Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường - TS. Nguyễn Đức Thùy (chủ biên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.2 MB, 128 trang )

Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
Tài liệu Tập huấn
INTERNATIONAL UNION FOR CONSERVATION OF NATURE

UNDEF
The United Nations
Democracy Fund
Cánh đồng cỏ năn được phục hồi ở Vườn Quốc Gia Tràm Chim - mùa khô 2006@MWBP
Việc xác định các thực thể địa lý trong
ấn phẩm này và cách trình bày các số
liệu không phản ánh bất cứ quan điểm
nào của IUCN, Quỹ Dân chủ Liên Hợp
Quốc, hay Viện Nghiên cứu Quyền con
người (Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh) về tư cách pháp
lý của bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ
hay khu vực, hoặc thẩm quyền, hoặc
quan điểm về phân định ranh giới hay
biên giới của các quốc gia, lãnh thổ
hay khu vực đó.
Các quan điểm trình bày trong ấn
phẩm này không nhất thiết phản ánh
các quan điểm của IUCN, Quỹ Dân chủ
Liên Hợp Quốc, hay Viện Nghiên cứu
Quyền con người (Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh).
Đây là tài liệu tập huấn cho các giảng
viên trường chính trị về tiếp cận
quyền trong bảo vệ môi trường được
thực hiện trong năm 2011 và 2012.
Tài liệu này được hoàn thiện trong


khuôn khổ dự án “Thúc đẩy sự tham
gia tích cực của các tổ chức xã hội vào
quản trị nhà nước về môi trường” do
IUCN triển khai. IUCN và nhân viên
của IUCN không chịu trách nhiệm
về bất kỳ sai sót nào trong quá trình
dịch sang các ngôn ngữ khác dựa
vào những thông tin được cung cấp
trong tài liệu tập huấn.
Ấn phẩm này là một phần kết quả
trong dự án do Tổ chức Luật Phát triển
Quốc tế (IDLO) và Quỹ dân chủ Liên
Hợp Quốc (UNDEF) tài trợ.
Cơ quan xuất bản: IUCN Việt Nam.
Bản quyền: © 2012 Tổ chức Bảo tồn
Thiên nhiên Quốc tế
Các tổ chức hoặc cá nhân có thể tái
bản ấn phẩm này vì mục đích giáo
dục hoặc phi lợi nhuận mà không cần
sự đồng ý trước bằng văn bản của cơ
quan giữ bản quyền, với điều kiện phải
trích dẫn nguồn đầy đủ. Nghiêm cấm
tái bản ấn phẩm này để bán lại hoặc
vì các mục đích thương mại khác mà
không được sự đồng ý trước bằng văn
bản của cơ quan giữ bản quyền.
Trích dẫn: Viện Nghiên cứu Quyền
con người (2012). Tiếp cận Quyền trong
Bảo vệ Môi trường. Thúc đẩy sự tham
gia tích cực của các tổ chức xã hội vào

quản trị nhà nước về môi trường, Hà
Nội, Việt Nam: IUCN. 114 trang.
ISBN: 978-2-8317-1504-9
Ảnh bìa: IUCN Việt Nam
Dàn trang: Công ty CP in La Bàn
Cơ quan xuất bản: Văn phòng IUCN
Việt Nam
Số đăng ký xuất bản:
1261-2012/CXB/03-81/TN
In 2.500 khổ A4 tại Công ty CP in La Bàn
Cơ quan tài trợ: Quỹ dân chủ Liên
Hợp Quốc (UNDEF)
Nơi cung cấp: IUCN
Văn phòng tại Việt Nam
Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
Tầng 1, nhà 2A, Khu ngoại giao đoàn
Vạn Phúc
298 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội
IPO Box 60
ĐT: ++844-37261575/6
Fax: ++844-37261561
E-mail:
Web: www.iucn.org/vietnam
UNDEF
The United Nations
Democracy Fund
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
Tài liệu Tập huấn
Chủ biên
TS. NGUYỄN ĐỨC THÙY

Nhóm tác giả
(theo thứ tự ABC)
TS. ĐẶNG DŨNG CHÍ
PGS.TS. TƯỜNG DUY KIÊN
TS. HOÀNG VĂN NGHĨA
PGS.TS. NGUYỄN THANH TUẤN
TS. NGUYỄN ĐỨC THÙY
TS. NGUYỄN DUY SƠN
TS. VÕ THANH SƠN
Ban biên tập
TS. NGUYỄN ĐỨC THÙY
PGS.TS. TƯỜNG DUY KIÊN

MỤC LỤC
Chuyên đề 1: MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 1
I. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững ở Việt Nam 3
II. Những thách thức về tài nguyên, môi trường và sự tác động của suy thoái
tài nguyên, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay 8
III.Nỗ lực của nhà nước Việt Nam trong giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi
trường theo hướng bền vững 19
Chuyên đề 2 : MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VÀ QUYỀN CON NGƯỜI 24
I. Mối quan hệ giữa môi trường và quyền con người 26
II. Nguyên tắc và các quyền con người về môi trường 33
III. Cách tiếp cận Quyền con người trong Bảo vệ Môi trường 36
Chuyên đề 3: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG 41
I. Pháp luật quốc tế về Quyền con người đối với Môi trường 43
II. Pháp luật Việt Nam về Quyền con người có liên quan tới Môi trường 53
Chuyên đề 4: VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG VIỆC GIÁM SÁT,
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 66

I. Tổng quan về các tổ chức xã hội (TCXH) ở Việt Nam 68
II. Vai trò của các TCXH trong giám sát bảo vệ môi trường 77
III.Tăng cường vai trò và sự tham gia của các TCXH trong GSBVMT 91
Chuyên đề 5: BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN, QUYỀN THAM GIA VÀ TIẾP CẬN
TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 99
I. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về môi trường ở Việt Nam 101
II. Bảo đảm quyền tham gia của người dân vào các hoạt động BVMT ở Việt Nam 104
III.Bảo đảm quyền tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường ở Việt Nam 107

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Tập tài liệu này, nhóm tác giả xin chân thành cám ơn sự cộng tác, giúp đỡ và hỗ
trợ của cán bộ, chuyên gia của Tổ chức Bảo tồn Thiên Nhiên Quốc tế tại Việt Nam (IUCN), đặc biệt
phải kể đến ông Jake Brunner (Điều phối viên Chương trình), bà Nguyễn Thùy Anh (Cán bộ Truyền
thông), bà Lê Thị Thanh Thủy (Trợ lý Chương trình) đã có nhiều ý kiến góp ý về nội dung và kỹ thuật
trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện Tài liệu.
Nhóm tác giả cũng xin chân thành cám ơn sự cộng tác của bà Partricia Parkinson, Chuyên gia tư vấn
pháp luật môi trường của Tổ chức Phát triển Luật Quốc tế (IDLO) thuộc Trung tâm Khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, Australia, ông Vaclav Prusa, Cán bộ Giám sát và Đánh giá Dự án của Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP); một số chuyên gia, nhà quản lý thuộc Trung tâm Giáo dục Thiên
nhiên (ENV); Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường (VACNE); Viện Môi trường và Phát triển Bền vững
(IESD); Viện Tư vấn và Phát triển (CODE); Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature); Viện Kinh
tế - Sinh thái (ECO-ECO); Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng (CECR).
Cuối cùng, nhóm tác giả xin chân thành cám ơn các đại biểu đại diện cho một số cơ quan, ban,
ngành, tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương và địa phương có liên quan tới công tác bảo vệ môi
trường; đại biểu đại diện cho một số Viện, Khoa có liên quan của Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Khu vực và một số trường Chính trị tỉnh, thành phố đã tham dự
và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho Tập tài liệu tại bốn khóa tập huấn thí điểm “Tiếp cận Quyền
con người trong Bảo vệ Môi trường” được tổ chức tại Hà Nội, Hòa Bình, Hải Phòng và Cần Thơ trong
năm 2010 và 2011.
CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
ASIAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
BOD5 Lượng oxy hòa tan mà các quá trình sinh học phân hủy chất
hữu cơ sử dụng trong 5 ngày.
BTTN Bảo tồn thiên nhiên
BVMT Bảo vệ môi trường
BVTV Bảo vệ thực vật
CECR Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng
COD Là lượng oxy cần thiết để oxy hoá các hợp chất hoá học trong
nước bao gồm cả vô cơ và hữu cơ
CODE Viện Tư vấn & Phát triển
CTNS Chương trình Nghị sự
DDT Là một loại hóa chất có công dụng diệt trừ sâu bọ
DO Là lượng oxy hoà tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp của
các sinh vật nước (cá, lưỡng thê, thuỷ sinh, côn trùng v.v )
thường được tạo ra do sự hoà tan từ khí quyển hoặc do quang
hợp của tảo
ĐDSH Đa dạng Sinh học
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐMC Đánh giá Môi trường Chiến lược
ĐNB Đông Nam Bộ
ĐVHG Động vật hoang dã
ĐSQ Đại sứ quán
ĐTM Đánh giá Tác động Môi trường
ECO-ECO Viện Kinh tế Sinh thái
ENV Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên
EITI Sáng kiến quốc tế về thúc đẩy minh bạch trong ngành khoáng sản
EU Liên minh Châu Âu
GSBVMT Giám sát bảo vệ môi trường
HIV/AIDS - HIV là vi - rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể

suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh
- AIDS là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây ra,
thường được biểu hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các
ung thư và có thể dẫn đến tử vong
HCM Hồ Chí Minh
IUCN Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
KCN Khu công nghiệp
KHCN Khoa học công nghệ
KTXH Kinh tế xã hội
LHQ Liên Hợp Quốc
MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NGO Tổ chức phi chính phủ
PanNature Trung tâm Con người và Thiên nhiên
PTBV Phát triển bền vững
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
TAI Sáng kiến về quyền tiếp cận môi trường
TCCP Tiêu chuẩn cho phép
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TCTT Tiếp cận thông tin
TCXH Tổ chức xã hội
TNCSHCM Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
UBND Ủy ban nhân dân
UNEP Chương trình Môi trường LHQ
VASS Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VPO Tổ chức tư nhân tự nguyện
VQG Vườn quốc gia
VRN Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam
VUSTA Liên hiệp các Tổ chức Khoa học và Kỹ thuật

WARECOD Trung tâm Bảo tồn và Phát triển Tài nguyên nước
WCED Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển
WHO Tổ Chức Y tế thế giới
WCS Chiến lược Bảo tồn thế giới

LỜI GIỚI THIỆU
Bảo vệ môi trường (BVMT) và quyền sống trong môi trường trong lành đang là vấn đề lớn không
chỉ thách thức đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là
những nước đang phát triển. Ở Việt Nam, kết quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thu hút các dự án đầu tư, đã tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động, nhờ đó kinh
tế tăng trưởng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhưng cũng kéo theo
đó là sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường.
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện chính sách,
pháp luật về môi trường, tuy nhiên việc thực thi chính sách, pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu.
Một trong những nguyên nhân chính đó là nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể
và người dân về vấn đề BVMT còn nhiều hạn chế, chưa hiểu sâu sắc về tác động nguy hại của suy
thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường đến sức khỏe của cộng đồng, ảnh hưởng đến sự phát triển
bền vững của đất nước. Suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường hiện nay đang tác động trực
tiếp tới việc hưởng thụ các quyền con người, trước hết đó là quyền được sống trong môi trường
trong lành.
Nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và quyền con người, được sự hỗ trợ của Tổ
chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tại Việt Nam (IUCN) và Quỹ Dân chủ của Liên Hợp Quốc (UNDEF),
Viện Nghiên cứu Quyền con người thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ
chức xây dựng tài liệu tập huấn “Tiếp cận Quyền con người trong BVMT”.
Tài liệu được xây dựng nhằm góp phần nâng cao nhận thức của các cán bộ Đảng, chính quyền,
đoàn thể xã hội về tầm quan trọng của sự gắn kết giữa BVMT với bảo vệ quyền con người; qua đó
nâng cao kỹ năng và khả năng lồng ghép quyền con người trong hoạch định chính sách, pháp luật
về môi trường, tiếp cận quyền con người trong BVMT.
Tài liệu này được xây dựng gồm các chuyên đề sau đây:
Chuyên đề 1. Môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam

Chuyên đề này nhằm cung cấp cho người học nhận thấy được bức tranh tổng thể về hiện trạng
môi trường và những thách thức của môi trường ở Việt Nam hiện nay; thấy được tác động của suy
thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường đến cuộc sống, sức khỏe của người dân và ảnh hưởng đến sự
phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời thấy được những nỗ lực của Chính phủ trong việc giải
quyết các vấn đề tài nguyên và môi trường theo hướng phát triển bền vững.
Chuyên đề 2. Mối quan hệ giữa môi trường và quyền con người
Chuyên đề này nhằm cung cấp cho người học nhận biết được mối quan hệ chặt chẽ giữa môi
trường và quyền con người. Thấy được vấn đề môi trường chính là vấn đề của quyền con người. Do
vậy, bảo vệ tốt môi trường sẽ là điều kiện để thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt
các quyền con người sẽ có tác động tốt đến BVMT. Vì vậy, cần có hướng tiếp cận lồng ghép quyền
con người trong BVMT.
Chuyên đề 3. Pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền con người đối với môi trường
Chuyên đề này được xây dựng nhằm cung cấp cho người học biết được những nội dung, tiêu
chuẩn quốc tế và các quy định pháp luật quốc gia về các quyền con người có liên quan/tác động
bởi môi trường; thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong việc thực thi các
công ước, điều ước quốc tế về môi trường và quyền con người; nhận thấy được những khó khăn,
thách thức trong việc thực thi chính sách, pháp luật có liên quan giữa BVMT và quyền con người ở
Việt Nam hiện nay.
Chuyên đề 4. Vai trò của các tổ chức xã hội trong giám sát BVMT
Chuyên đề này nhằm cung cấp cho người học thấy được trách nhiệm BVMT không chỉ thuộc các
cơ quan nhà nước, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong đó thấy được vai trò và tầm quan
trọng ngày càng gia tăng của các tổ chức xã hội bao gồm các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp;
các đoàn thể quần chúng và cộng đồng đang đóng góp tích cực và có hiệu quả trong việc giám sát,
thực thi chính sách, pháp luật về BVMT ở Việt Nam hiện nay.
Chuyên đề 5. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia và tiếp cận tư pháp trong
lĩnh vực môi trường ở Việt Nam
Chuyên đề này nhằm cũng cấp cho người học thấy được tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền
tiếp cận thông tin về môi trường; quyền tham gia của người dân trong giám sát BVMT, trong hoạch
định, xây dựng chính sách, pháp luật có liên quan về môi trường; đồng thời hiểu được quy trình, thủ
tục trong khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Ba quyền này được xếp là

ba trụ cột trong hệ thống các quyền có liên quan tới bảo vệ quyền con người về môi trường. Thực
hiện tốt ba quyền này, sẽ có hiệu quả tích cực đến việc BVMT nói chung.
VIỆN NGHIÊN CỨU QUYỀN CON NGƯỜI
Tháng 11-2011

1
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
Chuyên đề 1
MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
MỤC TIÊU BÀI GIẢNG
Sau khi kết thúc chuyên đề này, các học viên có thể:
1. Hiểu được mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững
2. Biết được thực trạng suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường và sự tác động của ô nhiễm
môi trường ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhận thức được nỗ lực của Chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi
trường, thực hiện các chương trình quốc gia có liên quan để phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng bền vững.
THÔNG ĐIỆP
1. Phát triển bền vững trong kinh tế, xã hội và môi trường là xu thế chung và là yêu cầu cấp
thiết của thế giới và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. BVMT là một trong những nhiệm vụ sống còn của nhân loại, là nhân tố bảo đảm sức khỏe
và chất lượng cuộc sống của nhân dân, là cơ sở cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, ổn định chính trị - xã hội và hợp tác quốc tế.
3. Những thách thức lớn về môi trường ở Việt Nam, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, không
khí đang ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, sức khỏe, cuộc sống của người dân
ở cả nông thôn và thành phố.
4. Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật
về bảo vệ tài nguyên, môi trường. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập trong việc áp dụng
và thực thi trên thực tiễn.
2

Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
NỘI DUNG CƠ BẢN
I. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững ở Việt Nam
1. Khái niệm, nội dung, nguyên tắc phát triển bền vững
2. Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam)
II. Những thách thức về tài nguyên, môi trường và sự tác động của suy thoái tài
nguyên, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay
1. Mất rừng và nguyên nhân suy thoái rừng
2. Suy thoái đất đai và mất đất nông nghiệp
3. Ô nhiễm không khí ở khu đô thị và khu công nghiệp
4. Ô nhiễm do chất thải rắn
5. Thiếu nước và ô nhiễm nước
6. Tác động của suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường
III. Nỗ lực của Chính phủ trong giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi trường
1. Xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật đồng bộ để giải quyết những vấn đề tài nguyên và
môi trường
2. Thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia có liên quan để phục hồi tài nguyên
3
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
A. PHẦN KHỞI ĐỘNG
Câu hỏi:
1. Anh/chị hãy cho một số ví dụ về những thảm họa ô nhiễm môi trường lớn ở Việt Nam hiện nay?
2. Anh/chị hãy cho biết những nguyên nhân chính của suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường
ở nước ta?
3. Theo anh/chị môi trường có tác động/ảnh hưởng như thế nào đối với sự phát triển bền vững ở
Việt Nam hiện nay?
B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
I. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững ở Việt Nam
1. Khái niệm, nội dung và nguyên tắc phát triển bền vững
Thuật ngữ Phát triển bền vững (PTBV – Sustainable Development) lần đầu tiên được sử dụng trong

bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” (World Conservation Strategy) do IUCN đề xuất (1980). Mục tiêu
tổng thể của chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ
PTBV ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về
mặt sinh thái nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo “Tương
lai chung của chúng ta” (Our Common Future), Uỷ ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED)
lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV là “sự phát triển đáp ứng đuợc nhu
cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn
các nhu cầu của chính họ”. Định nghĩa của WCED về PTBV được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay.
Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio - 92 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị
Johannesburg - 2002: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba
mặt của sự phát triển, đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và BVMT”.
Nói một cách khái quát, PTBV là sự phát triển hài hoà về cả ba mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường
nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người không những cho thế hệ hiện
tại mà còn cho thế hệ mai sau.
Phát triển bền vững không chỉ là vấn đề BVMT: Phát triển bền vững có nghĩa là cả ba khía cạnh chủ
yếu liên quan tới đời sống của nhân loại là kinh tế, xã hội và môi trường phải được tổng hòa, kết
hợp, lồng ghép khi có thể và được cân đối một cách có hiệu quả qua các chính sách, cơ chế, công
cụ và qua quá trình thực hiện chính sách.
Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà: Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt:
Kinh tế - Xã hội - Môi trường để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát
triển kinh tế - xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ trong tương lai.
Hay nói một cách khác: Muốn phát triển bền vững thì phải đồng thời thực hiện 3 mục tiêu: (1) Phát
triển có hiệu quả về kinh tế; (2) Phát triển hài hòa các mặt xã hội, nâng cao mức sống, trình độ sống
của các tầng lớp dân cư và (3) Cải thiện môi trường, bảo đảm phát triển lâu dài vững chắc cho thế
hệ hôm nay và mai sau.
4
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
Hình 1. Mô hình phát triển bền vững


BVMT là cơ sở có tính quyết định cho mô hình phát triển bền vững, một nhiệm vụ quan trọng
cấp thiết. Con người luôn cần có môi trường sống tức là không gian sống, bao gồm các yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có tác động trực tiếp đến đời sống, sản xuất,
sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Môi trường cho ta không khí để thở, đất để xây
dựng, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên, khoáng sản cần thiết cho
sản xuất và tiêu dùng. Với các chức năng của mình, môi trường có vai trò nền tảng quyết định đối
với cuộc sống của con người và sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của mọi quốc gia trên
trái đất. Sự suy thoái tài nguyên, ô nhiễm và thảm họa môi trường ngày nay tác động tiêu cực trực
tiếp đến sản xuất và đời sống của hàng triệu người, hạn chế, thậm chí gây tổn thất lớn về kinh tế,
đồng thời kéo theo nhiều thiên tai, dịch bệnh, sự bất ổn định xã hội Chính vì vậy, cân bằng giữa
yêu cầu tăng trưởng kinh tế với yêu cầu BVMT là cơ sở đầu tiên để bảo đảm phát triển bền vững.
Đó là yêu cầu cấp thiết của phát triển bền vững, cũng là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay ở nước ta.
Nguyên tắc phát triển bền vững
Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới năm 1992 ở Rio de Janerio, các nhà hoạt động kinh tế, xã hội,
môi trường cùng với các nhà chính trị đã thống nhất về quan điểm PTBV; coi đó là trách nhiệm
chung của các quốc gia, của toàn nhân loại; đồng thuận thông qua Tuyên bố Rio gồm 27 nguyên
tắc cơ bản về PTBV và CTNS 21 về xác định các hành động cho sự PTBV của toàn thế giới trong
thế kỷ thứ 21.
Mục tiêu của phát triển bền vững
Phát triển bền vững không chỉ là một chiến lược, một lối sống, một quan niệm đạo đức mà là một
quá trình hoà nhập sự phát triển mọi mặt của con người, xã hội loài người với thiên nhiên. Tại Hội
nghị Thượng đỉnh năm 2000, các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ/PTBV cũng đã đạt đuợc sự nhất
5
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
trí với 8 mục tiêu sẽ đuợc thực hiện vào trước năm 2015 là: i) Xoá tình trạng nghèo đói cùng cực; ii)
Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học; iii) Khuyến khích bình đẳng giới và nâng cao địa vị của phụ
nữ; iv) Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; v) Nâng cao sức khoẻ sinh sản; vi) Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét
và các bệnh khác; viii) Bảo đảm bền vững về môi truờng; và ix) Phát triển quan hệ đối tác toàn cầu
phục vụ hoạt động phát triển.
2. Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam (Chương trình nghị sự 21

của Việt Nam)
Việt Nam đã sớm tham gia vào tiến trình chung của thế giới trong việc xây dựng Chương trình nghị
sự 21 (CTNS 21). Năm 1992, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Trái
đất về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro (Braxin) đã ký Tuyên bố chung của thế giới về môi
trường và phát triển, CTNS 21 toàn cầu, cam kết xây dựng Chiến lược PTBV quốc gia và CTNS 21 địa
phương. Năm 2004, Việt Nam đã phê chuẩn Chiến lược quốc gia về BVMT đến 2010 và định hướng
đến 2020. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều cam kết quốc tế nhằm BVMT và phát triển xã hội, thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.
Ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/TTg về “Định hướng
chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam)”. Nội dung
của Quyết định này bao gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên, những
định hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV ở Việt Nam.
Hội đồng PTBV quốc gia cũng đã được thành lập theo Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005
của Thủ tướng Chính phủ và sau đó chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng đã được điều
chỉnh theo Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009.
a) Những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc trong PTBV của Việt Nam
CTNS 21 của Việt Nam là khung chiến lược để xây dựng các chương trình hành động. Trên cơ sở
phân tích thực trạng phát triển của Việt Nam dưới góc độ bền vững, CTNS đã đưa ra những nguyên
tắc PTBV, mục tiêu và tầm nhìn dài hạn, các lĩnh vực hoạt động ưu tiên, phương tiện và giải pháp
nhằm đạt được sự PTBV trong thế kỷ 21.
Quan điểm phát triển trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 được Đại hội IX Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT”; “Phát triển Kinh tế - Xã hội gắn chặt với bảo vệ
và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên,
giữ gìn đa dạng sinh học”.
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI (năm 2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội và Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2011- 2020,
trong đó xác định quan điểm “phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt của Chiến lược”, “phát triển
nhanh gắn với phát triển bền vững”. Phát triển kinh tế được coi là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,

môi trường. Phải phát triển bền vững về kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng
kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không
ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng
bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển bền vững là cơ sở
6
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh
và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh
tế - xã hội
(1)
.
Mục tiêu tổng quát của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa,
sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên;
phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và BVMT.
Mục tiêu cụ thể BVMT trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 được ghi rõ là cải thiện
chất lượng môi trường:
- Đến 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%;
- Hầu hết dân cư được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh;
- Các cơ sở kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc thiết bị giảm ô
nhiễm, xử lý chất thải, 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh cũ đạt tiêu chuẩn về môi trường;
- Các đô thị loại 4 trở lên, các khu chế xuất, khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải
tập trung;
- 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế được xử lý đạt
tiêu chuẩn;
- Cải thiện và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm nặng;
- Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, nước biển dâng.
b) Tám nguyên tắc chính cho phát triển bền vững của Việt Nam
- Con người là trung tâm của phát triển bền vững;

- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới;
- Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời
của quá trình phát triển;
- Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại
và không gây trở ngại đối với cuộc sống của thế hệ tương lai;
- Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, thúc đẩy phát triển
nhanh mạnh và bền vững đất nước;
- Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ ngành và
địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và
mọi người dân;
- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển bền vững đất nước;
1
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà
Nội - 2011, trang 98,99
7
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT với bảo đảm quốc
phòng, trật tự và an ninh xã hội.
c) Các lĩnh vực ưu tiên
5 lĩnh vực ưu tiên trong phát triển kinh tế bao gồm:
- Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu
quả, hàm lượng khoa học - công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải
thiện môi trường;
- Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân
thiện với môi trường, dựa trên cơ sở sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo
lại được, giảm tối đa chất thải độc hại và khó phân huỷ, duy trì lối sống của cá nhân và xã hội
hài hòa và gần gũi với thiên nhiên;
- Thực hiện quá trình “công nghiệp hóa sạch”, nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự
phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân

thiện với môi trường, tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “công
nghiệp xanh”;
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Trong khi phát triển sản xuất theo yêu cầu
của thị trường, đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm đồng thời vẫn bảo tồn và phát triển các
nguồn tài nguyên như: đất, nước, không khí, rừng và đa dạng sinh học;
- PTBV vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương PTBV.
5 lĩnh vực ưu tiên trong phát triển xã hội bao gồm:
- Tập trung nỗ lực để xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm, tạo lập cơ hội bình đẳng để mọi
người được tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, chính trị, phát triển kinh tế và BVMT;
- Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số đối với các lĩnh
vực tạo việc làm, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, và
BVMT;
- Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm PTBV các đô thị, phân bố hợp lý dân cư và
lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và BVMT bền vững ở các
địa phương;
- Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu
cầu của sự nghiệp phát triển đất nước;
- Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân
dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống.
9 lĩnh vực ưu tiên trong sử dụng tài nguyên & BVMT bao gồm:
- Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất;
- BVMT nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước;
- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản;
8
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
- BVMT biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển;
- Bảo vệ và phát triển rừng;
- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp;
- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại;
- Bảo tồn đa dạng sinh học;

- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp
phần phòng, chống thiên tai.
II. Những thách thức về tài nguyên, môi trường và sự tác động của suy thoái tài
nguyên, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay
1. Mất rừng
Rừng là nguồn tài nguyên sinh vật quý giá nhất của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở phát
triển kinh tế - xã hội, mà còn giữ chức năng sinh thái quan trọng như tham gia vào quá trình điều
hòa khí hậu, bảo đảm sự chu chuyển ôxy và các nguyên tố cơ bản khác trên trái đất, duy trì tính ổn
định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất và bờ biển, sụt lở đất
đá, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, bảo
vệ nguồn nước mặt và nước ngầm, làm giảm mức ô nhiễm không khí và nước.
Qua quá trình phát triển, độ che phủ của rừng ở Việt Nam đã giảm sút nhanh chóng và chất lượng
của rừng ở các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức. Trước đây, toàn bộ đất nước Việt Nam có
rừng che phủ, nhưng chỉ mới mấy thập kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Diện tích rừng toàn quốc
đã giảm đáng kể, từ năm 1943 có khoảng 43% diện tích rừng tự nhiên, thì đến năm 1992 chỉ còn
27,7%. Trong những năm gần đây, tổng diện tích rừng có chiều hướng tăng lên, nhưng phần lớn
diện tích tăng lên là rừng trồng. Diện tích rừng cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều ) tăng nhanh
chóng, làm cho độ che phủ rừng liên tục tăng lên, từ 27,8% ở năm 1990 đến 39,1% vào năm 2009
(xem biểu đồ). Tuy nhiên, diện tích rừng nguyên sinh – rừng nhiều tầng (thường là từ 3-7 tầng) giảm
sút nghiêm trọng; diện tích rừng trồng – rừng một tầng, rừng nhân tạo tăng cao, với tốc độ gia tăng
trung bình từ năm 1990 đến 2009 cao gấp 13 lần rừng tự nhiên.
9
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
Theo số liệu thống kê, mặc dù độ che phủ rừng nước ta đã tăng lên, nhưng chất lượng rừng lại giảm
sút đáng lo ngại. Trong tổng số 12,3 triệu ha rừng, rừng nguyên sinh chỉ còn 0,57 triệu ha phân bố
rải rác, chiếm 8% tổng diện tích rừng, trong khi các nước trong khu vực là 50%. Phần lớn diện tích
rừng tự nhiên hiện nay thuộc loại rừng nghèo có trữ lượng gỗ dưới 100 m3/ha, như rừng khộp ở
Tây Nguyên. Rừng non mới được phục hồi chưa ổn định, chất lượng cây gỗ và tính ĐDSH chưa cao.
Rừng trồng có cấu trúc đơn điệu, tính ĐDSH thấp. Những khu rừng tự nhiên ít bị tác động, rừng
nguyên sinh có giá trị cao về ĐDSH tập trung chủ yếu ở các khu rừng phòng hộ và khu bảo tồn

(2)
.
2. Suy thoái đất đai và mất đất nông nghiệp
a) Thực trạng tài nguyên đất đai và thoái hóa đất
Việt Nam có gần 25 triệu ha đất dốc (76% diện tích đất tự nhiên) với nhiều hạn chế cho sản xuất
nông nghiệp, trong đó có hơn 12,5 triệu ha đất xấu và trên 50% diện tích đồng bằng là “đất có vấn
đề”, bao gồm 0,82 triệu ha đất phèn, 0,54 triệu ha đất cát, 2,06 triệu ha đất xám bạc màu, 0,5 triệu ha
đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá, 0,24 triệu đất ngập mặn, 0,47 ha đất lầy úng, 8,5 triệu ha đất có tầng
mặt mỏng ở vùng đồi núi. Các loại đất có nhiều hạn chế nói trên chiếm 14,13 triệu ha hay 42,8%
đất tự nhiên cả nước.
Thoái hóa đất là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng đất rộng lớn, đặc biệt là vùng đồi núi, nơi cân
bằng sinh thái đã bị phá vỡ nghiêm trọng do không có rừng che phủ. Mặn hóa, phèn hóa, lầy hóa
trên quy mô diện tích hàng triệu ha vùng đồng bằng cũng là nguyên nhân chủ yếu làm ngừng trệ
khả năng sản xuất của đất. Tại nhiều vùng, sự suy thoái đất còn kéo theo cả suy thoái về hệ thực vật,
động vật, môi trường địa phương và đồng thời làm cho diện tích đất nông nghiệp trên đầu người
giảm xuống đến mức báo động. Ngoài ra, sự cố nứt đất và trượt lở đất cũng xảy ra ngày một nghiêm
trọng hơn tại Tây Bắc và miền Trung với tốc độ ngày càng gia tăng.
Sa mạc hóa ở Việt Nam cũng khá nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở các dải cát hẹp trải dọc theo bờ
biển miền Trung, tập trung ở 10 tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận với diện tích khoảng 419.000
ha và ở đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 43.000 ha. Trong gần 40 năm qua, quá trình hoang
mạc hoá do cát di động rất nghiêm trọng, đặc biệt ở các vùng có thời tiết đặc biệt khô nóng vào
mùa khô, lượng mưa trung bình hàng năm thấp, như ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ.
Tác động của việc thoái hóa đất và giảm diện tích đất canh tác làm cho nước ta đang đứng trước
những thử thách lớn phải giải quyết nhiều vấn đề nghiêm trọng về môi trường đất, nhằm bảo đảm
sự an toàn lương thực và sự tồn tại của cả dân tộc với gần 100 triệu dân vào những năm 2010.
b) Chuyển đổi sử dụng đất góp phần làm tăng suy thoái đất đai
Công tác lập quy hoạch sử dụng đất đai hàng năm, 5 năm và 10 năm là cơ sở pháp lý để các cơ quan
quản lý nguồn tài nguyên đất, tạo điều kiện cho vùng nông thôn thành lập các mô hình kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, đồng thời góp phần khôi phục bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, diễn biến
sử dụng đất còn nhiều bất cập, đặc biệt trong phát triển các khu công nghiệp, sử dụng đất nông

nghiệp, đất rừng và phát triển sân gôn.
2
Nguồn: Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2010
10
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
- Phát triển các khu công nghiệp
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, các khu công nghiệp đã phát triển nhanh chóng ở Việt
Nam trong suốt hàng thập kỷ qua, đem lại lợi ích lớn cho đất nước, nhưng sự phát triển này cũng
kéo theo nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết. Theo quy hoạch, thì đến năm 2010 cả nước sẽ
có 443 KCN, với diện tích khoảng 61.485 ha (MPI, 2005a). Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất còn thấp,
vì số KCN có diện tích cho thuê dưới 50% chiếm đến 55% tổng số KCN; số chưa cho thuê chiếm
19,3%
(3)
. Hơn nữa, với chính sách khuyến khích đầu tư, tất cả các tỉnh đều thành lập những khu
công nghiệp, nhiều khi tỷ lệ lấp đầy thấp gây lãng phí lớn về quỹ đất đai. Để thuận tiện cho hoạt
động kinh doanh, các khu công nghiệp có xu thế nằm gần quốc lộ, tỉnh lộ, đồng thời cũng là những
nơi bằng phẳng, là nguyên nhân làm mất một diện tích lớn đất nông nghiệp, đặc biệt ở đồng bằng
sông Hồng, và đồng bằng sông Cửu Long. Những vùng đất nông nghiệp bị phân mảnh bị kẹt giữa
các khu công nghiệp cũng không canh tác hiệu quả vì hệ thống thủy lợi cũng bị cắt sẻ.
- Thực tiễn phát triển và sử dụng đất lâm nghiệp
Trong gần 20 năm qua, Chính phủ đã nỗ lực rất lớn trong việc phục hồi và bảo vệ rừng. Từ những
năm 1990 đến 2005, khoảng 2 triệu ha rừng được trồng mới (0,56 triệu ha trong khuôn khổ Chương
trình 327/556 (giai đoạn 1993 - 1997), 1,55 triệu ha trong khuôn khổ Chương trình 661/5 triệu ha
rừng (1998 - 2010), khoanh nuôi tái sinh 2 triệu ha rừng với mục tiêu là đến 2010 nâng độ che phủ
của rừng lên 43% (MPI, 2005b).
Tuy nhiên, mới đây, nhằm tăng hiệu quả kinh tế sử dụng đất rừng, Bộ NN&PTNT đã có chủ trương
chuyển đổi 100.000 ha rừng nghèo kiệt ở vùng Tây Nguyên thành rừng cao su trong giai đoạn 2007
- 2010, riêng tỉnh Gia Lai là 51.000 ha, với mục đích góp phần phát triển kinh tế xã hội cho vùng
đất đặc thù này, đặc biệt là nâng cao đời sống cho vùng đồng bào khó khăn với vốn đầu tư lên đến
2.000 tỷ đồng

(4)
. Do chưa có những hướng dẫn cụ thể nên trên thực tế chính sách này của Chính
phủ cũng gây ra nhiều vấn đề bất cập, và nhiều khu rừng tốt có thể cũng bị phá hủy. Hơn nữa, việc
phát triển cà phê mạnh mẽ ở Tây Nguyên đòi hỏi một lượng nước tưới cho mùa khô, làm suy giảm
lượng nước ngầm ở đây. Nếu kế hoạch chuyển đổi một diện tích lớn rừng tự nhiên, mà chủ yếu là
rừng khộp, là loại rừng thích nghi với điều kiện khô hạn 6 tháng mùa khô, thành rừng cao su thì tình
trạng suy kiệt nước ngầm của vùng này chắc chắn sẽ trầm trọng hơn.
- Xây dựng các sân gôn cho hoạt động du lịch và phát triển kinh tế
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2008, hiện cả nước có 141 sân gôn ở 39 tỉnh, với
49.268 ha đất, trong đó có 2.625 ha là đất lúa đã bị trưng dụng, chuyển đổi mục đích. Nếu như trong
suốt 16 năm, Thủ tướng chỉ cấp phép cho 34 dự án sân gôn thì chưa đầy hai năm (2006 - 2008), các
địa phương sau khi phân cấp đã cấp phép cho 104 dự án, tập trung nhiều nhất ở Nam Trung bộ (27
sân), đồng bằng Bắc bộ (25 sân).
Sự phát triển mạnh mẽ các khu sân gôn đã gây ra nhiều vấn đề môi trường và xã hội. Về khía cạnh
môi trường, việc duy trì hoạt động của sân gôn cần dùng đến một lượng hóa chất khá lớn khoảng
1,5 tấn/năm, (gấp ba lần sử dụng cho nông nghiệp) để trừ sâu bệnh, nấm mốc cho các thảm cỏ và
tiêu thụ mỗi ngày 10.000m3 nước cho sân gôn 36 lỗ là nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm nước
cho các thủy vực và sử dụng thái quá tài nguyên nước. Về mặt xã hội, việc chuyển đổi hàng ngàn
3
MPI, 2005a: trang 51.
4
Theo Báo Lao động Online ngày 09/08/2008 và Báo Tuổi Trẻ Online ngày 09/05/2008.
11
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
ha đất nông nghiệp và lâm nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, cho việc xây dựng các dự án sân gôn
cũng làm cho nhiều nông dân mất đất sản xuất, tăng tỷ lệ thất nghiệp ở những nơi thực hiện dự án.
c) Suy giảm diện tích đất nông nghiệp
Ở Việt Nam, tuy đất nông nghiệp chiếm 28,4% diện tích đất tự nhiên, nhưng thời gian gần đây diện
tích đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, đã giảm đi nhanh chóng với mức độ đáng lo ngại.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007, diện tích đất trồng lúa đã giảm 361.935 ha (bình quân

mỗi năm giảm gần 51.705 ha), trong đó, vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long
đã giảm 257.413 ha (71,1% diện tích giảm). Diện tích đất nông nghiệp giảm đi này chủ yếu là do
quá trình đô thị hóa, phát triển các khu công nghiệp, đường giao thông, sân gôn và các cơ sở hạ
tầng khác.
Một thách thức khác là diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người rất thấp, xếp thứ 159 trong
tổng số 200 nước trên thế giới và bằng 1/6 bình quân trên thế giới. Năm 1940, đất canh tác bình
quân/người ở nước ta là 0,2 ha, năm 1960 là 0,16 ha, năm 1970 là 0,13 ha, năm 1992 là 0,11 ha và
năm 2000 là 0,10 ha, và còn tiếp tục giảm xuống do dân số còn tăng. Trong mấy năm gần đây, trung
bình hàng năm có khoảng 72.000 ha đất nông nghiệp được chuyển đổi sử dụng. Do đó, dù năng
suất lúa tăng bình quân hơn 2%/năm, nhưng sản lượng lúa tăng không đáng kể, ảnh hưởng đến
bảo đảm an ninh lương thực.
Vì vậy, để ngăn chặn sự suy giảm diện tích nông nghiệp, Bộ NN & PTNT đã có kiến nghị bằng mọi
giá phải duy trì được 3,5 triệu ha trồng lúa để bảo đảm an ninh lương thực.
3. Ô nhiễm không khí ở khu đô thị và khu công nghiệp
Trong vài chục năm vừa qua, kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng với tăng trưởng GDP trung
bình khoảng 7% và hiện nay Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, với trên 1000
USD/người vào năm 2009. Quá trình đô thị hóa tăng nhanh với khoảng 22% dân số đô thị. Tuy
nhiên, dân số đô thị ngày càng nhiều, công nghiệp ngày càng phát triển thì chất thải ô nhiễm môi
trường ngày càng tăng, đặc biệt là ô nhiễm không khí.
Các nguồn gây ô nhiễm chính đối với không khí đô thị bao gồm hoạt động giao thông vận tải, các
ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và các hoạt động xây dựng, trong đó ô nhiễm do giao thông
chiếm tỷ lệ khoảng 70%. Xét các nguồn thải gây ô nhiễm không khí trên toàn quốc (bao gồm đô
thị và khu vực khác) ước tính cho thấy hoạt động giao thông đóng góp tới gần 85% lượng khí CO2
95% lượng khí dễ bay hơi (các hợp chất hữu cơ bay hơi - VOC), trong khi đó các hoạt động công
nghiệp đóng góp chính khí SO2. Đối với NO2, giao thông và công nghiệp có tỷ lệ đóng góp tương
đương nhau.
Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp cũ, bao gồm cả các khu tiểu thủ công nghiệp
và làng nghề (thường được xây dựng trước năm 1975), thường là công nghiệp vừa và nhỏ, công
nghệ sản xuất lạc hậu, ít có thiết bị xử lý khí thải độc hại nên là một trong những nguồn chính gây
ô nhiễm không khí hiện nay. Các ngành công nghiệp mới, phần lớn phân bố ở trong các khu công

nghiệp, tuy được cung cấp các trang thiết bị xử lý chất thải, nhưng với nguồn thải lớn và tập trung
nên quản lý môi trường các khu công nghiệp không tốt sẽ tác động xấu đến môi trường của các
khu dân cư xung quanh. Thứ tự các ngành công nghiệp gây ra ô nhiễm không khí là: nhiệt điện,
sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng, khai thác mỏ, công nghiệp hóa chất, công nghiệp phân bón,
luyện kim, giấy, đường, thực phẩm và các ngành công nghiệp khác.
12
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
Các hoạt động giao thông vận tải, chủ yếu do các loại xe máy và ô tô, đã trở thành một nguồn gây
ô nhiễm không khí chính ở các đô thị, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Đà Nẵng. Nạn tắc nghẽn giao thông trong những năm gần đây ở các đô thị này cũng
làm cho ô nhiễm không khí trong đô thị trở nên trầm trọng hơn.
Các hoạt động xây dựng nhà cửa, cầu cống, đường sá diễn ra rất mạnh mẽ ở khắp nơi, đặc biệt là ở
các khu đô thị. Các hoạt động xây dựng như đào lấp đất, đập phá công trình cũ, vật liệu xây dựng
bị rơi vãi trong quá trình vận chuyển, thường gây ô nhiễm bụi trầm trọng đối với môi trường không
khí xung quanh. Kết quả đo lường thực tế cho thấy khoảng 60 - 70% lượng bụi trong không khí đô
thị là bụi sinh ra từ hoạt động xây dựng.
Mức ô nhiễm về bụi và các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đặc biệt
là tại một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, vượt tiêu chuẩn cho phép đến 2-3 lần.
4. Ô nhiễm do chất thải rắn
Chất thải rắn được sinh ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động đời sống của con
người, từ 0,8 đến 1,2 kg/người/ngày ở đô thị lớn, 0,5 - 0,7 kg/người/ngày ở các đô thị nhỏ. Mỗi năm
có khoảng 15 triệu tấn chất thải rắn được tạo ra, 80% trong số đó là từ các hộ gia đình, nhà hàng,
chợ và khu thương mại. 12.8 triệu tấn chất thải rắn trong nước, trong đó 6.9 triệu tấn từ các khu vực
thành thị được thải ra mỗi năm. Tổng chất thải rắn từ các khu công nghiệp khoảng 2,7 triệu tấn mỗi
năm. Khoảng 160.000 tấn (chiếm khoảng 1% tổng số) mỗi năm là chất thải rắn nguy hại. 77% lượng
chất thải rắn ở các khu đô thị Việt Nam không được xử lý đúng tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Nhiều
bãi rác và bãi đổ phế thải hiện được coi là mối nguy hiểm về tác động môi trường cho người dân
xung quanh. Chỉ 17 trong số 91 bãi đổ rác tại các đô thị Việt Nam đạt tiêu chuẩn vệ sinh.
Môi trường công nghiệp, nhất là ở các khu công nghiệp cũ, các ngành hóa chất, luyện kim, xi măng,
chế biến đang bị ô nhiễm do chất thải rắn, nước thải, khí thải và các chất thải nguy hại chưa được xử

lý theo đúng quy định. Các cơ sở công nghiệp trong nước chủ yếu có quy mô nhỏ, công nghệ sản
xuất lạc hậu (chỉ có khoảng 20% xí nghiệp cũ đã đổi mới công nghệ). Khoảng 90% cơ sở sản xuất
cũ chưa có thiết bị xử lý nước thải. Hiện nay, đã hình thành nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, nhưng chỉ có khoảng 1/3 trong số đó đã xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và rất
ít khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Trong khi đó, việc thu gom, xử lý chất thải rắn đô thị, khu công nghiệp và vùng nông thôn vẫn
đang còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, với tỷ lệ thu gom tăng từ 40- 67% lên đến 70 - 75% (ở các
thành phố lớn), khoảng 20 - 35 % (ở đô thị nhỏ), trung bình khoảng 55% (toàn quốc). Ở nông thôn,
tỉ lệ thu gom chất thải rắn ước đạt 10 -15%. Lượng chất thải rắn dự báo sẽ tăng lên nhiều trong
tương lai. Đến năm 2010, dự báo dân số đô thị sẽ là khoảng 30 triệu hoặc cao hơn, sản xuất và tiêu
thụ cũng sẽ tăng đáng kể. Tỷ lệ thu hồi chất thải rắn có khả năng tái chế khoảng 13 - 20%, trong
đó khoảng 1,5 - 5% tổng lượng chất thải hữu cơ được chuyển hoá thành phân vi sinh. Hiện nay có
32/61 đô thị trong cả nước có dự án đầu tư xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó có 13 đô
thị đã khởi công xây dựng.
5. Thiếu nước và ô nhiễm nước
a) Thực trạng tài nguyên nước
Việt Nam có mạng lưới sông ngòi dày đặc, trong đó có 13 hệ thống sông lớn có diện tích trên
10.000 km². Tài nguyên nước mặt tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy
13
Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
của các sông trên thế giới. Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km³,
chiếm tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, hệ thống sông Hồng 126,5
km³ (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 35,3 km³ (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng
chảy xấp xỉ nhau, khoảng 9 km³ (1%), các sông còn lại là 94,5 km³ (11,1%)
(5)
.
Ngoài hệ thống sông, Việt Nam có khoảng 3.600 hồ chứa với kích thước khác nhau, trong đó chưa
đến 15% là các hồ cỡ vừa và lớn. Ngoài ra Việt Nam có rất nhiều hồ tự nhiên, một trong những hồ
lớn phải kể đến là Ba Bể.
Tài nguyên nước ngầm của Việt Nam khá dồi dào với tổng trữ lượng tiềm năng khai thác được ước

tính 60 tỷ m³ mỗi năm, nhưng dao động từ mức rất nhiều ở vùng ĐBSCL đến khá khan hiếm ở Bắc
Trung Bộ. Tuy nhiên, tính chung cho cả nước chỉ chưa đầy 5% tổng trữ lượng được khai thác.
Tài nguyên nước mặt và nước ngầm là nguồn tài nguyên quý giá, góp phần quan trọng vào sự phát
triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, tài nguyên nước ở Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều
thách thức, trong đó đáng kể nhất là tình trạng suy kiệt và ô nhiễm trên diện rộng.
b) Suy kiệt nguồn nước
Theo số liệu thống kê, tổng trữ lượng nước mặt của Việt Nam đạt khoảng hơn 830-840 tỷ m³, trong
đó hơn 60% lượng nước được sản sinh từ nước ngoài
(6)
. Tình trạng suy kiệt nguồn nước trong hệ
thống sông, hồ chứa trên cả nước đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là
do khai thác quá mức tài nguyên nước và ảnh hưởng của BĐKH.
Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế về tài nguyên nước, ngưỡng khai thác được phép giới hạn
trong phạm vi 30% lượng dòng chảy. Thực tế hiện nay, hầu hết các tỉnh miền Trung và Tây nguyên
đã và đang khai thác trên 50% lượng dòng chảy. Riêng tại tỉnh Ninh Thuận, hiện các dòng chảy đã
bị khai thác tới 70-80%. Việc khai thác nguồn nước đã làm suy thoái nghiêm trọng về số lượng và
chất lượng tài nguyên nước trên các lưu vực sông lớn của Việt Nam như sông Hồng, Thái Bình và
sông Đồng Nai.
Do ảnh hưởng của BĐKH, ở Việt Nam mùa mưa và lưu lượng mưa đang có xu hướng diễn biến thất
thường nên hạn hán hoặc úng ngập cục bộ xảy ra thường xuyên và trên diện rộng hơn. Sự suy kiệt
và diễn biến thất thường của các nguồn tài nguyên nước phản ánh thực tế Việt Nam đã và đang
đứng trước nguy cơ thiếu nước về mùa khô, lũ lụt về mùa mưa gây nhiều thiệt hại về người và của
trên nhiều vùng.
c) Ô nhiễm nguồn nước
Môi trường nước hiện nay bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là theo các lưu vực sông và
ở các khu đô thị, khu công nghiệp.
5
Nguồn: Cục Quản lý Tài nguyên Nước (Báo cáo môi trường Quốc gia năm 2010)
6
Theo />

×