Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

PHÂN TÍCH SỰ KHÁC BIỆT TÂM LÝ TRONG TÌNH DỤC VÀ MỘT TÌNH HUỐNG TÂM LÝ TRONG TÌNH YÊU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.42 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC

BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦN:
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH

TÊN ĐỀ TÀI:

PHÂN TÍCH SỰ KHÁC BIỆT TÂM LÝ
TRONG TÌNH DỤC VÀ MỘT TÌNH HUỐNG
TÂM LÝ TRONG TÌNH YÊU
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ TỨ
SINH VIÊN THỰC HIỆN: HỒ NGỌC QUỲNH NHI
MSSV: 46.01.611.083

LỚP: K46.TLH.B

TPHCM, tháng 1 năm 2022

1


MỤC LỤC
I. SỰ KHÁC BIỆT TÂM LÝ TRONG TÌNH DỤC...............................................................4
1. Định nghĩa tình dục.........................................................................................................4
a) Khái niệm và đặc điểm của tình dục..............................................................................4
b) Vai trị của tình dục.......................................................................................................8
2. Sự khác biệt tâm lý trong tình dục giữa nam và nữ.....................................................8
a) Đối với nam..................................................................................................................8
b) Đối với nữ...................................................................................................................10
c) Sự khác biệt giữa nam và nữ.......................................................................................11


3. Ví dụ minh họa thực tiễn, bài học cho bản thân và cơng tác tham vấn...................12
II. TÌNH HUỐNG TÂM LÝ TRONG TÌNH U..............................................................14
1. Tình huống....................................................................................................................14
2. Ngun nhân.................................................................................................................16
3. Biện pháp khắc phục....................................................................................................17
III. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................19

2


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Thị Tứ đã ln nhiệt tình hướng dẫn,
giảng dạy và truyền đạt cho em những kiến thức, kinh nghiệm hết sức đáng quý mà em đã lấy
đó làm động lực để hồn thành bài tiểu luận này và có những hành trang đáng quý cho những
học phần sau, cả trên con đường học tập và làm việc của em trong tương lai.
Em xin gửi lời cảm ơn cũng như sự biết ơn chân thành nhất đến Cô. Em chúc C7ơ ln
dồi dào sức khỏe, ln có thật nhiều niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống để tiếp tục cống
hiến cho sự phát triển của ngành Tâm lý học tại nước ta.
Sinh viên
Hồ Ngọc Quỳnh Nhi

3


I. SỰ KHÁC BIỆT TÂM LÝ TRONG TÌNH DỤC:
1. Định nghĩa tình dục:
a. Khái niệm và đặc điểm của tình dục:
* Khái niệm
Theo nghiên cứu của Meirmans và Strand công bố năm 2010 với tiêu đề “Why are
there so many theories for sex, and what do we do with them?” đã cho thấy có vơ số lý thuyết

giải thích cho sự phát triển của tình dục trong suốt quá trình phát triển của lồi người như
thuyết tiến hóa, các thuyết sinh học (vai trò của não bộ, hệ thần kinh), các học thuyết tâm lý
học (phân tâm học, tâm lý học xã hội, tâm lý học phát triển, tâm lý học giới tính,...) nhằm đóng
góp cho sự hình thành khái niệm về tình dục. Những lý thuyết này tiếp tục được phát triển
cùng với sự “ra đời” và phát triển của những học thuyết mới về “tình dục”, Meirmans và Strand
đã chứng mình đây là sự đa nguyên trong ngành khoa học tâm lý và cũng giống các ngành
khoa học khác, sự đa ngun này có tính chất hợp lý, việc của chúng ta là phải tiếp túc phát
triển và làm rõ để đi đến sự hiểu biết một cách thống nhất và có hệ thống về sự phát triển của
tình dục (Meirmans và Strand, 2010).
Theo Giáo sư Bùi Ngọc Oánh (2008), quan hệ tình dục là quan hệ đặc biệt về mặt sinh
lí cơ thể, là sự rung cảm giới tính mãnh liệt, là những nhu cầu hịa nhập đặc biệt về mặt sinh lí
cơ thể (thường được gọi là nhu cầu về thể xác) giữa hai con người. Quan hệ tình dục thường
được nảy sinh ở con người trong một số điều kiện như: sự phát triển bình thường và trưởng
thành của đời sống tính dục bắt đầu từ giai đoạn dậy thì của cơ thể, sự phát triển những cảm
xúc giới tính, sự ham muốn được thỏa mãn những cảm xúc giới tính mãnh liệt, tình u nồng
thắm của con người. Quan hệ tình dục thường được biểu hiện ở những hành vi cử chỉ vuốt ve,
âu yếm, ơm ấp, bởi những nụ hơn. Quan hệ tình dục có thể xuất phát từ những bản năng đơn
thuần nhưng cũng có thể xuất phát từ tình u và bị chi phối mạnh mẽ bởi tình yêu. Ngược lại,
tình yêu cũng có thể nảy sinh và phát triển từ sự hịa hợp về quan hệ tình dục.
Tình dục là một biểu hiện điển hình của đời sống tính dục. Tình dục thường được hiểu
theo nhiều góc độ khác nhau dưới ảnh hưởng tác động của các yếu tố xã hội, các quan điểm
sống, các tôn giáo, các giai đoạn lịch sử,… Ở các nước phương Đơng, việc nhìn nhận vấn đề
tình dục khác với phương Tây, họ thường coi tình dục là một vấn đề rất tế nhị, chuyện “phòng

4


the”, chuyện “sâu kín”,... và thường gắn với sự đánh giá một cách khắt khe, thành kiến. Tình
dục thường được hiểu như là những rung cảm đặc biệt nảy sinh ở con người. Những rung cảm
này thường xuất hiện ở con người trước người khác giới. Tuy nhiên, cũng có những trường

hợp xuất hiện trước người đồng giới (hiện tượng đồng tình luyến ái). Xét về bản chất, tình dục
là một bản năng của con người được nảy sinh từ hoạt động bình thường của hệ cơ quan sinh
dục, từ đó làm thúc đẩy những rung cảm tình dục nảy sinh và phát triển, trở thành những rung
động, những cảm xúc ham muốn cần phải được thỏa mãn ở một con người. Những cảm xúc
ham muốn này, hay còn được gọi là rung cảm tình dục, thường có thể nảy sinh ở con người
khi họ bắt đầu bước vào tuổi dậy thì, sau đó dần dần trong đời sống ở mỗi người. Chúng thường
được biểu hiện ở những hành vi như: âu yếm, vuốt ve, ôm ấp, hôn,… Xét về mặt sinh lí cơ thể,
những rung cảm tình dục có thể xuất hiện rất sớm ở con người, tạo nên những khối cảm khi
vơ tình hoặc hữu ý va chạm vào bộ phận sinh dục hoặc một số bộ phận đặc biệt ở con người.
Tuy nhiên, chúng chủ yếu bắt đầu nảy sinh ở con người khi hệ cơ quan sinh dục có khả năng
sản xuất ra tinh trùng hoặc trứng: chúng đặc biệt phát triển nhanh và mạnh khi con người
trưởng thành.
Như vậy, tình dục hay những rung cảm tình dục hay hành vi tình dục xuất hiện do hoạt
động của hệ cơ quan sinh dục tạo ra, là một chức năng đặc biệt của hệ cơ quan sinh dục, là một
bản năng tất yếu ở con người bình thường và khoẻ mạnh.
* Đặc điểm
Theo Giáo sư Bùi Ngọc Oánh (2008), tình dục thường nảy sinh trong mối quan hệ giữa
hai người khác giới, tuy nhiên có khá nhiều trường hợp con người bị rối loạn định hướng tình
dục, dẫn tới trường hợp họ rung động về mặt tình dục đối với người đồng giới. Tình dục là một
hiện tượng tâm sinh lí rất phức tạp và đa dạng. Trước hết, nó là một bản năng, tạo thành một
nhu cầu, một yếu tố thúc đẩy từ bên trong của cơ thể con người dẫn tới những hành vi thỏa
mãn nhu cầu đó, “nó như khơng khí để thở, như cơm ăn, nước uống hàng ngày của con người”.
Ở người trưởng thành, nhu cầu này thường xuất hiện có tính chu kì tùy theo sức khoẻ, tâm lý,
cá tính của từng người. Nó trở thành động lực thúc đẩy con người thực hiện những hành vi
tình dục. Sự xuất hiện nhu cầu và những hành vi tình dục thể hiện đời sống tình dục của con
người.

5



Biểu hiện của đời sống tình dục thường rất phức tạp, theo nhiều hình thức, nhiều mức
độ, chủ yếu là 4 mức độ. Mức độ đầu tiên, mức độ “rung cảm bên trong”, thường xuất hiện
dưới dạng những rung động, những cảm xúc mà con người có thể ý thức hoặc không ý thức
được. Đây là mức độ “cơ bản” nhất của đời sống tình dục, thường được gọi là “rung cảm tình
dục”. Đến với mức độ tiếp theo được gọi là mức độ “hành vi bên ngoài”, xuất hiện khi những
rung cảm bên trong mạnh mẽ hơn, hoặc trở thành một yếu tố thúc đẩy việc thực hiện những
hành vi trong những điều kiện nhất định (như hai người yêu nhau). Con người có khả năng
kiềm chế những hành vi tình dục của mình. Mức độ thứ ba là mức độ “hành vi bên trong”,
xuất hiện khi những rung cảm trở nên quá mạnh mẽ, con người khó có thể kiềm chế được
những hành vi “yêu đương”. Và cuối cùng, mức độ “hành vi sâu sắc”, những hành vi tình dục
bị chi phối bởi những ham muốn tột đỉnh, con người có nhu cầu muốn “hồ nhập” với đối
tượng, dẫn đến “hành vi giao hợp” của con người.
Sự phân chia các mức độ trên chỉ mang tính tương đối, chỉ có ý nghĩa trong các biểu
hiện gắn bó với tình cảm. Trong thực tế, những mức độ trên cũng có thể được hiểu là những
hình thức của đời sống tình dục của con người. Trong đó, mức độ “hành vi sâu sắc”, được coi
là mức độ cao nhất của các hình thức tình dục trong đời sống tình dục. Trong quan hệ tình dục
của con người, những hình thức đó có thể khơng tn theo một thứ tự nhất định như trên. Ngày
nay trong xã hội, nhiều người thường sử dụng khái niệm “tình dục” theo nghĩa ở mức độ “hành
vi sâu sắc”.
Đời sống tình dục ở con người thường có quan hệ mật thiết với đời sống tâm lý, xã hội,
chịu sự chi phối của tâm lý, xã hội, đặc biệt là tình u và hơn nhân. Đó là tính xã hội, tính tâm
lí của tình dục.
-

Tình dục thường gắn với đạo đức, đặc biệt là ở các nước phương Đơng. Đời sống
tình dục của con người bị ảnh hưởng nhiều bởi quan niệm về đạo đức, lối sống.
Hành vi tình dục của con người thường bị chi phối bởi những quy định của đạo đức,
của luật pháp xã hội, dễ tạo nên những mặc cảm về đạo đức, ảnh hưởng mạnh đến
những giá trị xã hội, những phẩm chất nhân cách của con người.


-

Những quan điểm về tình dục thường mang tính dân tộc, tính địa phương và bị chi
phối bởi những chuẩn mực đạo đức. Mỗi dân tộc mỗi quốc gia, mỗi nền văn hoá,
mỗi địa phương... đều có những quan điểm, những chuẩn mực đạo đức, những cách

6


đánh giá riêng về vấn đề tình dục và đời sống tình dục của con người. Tuy nhiên,
hầu như mọi người đều thống nhất rằng, đây là một lĩnh vực tế nhị riêng tư của mỗi
người, nhưng gắn bó mật thiết với đạo đức và văn hố xã hội.
-

Tình dục thường góp phần tạo nên những quan điểm sống, lối sống trong xã hội như:
quan điểm tình yêu trong sáng, tình u hịa nhập, tình dục tự do, tình dục khơng
hơn nhân, tình dục khơng tình u, lối sống bng thả... Sự hình thành những quan
điểm trên thường thể hiện và phụ thuộc vào tính độ văn hố, đạo đức, cá tính của
mỗi người.

-

Tình dục cũng là một ngun nhân quan trọng dẫn tới lối sống ăn chơi, trác táng,
đồi trụy, các tệ nạn xã hội hoặc các hành vi tội lỗi (hiếp dâm, quấy rối tình dục...).
Trong những trường hợp này, tình dục chỉ thể hiện ở những hành vi mang tính bản
năng thơ thiển, làm thấp hèn nhân phẩm và dễ dẫn đến sự suy thoái nhân cách của
con người.

-


Tình dục ở con người thường ảnh hưởng mạnh mẽ và gắn bó mật thiết với tình u
và đời sống hơn nhân của họ. Tình dục chỉ thực sự đem lại hạnh phúc cho con người
khi sự thoả mãn các cảm xúc tình dục gắn liền với thái độ trân trọng và quan tâm
đối với nhau, gắn liền với ý thức trách nhiệm về các hành vi yêu đương và tình cảm
yêu thương nồng thắm của hai người.

-

Tình dục còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tâm lý khác như nhận thức, quan
điểm, cá tính, sự tự tin, mức độ yêu đương, trạng thái tâm lý trong lúc “gặp gỡ”...
Sự hiểu biết về tình dục giúp cho con người thỏa mãn rung cảm và đạt tới tột đỉnh
hạnh phúc, chủ động trong việc thụ thai, chống được bệnh tật hiểm nghèo. Tình cảm
yêu thương sâu nặng làm cho hành vi tình dục trở nên thiêng liêng, tuyệt diệu, tạo
nên sức hút mãnh liệt và sự hoà hợp sâu sắc giữa hai người...

Cuối cùng là dựa trên mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu. Đào Xuân Dũng (2006)
cho rằng, tình dục được chia ra thành hai loại: Đó là tình dục khơng tình u và tình dục trong
tình u, đối với tình dục khơng tình u: đó là tình dục mang tính bản năng đơn thuần. Dạng
tình dục này dễ làm cho con người trở nên thấp hèn, suy thoái đạo đức. Ở những người yếu
kém về nghị lực, ý chí, về văn hố, đạo đức, tình dục dễ dẫn con người tới nếp sống ăn chơi
đồi trụy, bị tha hoá về nhân cách (hiện tượng mua bán dâm, ăn chơi trụy lạc,…). Cịn đối với
tình dục trong tình u: là dạng tình dục gắn bó với tình cảm u thương sâu nặng, nó là biểu

7


hiện của tình yêu, phát triển cùng với sự phát triển của tình yêu. Tình dục trong tình yêu chân
thực, chân chính trở nên đẹp đẽ, cao thượng, phát triển mạnh mẽ và mang tính văn hố cao.
Nó là một trong những yếu tố quyết định tạo nên hạnh phúc của tình u và hơn nhân.
b. Vai trị

Theo Giáo sư Bùi Ngọc Oánh (2008), bản năng tình dục ở con người có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Nó đảm bảo cho sự sinh tồn của giống loài, tạo nên sự sinh sản, tạo nên các
thế hệ kế tiếp của loài người. Từ độ tuổi trưởng thành, bản năng tình dục dẫn tới những hoạt
động tình dục, nhờ đó tạo nên sự cân bằng hài hoà cho sự phát triển tâm sinh lí cơ thể. Đến
một độ tuổi nhất định (thường thường, nam từ 35 trên 40 tuổi; nữ từ 30 đến 35 tuổi trở đi), nếu
con người khơng có những sinh hoạt tình dục thích hợp sẽ có thể dẫn tới tình trạng mất cân
bằng tâm sinh lí, dẫn tới sự phát triển khơng bình thường về mặt tính cách hoặc sinh lí cơ thể.
Từ độ tuổi trưởng thành trở đi, đặc biệt là sau khi kết hơn, tình dục trở thành một nhu cầu có
tính quy luật trong đời sống con người, tạo nên sự hài hoà về đời sống tâm lý, sự cân bằng và
khỏe mạnh về sinh lí cơ thể... Nhu cầu tình dục nhiều khi là nhu cầu rất mạnh, nó có thể ức
chế các nhu cầu khác và chi phối đạo đức, nhân cách con người. Nó có thể là nguyên nhân dẫn
tới sự suy thoái nhân cách, tạo ra các tệ nạn xã hội, đưa con người tới những hành vi tội lỗi.
2. Sự khác biệt tâm lý trong tình dục giữa nam và nữ
a. Đối với nữ:
Nghiên cứu của Carvalho và Nobre (2010) về ham muốn tình dục ở phụ nữ, thơng qua
phân tích hồi quy đã cho thấy các yếu tố dự báo như việc thiếu suy nghĩ khiêu dâm đã làm
trung gian mối quan hệ giữa niềm tin bảo thủ tình dục và giảm ham muốn tình dục của người
phụ nữ. Tâm lý, sự điều chỉnh rối loạn và khoái cảm, không cho thấy tác động trực tiếp cũng
như gián tiếp đáng kể đến ham muốn tình dục của phụ nữ. Các yếu tố dự đoán cho thấy ảnh
hưởng trực tiếp đáng kể đến việc giảm ham muốn tình dục là: tuổi tác, thiếu suy nghĩ khiêu
dâm. Liên quan đến việc thiếu suy nghĩ khiêu dâm và suy nghĩ tình dục thất bại / buông thả,
tuổi tác và các vấn đề y tế có ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa những suy nghĩ đó và ham
muốn tình dục của người phụ nữ. Niềm tin về sự khôn ngoan của bản thân, tuổi tác và chủ
nghĩa bảo thủ tình dục cũng có tác động xấu đến mối quan hệ giữa việc thiếu suy nghĩ gợi tình
và ham muốn tình dục ở người phụ nữ. Bất ngờ là khối cảm khơng cho thấy ảnh hưởng đáng

8


kể đến ham muốn tình dục mặc dù nó có liên quan đến suy nghĩ tình dục. Trên một mơ hình

trước đây liên quan đến các yếu tố xác định nhận thức - cảm xúc của rối loạn ham muốn tình
dục giảm hoạt động ở phụ nữ, Nobre nhận thấy rằng những cảm xúc tiêu cực như tức giận và
tội lỗi trên thực tế có ảnh hưởng trực tiếp đến ham muốn tình dục, có khả năng thúc đẩy sự
chuyển hướng chú ý khỏi các kích thích tình dục của người nữ. Về tuổi tác, và như người ta
đã dự đốn, nó đã cho thấy một ảnh hưởng trực tiếp đáng kể đến ham muốn tình dục. Nói một
cách cụ thể hơn, tuổi tác cũng liên quan đến sự hiện diện của các vấn đề y tế và niềm tin tình
dục bảo thủ ở người phụ nữ.
Trình bày trong quyển “Tình dục học Đại cương”, tác giả Đào Xuân Dũng (2006), đã
cho thấy do ảnh hưởng của những quan niệm từ thời xưa, tình dục ở nữ được đánh giá có sự
thụ động hơn so với tình dục ở nam. Đối với phái nữ, tình dục là điều họ muốn hướng đến cuối
cùng. Khi bắt đầu một mối quan hệ với người khác giới, phái nữ thường muốn được nghe
những lời khen, mơ ước một mẫu đàn ông lý tưởng và rất hiếm khi xuất hiện màu sắc tình dục.
Trong một cuộc khảo sát, có đến 85% sinh viên nữ được phỏng vấn đã cho biết rằng tình cảm
là điều kiện tiên quyết để đi đến quan hệ tình dục trong mọi hay hầu hết 42 các trường hợp.
Trong khi đó, kết quả thu được trên sinh viên nam là 60%, sinh viên nam cho biết yếu tố tình
cảm chỉ là “thi thoảng” hoặc “khơng bao giờ có”. Khi được hỏi về lý do chủ yếu nào khiến bạn
từ chối quan hệ tình dục, sinh viên nữ đều trả lời rằng “mối quan hệ này còn quá sớm”, hay
“chưa sẵn sàng cho việc quan hệ tình dục”. 65% sinh viên nam thì trả lời rằng họ chưa bao giờ
từ chối quan hệ tình dục.
Nhu cầu tình dục của nữ giới chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như tín ngưỡng và nhất là
định kiến xã hội. Về tín ngưỡng: trong khi nam giới thường khơng có mối liên hệ giữa tình dục
với tín ngưỡng, tơn giáo, thì những phụ nữ thường đến nhà thờ, chùa, đình thường ít có thái độ
tích cực đối với tình dục. Đối với định kiến xã hội: phái nữ thường rất dễ bị ảnh hưởng bởi thái
độ của người khác về quyết định quan hệ tình dục. Những định kiến xã hội đã tồn tại từ nhiều
năm trước khiến cho nhu cầu tình dục của nữ khơng dễ dàng được thể hiện ra ngồi như nam
giới, một phần vì lo sợ sự phán xét của xã hội, bên cạnh đó là sự giáo dục khắt khe về phẩm
chất người con gái trong xã hội Việt Nam.
Nhu cầu tình dục ở nữ giới cịn ảnh hưởng bởi đối tượng nghĩa là dựa vào tính cách
riêng của mỗi người nam. Một người đàn ơng có ngoại hình đẹp, bảnh bao chưa thể khiến nữ


9


giới có hứng khởi tình dục. Trước tiên, người nam đó phải có tầm ảnh hưởng đến tâm hồn phụ
nữ thì mới có thể chạm đến cơ thể họ, có thể là sự hiểu biết, am hiểu về một lĩnh vực nào đó,
sự tinh tế trong cách nói chuyện và hành động hoặc những phẩm chất tốt đẹp khác, những điều

này thường có thể đánh thức ham muốn tình dục ở họ. Nữ giới ở tuổi sinh viên bước vào quan
hệ tình dục ít khi do ham muốn tình dục thúc đẩy mà thường do thiếu ý chí, do sự địi hỏi q
nhiều và dai dẳng từ phía đối phương, do sự tò mò hoặc cả tin. Dù trong trường hợp nào đi
nữa, thì ở lứa tuổi này khi bước vào quan hệ tình dục thì sự ham muốn tình dục cũng không
phải là yếu tố quyết định.
Trong một nghiên cứu tồn diện khác, so sánh động cơ tình dục của nam giới và phụ
nữ, Roy Baumeister và cộng sự (2001) cho thấy rằng đàn ông thường xuyên ham muốn tình
dục một cách tự phát. Ngồi ra, nam giới cũng thường xuyên tưởng tượng hơn và tưởng tượng
cũng đa dạng hơn. Sau khi xem xét một số cuộc điều tra, Baumeister thấy rằng đàn ơng muốn
quan hệ tình dục hơn người nữ kể cả lúc bắt đầu mối quan hệ, giữa, và sau nhiều năm quan hệ
với nhau.
b. Đối với nam:
Nghiên cứu trên 1862 người nam và 2905 người nữ của D. Wilson (1986) cho thấy một
số sự khác biệt rất trực quan trong đời sống tình dục của người nam so với nữ giới. Người nam
có sự thích thú với việc quan hệ qua đường hậu môn nhiều hơn phụ nữ. Người nam quan hệ

10


tình dục đồng tính nhiều hơn gấp đơi người nữ, tuy nhiên họ lại khơng có sự đánh giá cao nó
như những người nữ có quan hệ tình dục đồng giới. Người nam được ghi nhận trải qua những
cuộc làm tình từ hai người trở lên hoặc “three some‟ – quan hệ tình dục tay ba, cũng nhiều hơn
gấp đơi so với người nữ và họ cũng đánh giá cao điều này hơn những người phụ nữ. Và những

người nam giới cũng được ghi nhận trải qua những cuộc làm tình „nhóm - group sex‟ nhiều
gấp đơi so với nữ và họ cũng được ghi nhận trải qua những mối quan hệ „Mate-Swapping‟,
tức là trao đổi bạn tình với nhau để quan hệ tình dục (như người yêu hay vợ/ chồng) nhiều hơn
nữ giới và họ cũng đánh giá cao điều này hơn nữ giới. Người nam cũng được ghi nhận trải qua
các mối quan hệ tình dục “loạn luân‟ nhiều hơn nữ giới và tỷ lệ người nam quan hệ tình dục
với những người bán dâm cũng nhiều hơn nữ giới, họ cũng đánh gia cao hai điều này hơn so
với nữ giới.
c. Sự khác biệt giữa nam và nữ:
Theo Đào Xuân Dũng (2006), trong khi nam giới có xu hướng “đa thê”, thì tình dục ở
nữ hướng đến mối quan hệ một vợ một chồng. Các nhà nghiên cứu về tình dục cho rằng, nam
giới có mọi động cơ cho việc quan hệ tình dục. Ngược lại nữ giới có xu hướng chọn bạn đời
một cách cẩn thận, xu hướng tình dục của nữ thường hướng về một đối tượng nhất định là
chồng hoặc bạn trai, vì phụ nữ là những người sẽ mang thai, sinh con và chăm con, gánh nặng
về gia đình, con cái cũng là một rào cản lớn gây ảnh hưởng đến nhu cầu tình dục ở nữ giới.
Trong đời sống giới tính, biểu hiện về mặt tình dục giữa nam và nữ có nhiều điểm khác
nhau, chủ yếu ở những khía cạnh sau: Rung cảm tình dục ở người nam thường. dễ xuất hiện,
dễ bộc lộ nhanh chóng đạt tới đỉnh cao và chóng tắt, nó mang tính trực tiếp và ít chịu chi phối
bởi các yếu tố ngoại cảnh/Rung cảm tình dục của người nữ thường gắn bó mật thiết với yếu tố
tình cảm, tình yêu. Sự xuất hiện rung cảm tình dục của người phụ nữ thường khó và chậm,
nhưng lại kéo dài thời gian hơn, chịu chi phối nhiều bởi các yếu tố ngoại cảnh.
Theo như nghiên cứu kinh điển của Okami và Shackelford vào năm 2001 về sự khác
biệt trong tâm lý và tình dục của nam và nữ đã cho thấy về mặt tình dục, người nam và nữ có
hai khác biệt chủ yếu và bao hàm nhất đó là Sự Tưởng tượng tình dục (Sexual Fantasy) và
Cường độ và sự liên tục của ham muốn tình dục (Intensity and Constancy of Sex Drive):

11


Về Sự Tưởng tượng tình dục, đàn ơng nghĩ và mơ mộng về tình dục nhiều hơn phụ nữ.
Tưởng tượng tình dục của nam giới thường khiêu dâm hơn và tập trung vào các bộ phận cơ

thể, trong khi tưởng tượng tình dục của phụ nữ tập trung vào sự cam kết và lãng mạn. Nam
giới cũng có nhiều khả năng tưởng tượng về tình dục với nhiều bạn tình hơn. Trong nghiên
cứu được thực hiện bởi Ellis và Symons (1990), nam giới báo cáo mơ về số bạn tình khác nhau
mỗi ngày nhiều gấp đôi so với phụ nữ. Nam giới cũng cho biết việc chuyển đổi bạn tình trong
quá trình yêu đương thường xuyên hơn phụ nữ.
Về Cường độ và sự liên tục của ham muốn tình dục, có bằng chứng cho thấy rằng có
một sự khác biệt giữa nam và nữ về sức mạnh trung bình của động cơ tình dục nội tại hoặc
ham muốn tình dục. Đây là một khẳng định gây tranh cãi. Niềm tin của hầu hết các nhà nghiên
cứu và giáo dục giới tính là khơng có sự khác biệt về giới tính trong động cơ tình dục nội tại.
Mặc dù “định kiến” về ham muốn tình dục nam mãnh liệt hơn được thừa nhận, nhưng chúng
thường có đặc điểm là “mất uy tín”. Trong những trường hợp hiếm hoi khi có bất kỳ sự khác
biệt thực tế nào được đưa ra, thì khả năng ham muốn tình dục của phụ nữ có thể thực sự mãnh
liệt hơn (ví dụ: Hyde & DeLamater, 1997). Tóm lại, có nhiều bằng chứng cho thấy rằng nam
và nữ khác nhau về động cơ tình dục nội tại và sự khác biệt đó là về hướng đàn ơng có ham
muốn tình dục mạnh mẽ hơn và mặc dù có thể ham muốn tình dục của phụ nữ ít liên tục hơn
và ít mãnh liệt hơn. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó những bằng chứng này chưa hồn tồn
chính xác và thỏa đáng, vấn đề này cần được nghiên cứu sâu sắc hơn trong tương lai.
3. Ví dụ minh họa thực tiễn, bài học cho bản thân và công tác tham vấn
Theo báo Giáo dục Thủ đô vào ngày 22 tháng 12 năm 2022, Bác sĩ Phan Chí Thành, Bệnh
viện Phụ sản Trung ương vừa tiếp nhận bệnh nhân nữ gặp vấn đề tâm lý vì chồng đòi hỏi
“chuyện ấy” quá nhiều. Chị H. cho biết, ngày nào chồng cũng địi quan hệ, nếu khơng đáp ứng
thì tỏ thái độ khơng vui. Lúc đầu chị H. cảm thấy hạnh phúc vì nghĩ chồng yêu mình. Tuy
nhiên, việc này lặp đi lặp lại quá nhiều lần khiến chị H. mệt mỏi và sợ "yêu". Chị H. luôn tìm
cách lảng tránh, sức khỏe ảnh hưởng, khơng cịn tâm trí làm việc.
Với trường hợp này người vợ khơng nên chịu đựng mà cần thẳng thắn trao đổi với chồng
để tìm hiểu nguyên nhân vì sao chồng tăng ham muốn, đồng thời có sẻ chia, đồng cảm. Nếu
quan hệ tình dục mà phải chịu áp lực, hay không muôn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc yêu,
gây tình trạng giảm ham muốn, sợ quan hệ.

12



Tình huống ví dụ này có liên quan một cách mật thiết tới sự khác biệt tình dục giữa nam
và nữ đó làsự thất vọng về mặt quan hệ tình dục sau khi kết hôn. Sự thất vọng về mặt quan hệ
tình dục sau khi kết hơn có thể đến từ việc đối phương không đáp ứng được năng lực và nhu
cầu tình dục của người cịn lại (mạnh hơn hoặc yếu hơn)/đối phương có những sở thích mà
người cịn lại cảm thấy “kì quái” khi quan hệ tình dục/ đối phương mắc những hội chứng bệnh
lý liên quan đến quan hệ tình dục và nhiều yếu tố khác. Sự thất vọng về mặt quan hệ tình dục
có thể xảy ra ở mọi cặp hôn nhân, dù là cặp hôn nhân dị tính hay những cặp hơn nhân đồng
tính luyến ái.
Dựa trên quan điểm của Đào Xuân Dũng (2006), nếu tình dục được hiểu hợp lý bởi một
cá nhân thì tình dục mới có thể là yếu tố thúc đẩy cho tình yêu phát triển khi mối “quan hệ”
giữa hai cá nhân đảm bảo được những điều kiện như: Mức độ của tình dục phải phù hợp với
mức độ tương ứng của tình yêu/ Biểu hiện của tình dục phải phùhợp với quan điểm, cá tính
của người yêu/ Hành vi tình dục phải phù hợp với đạo đức và đạo lí xã hội/ Hành vi tình dục
phải được giữ gìn, kiềm chế cho phù hợp lại hoàn cảnh xung quanh.
Đối với bản thân là một sinh viên tâm lý, cần phải luôn nắm rõ việc tương lai sẽ cần sử
dụng tới những kiến thức về giới tính, tình dục rất nhiều trong thực hành tham vấn/ trị liệu.
Vậy nên bản thân phải luôn ý thức không ngừng học hỏi và tiếp thu những kiến thức về tình
dục một cách tồn diện. Phải có thái độ đúng đắn và một thái độ hết sức nghiêm túc, khoa học
khi bàn luận, học tập cũng như nghiên cứu về tình dục. Đặc biệt phải xây dựng cho bản thân
sự trân trọng đối với tình u chân thực và chân chính, thấy được những giá trị cao cả của tình
cảm yêu thương nồng thắm, sâu nặng. Phải tự ý thức lòng chung thuỷ, biết tơn trọng người
u, tơn trọng tình u của mình. Phải có thái độ nghiêm túc và thận trọng khi nhận lời yêu
thương của người khác, biết “bảo vệ”, “giữ gìn” trong mối liên hệ với người yêu.
Đối với công tác tham vấn các vấn đề liên quan đến tình dục, nhà tham vấn cần:
-

Nắm rõ và sâu những kiến thức liên quan đến tình dục (đặc điểm của tình dục/sự
khác biệt tình dục giữa nam và nữ về xu hướng/về động lực và những vấn đề thực

tế trong quan hệ tình dục).

-

Nắm rõ những kiến thức liên quan đến tham vấntrị liệu đối với những thân chủ gặp
vấn đề tình dục. (quy trình tham vấn/phương pháp trị liệu đối với các vấn đề liên
quan đến tình dục).

13


-

Khơng ngừng học hỏi trong suốt q trình “làm nghề”.

-

Nắm rõ những yếu tố văn hóa và đặc điểm tâm lý của người Việt Nam để hiểu rõ
hơn những vấn đề mà thân chủ gặp và biết đặt nó vào bối cảnh văn hóa để nhận biết
được những khó khăn, vướng mắc một cách có chiều sâu.

Cần phải nhớ rằng ở các nước phương Đơng như Việt Nam, tình dục vẫn cịn là một
vấn đề tế nhị và khó nói, khó tâm sự, khó giải bày vậy nên khi làm việc với thân chủ cần hết
sức khéo léo và tế nhị. Vậy nên địi hỏi ở người làm cơng tác tham vấn các vấn đề liên quan
đến tình dục buộc phải nắm rõ và sâu những kiến thức liên quan đến tình dục như đã bàn ở
phần cơ sở lý luận về sự khác biệt tình dục giữa nam và nữ về xu hướng, về động lực và những
vấn đề thực tế trong quan hệ tình dục, nắm rõ những kiến thức liên quan đến tham vấn/ trị liệu
đối với những thân chủ gặp vấn đề tình dục như quy trình tham vấn, các mơ hình trị liệu đối
với các vấn đề về tâm lý trong quan hệ tình dục (lưu ý một số vấn đề bệnh lý như xuất tinh
sớm, sùi mào gà,... cần đến sự hỗ trợ và can thiệp của các bác sĩ chuyên khoa), nhà tham vấn

tâm lý cần nghiêm túc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp là đặc biệt quan trọng đối với thực hành
tham vấn các vấn đề tâm lý liên quan đến tình dục.
Cuối cùng, nhà tham vấn/ trị liệu khi tham vấn các vấn đề liên quan đến tình dục, thì
ngồi kiến thức vững là điều kiện cần, điều kiện đủ chính là kinh nghiệm, vì vậy nhà tham vấn
phải khơng ngừng học hỏi trong suốt quá trình “làm nghề”, học hỏi mỗi ngày và học hỏi một
cách cầu thị để xây dựng được cho bản thân những kinh nghiệm quý báu trong thực hành nghề,
sự học hỏi đó có thể đến từ kinh nghiệm của đồng nghiệp, sự cập nhật các kiến thức nghiên
cứu mới trong tham vấn các vấn đề về tình dục (áp dụng tâm lý học thực chứng), học hỏi về
những đặc điểm văn hóa, tâm lý tình dục của người Việt Nam và cuối cùng là sự học hỏi, rút
kinh nghiệm ngay từ chính những thân chủ của mình mỗi ngày.
II. TÌNH HUỐNG TÂM LÝ TRONG TÌNH YÊU
1. Tình huống:
Nhân vật đã được giấu tên trong tình huống bao gồm:
-

Chị V, 24 tuổi – trưởng phịng cơng ty xuất nhập khẩu linh kiện ô tô: người phụ

nữ có nan đề liên quan đến trục trặc tình cảm với bạn trai.

14


-

Anh H, 29 tuổi – đam mê làm bánh và mở một tiệm bánh nhỏ tại nhà: bạn trai

của chị V.
Tình huống: chị V đến gặp nhà tham vấn tâm lý để nhờ nhà tham vấn giúp chị V tham
vấn về những muộn phiền gần đây của chị về mối quan hệ tình yêu với bạn trai chị là anh H.
Theo lời tâm sự của chị V, chị rất yêu anh H và hai anh chị đã yêu nhau đến nay được 4 năm,

chị V đã cảm nhận được những dấu hiệu bất thường khoảng một năm trở lại đây, chị cảm thấy
tình cảm của anh H với chị khơng cịn như trước nữa, anh H khơng cịn quan tâm, chiều chuộng
chị như trước và chị V cảm thấy anh H đang dần “xa cách” chị.
Thông qua các phiên tham vấn, nhà tham vấn bằng chun mơn của mình, đã tiếp tục
trò chuyện và đề xuất phương pháp tham vấn cho cặp đôi, chị V đồng ý và những phiên làm
việc sau đều có sự tham gia của anh H. Sau các phiên làm việc, nhà tham vấn nhận thấy cả hai
người đều còn yêu nhau rất nhiều, tuy nhiên nhiều vấn đề “rạn nứt” trong mối tình này đã phát
triển từ từ và âm thầm trong cuộc sống của cả hai anh chị thông qua lời tâm sự của cả hai:
-

Khoảng 1 năm qua chị V kể rằng anh H khơng cịn trả lời tin nhắn của chị nhanh
như trước (chị có “phàn nàn” thì anh H cho là trẻ con), anh H đã khơngcịn dành cho
chị những lời quan tâm và hỏi han hằng ngày, thậm chí có ngày anh H không nhắn
tin cho chị. Chị V liên tục so sánh với nhà tham vấn rằng sự quan tâm ngày trước
của anh H với chị nhiệt tình và khiến chị cảm thấy được yêu bao nhiêu thì bây giờ
những điều đó giống như đang đi ngược lại. Chị V kể thêm những lúc chị cố gắng
để tâm sự với anh H về những mệt mỏi và áp lực trong cơng việc thì anh khơng cịn
quan tâm và hỏi han như trước mà anh chỉ trả lời và chia sẻ với chị giống như “cho
có”, chỉ V thấy anh H ngày càng lảng tránh chị nhiều hơn, thậm chí anh cịn khơng
đề cập và địi hỏi chị V chuyện quan hệ tình dục mà chỉ thực hiện khi chị V gợi ý,
và chị V cũng thấy khi quan hệ anh không thể hiện sự thoải mái và thăng hoa như
trước, chị khơng cịn cảm nhận được sự quan tâm của anh và chị V cho rằng chị cảm
nhận rất rõ tình yêu của anh với chị đã giảm sút rất nhiều.

-

Về phía anh H, anh kể rằng sau một năm quen nhau, chị V đã có việc làm ở cơng ty
lớn và phát triển một cách nhanh chóng lên vị trí trưởng phịng như bây giờ. Kể từ
khi lên vị trí trưởng phịng chị V thường xun đi làm về muộn và thậm chí ngay cả
khi về nhà chị vẫn thường xuyên làm việc và nói chuyện vớiđối tác đến tận khuya


15


(vì đối tác ở Châu Âu) chứ khơng cịn nói chuyện với anh nhiều như trước. Tiếp đó,
khi nói chuyện chủ đề cuộc nói chuyện giữa chị V và anh H khơng cịn xoay quanh
tình u lãng mạn nữa mà chủ yếu là những vấn đề xảy ra trong công việc của chị
V. Hơn nữa, anh H cảm thấy chị V không phải kể để chia sẻ và tâm sự với anh mà
là để để chút những muộn phiền và áp lực đó lên anh, vì khi anh H cố phân tích hay
góp ý cho chị, anh H cảm thấy chị V thường không muốn nghe và cho rằng anh
“không hiểu được chuyện kinh doanh”, anh H tâm sự với nhà tham vấn có lúc anh
đã cảm thấy tổn thương và bị xúc phạm vì điều này. Anh H cịn kể thêm môi trường
làm việc của chị V hầu như tồn là đàn ơng, và họ đều là những người rất giỏi, một
số lần chị V rủ anh H đi ăn cùng với đồng nghiệp của chị V, thì anh H cảm thấy chị
V đã thiếu sự tinh tế khi chị chỉ nói chuyện với đồng nghiệp về những vấn đề trong
cơngty, những thuật ngữ chun mơn khiến anh khó hiểu và làm anh cảm thấy mình
như một người vơ hình.
2. Nguyên nhân và biện pháp khắc phục tình huống
* Ngun nhân
Có thể thấy mối quan hệ tình u này gặp “trục trặc” do hai nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất và phần nhiều là do chị V trong suốt một khoảng thời gian dài sau khi thăng
chức, chị V đã để bản thân mình chìm sâu vào cơng việc mà “quên mất” rằng mình là bạn gái
của anh H, chính điều này đã tạo nên sự thiếu tinh tế của chị V trong giao tiếp với anh H →
Điều này đã làm anh H phát sinh cảm giác cô đơn, lạc lõng. Anh H cảm thấy mình khơng cịn
chiếm một vị trí quan trọng trong trái tim, mối quan tâm của chị V. Sự thiếu tinh tế của chị V
còn nhiều lần làm anh H cảm thấy bị xúc phạm, khiến anh H có thể nảy sinh tâm lý tự ti vì là
người đàn ơng nhưng khơng có chức vụ, vai trị xã hội bằng bạn gái mình. Những nguyên nhân
này đã khiến anh H dần trở nên “chai sạn” cảm xúc và đẩy mình ngày càng xa cách hơn đối
với chị V.
Thứ hai, nguyên nhân còn lại một phần nhỏ cũng đến từ anh H. Anh chưa đủ sự tinh tế

và cảm thông để cùng ngồi lại để nói chuyện rõ rành với chị V để cả hai có cơ hội hiểu nhau
hơn. Chính vì vậy, anh H đã tự đẩy chị V ra xa phía mình mỗi ngày, anh khơng cịn quan tâm
chị V như lúc trước, đơi lúc anh cịn thể hiện sự vơ tâm (đó giống như một “sự trả thù” của anh

16


H với sự vơ tâm của người u mình) → và những nguyên nhân này cũng góp phần làm mối
quan hệ tình u của anh H và chị V có những dấu hiệu rạn nứt.
* Biện pháp khắc phục
Đề xuất biện pháp khắc phục đối với tình huống trên với mục đích giúp anh H và chị V
hịa giải và tìm lại được chính mình trong tình u của cả hai anh chị, anh H và chị V cần “học
lại” cách quan tâm, chăm sóc lẫn nhau như những ngày đầu mới yêu, cần biết tha thứ và thông
cảm cho nhau, trân trọng và biết tạo lại nguồn cảm hứng trong tình yêu cho nhau:
-

Điều quan trọng nhất trong trƣờng hợp này đó là anh H và chị V phải học lại sự
quan tâm, chăm sóc lẫn nhau nhƣ những ngày đầu khi yêu:

Tình yêu đẹp nhất khi cả hai biết quan tâm, chăm sóc nhau. Một cử chỉ nhỏ giữa những
người yêu nhau cũng có thể khiến nửa kia ấm lịng. Do đó, anh H cần đừng bao giờ quên những
tin nhắn, những lời chúc ngọt ngào, những món quà lãng mạn, chị V cũng vậy.
-

Anh H cần biết tha thứ và thông cảm cho chị V. Chị V cũng vậy:

Yếu tố khơng thể thiếu trong tình u là sự tha thứ. Trong cuộc sống khơng có ai hồn
hảo, sẽ có lúc bạn hoặc bạn đời mắc lỗi. Và khi đó, sự tha thứ là liều thuốc để cứu tình u của
hai người qua những sóng to gió lớn. uan trọng là một người đã biết hối lỗi và thành tâm sửa
đổi thì người kia nên rộng lịng, đừng chấp nhặt và đaynghiến những lỗi lầm của người kia một

cách q mức, nó sẽ chỉ khiến khơng khí thêm ngột ngạt và khó chịu. Chính vì vậy sau khi quá
trình tham vấn kết thúc, anh H và chị V cần ngồi lại với nhau, cùng nhau chấp nhận và tha thứ,
thông cảm cho những khuyết điểm của cả hai suốt thời gian qua.
-

Tôn trọng lẫn nhau là điều rất cần thiết trong trƣờng hợp nhạy cảm này. Nhạy cảm
là bởi vì chị V đi làm và có thu nhập cao hơn anh H, anh H vẫn đang kinh doanh
tiệm bánh nhỏ tại nhà.

Tôn trọng lẫn nhau là điều không thể thiếu trong tình u. Sự tơn trọng sẽ giúp cho hai
người nghĩ về nhau với những điều tốt đẹp, kính trọng, quan tâm và ủng hộ cơngviệc của nhau,
cũng như giữ cho nhau những khoảng trời riêng và những sở thích, tính cách khác biệt. Vì vậy,
chị V cần hết sức ln tơn trọng người u của mình để được nhận lại như thế. Chị V cần tiết
chế và tế nhị khi nói chuyện với anh H về những vấn đề liên quan đến công việc, lương bổng,...

17


-

Chị V nên làm chủ lời nói và hành động trong giao tiếp hằng ngày với anh H, chị V
cần chủ động tôn trọng và khen ngợi anh H khi anh có những thành tựu trong cuộc
sống, anh H ngược lại cũng như vậy.

Anh H và chị V cần tạo nên những rung động mạnh mẽ của con tim như những ngày
đầu mới u để ni dưỡng tình u bền lâu, chị V phải làm chủ được những lời nói và hành
động của mình.
-

Anh H và chị V cần học cách tạo lại nguồn cảm hứng cho nhau:


Tình yêu cũng giống như một niềm đam mê, anh H và chị V phải cùng nhau “tái tạo”
lại động lực và sự hứng thú để giúp nó “vực dậy” và phát triển lâu dài. Cả hai phải cùng thêm
“gia vị tình yêu” cho nhau để tình yêu của họ thêm màu sắc và thú vị hơn. Anh H có thể lên
lịch hẹn hò ăn tối với chị V tại những địa điểm lãng mạn mà cả hai đã có nhiều kỷ niệm, làm
một việc cả hai đều thích hay đơn giản là cùng nhau nấu bữa tối tại nhà hoặc làm việc nhà.
Khi anh H và chị V cùng nhau làm một việc nào đó, họ sẽ nhận ra nhiều điểm tương đồng và
hiểu nhau hơn.
-

Cuối cùng, anh H và chị V phải ln giữ bản thân là chính mình:

Khi u, chúng ta thường có xu hướng thay đổi bản thân để phù hợp với đối phương.
Tuy nhiên, điều này đôi khi làm ta đánh mất chính mình. Anh H và chị V không cần luôn cố
gắng lắp các mảnh ghép lại với nhau một cách hồn hảo vì đó khơng phải là cách tình u phát
triển. Chính tính cách và con người của hai anh chị là chất xúc tác giúp kéo dài mối quan hệ,
hãy nhớ rằng những năm tháng yêu nhau mặn nồng đầu tiên, anh H và chị V đã yêu nhau bởi
con người của nhau, và ngay khi có dấu hiệu rạn vỡ cả hai anh chị đã đến gặp nhà tham vấn,
điều này cho thấy hai anh chị vẫn u và cịn rất nhiều tình cảm với nhau.

18


III. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tiếng Việt:
[1]. Bùi Ngọc Oánh. (2008). Tâm lí học giới tính và giáo dục giới tính. NXB Giáo Dục.
[2]. Đào Xuân Dũng. (2006). Tình dục học đại cương. NXB Y học Hà Nội.
[3]. Giáo dục Thủ Đô (2022). Vợ cầu cứu bác sĩ vì ngày nào chồng cũng địi sex. Truy lục
ngày 05/01/2022: />2. Tiếng Anh:
[1]. Baumeister, R. F., Catanese, K. R., & Vohs, K. D. (2001). Is there a gender difference

in strength of sex drive? Theoretical views, conceptual distinctions, and a review of relevant
evidence. Personality and social psychology review, 5(3), 242-273.
[2]. Carvalho, J., & Nobre, P. (2010). Sexual desire in women: an integrative approach
regarding psychological, medical, and relationship dimensions. The journal of sexual
medicine, 7(5), 1807–1815.
[3]. Meirmans, S., & Strand, R. (2010). Why are there so many theories for sex, and what
do we do with them?. The Journal of heredity, 101 Suppl 1, S3–S12.
[4]. Okami, P., & Shackelford, T. K. (2001). Human sex differences in sexual psychology
and behavior. Annual Review of Sex Research, 12(1), 186-241
[5]. Wilson, G. D. (1987). Male-female differences in sexual activity, enjoyment and
fantasies. Personality and Individual Differences, 8(1), 125-127.

Hết

19



×