Tại Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã định nghĩa nhãn hiệu
như sau: “nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ,
hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều, hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể


7
hiện bằng một hay nhiều màu sắc” và “có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác” [16].
Như vậy qua việc tìm hiểu quy định của các quốc gia khác nhau về
nhãn hiệu, có thể nhận thấy rằng khái niệm nhãn hiệu được quy định trong
pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nước là khá tương đồng, tức là đều
dựa vào chức năng cơ bản của nhãn hiệu để quy định rằng nhãn hiệu là những
dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể sản xuất, kinh
doanh khác nhau trên thị trường.
Tuy nhiên, phạm vi các dấu hiệu cụ thể được cơ quan đăng kí bảo hộ
làm nhãn hiệu tại các quốc gia trên thế giới rộng hơn phạm vi các dấu hiệu
được bảo hộ làm nhãn hiệu tại Việt Nam. Tại Việt Nam, các dấu hiệu được
bảo hộ làm nhãn hiệu chỉ được giới hạn ở: từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba
chiều, hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hay nhiều
màu sắc. Trong khi đó, tại các nước phát triển cũng như các nước đang phát
triển, phạm vi các dấu hiệu được bảo hộ làm nhãn hiệu đã được mở rộng, bao
gồm cả các dấu hiệu âm thanh như ở Pháp và các dấu hiệu mùi vị như ở
Australia. Chính sự khác biệt về trình độ phát triển, trình độ nhận thức của
người tiêu dùng, trình độ quản lý cũng như khả năng thực thi quyền sở hữu
công nghiệp của mỗi quốc gia đã tạo ra sự khác biệt trong khái niệm nhãn
hiệu. Do vậy, trong điều kiện hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, pháp luật về
nhãn hiệu của Việt Nam cần có những quy định sửa đổi, bổ sung các dấu hiệu
về nhãn hiệu cần được bảo hộ cho phù hợp với quy định của các điều ước
quốc tế, thông lệ quốc tế, sự phát triển kinh tế - xã hội và đòi hỏi bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam
hiện nay.
Dựa theo tính chất các dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu, có thể
phân loại dấu hiệu thành các nhóm cơ bản sau: dấu hiệu hình, dấu hiệu chữ,
dấu hiệu màu, dấu hiệu âm thanh, dấu hiệu mùi vị, dấu hiệu ba chiều…


8
Nhãn hiệu hàng hóa có nhiều cách phân loại. Xét dưới góc độ phân loại
đối tượng hàng hóa, dịch vụ mà nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng thì nhãn
hiệu bao gồm nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Thông thường, các
văn bản quy phạm pháp luật các nước thường dùng thuật ngữ nhãn hiệu/nhãn
hiệu hàng hóa để chỉ chung cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Theo
chức năng và cách thức sử dụng, nhãn hiệu bao gồm: nhãn hiệu liên kết, nhãn
hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận.
1.2. Chức năng của nhãn hiệu
Thông thường, một nhãn hiệu có những chức năng chính sau: chức
năng phân biệt; chức năng chỉ dẫn nguồn gốc hoặc xuất xứ; chức năng bảo
đảm chất lượng và chức năng quảng cáo [32, tr. 22].
a. Chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các chủng loại hàng hóa, dịch vụ
ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Muốn chọn lựa được hàng hóa, dịch
vụ phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng tài chính của mình, người tiêu
dùng phải dựa vào các dấu hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa mà các cơ sở sản
xuất, kinh doanh gắn trên sản phẩm hay bao bì sản phẩm khi đưa ra thị
trường. Như vậy, với chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ, nhãn hiệu cho
phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới nhãn hiệu đó với
những hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp khác bán trên thị trường. Đây
đuợc coi là chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu hàng hóa.
b. Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ

Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc không có nghĩa là nhãn hiệu phải thông
tin cho người tiêu dùng về người thực sự sản xuất ra sản phẩm hay người kinh
doanh sản phẩm mà chỉ cần sao cho người tiêu dùng có thể tin tưởng vào
doanh nghiệp có trách nhiệm về hàng hóa bán ra mang nhãn hiệu đó. Như
vậy, nhìn vào nhãn hiệu, người tiêu dùng có quyền nghĩ rằng các sản phẩm


9
mang nhãn hiệu đều có cùng nguồn gốc hoặc có mối liên hệ giữa các nhà sản
xuất khác nhau sử dụng nhãn hiệu giống nhau.
c. Chức năng bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ
Chức năng chất lượng đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng về các
thông tin của sản phẩm như chất lượng và giá cả của sản phẩm, qua đó người
tiêu dùng có thể chọn được hàng hóa mong muốn và phù hợp với nhu cầu.
Hay nói cách khác, nhãn hiệu có chức năng thông tin gián tiếp về sản phẩm.
d. Chức năng quảng cáo
Thông qua vai trò cá thể hóa sản phẩm bằng các dấu hiệu và màu sắc
nhất định, nhãn hiệu còn có chức năng quảng cáo cho sản phẩm của doanh
nghiệp, giúp sản phẩm sớm đến tay người tiêu dùng.
2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Để hiểu thế nào là bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,
trước hết cần tìm hiểu thế nào là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,
các đặc trưng cơ bản của quyền này là gì.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là một trong những quyền
dân sự [5,tr. 25]. Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam 2005 thì : “Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, tổ
chức đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.

Từ đó, có thể hiểu quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là quyền sở
hữu của cá nhân, tổ chức (chủ thể) đối với nhãn hiệu (khách thể) và quyền
được áp dụng các biện pháp hợp pháp để ngăn chặn và xử lý các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động đăng kí cũng như trong quá trình sử
dụng nhãn hiệu.


10
Trên thế giới, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa có
thể được xác lập trên cơ sở sử dụng nhãn hiêu trên thực tế hoặc trên cơ sở văn
bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Cụ thể tại Việt Nam,
quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng kí
nhãn hiệu do Cục Sở hữu trí tuệ cấp [6].
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có các thuộc tính như sau:
 Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa bị giới hạn
về thời gian. Quyền này chỉ có hiệu lực trong thời hạn của văn bằng bảo hộ do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ
cũng như theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia thì Giấy chứng
nhận đăng kí nhãn hiệu có hiệu lực trong vòng 10 năm kể từ ngày cấp. Chủ sở
hữu nhãn hiệu có thể xin gia hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng kí nhiều
lần, mỗi lần kéo dài 10 năm.
 Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bị giới hạn về không
gian. Cụ thể, quyền này chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà
trên cơ sở các quy định pháp luật nước đó, quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu phát sinh. Hay nói cách khác, quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu mang tính lãnh thổ triệt để. Nghĩa là, quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu chỉ được xác lập trên cơ sở pháp luật của chính quốc gia đã
công nhận bảo hộ quyền đó và quyền này cũng chỉ có hiệu lực trong phạm vi
nước công nhận bảo hộ[38]. Chẳng hạn, nhãn hiệu của các chủ thể nước ngoài
muốn được bảo hộ tại Việt Nam thì khi đăng kí phải dựa vào các quy định

pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Việt Nam. Ngược lại, các
nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam như Trung Nguyên hay
VINATABA đã được đăng kí bảo hộ tại Việt Nam nhưng vẫn có thể được bảo
hộ tại các nước khác nếu đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ của các nước đó.
 Nội dung của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là quyền
được độc quyền sử dụng và cấm người khác sử dụng nhãn hiệu đã được bảo


11
hộ nếu không được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép. Và quyền độc quyền này
chỉ giới hạn đối với hành vi sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm
lẫn với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của một chủ thể khác vì mục đích thương
mại, chứ không áp dụng trong các trường hợp vì mục đích phi thương mại.
Hơn nữa, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu chỉ áp dụng đối với
nhóm sản phẩm/dịch vụ mà nhãn hiệu đã đăng kí mà không mở rộng bảo hộ
đối với các sản phẩm/dịch vụ khác[7, tr5-12]. Ngoài ra, vì Giấy chứng nhận
đăng kí nhãn hiệu được quyền gia hạn nhiều lần nên quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu là vô hạn với điều kiện nhãn hiệu vẫn duy trì được
tính phân biệt trong thời gian sử dụng.
2.2. Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Từ những đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
như trên, suy ra bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là một
chính sách rất cần thiết của Chính phủ nhằm chống cạnh tranh không lành
mạnh giữa các chủ thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng, bên cạnh các biện pháp tự bảo
vệ mang tính chủ động của chủ sở hữu nhãn hiệu.
Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo hộ” có nghĩa là bảo vệ, giữ gìn và che
chở. Như vậy, hiểu một cách khái quát thì bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu là sự bảo vệ của Nhà nước, của xã hội đối với quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu. Cụ thể hơn, bảo hộ quyền sở hữu

công nghiệp đối với nhãn hiệu là sự bảo đảm của Nhà nước bằng hệ thống
pháp luật và hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc xác lập quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cho các chủ thể là cá nhân, tổ chức, bảo vệ
quyền đó và chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của người khác. Nhà nước, tổ
chức cơ quan xác lập quyền quy định thủ tục, trình tự để xác lập quyền sở hữu
công nghiệp cho các đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu
phải đăng ký. Muốn được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, các chủ thể


12
quyền sở hữu công nghiệp phải nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bao gồm
ba nội dung chính:
 Nhà nước ban hành các quy định pháp luật về quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu.
 Xác lập quyền: Cơ quan có thẩm quyền cấp Văn bằng bảo hộ nhãn
hiệu ( Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu) cho các chủ thể khác nhau khi các
chủ thể này đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo quy định.
 Bảo vệ quyền: Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ
thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng cách áp dụng các
phương thức, biện pháp khác nhau.
2.3. Điều kiện để được bảo hộ nhãn hiệu
Một nhãn hiệu muốn được bảo hộ, hay một dấu hiệu muốn được coi là
nhãn hiệu bắt buộc phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã được chuẩn hóa trên
toàn thế giới. Nhìn chung, có hai loại điều kiện cơ bản như sau:
Thứ nhất, các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phải có tính độc đáo hoặc
có khả năng phân biệt các sản phẩm khác nhau. Tức là, nhãn hiệu phải giúp
người tiêu dùng phân biệt được hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với
các hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Tính độc đáo ở đây phải

được đánh giá trong mối quan hệ với hàng hóa có gắn nhãn hiệu đó[9]. Ví dụ,
từ “táo” hoặc hình một quả táo không thể được đăng kí cho mặt hàng táo,
nhưng đối với hàng hóa là máy tính thì nó lại trở nên rất độc đáo, khi nó
truyền tải một ý nghĩa không liên quan đến sản phẩm mang nhãn hiệu đó.
Tính độc đáo của nhãn hiệu còn phụ thuộc vào sự nhận biết của người tiêu
dùng. Hay nói cách khác, một nhãn hiệu được coi là độc đáo khi người tiêu
dùng nhìn nhãn hiệu đó và có thể xác định được hàng hóa có nguồn gốc, xuất
xứ từ một nhà sản xuất kinh doanh nhất định, từ đó họ có thể tìm, lựa chọn


13
được sản phẩm mong muốn. Cũng chính vì vậy, việc đưa ra được một mức độ
độc đáo cụ thể để một nhãn hiệu có thể được đăng kí là một việc làm không
dễ dàng. Thực tế cho thấy họ có thể căn cứ vào tỷ lệ phần trăm số người tiêu
dùng nhận biết được hàng hoá mang nhãn hiệu có nguồn gốc từ một cơ sở
kinh doanh nhất định để xác định mức độ độc đáo của nhãn hiệu đó.
Hơn nữa, một nhãn hiệu không có khả năng phân biệt, tức là đã không
thực hiện được chức năng cơ bản của nhãn hiệu, sẽ bị cơ quan đăng kí từ chối
cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu. Chính vì vậy, các tên gọi chung; các
dấu hiệu mô tả, tức là các dấu hiệu có sự chỉ dẫn về các đặc tính của hàng hóa
hay xuất xứ địa lý, chứ không phải là sự dẫn chiếu đến nguồn gốc của hàng
hóa (dấu hiệu phân biệt); các hình đơn giản; hay một khẩu hiệu quảng cáo dài
dòng, rối rắm…cũng sẽ không được đăng kí làm nhãn hiệu.
Thứ hai, các dấu hiệu có những đặc tính gây hiểu lầm, lừa dối công
chúng hoặc vi phạm tới trật tự công cộng và đạo đức xã hội cũng sẽ không
được coi là nhãn hiệu hàng hóa [9]. Đây được coi là những dấu hiệu bị loại
trừ, những dấu hiệu không được bảo hộ như nhãn hiệu hàng hóa. Vì lợi ích
của công chúng, các nhãn hiệu có nguy cơ lừa dối về tính chất, chất lượng hay
các đặc tính khác hay nguồn gốc thương mại của hàng hóa đều không đủ điều
kiện đăng kí. Một nhãn hiệu có khả năng phân biệt không đồng nghĩa với việc

nhãn hiệu đó sẽ không có khả năng lừa dối công chúng. Chẳng hạn, một nhãn
hiệu có các dấu hiệu mang tính liên tưởng, gợi dẫn mà vì thế nó có khả năng
phân biệt, vẫn có thể có tính lừa dối khi những sản phẩm có gắn nhãn hiệu đó
không có những đặc điểm như được phản ánh trên nhãn hiệu hàng hóa, dịch
vụ. Như vậy, khi xem xét nhãn hiệu hàng hóa phải dựa vào hai khía cạnh
riêng rẽ: nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt và không mang tính lừa dối. Ví
dụ như các nhãn hiệu gợi dẫn tới xuất xứ địa lý của hàng hóa sẽ là giả mạo
nếu trên thực tế, hàng hoá có gắn nhãn hiệu đó không có nguồn gốc từ khu
vực được chỉ dẫn. Thực tế, nhãn hiệu có chỉ dẫn trực tiếp đến xuất xứ địa lý


14
tương đối hiếm, mà các doanh nghiệp thường sử dụng dẫn chiếu gián tiếp.
Điều này gây ra rất nhiều khó khăn trong việc xem xét nhãn hiệu có phải là
giả mạo hay lừa dối công chúng hay không. Một khía cạnh khác cần xem xét
đó là, việc xác định một nhãn hiệu có mang tính lừa dối hay không phải gắn
liền với hàng hóa sẽ sử dụng nhãn hiệu đó. Nghĩa là, tuỳ thuộc vào danh mục
sản phẩm, mà một đơn đăng kí nhãn hiệu có thể coi là có khả năng phân biệt,
không có tính lừa dối đối với một số sản phẩm này, nhưng lại là giả mạo hay
lừa dối đối với các sản phẩm khác.
Cơ quan đăng kí nhãn hiệu cũng sẽ từ chối các đơn đăng kí nhãn hiệu
có biểu hiện trái với đạo đức xã hội hoặc ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Ví
dụ các dấu hiệu được sử dụng là: tranh ảnh thô tục, biểu tượng của các cơ
quan quyền lực nhà nước hay của các đảng phái chính trị bất hợp pháp; hay
các dấu hiệu là biểu tượng do Nhà nước, tổ chức quốc tế, cơ quan đoàn thể sử
dụng cũng không được đăng kí làm nhãn hiệu.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng đã đưa ra các điều khoản cụ thể quy
định các điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu. Theo Điều 72 Luật Sở hữu trí
tuệ, một nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng hai điều kiện sau: i) là dấu hiệu
nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba

chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc; ii) có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu
với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Như vậy, một nhãn hiệu sẽ được Cục
Sở hữu trí tuệ bảo hộ nếu thoả mãn hai điều kiện: có thể tri giác được và có
khả năng phân biệt.
Về khả năng tri giác được, đây cũng chính là một điều kiện bảo hộ
được nêu ra tại khoản 1 Điều 15 Hiệp định TRIPS, theo đó “… Các thành
viên có thể quy định như là điều kiện để được đăng kí rằng các dấu hiệu phải
là dấu hiệu nhìn thấy được”.


15
Tuy nhiên, hiện nay, tại một số quốc gia trên thế giới, phạm vi các dấu
hiệu được bảo hộ còn được mở rộng sang cả các dấu hiệu âm thanh như âm
nhạc, tiết nhạc mà con người có thể nhận biết được qua “thính giác”, và các
dấu hiệu mùi vị được nhận biết qua “khứu giác” hay nhãn hiệu chỉ đơn thuần
được thể hiện bằng một màu sắc nhất định.
Về khả năng phân biệt của nhãn hiệu, Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ đã
đưa ra khái niệm thế nào là một nhãn hiệu có khả năng phân biệt tại Khoản 1
và các dấu hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt tại Khoản 2. Nhìn
chung , các dấu hiệu không được đăng kí làm nhãn hiệu bao gồm: các hình
đơn giản; tên gọi thông thường của hàng hóa; các dấu hiệu mô tả đặc tính của
sản phẩm; hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp; dấu hiệu
chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới
mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của các hàng hoá và dịch vụ trùng hoặc
tương tự ; dấu hiệu trùng hoặc tương tự với các đối tượng sở hữu công nghiệp
khác như tên thương mại đang được sử dụng, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công
nghiệp đang được bảo hộ [16].Việc xác định dấu hiệu đăng kí có trùng với
nhãn hiệu của hàng hóa, dịch vụ tương tự hay với các đối tượng sở hữu công
nghiệp khác hay không là việc làm tương đối đơn giản, bắng cách xem xét

xem chúng có phải là bản photocopy y nguyên của nhau hay không. Nhưng
để xác định tính “tương tự tới mức gây nhầm lẫn” giữa các loại nhãn hiệu với
nhau hay giữa nhãn hiệu đăng kí với các đối tượng sở hữu công nghiệp trên là
một công việc khá khó khăn. Việc đưa ra tiêu chuẩn hay đáp số chung cho mọi
trường hợp để xác định tính tương tự có khả năng gây nhầm lẫn là công việc
không thể do đặc điểm riêng biệt của mỗi trường hợp là khác nhau.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng phương pháp điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam về điều kiện đăng kí bảo hộ nhãn hiệu là phù hợp với phương pháp
điều chỉnh của pháp luật quốc tế về sở hữu công nghiệp. Các quy định trên
chính là cơ sở quan trọng trong việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối


16
với nhãn hiệu cũng như là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quyết định xử
lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu.
II. Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu
1. Cạnh tranh không lành mạnh
1.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Đã từ lâu cạnh tranh xuất hiện và tồn tại khách quan trong quá trình
hình thành, phát triển của sản xuất hàng hoá và trở thành một đặc trưng cơ
bản của cơ chế thị trường. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, bởi cạnh tranh làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn,
nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, buộc họ phải thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, áp dụng các tiến bộ, nghiên cứu thành công mới nhất vào trong
sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý để nâng
cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Mục đích của cạnh tranh không
gì khác ngoài việc làm thế nào để hàng hoá, dịch vụ của mỗi doanh nghiệp
được “bán chạy” trên thị trường. Hay nói một cách khái quát hơn, đó chính là
vấn đề lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp muốn đạt được thông qua quá trình
sản xuất, kinh doanh của mình. Pháp luật của các quốc gia đều ghi nhận và

coi quyền cạnh tranh lành mạnh như là một quyền đương nhiên của doanh
nghiệp và được Nhà nước bảo vệ.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện nay, đối nghịch với hành vi kinh
doanh lành mạnh, trung thực, ngày càng xuất hiện nhiều loại hình làm ăn
chụp giật, sử dụng các thủ đoạn không minh bạch, cạnh tranh không lành
mạnh của những doanh nghiệp vì “nôn nóng” muốn có lợi nhuận tức thời mà
không muốn đầu tư nhiều tiền bạc và công sức. Để đạt được điều đó, họ đã
thực hiện các hành vi thương mại không trung thực nhằm tạo ra lợi thế cạnh
tranh, lợi nhuận cho bản thân mình. Hành vi đó làm ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp khác, đến người tiêu dùng và rộng ra là tác động tiêu cực đến cả nền
kinh tế. Đó chính là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.


17
Vậy cạnh tranh không lành mạnh là gì?
Hiện nay, trên thế giới tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh
không lành mạnh. Nhìn chung, có 3 quan niệm cơ bản như sau:
Quan niệm thứ nhất cho rằng “cạnh tranh không lành mạnh bao gồm tất
cả các hành vi xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, xâm hại tới
quyền tự do cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp”[2]. Quan niệm này
được phản ánh rất rõ trong quy định của Luật Cạnh tranh Mông Cổ.
Quan niệm thứ hai được thể hiện trong Điều 10Bis của Công ước Paris
về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, theo đó, “bất kì hành vi nào đi ngược lại
các hành động trung thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương mại
đều là cạnh tranh không lành mạnh”.
Quan niệm thứ ba về cạnh tranh không lành mạnh chỉ ra: “cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể kinh doanh khác hoặc của người tiêu dùng”.

Như vậy, theo quan niệm thứ nhất, phạm vi các hành vi bị coi là cạnh
tranh không lành mạnh là rất rộng, có thể bao gồm cả các hành vi hạn chế
cạnh tranh. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc sử dụng phương thức áp
dụng pháp luật do bản chất, tính chất, mức độ nguy hại cho thị trường của các
hành vi trên là khác nhau. Ngược lại, phạm vi các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh theo quan điểm thứ hai lại chỉ bó hẹp ở các hành vi “không trung
thực trong hoạt động thương mại và công nghiệp”. Quan niệm thứ ba đã dung
hoà được hạn chế của hai quan niệm còn lại, khi cạnh tranh không chỉ có
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp như trong quan niệm thứ hai, mà còn mở
rộng sang các lĩnh vực khác. Đây cũng chính là quan điểm của các nhà làm
luật Việt Nam khi đưa ra khái niệm cạnh tranh không lành mạnh. Là một đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ nhưng khái niệm cạnh tranh không lành mạnh


18
không được đưa ra trong Luật Sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ chỉ liệt kê
những hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh. Khái niệm “cạnh tranh
không lành mạnh” được quy định tại khoản 4 Điều 3 trong Luật Cạnh tranh
2004 như sau:
“Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”[17 ].
Từ định nghĩa cạnh tranh không lành mạnh được nêu ra trong Luật
Cạnh tranh, có thể nhận thấy cạnh tranh không lành mạnh phải có các dấu
hiệu sau:
 Vì mục đích cạnh tranh;
 Nhằm vào đối thủ cạnh tranh hiện hữu (cụ thể), hay nói khác đi sẽ
không thể nói đến cạnh tranh không lành mạnh khi mà các chủ thể không ở
trong vị thế “cạnh tranh” với nhau [44];

 Vi phạm pháp luật hoặc đi ngược lại với đạo đức, tập quán tốt đẹp;
 Đã và sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh, và
thông qua đó tìm cách tạo cho mình những mối lợi hoặc thế mạnh bất chính.
Như vậy, không phải bất cứ hành vi nào xâm hại đến lợi ích của doanh
nghiệp đều bị coi là cạnh tranh không lành mạnh, mà chỉ những hành vi xuất
phát từ một chủ thể đối với đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan, bao
gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan; trực tiếp
hoặc gián tiếp gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh thì mới bị coi là cạnh tranh
không lành mạnh.
Sau khi đã tìm hiểu thế nào là cạnh tranh không lành mạnh và xem xét
các dấu hiệu thể hiện bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu
trên, khoá luận xin đi vào tìm hiểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh


19
cụ thể, được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam
hiện nay.
Theo Điều 39 Luật cạnh tranh Việt Nam 2004, 10 hành vi sau bị coi là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
 Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
 Xâm phạm bí mật kinh doanh;
 Ép buộc trong kinh doanh;
 Gièm pha doanh nghiệp khác;
 Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
 Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
 Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
 Phân biệt đối xử của hiệp hội;
 Bán hàng đa cấp bất chính;
 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác
định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định[17].

Như vậy, Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 đã liệt kê cụ thể 10
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong số 10 hành vi cạnh tranh không
lành mạnh nêu trên thì chỉ có hai hành vi đầu tiên đó là: “chỉ dẫn gây nhầm
lẫn” và “xâm phạm bí mật kinh doanh” được xem là có liên quan trực tiếp đến
lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Các hành vi khác như: phân biệt đối xử của hiệp
hội, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh…, chỉ liên quan gián tiếp
đến lĩnh vực sở hữu công nghiệp và không xảy ra phổ biến trong thực tế.
Tuy nhiên do đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2004 tương đối
rộng, ngoài cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ,
Luật Cạnh tranh còn điều chỉnh cả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
xảy ra trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác. Do vậy, để bám sát hơn
với đối tuợng nghiên cứu của khoá luận là cạnh tranh không lành mạnh trong


20
lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến nhãn hiệu nói riêng, khóa luận xin phân tích các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh được quy định trong luật chuyên ngành là Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005. Theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 thì các hành vi sau bị coi
là hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực sở hữu công
nghiệp nói chung:
a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh,
hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản
xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch
vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của
điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu
nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên,
nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và

việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có
lý do chính đáng;
d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng
hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của
người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục
đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng
của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng[16].
Theo khoản 2 Điều 130, chỉ dẫn thương mại trong quy định trên là các
“dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao
gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa” [16].
Như vậy, hai hành vi cạnh tranh không lành mạnh đầu tiên được quy
định trong Luật Sở hữu trí tuệ là tương đồng với hành vi cạnh tranh không

×