Tải bản đầy đủ (.pdf) (236 trang)

Xây dựng đề cương biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 236 trang )

1

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
ĐỀ ÁN 928
NHIỆM VỤ SỐ 2
*****


XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG BIÊN SOẠN
VÀ XUẤT BẢN CÁC CÔNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM
QUỐC GIA VỀ KHOA HỌC XÃ HỘI
Mã số: 02.09/08-10


BÁO CÁO TỔNG HỢP





Chủ nhiệm Nhiệm vụ: GS.TS. Võ Khánh Vinh




9199



HÀ NỘI, 2011
2


DANH SÁCH CÁC NHÀ KHOA HỌC
THAM GIA ĐỀ TÀI

Chủ nhiệm: GS.TS. Võ Khánh Vinh
Thư ký: TS. Chu Văn Tuấn
1. PGS.TS. Trần Đức Cường
2. GS.TS. Bùi Thế Cường
3. PGS.TSKH. Bùi Quang Dũng
4. GS.TS. Vũ Dũng
5. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
6. PGS.TS. Phạm Văn Đức
7. PGS.TSKH. Lương Đình Hải
8. PGS.TS. Phạm Quang Hoan
9. PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
10. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính
11. PGS.TS. Trịnh Khắ
c Mạnh
12. PGS.TS. Nguyễn Hữu Minh
13. PGS.TS. Mai Quỳnh Nam
14. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị
15. PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật
16. Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Văn Tài
17. PGS.TS. Trần Đình Thiên
18. PGS.TS. Phan Trọng Thưởng
19. PGS.TS. Tống Trung Tín
20. GS.TS. Nguyễn Đức Tồn
21. PGS.TS. Phạm Hùng Việt
22. PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng
23. Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm





3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ················································································ 5
2. Tổng quan tình hình biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc
gia về khoa học xã hội ở Việt Nam thời gian qua············································· 11
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Nhiệm vụ ······························································ 21
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của Nhiệm vụ·············· 22
PHẦN THỨ NHẤT
CƠ S
Ở LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỀ
CƯƠNG BIÊN SOẠN VÀ XUẤT BẢN CÁC CÔNG TRÌNH TRỌNG
ĐIỂM QUỐC GIA VỀ KHOA HỌC XÃ HỘI……………………………… 24
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc biên soạn và xuất bản các công trình
trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội…………………………………… 24
1.1. Cơ sở lý luận ································································································ 24
1.2. Một số vấn đề lý luận về
công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã
hội························································································································ 27
1.3. Một số nguyên tắc của việc biên soạn và xuất bản công trình trọng điểm
quốc gia về khoa học xã hội················································································ 34
1.4. Vị trí, vai trò của công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội ········ 35
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc biên soạn và xuất bản các công trình
trọ
ng điểm quốc gia về khoa học xã hội…………………………………… 37
2.1. Thực tiễn xây dựng đất nước và những yêu cầu đặt ra đối với việc biên
soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội·········· 37

2.2. Thực tiễn phát triển của khoa học xã hội Việt Nam và những yêu cầu đặt
ra đối với việc biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia v

khoa học xã hội………………………………………………………………… 42
2.3. Bối cảnh quốc tế và những yêu cầu đặt ra đối với việc biên soạn và xuất
bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội······························· 45
4
Chương 3: Kinh nghiệm biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm
quốc gia về khoa học xã hội của một số nước trên thế giới……………… 47
3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc biên soạn và xuất bản các công
trình Từ điển và Bách khoa thư··········································································· 47
3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc biên soạn và xuất bản các công
trình Từ điển và Bách khoa thư……………………………………………… 57
3.3. Kinh nghiệm của Liên Xô (cũ) trong vi
ệc biên soạn và xuất bản các công
trình Từ điển và Bách khoa thư··········································································· 58
3.4. Kinh nghiệm của một số nước phương Tây trong việc biên soạn và xuất
bản các công trình Từ điển và Bách khoa thư····················································· 60
3.5. Một số bài học kinh nghiệm········································································· 67
PHẦN THỨ HAI
QUAN ĐIỂM TỔNG THỂ CỦA VIỆC BIÊN SOẠN VÀ XUẤT BẢN
CÁC CÔNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA VỀ
KHOA HỌC XÃ
HỘI……………………………………………………………………………. 71
I. Xác định các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội cần biên
soạn······················································································································ 71
II. Tổ chức biên soạn ························································································· 73
III. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển và chất lượng, hiệu quả công tác
biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội 75
PHẦN THỨ BA

XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠ
NG CỤ THỂ CỦA MỘT SỐ CÔNG TRÌNH
TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA VỀ KHOA HỌC XÃ HỘI CẦN BIÊN SOẠN 76
I. Mục đích và yêu cầu ························································································ 76
II. Đề cương tóm tắt của các công trình trọng điểm quốc gia cần biên soạn······ 78
III. Đánh giá chung ··························································································· 172
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………… … 179

5
PHN M U
1. Tớnh cp thit ca ti
Khoa học xã hội có chức năng nghiên cứu cơ bản và toàn diện đối với
những vấn đề xã hội, trên cơ sở đó cung cấp các cơ sở khoa học cho việc
hoạch định đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc, góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển. Những đóng góp của khoa học xã hội đối với
quá trình xây dựng và phát triển đất nớc từ trớc đến nay đã đợc Đảng và
Nhà nớc ghi nhận. Mặt khác, sự lớn mạnh của bản thân khoa học xã hội cũng
nh vai trò, vị trí của khoa học xã hội không ngừng đợc củng cố, đồng thời
phản ánh tầm quan trọng và những đóng góp của khoa học xã hội đối với mọi
mặt của đời sống xã hội. Điều đó đợc thể hiện qua việc khoa học xã hội
trong những năm qua đã bám sát thực tiễn xây dựng và phát triển đất nớc,
đặc biệt là thực tiễn kể từ khi Đổi mới đến nay. Khoa học xã hội đã không
ngừng tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu tìm tòi để đáp ứng
những đòi hỏi lý luận, qua đó đã dần dần b sung, phát triển lý luận xây dựng
chủ nghĩa xã hội, lý luận xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa, lý luận Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, v.v
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của đất nớc đang đặt ra nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn cho khoa học xã hội để nghiên cứu, giải quyết.
Điều đó đòi hỏi khoa học xã hội phải có sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nâng

tầm hơn nữa, cố gắng và nỗ lực hơn nữa mới có thể đáp ứng đợc những đòi
hỏi mới. Đặc biệt, trớc những nhiệm vụ cụ thể mà Đảng và Nhà nớc giao
cho Khoa học xã hội trong thời gian tới nh: tham gia chuẩn bị các văn kiện
triển khai thực hiện Chơng trình xây dựng đất nớc, Chiến l
ợc phát triển
kinh tế-xã hội 2011-2020, Tổng kết 30 năm Đổi mới, v.v khoa học xã hội
cần xây dựng đợc chơng trình hành động và các kế hoạch cụ thể, để vừa bao
quát đợc những nhiệm vụ chung và lâu dài cũng nh các nhiệm vụ trớc mắt.
Hiện nay, khi đất nớc đang ở trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, những yêu cầu, đòi hỏi đối với các ngành khoa học nói
6
chung và khoa học xã hội nói riêng ngày càng cao, sự phát triển của đất nớc
cần có những luận cứ khoa học, đúng đắn, kịp thời của khoa học xã hội để
giúp cho việc hoạch định đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà
nớc. Mặt khác, sự phát triển của đất nớc, quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong giai đoạn hiện nay, đã và đang đặt ra những đòi hỏi mới đối với
việc tổng kết lý luận cao hơn trớc, mà những nghiên cứu, những cơ sở trớc
đây không còn đáp ứng đợc. Những công trình khoa học xã hội đã xuất bản
trớc đây, phần vì thiếu và cha bao quát đợc các vấn đề mới nảy sinh trong
thực tiễn, phần vì có những đánh giá, những quan điểm không còn phù hợp,
cần đợc bổ sung, hoàn thiện. Tất cả những điều đó đã nói lên nhu cầu cấp
thiết phải biên soạn và xuất bản kịp thời các công trình trọng điểm quốc gia về
khoa học xã hội để đảm bảo các yêu cầu: là nền tảng cho khoa học xã hội;
tổng kết, đánh giá kịp thời đối với thực tiễn, góp phần làm cơ sở cho sự lãnh
đạo, xây dựng đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc.
Bờn cnh nhng vn va trỡnh by trờn, cn c vo thc trng ca
khoa hc xó hi Vit Nam, thc trng biờn son v xut bn cỏc cụng trỡnh
khoa hc xó h
i nc ta thi gian qua; cn c vo hiu qu, ý ngha v tỏc
ng ca cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi i vi cụng

tỏc nghiờn cu lý lun, ging dy, o to, t vn chớnh sỏch; cn c vo yờu
cu, nhim v ca khoa hc xó hi trong thi gian ti, chỳng ta thy rng,
vic biờn son v xut bn cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa h
c xó
hi cn c xỏc nh nh l mt trong nhng hng phỏt trin c bn ca
khoa hc xó hi trong thi gian ti. iu ú c th hin nhng khớa cnh
c th nh sau:
Th nht, thc trng khoa hc xó hi Vit Nam trong nhng nm qua
cho thy, chỳng ta cha cú chng trỡnh tng th biờn son v xut bn cỏc
cụng trỡnh tr
ng im quc gia v khoa hc xó hi. Núi nh vy khụng cú
ngha chỳng ta cha cú cỏc cụng trỡnh mang tm c trng im quc gia v
khoa hc xó hi. Chỳng ta ó xut bn mt s cụng trỡnh tiờu biu nh: C.
Mỏc, Ph. ngghen ton tp, H Chớ Minh ton tp, T in Bỏch khoa, Lch
7
sử Việt Nam, v.v Ý nghĩa, giá trị và những tác động tích cực của các công
trình đó đối với sự phát triển của khoa học xã hội nói riêng và quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hết sức to lớn.
Tuy nhiên, thực trạng biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm
quốc gia về khoa học xã hội nói riêng và các công trình khoa học xã hội nói
chung trong thời gian qua cho thấy, các công trình đó phần lớn được biên
soạn theo các kế ho
ạch và nhiệm vụ riêng lẻ, mà chưa nằm trong một chương
trình mang tính tổng thể, để có thể đảm bảo được tính đồng bộ, tính thống
nhất, tính hệ thống; một số công trình vẫn còn chưa đầy đủ, chưa cập nhật
được những tri thức mới, chưa tổng kết và phản ánh được một cách đầy đủ
những vấn đề đang nổi lên trong thực tiễn, n
ếu không muốn nói là nhiều công
trình không còn đáp ứng được những yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước
và phát triển khoa học xã hội trong thời gian tới; nhiều công trình đã xuất bản

trước đây chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực khoa học xã hội có truyền
thống và lịch sử phát triển lâu dài như Lịch sử, Văn học, Văn hoá, Ngôn ngữ,
v.v…, còn ở một số lĩnh v
ực khoa học xã hội mới phát triển ở Việt Nam như:
Nghiên cứu con người, khoa học về phát triển và quản lý, Gia đình và giới,
v.v thì số lượng các công trình còn hạn chế. Cơ cấu của các công trình đã
xuất bản thời gian qua cũng chưa thật hợp lý. Chẳng hạn, các công trình có
tính chất công cụ, như Từ điển, Bách khoa thư, sách tra cứu, các sách dịch
những công trình trọng điểm của nước ngoài v
ề khoa học xã hội, v.v thì còn
thiếu.

Có thể thấy, việc chưa có chương trình tổng thể biên soạn và xuất bản
các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội thể hiện sự phát triển
chưa cân đối, chưa hợp lý, chưa đồng bộ giữa nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn với công tác biên soạn và xuất bản. Một điều có thể khẳng định rằng,
khoa học xã hội Vi
ệt Nam không thể phát triển nếu thiếu những công trình có
tính chất “trọng điểm” như vậy.
Thứ hai, đối với công tác nghiên cứu khoa học, việc biên soạn và xuất
8
bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội, một mặt, là kết
quả của quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhưng mặt khác lại
thúc đẩy các quá trình đó. Công tác nghiên cứu không thể phát triển nếu thiếu
những công trình mang tính nền tảng về lý luận, phương pháp luận, những
công trình mang tính chất công cụ cơ bản, v.v
Không những thế, các công trình trọng điể
m quốc gia về khoa học xã
hội còn có chức năng định hướng nghiên cứu. Vai trò định hướng của các
công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội là hết sức quan trọng, đó

không chỉ là sự định hướng đối với bản thân khoa học xã hội, mà còn định
hướng đối với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; đó không chỉ là sự định
hướng về
mặt chuyên môn của khoa học xã hội, mà còn định hướng về nền
tảng lý luận, nền tảng phương pháp luận, định hướng nghiên cứu, tìm kiếm
những giá trị mới, v.v. trong sự phát triển của đất nước thời gian tới.
Thứ ba, đối với công tác đào tạo, giảng dạy việc biên soạn và xuất bản
các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội, một mặ
t, sẽ đóng vai
trò cơ sở, nền tảng để xây dựng những tài liệu có tính chất giáo trình, nền tảng,
công cụ để phục vụ quá trình giảng dạy, nghiên cứu, học tập. Mặt khác, còn
cung cấp một nền tảng tri thức có tính chất hệ thống, có sự định hướng về nội
dung tư tưởng, phong phú, sâu sắc về nội dung khoa học, v.v. đối với tất cả
các
đối tượng của quá trình đào tạo, đó là: các đối tượng tham gia đào tạo (các
thầy cô giáo, các nhà khoa học, các chuyên gia, v.v.), các đối tượng được đào
tạo (học sinh, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, v.v.), các cơ sở
đào tạo (các trường học các bậc từ tiểu học đến các trường đại học, các cơ sở
nghiên cứu khoa học, v.v ), v.v Đối với các đối tượng nêu trên, các công
trình trọng điểm quốc gia về khoa họ
c xã hội sẽ đóng vai trò như là các tài
liệu giảng dạy, học tập trực tiếp, hoặc tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập,
mặt khác, là cơ sở và định hướng quan trọng để xây dựng các tài liệu học tập,
giảng dạy phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh, môi trường giáo dục, đào tạo
khác nhau.
9
Có thể thấy, nếu chúng ta xuất bản được một hệ thống các công trình
trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội sẽ tác động tích cực đến mọi khía
cạnh, cấp độ của quá trình đào tạo, đó không chỉ là nội dung, phương pháp,
đối tượng đào tạo mà còn tác động tích cực đến chất lượng, hiệu quả của quá

trình đào tạo. Mặt khác, nó không chỉ tác động tích cự
c đến việc đào tạo đội
ngũ cán bộ khoa học xã hội, đội ngũ chuyên gia, mà còn góp phần quảng bá
kiến thức khoa học xã hội trên phạm vi toàn xã hội, góp phần nâng cao trình
độ dân trí của người dân.
Trong tình hình hiện nay, việc biên soạn và xuất bản các công trình
trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội sẽ góp phần khắc phục thực trạng
thiếu hụt tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, họ
c tập và tham khảo có tính chất nền
tảng, công cụ, đồng thời khắc phục tình trạng chất lượng thấp, thiếu thống
nhất của các công trình khoa học xã hội, đáp ứng nhu cầu đào tạo đang ngày
càng phát triển trong thời gian tới.
Thứ tư, kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, ở những nước có nền khoa
học xã hội phát triển như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, v.v. việc biên so
ạn
và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội được chú
trọng đặc biệt. Có thể lấy một ví dụ ở Nhật Bản, hầu hết các công trình có tính
chất ‘‘trọng điểm’’ của nước ngoài đều được tổ chức dịch ra tiếng Nhật. Ở
Trung Quốc hiện nay vấn đề này cũng rất được quan tâm. Việc xây dựng được
một h
ệ thống đồ sộ các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội,
đối với nhiều nước trên thế giới có thể được xem là một trong những tiêu chí
quan trọng đánh giá sự phát triển của nền khoa học xã hội, phản ánh sự phát
triển đồng bộ, hợp lý của khoa học xã hội. Ở Việt Nam, vấn đề này chưa được
đầu tư và quan tâm đúng mức, do đó chúng ta rấ
t thiếu những công trình gốc
của nước ngoài (được dịch trực tiếp ra tiếng Việt), việc nghiên cứu tác phẩm
gốc thông qua một ngôn ngữ khác chắc chắn sẽ không mang lại hiệu quả cao,
đây là một thực trạng khá phổ biến ở nước ta hiện nay.
Thứ năm, ngoài ra, việc biên soạn và xuất bản các công trình trọng

10
điểm quốc gia về khoa học xã hội sẽ góp phần quảng bá, nâng cao hình ảnh
của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp vào sự phát triển chung của tri
thức nhân loại. Thực chất, việc biên soạn và xuất bản các công trình trọng
điểm quốc gia về khoa học xã hội là sự tổng kết, khái quát, đúc kết và phát
huy những những tri thức khoa học xã hội đã tích lũy được từ trước
đến nay,
trên cơ sở cập nhật những tri thức mới, tiếp thu những tinh hoa của tri thức
nhân loại, tạo nên ‘‘nguồn vốn’’ của khoa học xã hội nói riêng và ‘‘vốn xã
hội’’ nói chung. Đồng thời, đây cũng là quá trình khắc phục những tri thức
khoa học xã hội đã lạc hậu, lỗi thời nói riêng và những hạn chế của khoa học
xã hội Việt Nam nói chung.
Việc biên soạn và xuất bản các công trình trọ
ng điểm quốc gia về khoa
học xã hội trên cơ sở đúc kết những thành tựu của khoa học xã hội Việt Nam
và tiếp thu tinh hoa tri thức của nhân loại, sẽ góp phần khắc phục sự hạn chế,
tụt hậu của khoa học xã hội Việt Nam với quốc tế, tăng cường tính tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế của khoa học xã hội Vi
ệt Nam.
Thứ sáu, quá trình biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm
quốc gia về khoa học xã hội cũng đồng thời là quá trình đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng biên soạn và
xuất bản của chính các nhà khoa học, các cán bộ tham gia vào quá trình biên
soạn và xuất bản đó. Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn đối với nước ta trong
giai đoạn hi
ện nay.
Thứ bảy, việc biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia
về khoa học xã hội sẽ góp phần khắc phục tình trạng biên soạn và xuất bản
tràn lan, theo kiểu « trăm hoa đua nở » như hiện nay. Bởi lẽ, cùng với cơ chế
thị trường, việc biên soạn và xuất bản sách hiện nay khá dễ dãi, khá lộn xộn,

chạy theo nhu cầu thị trường, do đ
ó có nhiều sai sót, kém chất lượng thậm chí
sai lệch kiến thức cơ bản, sai lệch cả quan điểm, đường lối, v.v. điều đó nếu
kéo dài sẽ hết sức nguy hại cho sự phát triển của đất nước nói chung, cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy, cho nền giáo dục nước nhà, cũng như nguy
11
hi i vi cỏc th h hc sinh, sinh viờn, hc viờn, nghiờn cu sinh, v.v. núi
riờng.
Vi tt c nhng lý do va trỡnh by trờn ó núi lờn vic biờn son v
xut bn cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi cú tớnh cht
nn tng v c s lý lun, phng phỏp lun, cú tớnh cht nh hng ln
trong nghiờn cu, o to, t vn chớnh sỏch, phỏt trin khoa hc xó hi th
i
gian ti l ht sc cn thit. iu ú cú ý ngha cp bỏch i vi s nghip
xõy dng v phỏt trin t nc giai on hin nay v trong giai on ti,
ng thi gúp phn phỏt trin khoa hc xó hi mt cỏch hp lý, ng
b nh ó ch rừ trong Chin lc phỏt trin kinh t - xó hi 2011-2020 v
Bỏo cỏo chớnh tr ca BCH Trung ng ng khoỏ X ti i h
i i biu ton
quc ln th XI ca ng.
Nhng biờn son v xut bn c cỏc cụng trỡnh trng im quc
gia v khoa hc xó hi ỏp ng c nhng yờu cu nh va trỡnh by trờn,
trc ht, chỳng ta cn phi xõy dng c nhng c s lý lun, thc tin,
phng phỏp lun, cỏc nguyờn tc, tiờu chớ, cỏc quan im tng th
, v.v. cho
vic biờn son v xut bn cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó
hi. Vỡ vy, Nhim v ô Xõy dng cng biờn son v xut bn cỏc cụng
trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi ằ nhm ỏp ng nhu cu ú, do
vy nú cú ý ngha lý lun v thc tin cp bỏch.
2. Tng quan tỡnh hỡnh biờn son v xut bn cỏc cụng trỡnh trng

im quc gia v
khoa hc xó hi Vit Nam thi gian qua
Trong lịch sử phát triển của đất nớc, cha ông chúng ta cũng đã biên
soạn nhiều bộ sách đồ sộ về lịch sử, về luật pháp, về thơ văn, v.v Tuy nhiên,
do chiến tranh, do thời tiết, đặc biệt là do âm mu đồng hoá của kẻ thù xâm
lợc, nớc ta bị mất mát không ít những tài sản văn hoá quý báu đó. Việc kẻ
thù xâm lợc với âm mu đồng hoá, phá hoại văn hoá của chúng ta là sự thực
lịch sử. Thế kỷ XV, trớc lúc xuất quân xâm lợc nớc ta, Minh Thành Tổ
đã trực tiếp ra lệnh: Khi tiến quân vào An Nam thì chỉ trừ những bản kinh và
12
sách về Thích, Đạo không huỷ, còn tất cả các bản in sách, các giấy tờ cho đến
sách học của trẻ con nh loại thợng, đại, nhân, khâu, ất, kỷ, thì nhất thiết
một mảnh giấy, một chữ đều phải thiêu huỷ hết. Trong nớc ấy, chỉ có những
bia do Trung Quốc dựng nên ngày trớc thì để lại, còn những bia do An Nam
lập ra thì phải phá cho hết, một chữ cũng không đợc để lại
*
. Trong cuộc
chiến tranh xâm lợc nớc ta từ cuối năm 1406 đến giữa năm 1407, vua Minh
nhiều lần nhắc Trơng Phụ phải thi hành đầy đủ mệnh lệnh trên. Tháng 8 năm
1418, triều đình nhà Minh lại cử ngời sang nớc ta, vơ vét những sách vở còn
sót lại đem về Trung Quốc
1
.
Vì thế, chúng ta hết sức trân trọng những công trình của cha ông còn
giữ lại đợc đến ngày nay nh: Quốc triều hình luật (đời Lê), Đại Việt sử ký
toàn th (đời Lê), Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên (sách này biên soạn ở thế
kỷ XV, bản khắc gỗ khắc năm 1729), Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (thế
kỷ XVIII), Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích (1744 - 1818), v.v Số
lợng các công trình còn lu giữ đợc đến ngày hôm nay là rất ít, nhng giá
trị lịch sử, văn hoá của các công trình đó thì vô cùng to lớn.

Trong thời gian mấy chục năm gần đây, chúng ta tiếp thu những kinh
nghiệm thành công trong việc tổ chức biên soạn và xuất bản những bộ sách có
giá trị, có thể liệt kê hàng loạt các công trình khoa học xã hội có giá trị
đã đợc biên soạn và xuất bản nh: Khảo cổ học Việt Nam, ba tập (1998,
1999, 2002); Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam; Từ điển thành ngữ, tục ngữ
Việt Nam; Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam; Việt sử thông giám cơng mục;
Đại Nam thực lục (38 tập); Lịch sử cách mạng tháng 8; Đại Nam nhất thống
trí (5 tập); Nguyễn Trãi toàn tập; Lịch sử Việt Nam 1954-1965; Lịch sử Việt
Nam 1897-1918; Lịch sử Việt Nam từ khởi thuỷ đến thế kỷ X; Lịch sử văn
học Việt Nam (sơ giảng); Lịch sử 80 năm chống Pháp; Đại Việt sử ký toàn
th;, Đại Việt địa d toàn biên; Lịch sử Việt Nam từ khởi thuỷ đến thế kỷ XX;
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam; 50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam; Các

1
Trơng Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2002), Đại cơng lịch sử Việt Nam toàn tập, tái bản lần
thứ năm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 278.
* Trích: Lý Văn Phợng, sách Việt kiệu th (bản dịch).
13
dân tộc ở Việt Nam thế kỷ XX; Thi nhân Việt Nam; Từ điển văn học Việt
Nam; Tổng tập văn học Việt Nam (42 tập); Từ điển văn hoá; Một thế kỷ su
tầm văn hoá văn nghệ dân gian Việt Nam; Từ điển Nho Phật Đạo - Bách khoa
từ điển; Di sản Hán Nôm Việt Nam; Kho tàng ca dao ngời Việt; Từ điển văn
hoá cổ truyền Việt Nam; Văn hoá đại cơng và cơ sở văn hoá Việt Nam; Lịch
sử kinh tế Việt Nam 1945-2000; C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập; V.I. Lênin
toàn tập; Hồ Chí Minh toàn tập; Từ điển bách khoa Việt Nam; Lịch sử Phật
giáo Việt Nam; Từ điển tiếng Việt; Tổng tập văn học dân gian ngời Việt
(gồm 19 tập); Sử thi Tây Nguyên (gồm 62 tập); Kho tàng ca dao ngời Việt
(gồm 2 tập); Kho tàng tục ngữ ngời Việt (gồm 2 tập); Bộ Lịch sử văn hoá
Việt Nam do Viện Nghiên cứu Văn hoá xuất bản gồm 8 tập (đang triển khai 2
tập); bộ Lịch sử văn học Việt Nam do Viện Văn học biên soạn gồm 10 tập

(đã hoàn thành 8 tập); bộ Lịch sử t tởng triết học Việt Nam do Viện Triết
học biên soạn gồm 3 tập (đã hoàn thành 1 tập); bộ Tổng tập văn hoá dân gian
các dân tộc thiểu số gồm 23 tập (đã biên soạn 4 tập), bộ sách Những công
trình đợc giải thởng Hồ Chí Minh của các nhà khoa học thuộc Viện Khoa
học xã hội Việt Nam (gồm 26 tập), v.v
Trong số các công trình kể trên, đáng chú ý nhất là việc biên soạn và
xuất bản Bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam. Đây là bộ Từ điển Bách khoa đầu
tiên của Việt Nam, đợc xem nh là một công trình văn hoá - khoa học đồ sộ
của đất nớc. Để biên soạn và xuất bản Bộ Từ điển Bách khoa này, Chính phủ
đã thành lập Hội đồng quốc gia Chỉ đạo với sự đầu t kinh phí, điều kiện vật
chất hết sức to lớn. Tham gia biên soạn và xuất bản công trình này là những
nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành và khoảng 1200 nhà khoa học từ các lĩnh
vực khác nhau. Nếu tính từ khi bắt tay vào việc biên soạn công trình là năm
1987 thì nghĩa là gần hai mơi năm (2005), công trình Từ điển Bách khoa
Việt Nam với 4 tập mới đợc ra đời. Trong điều kiện có nhiều khó khăn về
điều kiện vật chất, kỹ thuật, kinh nghiệm, nhân lực, v.v., công trình này ra đời
là một sự thành công lớn, đáp ứng đợc nhu cầu nghiên cứu, học tập của giới
nghiên cứu khoa học nói riêng và đông đảo ngời đọc nói chung. Công trình
đã đặt nền tảng quan trọng cho công tác biên soạn và xuất bản các công trình
14
Từ điển và Bách khoa th nói riêng, cũng nh các công trình trọng điểm quốc
gia về khoa học xã hội nói chung.
Từ danh sách các công trình vừa liệt kê ở trên, có thể thấy, các công
trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội đã đợc biên soạn và xuất bản từ
trớc đến nay đã bao quát hầu hết các lĩnh vực cơ bản của khoa học xã hội
Việt Nam: Lịch sử, Văn học, Nghệ thuật, Tôn giáo, Triết học, Văn hoá, Luật
học, Dân tộc học, Ngôn ngữ học, v.v Trong thời gian qua, các công trình đó
đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nớc; trong công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy về khoa học xã hội, góp
phần đào tạo các thế hệ cán bộ, đội ngũ chuyên gia, đội ngũ trí thức, v.v Cụ

thể, vai trò của các công trình đó đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nớc đợc thể hiện ở chỗ: các công trình đó góp phần phản ánh, tổng kết thực
tiễn, đúc rút lý luận phục vụ cho việc xây dựng đờng lối, chủ trơng, chính
sách của Đảng và Nhà nớc. Nh Tổng Bí th Nông Đức Mạnh đã khẳng định
những kết luận của khoa học xã hội đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
việc xây dựng đờng lối, chủ trơng của Đảng và chính sách của Nhà nớc.
Trên phơng diện nghiên cứu, đào tạo, các công trình nêu trên đã đóng vai trò
cơ sở, nền tảng góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học, đồng thời
đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học nói chung và khoa học xã hội nói riêng.
Những công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội cũng góp phần giới
thiệu những tinh hoa tri thức Việt Nam với thế giới, cung cấp ngày càng đầy
đủ những tri thức của Việt Nam đối với các nhà nghiên cứu, các nhà Việt Nam
học quốc tế, từ đó nâng cao hình ảnh Việt Nam với thế giới, thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác và hội nhập của Việt Nam với khu vực và quốc tế.
Bên cạnh những đóng góp to lớn không thể phủ nhận nh vừa trình bày
ở trên, các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội đợc biên soạn
và xuất bản thời gian qua cũng còn có những hạn chế nhất định, thể hiện ở
những nội dung sau đây:
Thứ nhất, các công trình đó phần lớn đợc biên soạn theo các kế hoạch
và nhiệm vụ riêng lẻ, mà cha thống nhất trong một qui trình chung để có thể
15
đảm bảo đợc tính đồng bộ, tính thống nhất. Ngay trong một công trình, nhiều
khi cũng thiếu sự đồng bộ, thống nhất cả về chuyên môn lẫn các yếu tố có tính
chất kỹ thuật. Nguyên nhân là, nhiều công trình do nhiều ngời tham gia, mỗi
ngời phụ trách một phần riêng, do đó nội dung chuyên môn đôi khi không
thống nhất, thậm chí mâu thuẫn với nhau.
Thứ hai, một số công trình vẫn còn cha đầy đủ, cha cập nhật đợc
những tri thức mới, cha tổng kết và phản ánh đợc một cách đầy đủ những
vấn đề đang nổi lên trong thực tiễn. Nhiều công trình đợc biên soạn trong
thời gian dài, nhiều kiến thức mới không đợc cập nhật kịp thời, nên đã trở

thành lỗi thời. Mặt khác, nhiều công trình cha đợc biên soạn với một tầm
nhìn dài hạn, do đó sớm trở nên lạc hậu.
Thứ ba, các công trình trọng điểm đã xuất bản trớc đây tập trung chủ
yếu vào một số lĩnh vực khoa học xã hội có truyền thống và lịch sử phát triển
lâu dài nh Lịch sử, Văn học, Ngôn ngữ, v.v Tuy nhiên, ở một số các lĩnh
vực khoa học xã hội mới phát triển ở Việt Nam nh: Nghiên cứu con ngời,
Khoa học về phát triển và quản lý phát triển, phát triển bền vững, Gia đình và
giới, v.v thì số lợng các công trình còn hạn chế.
Thứ t, cơ cấu của các công trình đó cũng còn cha thật hợp lý. Cụ thể
các công trình có tính chất công cụ thì thiếu (chẳng hạn nh các công trình Từ
điển, Bách khoa th), các sách dịch những công trình trọng điểm của nớc
ngoài cũng thiếu. Riêng đối với các công trình từ điển, nhiều lĩnh vực đang
thiếu trầm trọng, nếu có thì cũng rất cũ, hoặc đợc dịch từ các cuốn từ điển
khác nên chất lợng không cao, cha đáp ứng đợc nhu cầu nghiên cứu học
tập. Lấy một ví dụ, đối với cuốn Từ điển Triết học, ở Việt Nam đã xuất bản
một số cuốn từ điển triết học, nh
: Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcơva;
Từ điển triết học giản yếu; Từ điển triết học do Rôdentan chủ biên; Từ điển
triết học do Cung Kim Tiến biên soạn. Trong suốt nửa thế kỷ, chúng ta mới chỉ
có 4 cuốn từ điển nêu trên (trong đó có 02 cuốn dịch). Đó là số lợng quá ít ỏi.
Các cuốn từ điển ấy không đợc biên soạn một cách có kế hoạch và theo một
sự chỉ đạo thống nhất, cha tập hợp đợc đông đảo lực lợng các nhà triết học
16
tham dự nên ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế theo thời gian. Một mặt, các
cuốn từ điển đó cha cập nhật đợc những kiến thức mới, cha phản ánh đợc
những vấn đề đang nổi lên trong đời sống xã hội hiện thực. Mặt khác, cha
phản ánh đợc những tiến bộ và những hoạt động của giới triết học và của
ngành triết học Việt Nam với thế giới và cũng cha kịp thời mang những kiến
thức mới của triết học thế giới đến với triết học Việt Nam. Quy mô, cơ cấu và
tầm vóc của các từ điển triết học đã xuất bản so với yêu cầu thực tế hiện nay

của xã hội là quá nhỏ bé, không đáp ứng đợc nhu cầu học tập, nghiên cứu và
giảng dạy triết học trong các trờng đại học, Viện nghiên cứu và của đông đảo
ngời dân Việt Nam cũng nh bạn bè quốc tế, những ngời muốn nghiên cứu,
tìm hiểu về Việt Nam. Vì vậy, việc biên soạn một cuốn từ điển triết học mới
để khắc phục, bổ sung những thiếu sót của các công trình trớc đây nhằm đáp
ứng nhu cầu nghiên cứu và giảng dạy là hết sức cần thiết. Ngoài ra, các lĩnh
vực khác nh Luật học, Chính trị học, v.v cũng rất cần những bộ sách công
cụ nh vậy. Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành chính trị
học, nhu cầu nghiên cứu và giảng dạy về triết học là rất lớn. Để đáp ứng nhu
cầu đó, việc biên soạn và xuất bản công trình mang tính chất cơ sở, nền tảng
của ngành chính trị học là rất cần thiết.
Thứ năm, các công trình đã đợc biên soạn và xuất bản trớc đây không
chỉ có những sai sót về mặt chuyên môn, mà còn có nhiều sai sót về mặt kỹ
thuật (in ấn, v.v ). Ngay cả Bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam vốn đợc xem
nh có sự đầu t điều kiện vật chất lớn, bài bản, có qui trình, v.v nhng vẫn
còn có nhiều điều cha hoàn chỉnh, có sai sót, có thiên lệch
2
.
Thứ sáu, chúng ta rất thiếu những công trình nghiên cứu có tính chất lý
thuyết đối với các vấn đề lý luận, thực tiễn, phơng pháp của việc biên soạn và
xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội. Chẳng hạn,
tại thời điểm bắt đầu biên soạn Bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam, hầu hết các
ngành, các bộ môn khoa học đều cha có từ điển bách khoa hay bách khoa th
riêng, thậm chí thuật ngữ chuyên ngành cũng cha chuẩn hoá và thiếu tính

2
Nguyn Huy Cụn, Sđd, tr. 60.
17
thống nhất
3

. Vấn đề vừa trình bày ở trên vừa là một phần nói lên thực trạng
công tác biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa
học xã hội ở Việt Nam thời gian qua, vừa là một trong những nguyên nhân
dẫn đến thực trạng đó.
Ngoài ra, còn có một thực trạng nữa là có những công trình lớn cha
thực hiện đợc hoặc thực hiện dở dang: thí dụ, việc biên soạn Lịch sử văn học
Việt Nam (mới ra đợc tập 1, 1980), việc biên soạn Từ điển tiếng Việt (từ quy
mô khổ lớn, sau khi ra tập đầu, phải điều chỉnh thành từ điển khổ trung, xuất
bản lần đầu năm 1989), việc biên soạn Lịch sử Việt Nam (từ năm 1971 đến
năm 1985 mới ra đợc hai tập, tập cuối cha ra đời), việc biên soạn Lịch sử
văn hoá Việt Nam và Lịch sử tiếng Việt mới chỉ dừng lại ở bản kế hoạch công
tác từ những năm 80 của thế kỷ XX. Có những công trình đề ra rất hay, rất cần
thiết, rất có ý nghĩa, nhng đến khi bắt tay vào thực hiện lại dở dang.
Nguyờn nhõn ca thc trng nờu trờn cú th khỏi quỏt mt s im
nh sau:
Th nht, nguyờn nhõn t phớa ngi lónh o, qun lý v ch trỡ. õy
l mt trong nhng nguyờn nhõn quan trng hng u. Rt nhiu cụng trỡnh
ó biờn son Vit Nam b dang d, hoc cht lng khụng tt l do nng lc
t chc, lónh o trin khai thc hin ca ngi ch trỡ. Ngi lónh o, ch
trỡ cha tht ch ng, tớch cc, thiu phng phỏp khoa hc, cha tp hp
c nhng nh khoa hc cú uy tớn, trong quỏ trỡnh t chc thc hin thiu
kiờn quyt, khụng cú hỡnh thc khen thng, ng viờn kp thi ng
i hon
thnh tt nhim v; ngi thc hin khụng ỳng tin hoc khụng hon
thnh nhim v khụng cú c ch x lý.
Mt khỏc, gia vic a ra nhng chng trỡnh nghiờn cu ln, hay
nhng cụng trỡnh s cn biờn son vi vic t chc thc hin khụng c
nht quỏn. Ngha l k hoch hoc ni dung a ra rt ỳng n, hp lý, cú
t
m nhỡn, tuy nhiờn trong thc hin li khụng tt, khụng t c kt qu nh


3
Nguyn Huy Cụn, Sđd,tr. 61.
18
mong muốn. Tuy nhiên, giữa kế hoạch, khả năng đạt được và việc thực thi,
hiện thực thường có khoảng cách. Trong quá trình tổ chức triển khai biên soạn
các công trình ở Việt Nam thấy có thực trạng là: khi mới triển khai thì sôi nổi,
hào hứng, những người tham gia đều nghĩ là có thể làm được nhiều, với chất
lượng tốt, nhưng sau đó thường không tốt, thậm chí còn qua loa đại khái.
Nhiều kế hoạch nghiên cứ
u, biên soạn những bộ sách quan trọng
thường bị kéo dài, trong thời gian đó, quan niệm học thuật, cái nhìn thay đổi
(thí dụ, việc nhìn nhận phong trào Thơ mới, Vũ Trọng Phụng trong quá trình
thực hiện bộ Tổng tập văn học Việt Nam).
Thông thường, để biên soạn một công trình mang tính trọng điểm quốc
gia cần mất thời gian dài, điều này dẫn đến một khó khăn là nhữ
ng người
đứng đầu thường xuyên thay đổi. Việc này cũng ảnh hưởng đến chất lượng và
tiến độ của công việc (thí dụ, xem nhân sự điều hành việc biên soạn Từ điển
bách khoa Việt Nam).
Thứ hai, đó là việc quá chú trọng đến hình thức. Có nhiều nguyên nhân
để dẫn tới việc hoàn thành một công trình với chất lượng tốt: Người quản lý
lãnh đạo có vai trò, người thự
c hiện có vai trò, số lượng kinh phí đầu tư có
sức nặng, không khí học thuật lành mạnh có ảnh hưởng rất lớn, Ở Việt Nam,
nhiều công trình có các ban bệ đặt ra, nặng về hình thức, thậm chí người thực
làm chỉ được nhận thù lao ít hơn nhiều so với người không làm. Trong cuốn
hồi ký đã được Nhà xuất bản Văn học công bố, học giả Nguyễn Hiến Lê đã so
sánh công trình của miề
n Bắc và công trình của miền Nam trước ngày giải

phóng, trong đó, ông có nhận xét rằng, sách của miền Bắc thường có “anh
lớn” đề tựa (một điều rất ít thấy ở sách miền Nam) và thường có một tập thể
chỉ đạo, mà có cảm giác là những người đó không chỉ đạo gì cả (lấy dẫn
chứng về một cuốn từ điển của Uỷ ban Khoa học xã hội Vi
ệt Nam).
Trong khi thực hiện biên soạn Lịch sử văn học Việt Nam, phía Uỷ ban
Khoa học xã hội tổ chức nhiều hội thảo, nhiều lần đưa tin trên Tạp chí Văn
học. Trong khi đó, một tập thể ít người hơn ở Trường Đại học Tổng hợp Hà
19
Nội (cũ), lặng lẽ làm, tích cực làm, không tuyên truyền, không đăng báo. Cuối
cùng, bên Đại học Tổng hợp Hà Nội đã hoàn thành, lực lượng tác giả không
quá mười người. Bên Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam chỉ xong được tập 1
vào năm 1980.
Thứ ba, ý thức tuân thủ hợp đồng của những người tham gia biên soạn
cũng là một nguyên nhân không kém phần quan trọng đối với thực trạng biên
soạn và xuất bả
n các công trình khoa học xã hội ở Việt Nam thời gian qua. Có
thực trạng là, nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia có uy tín, có năng lực
nhưng đã quá nhiều việc, không đủ thời gian vật chất cho việc biên soạn. Do
đó, không thực hiện đầy đủ các yêu cầu về chất lượng, số lượng của nhiệm vụ
được giao, dẫn đến ảnh hưởng chung của cả công trình.
Thứ tư, nguyên nhân của việc chưa phân bi
ệt giữa việc làm chuyên
môn với việc chủ trì, tổ chức những công trình tập thể.
Có những người chuyên môn rất giỏi, nhưng thường làm tốt các công
trình có tính chất cá nhân. Nếu giao cho chủ trì những công trình tập thể thì
thường không đạt hiệu quả. Trong một tập thể các nhà khoa học, mỗi người
đều có quan điểm khoa học khác nhau, việc thống nhất quan điểm để đi đến
sự đồng thu
ận chung không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được. Một nguyên

nhân khác, đó là tâm lý nể nang cũng ảnh hưởng khá lớn đến tiến độ và chất
lượng công trình biên soạn. Có người khi được giao nhiệm vụ nhưng không
thực hiện đúng tiến độ, nhưng không ai dám đốc thúc vì nể nang, vì đó là
những người đồng thời là lãnh đạo, quản lý hoặc là những nhà khoa học khả
kính, v.v Ngoài ra, có những trường hợp những người biên so
ạn ở các địa
phương khác nhau, người ở trung ương, người ở địa phương; người dân tộc
Kinh và người thuộc các dân tộc thiểu số, v.v.
Người chủ trì giỏi là người phải nhìn trước được những khó khăn, phải
có những biện pháp dự phòng, phải có tinh thần trách nhiệm rất lớn. Người
chủ trì vừa phải giỏi chuyên môn, vừa biết tập hợp được người khác lại c
ần có
lòng liên tài, biết “biệt đãi” (kín đáo) đối với người có thực tài trong một tập thể
20
tỏc gi.
Th nm, cỏc c ch ca chỳng ta cũn nhiu bt cp, khụng hp lý hoc
chỳng ta cũn thiu cỏc c ch, chng hn cỏc c ch kinh phớ, c ch qun lý,
c ch khen thng, x lý vi phm, v.v Vic phõn b, cp kinh phớ hng nm
cũn chm cho cỏc ti nghiờn cu khoa hc (thng cui nm mi cp
hoc cp b sung). C ch thanh toỏn hin nay bu
c nhng ngi thc hin
ti phi núi di.
Th sỏu, mt trong nhng nguyờn nhõn khụng kộm phn quan trng
gõy nờn thc trng thi gian qua chỳng ta cha cú nhiu cụng trỡnh trng
im c biờn son, cha cú nhiu cụng trỡnh cú cht lng tt, v.v theo
chỳng tụi, ú l do chỳng ta cha cú mt chng trỡnh tng th biờn son v
xut bn cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi.
Tt c nhng
iu ú ó dn n nhng thc trng nh trỡnh by trờn,
c bit l cú nhiu cụng trỡnh dự c u t vi qui mụ ln, nhng kt qu t

c khụng cao nh mong i, nhiu cụng trỡnh d dang, nhiu cụng trỡnh sau
mt thi gian khụng lõu ó bc l nhiu sai sút, khim khuyt, thm chớ lc hu
v mt ni dung, v.v
Tu chung, qua phn trỡnh by trờn cho thy, chỳng ta ó biờn son v
xu
t bn c rt nhiu cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi. Cha
ụng chỳng ta cng ó li nhng cụng trỡnh s, cú giỏ tr, l di sn tinh thn
vụ giỏ cho chỳng ta k tha v phỏt huy. Chỳng ta cng ó cú c nhng kinh
nghim thnh cụng v cha thnh cụng trong biờn son v xut bn cỏc cụng
trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi. Trên cơ sở đánh giá tổng quát về
tình hình biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa
học xã hội ở Việt Nam từ trớc đến nay, khái quát những thành tựu đã đạt
đợc, những hạn chế, khó khăn cần khắc phục, kết hợp với việc tham khảo
kinh nghiệm nớc ngoài, Nhiệm vụ Xây dựng đề c
ơng biên soạn và xuất bản
các công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội sẽ góp phần xây dựng
những cơ sở lý luận, phơng pháp luận làm nền tảng cho việc biên soạn và
21
xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia ở nớc ta hiện nay, cũng nh
trong thời gian tới, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nh đã trình
bày ở trên.
3. Mc tiờu v nhim v ca Nhim v
Mc tiờu tng quỏt ca Nhim v l xõy dng c s lý lun, thc tin,
phng phỏp lun, cỏc nguyờn tc, tiờu chớ, v.v lm cn c cho vic biờn
son v xut bn cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi, ỏp
ng yờu cu nghiờn cu khoa hc, tng kt lý lun v thc tin
o to, xõy
dng lun c khoa hc cho cỏc ch trng, chớnh sỏch ca ng v Nh nc
nhm y mnh quỏ trỡnh cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc theo nh
hng xó hi ch ngha.

Xut phỏt t mc tiờu chung ú, Nhim v cú nhng nhim v c th
sau õy:
Mt l, nghiờn cu c s lý lun, thc tin, phng phỏp lun cho vic
biờn so
n v xut bn cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi,
trong ú bao gm c vic xỏc nh cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa
hc xó hi cn trin khai biờn son.
Hai l, xõy dng h quan im mang tớnh tng th, h thng cho vic
biờn son v xut bn cỏc cụng trỡnh trng im quc gia v khoa hc xó hi
(bao gm c nhng vn
nh k hoch, l trỡnh, t chc thc hin, v.v.)
Ba l, xõy dng cỏc tiờu chớ ca mt cụng trỡnh trng im quc gia v
khoa hc xó hi (tiờu chớ ni dung, hỡnh thc, qui mụ, v.v.)
Bn l, a ra mt danh sỏch gm cỏc cụng trỡnh trng im quc gia
v khoa hc xó hi cn biờn son v xut bn trong thi gian ti. ng thi,
cn c vo c s lý lun, phng phỏp lun, cỏc quan
im tng th xõy
dng cỏc cng c th ca cỏc cụng trỡnh ú nh : Lch s Trit hc Vit
Nam; Lch s kinh t v lch s t tng kinh t Vit Nam; Nhng vn c
bn v nh nc v phỏp lut Vit Nam; Nhng vn c bn v tụn giỏo
22
Việt Nam; Văn hoá dân gian và văn hoá Việt Nam: tổng kết lý luận và thực
tiễn; Những vấn đề cơ bản của các dân tộc ở Việt Nam; Những vấn đề cơ bản
của Khảo cổ học Việt Nam; Những vấn đề tâm lý cơ bản của con người Việt
Nam; Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ học Việt Nam; Những vấn đề cơ

bản của xã hội học Việt Nam; Lý luận chung về quyền con người và quyền
con người ở Việt Nam; Nền quốc phòng, quân sự Việt Nam: Lịch sử, hiện
thực và xu hướng phát triển; An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn; Từ điển Luật học; Từ điển Triết học; Đại từ điển


n học; Địa chí các tỉnh và thành phố trong cả nước, v.v
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của Nhiệm vụ
Cơ sở lý luận
Trên nền tảng của phép biện chứng duy vật và những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là nguyên lý về mối quan hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội, kiến trúc thượng tầ
ng và cơ sở hạ tầng, v.v , đồng
thời, căn cứ vào những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của khoa học xã hội nói
chung; căn cứ các chủ trương, đường lối, định hướng chỉ đạo của Đảng đối
với khoa học xã hội nói chung và đối với việc xây dựng đề cương biên so
ạn,
xuất bản các công trình khoa học xã hội nói riêng, Nhiệm vụ xây dựng những
vấn đề lý luận mang tính cơ sở cho việc biên soạn và xuất bản các công trình
trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội.
Cơ sở thực tiễn
Nhiệm vụ căn cứ vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hơn nửa thế kỷ qua, đặc biệt là thự
c tiễn xây dựng và phát triển đất nước
trong hơn 25 năm đổi mới; căn cứ vào thực trạng phát triển khoa học xã hội,
thực trạng công tác biên soạn và xuất bản các công trình khoa học xã hội ở
nước ta thời gian qua, cũng như bối cảnh quốc tế, bối cảnh khu vực và những
định hướng phát triển khoa học xã hội Việt Nam thời gian tới.
23
Phương pháp nghiên cứu của Nhiệm vụ
Nhiệm vụ sử dụng các phương pháp chủ yếu như sau:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp lôgíc – lịch sử
- Phương pháp đi từ thực tiễn đến lý luận và từ lý luận đến thực tiễn,

v.v
24
PHẦN THỨ NHẤT
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BIÊN SOẠN
VÀ XUẤT BẢN CÁC CÔNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA
VỀ KHOA HỌC XÃ HỘI
Chương 1
Cơ sở lý luận của việc biên soạn và xuất bản các
công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội

1.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận phương pháp luận của việc biên soạn và xuất bản các
công trình trọng điểm quốc gia về khoa học xã hội cần được biên soạn là Chủ
nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương đường lối của Đảng
ta về xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ
thể, đó là nh
ững quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của khoa học xã hội, những quan điểm
và định hướng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về khoa học xã hội nói
chung và việc biên soạn, xuất bản các công trình khoa học xã hội nói riêng,
những đường lối, chính sách của Đảng đối với khoa học xã hội, cũ
ng như
những yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng giao cho khoa học xã hội Việt Nam.
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của khoa học xã hội Việt Nam
Việc biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa
học xã hội, trước hết cần dựa vào những chỉ dẫn quan trọng của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về
vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của khoa học xã hội. Khi
nghiên cứu quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về khoa học xã hội, chúng ta

thấy có một số luận điểm đáng chú ý như sau:
- Khoa học xã hội không những chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần
cải tạo thế giới.
- Khoa học xã hội có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật vận động và
25
phát triển của xã hội nói chung và những quy luật của từng lĩnh vực trong đời
sống xã hội.
- Khoa học xã hội khi đã thâm nhập vào ý thức của quần chúng nhân
dân thì trở thành một động lực mạnh mẽ, trở thành “lực lượng vật chất”.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở lý luận và phươ
ng pháp luận cho các khoa
học xã hội nghiên cứu xã hội theo một thế giới quan và nhân sinh quan khoa
học, đúng đắn vì nó cung cấp các nguyên tắc xem xét xã hội một cách khách
quan, lịch sử cụ thể, toàn diện, đồng thời nó phát huy được tính năng động
của chủ thể nghiên cứu.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển khoa học xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận động sáng tạo chủ ngh
ĩa
Mác – Lênin vào Việt Nam. Khi biên soạn và xuất bản các công trình trọng
điểm quốc gia về khoa học xã hội cần đặc biệt lưu ý đến những quan điểm
định hướng của Hồ Chí Minh đối với khoa học xã hội. Đó là:
- Khoa học xã hội góp phần quan trọng vào việc giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Khoa học xã hội Việt Nam phải kế thừa những kết quả
nghiên cứu và
tinh hoa của khoa học xã hội.
- Khoa học xã hội Việt Nam phải biết kết hợp lý luận với thực tiễn.
- Phải thực hiện dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học xã hội.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về định hướng phát

triển khoa học xã hội
Khi biên soạn và xuất bản các công trình trọng điểm quốc gia về khoa
học xã hội cầ
n căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển khoa học xã hội Việt Nam, đặc biệt là các
văn kiện của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Những luận điểm quan

×