Tải bản đầy đủ (.doc) (177 trang)

Công tác vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.79 KB, 177 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Sinh thời, Hồ Chí Minh dành rất nhiều sự quan tâm cho đồng bào các dân
tộc thiểu số (DTTS). Người khẳng định đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Gia Rai hay Ê Ðê, Xê Ðăng hay Ba Na và các DTTS khác, đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt. Vì vậy, cần phải đồn kết, thương u, giúp đỡ nhau.
Người nhấn mạnh: “Đồng bào các dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì
đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được” [116, tr.169]. Người đã trực tiếp làm
công tác vận động, tuyên truyền, cổ vũ đồng bào các DTTS tham gia phong trào
cách mạng, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; đào tạo đội ngũ cán bộ từ
những người con ưu tú của đồng bào các DTTS thành những “hạt giống đỏ”, góp
phần phát triển phong trào cách mạng. Đặc biệt, Hồ Chí Minh luôn nêu vấn đề phải
làm sao để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các DTTS, làm
cho miền núi tiến kịp với miền xuôi. Người chỉ rõ phần trách nhiệm của các bộ,
ngành ở Trung ương đối với đồng bào miền núi: “Ta không thể để cho đồng bào
sống cực khổ mãi như thế được…Các ngành phải chú trọng tiến hành công tác ở
miền núi” [114, tr.181]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động quần chúng
(CTVĐQC) nói chung và vận động đồng bào DTTS nói riêng, khơng chỉ có giá trị
trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà cịn có giá trị bền vững, lâu dài đối với sự
phát triển của đất nước. Do đó, tiếp tục nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về vận động quần chúng trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là ở vùng có
đơng đồng bào DTTS - nơi đang bị các thế lực thù địch tìm cách lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo, nhân quyền để gây bất ổnlà công việc quan trọng, cấp bách, đặt
ra nhiệm vụ cho cấp ủy, chính quyền và hệ thống chính trị các cấp, các địa phương
phải tập trung giải quyết.
Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của cao nguyên Nam Trung Bộ,
có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị và an ninh - quốc phịng khơng chỉ đối


với Tây Nguyên mà còn đối với cả nước. Đắk Lắk đồng thời là một địa phương
mang những nét đặc trưng điển hình của khu vực Tây Nguyên (bao gồm Kon Tum,
Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, và Lâm Đồng). Trong quá khứ, các dân tộc nơi đây


2
đã đồn kết, anh dũng chiến đấu, góp phần tạo nên thắng lợi vẻ vang cho sự
nghiệp
cách mạng giải phóng, thống nhất đất nước. Ngày nay, trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk hiện có 49 dân tộc cùng chung sống trong đó bao gồm dân tộc Kinh, các
DTTS tại chỗ và các DTTS phía Bắc mới di cư đến. Thời gian gần đây, với tất cả
sự nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền, và các tầng lớp nhân dân, kinh tế của Đắk
Lắk đã có bước phát triển mạnh mẽ, đổi thay tích cực. Tuy nhiên, kinh tế Đắk
Lắk vẫn chưa tạo ra bước phát triển bền vững do năng suất lao động còn thấp, sự
phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế chưa được khai thác hết, một bộ
phận người dân cịn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Địa
giới hành chính tỉnh Đắk Lắk rộng, địa bàn khá hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, mật
độ dân cư phân bố khơng đồng đều, trình độ dân trí của phần đơng các DTTS cịn
thấp. Cơng tác giảm nghèo cịn chưa mang tính bền vững, số hộ cận nghèo lớn, tỷ
lệ hộ nghèo cao so với bình qn cả nước, trong đó phần đông là đồng bào DTTS.
Các thế lực thù địch, lực lượng chống đối chính trị tiếp tục lợi dụng vấn đề “dân
tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” để kích động, chống phá quyết liệt, tìm mọi
cách chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Việc tuyên truyền, giải thích, vận động
đồng bào DTTS vẫn cịn đơi lúc chưa thật sự hiệu quả vì nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, do đó những luận điệu xuyên tạc phản động, sai sự thật của các
thế lực thù địch vẫn cịn những ảnh hưởng nhất định. Đây chính là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng một số người dân đặc biệt là đồng bào
DTTS bị lôi kéo, dụ dỗ vượt biên trái phép, tham gia các hoạt động gây rối, làm
mất ổn định chính trị. Sự bùng nổ của mạng xã hội tạo ra các thách thức cho công
tác vận động đồng bào DTTS. Vận động đồng bào DTTS tiếp tục phát huy những

truyền thống yêu nước, đoàn kết, nỗ lực vươn lên hòa cùng sự phát triển của cả
dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền và cả hệ
thống chính trị. Vì vậy, vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
CTVĐQC sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào DTTS,
giúp đồng bào nhận diện được đúng – sai, biết điều gì nên làm, điều gì khơng nên
làm, góp phần làm thất bại những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.


3
Để củng cố và phát huy khối đại đoàn kết tồn dân tộc, đưa những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào đời sống đồng bào, từng bước góp
phần để Đắk Lắk trở thành địa phương phát triển mạnh mẽ và bền vững, là
trungtâm của khu vực Tây Nguyên, việc thực hiện công tác vận động đồng bào
DTTS theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề vơ cùng cần thiết. Nghiên cứu sâu sắc
những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, hoạch định những giải pháp phù hợp với thực
tiễn công tác vận động động bào DTTS càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng của những vấn đề nêu trên,
nghiên cứu sinh chọn vấn đề Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh
Đắk Lắk hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Hồ
Chí Minh học.
2.
2.1.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Luận án góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về CTVĐQC, vận động
đồng bào DTTS, sự vận dụng tư tưởng này vào công tác vận động đồng bào DTTS
tỉnh Đắk Lắk. Đề tài đề xuất một số phương hướng và giải pháp thực hiện công tác
vận động đồng bào DTTS ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nói trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
-

Phân tích, luận giải các khái niệm: CTVĐQC, tư tưởng Hồ Chí Minh về

CTVĐQC, về công tác vận động đồng bào DTTS; phân tích nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về CTVĐQC, vận động đồng bào DTTS.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên

nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong công tác vận động đồng
bào DTTS tỉnh Đắk Lắk hiện nay nhìn từ tư tưởng Hồ Chí Minh.
-

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác vận động đồng bào DTTS

tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng
công tác vận động đồng bào DTTS tỉnh Đắk Lắk hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.


4
3.
3.1.


Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

-

Tư tưởng Hồ Chí Minh về CTVĐQC, vận động đồng bào DTTS.

-

Công tác vận động đồng bào DTTS tỉnh Đắk Lắk hiện nay theo tư

tưởng Hồ Chí Minh.
3.2.
-

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Tác giả tập trung làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí

Minh về CTVĐQC, vận động đồng bào DTTS.
-

Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu công tác vận động

đồng bào DTTS theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở tỉnh Đắk Lắk.
-

Phạm vi thời gian: Tác giả khảo sát công tác vận động đồng bào DTTS

tỉnh Đắk Lắk từ góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh (2015 – 2021).

4.
4.1.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTVĐQC;
đặc biệt, tập trung vào công tác vận động đồng bào DTTS.
4.2.
-

Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tác giả luận án

sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, như: Phương pháp lịch sử và
logic, phương pháp văn bản học, phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh,
phương pháp liên ngành, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia.
-

Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng

hợp, thống kê và so sánh ở chương 1, 2, và 4 để làm rõ những vấn đề nghiên cứu
đã được giải quyết, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về CTVĐQC, vận động đồng
bào DTTS, phân tích phương hướng và giải pháp thực hiện công tác vận động
đồng bào DTTS tỉnh Đắk Lắk hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh; sử dụng
phương pháp khảo sát thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia ở chương 3 để làm rõ
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của công tác vận động đồng bào DTTS
tỉnh Đắk Lắk theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian qua.



5
5.
-

Đóng góp mới của luận án
Luận án đi sâu làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động

đồng bào DTTS.
-

Luận án góp phần làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và

những vấn đề đang đặt ra đối với công tác vận động đồng bào DTTS tỉnh Đắk
Lắk dướigóc nhìn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
nâng cao chất lượng công tác vận động đồng bào DTTS tỉnh Đắk Lắk hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6.
6.1.
-

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận
Luận án góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về CTVĐQC, vận động

đồng bào DTTS, khẳng định giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh.
-

Luận án phân tích, làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân giúp


cho các cấp ủy Đảng, chính quyền của tỉnh Đắk Lắk nhận thức sâu sắc hơn về vai
trò, ý nghĩa của công tác vận động đồng bào DTTS. Kết quả nghiên cứu của luận
án là cơ sở khoa học cho các cơ quan chức năng tham khảo để hoạch định chính
sách, chương trình, kế hoạch …phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội vùng đồng bào
DTTS tỉnh Đắk Lắk.
-

Luận án đề xuất phương hướng, giải pháp thực hiện công tác vận

động đồng bào DTTS tỉnh Đắk Lắk hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6.2.

Về thực tiễn

Kết quả nghiên cứu đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để
nghiên cứu, học tập, giảng dạy, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về
CTVĐQC, vận động đồng bào DTTS; luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ nghiên cứu về CTVĐQC của cơ quan Đảng, Nhà nước, vận dụng vào
công tác vận động đồng bào DTTS tỉnh Đắk Lắk nói riêng, Tây Ngun nói chung.
7.

Kết cấu của luận án

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình nghiên cứu của
tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 12 tiết.


6
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN
1.1.1.

Nghiên cứu về công tác vận động quần chúng

Trong tác phẩm Làm gì (1957), V.I.Lênin đã đưa ra khái niệm tuyên truyền
cổ động, phân tích tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, lực lượng, đối tượng
và phương pháp tuyên truyền của Đảng của giai cấp công nhân. Đối với việc xây
dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền, Lênin nêu quan điểm: “Hàng tuần
nên tổ chức giảng cho họ vài bài và biết kịp thời điều động họ đến những thành thị
khác, nói chung tổ chức cho những người có khả năng tuyên truyền đi thăm các thị
trấn” [97, tr.115].
Sách Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới (2005) [26] của Ban
Tuyên huấn trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra những nội dung cơ
bản của công tác tuyên truyền. Trọng điểm công tác tuyên truyền tư tưởng là xây
dựng lý luận; hướng dẫn dư luận; giáo dục tư tưởng; xây dựng đội ngũ. Lý
luận phải chỉ đạo dư luận, dư luận tuyên truyền lý luận, giáo dục tư tưởng là căn
bản, xây dựng đội ngũ là cái bảo đảm. Tuyên truyền lý luận bao gồm cả việc tuyên
truyền và giải thích đường lối, phương châm, chính sách của Đảng, kết hợp với
thực tế của công cuộc cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa, kịp thời tuyên
truyền về mặt lý luận để những chủ trương, đường lối, chính sách đó đi sâu vào
lịng người. Về phương thức và phương tiện tun truyền lý luận có báo, tạp chí,
sách, phát thanh, truyền hình, báo điện tử. Phải xây dựng đội ngũ những người làm
công tác tuyên truyền vững vàng về chính trị, tinh thơng nghiệp vụ, có ý thức kỷ

luật nghiêm, có tác phong đúng đắn.
Trong sách Cơng tác dân vận của các cơ quan nhà nước trong thời kỳ mới
(2005) [138], các tác giả đã tập trung làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhà
nước dân chủ tư tưởng Hồ Chí Minh; mối quan hệ giữa Chính phủ với nhân dân là


7
quan hệ gắn bó, máu thịt… Các tác giả đã đánh giá thực trạng, đề xuất những
kiếnnghị về công tác dân vận chính quyền cơ sở và một số kinh nghiệm thực tiễn
về CTVĐQC ở trung ương và một số địa phương.
Trần Thị Anh Đào trong sách Công tác tư tưởng trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2009) [64] cho rằng trong điều kiện trình độ
dân trí ngày càng cao, bùng nổ thơng tin như hiện nay, kiểu tun truyền một
chiều, độc thoại khơng cịn thích hợp. Thay vào đó, cần tăng cường các phương
pháp phát triển tư duy sáng tạo như: đối thoại, nêu vấn đề, phương pháp “dùng
quần chúng giáo dục quần chúng” thông qua các mơ hình, điển hình tiên tiến
người thật, việc thật. Tuyên truyền miệng cần phải kết hợp với các phương tiện
trực quan như băng ghi âm, ghi hình, biểu đồ, bản đồ, sơ đồ, công thức, tranh ảnh
… để nâng cao hiệu quả.
Tác giả Chu Chí Hịa trong sách Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông
thôn (2010) [82] đã phân tích thực tiễn Trung Quốc, từ đó khẳng định cơng tác
quần chúng nơng thơn có làm tốt hay khơng có ảnh hưởng đến sự phát triển và ổn
định của Trung Quốc. Người cán bộ ở nông thôn phải tích cực nghiên cứu những
chuyển biến mới trong đời sống kinh tế - xã hội và những đặc điểm mới trong công
tác vận động nông dân; đổi mới phương thức làm việc, chú ý thuyết phục, giáo dục
để giải quyết tốt những vấn đề và mâu thuẫn nội bộ của người dân nông thôn. Cán
bộ ở nông thôn phải phải hiểu được những khó khăn và tình hình thực tế của người
dân ở nơng thơn, có cách làm hợp ý dân.
Trong cuốn sách Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng hiện

nay (2011) [145], tác giả Ngơ Huy Tiếp đã phân tích cấu trúc của cơng tác tư
tưởng gồm 3 bộ phận. Đó là: cơng tác lý luận, công tác tuyên truyền cổ động và
công tác văn hóa, văn nghệ trong đó cơng tác tun truyền cổ động là một bộ phận
quan trọng, giữ vai trị xung kích trên mặt trận tư tưởng. Cơng tác tuyên truyền
cổ động có nhiệm vụ phổ biến đường lối chủ trương, chính sách và pháp luật của
Đảng và Nhà nước cho nhân dân; cổ vũ, động viên tinh thần của nhân dân; tổ
chức các phong trào cách mạng và phong trào thi đua của quần chúng; đấu tranh
chống các thế lực phản động. Các hình thức tuyên truyền chủ yếu là: tuyên truyền


8
bằng các phương tiện thông tin đại chúng; mạng lưới truyền thanh nội bộ; lễ hội
văn hóa – thể thao ở cơ sở; sinh hoạt của các tổ chức đảng, đồn thể, chính
quyền ở cơ sở;tun truyền miệng. Theo tác giả, công tác tuyên truyền cần kịp
thời tổ chức, hướng dẫn suy nghĩ, hành động của quần chúng theo đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn của
các thế lực thù địch xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ta; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và biểu dương,
khuyến khích những tấm gương tiêu biểu; tăng cường mối quan hệ trực tiếp, sinh
động giữa Đảng với quần chúng nhân dân, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời nhân
dân của cán bộ, công chức trong bộ máy công quyền; Làm cho cán bộ, đảng
viên của Đảng và quần chúng nhân dân hiểu rõ những thời cơ và nguy cơ của
cách mạng Việt Nam để đoàn kết tồn dân.
Luận án tiến sĩ Đổi mới cơng tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên trong
giai đoạn hiện nay của tác giả Trương Minh Tuấn (2010) [154] đã chỉ ra việc đổi
mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên là một nhu cầu khách quan, vừa cơ
bản, vừa cấp bách. Đồng thời, trên cơ sở phân tích tình hình cơng tác tư tưởng của
Đảng ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010, tác giả đã nêu ra một số nhóm
giải pháp: Nhóm giải pháp về nhận thức, về đổi mới nội dung và phương pháp
công tác tư tưởng, về công tác cán bộ làm công tác tư tưởng, về chế độ, chính sách

và tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện.
Cơng trình Làm tốt cơng tác quần chúng trong tình hình mới – Kinh nghiệm
Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam (2012) [87] do Hội đồng lý luận trung ương
biên soạn từ kết quả của Hội thảo khoa học giữa 2 Đảng, có nhiều bài viết đã khái
quát những bài học kinh nghiệm về công tác quần chúng.
Tác giả Lưu Vân Sơn (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng Ban
Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc) cho rằng cơng tác tun
truyền tư tưởng, văn hóa về bản chất chính là cơng tác quần chúng. Nhiệm vụ của
cơng tác tuyên truyền tư tưởng, văn hóa là tuyên truyền cho quần chúng, động viên
quần chúng, phục vụ quần chúng. Cần phải cải tiến và đổi mới phương thức và
phương pháp, sử dụng các hình thức và biện pháp mà quần chúng ưa thích, nỗ lực


9
tăng cường tính hướng đích và tính hiệu quả của cơng tác quần chúng. Sự hài
lịngcủa nhân dân là tiêu chuẩn hàng đầu, là thước đo căn bản của công tác tuyên
truyền tư tưởng, văn hóa.
Tác giả Lý Trung Kiệt (Phó Chủ nhiệm Phịng Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc) nêu kinh nghiệm quý báu của Đảng
Cộng sản Trung Quốc trong việc thực hiện công tác quần chúng là phải kiên trì
làm tốt cơng tác chính trị tư tưởng, khơng ngừng nâng cao sự giác ngộ tư tưởng
của quần chúng nhân dân. Cơng tác chính trị tư tưởng là biện pháp quan trọng của
công tác quần chúng. Muốn huy động tính tích cực của quần chúng, vừa cần dựa
vào lợi ích thiết thực, vừa cần dựa vào cơng tác chính trị tư tưởng.
Sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân
vận (2014) [122] tập hợp các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
lãnh đạo bộ, ban, ngành, các nhà khoa học về những nội dung: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận; đổi mới nội dung, phương thức vận động quần chúng; xây dựng
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đổi mới công tác dân vận nhằm đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; dân

vận và thực hiện công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh… Các tác giả nhấn
mạnh thành tựu của công cuộc đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Công tác vận động quần chúng đã có sự thay đổi về nội dung,
phương thức. Tổ chức những cuộc họp, bàn bạc, giải quyết những vấn đề bức xúc
của đoàn viên, hội viên, quần chúng tại chỗ đặt ra về sản xuất kinh doanh cho tốt,
văn hóa, xã hội, an ninh, trật tự phù hợp với điều kiện thực tế của quần chúng tại
chỗ. Cán bộ đoàn thể đi sâu, hiểu nhiều về các lĩnh vực để tuyên truyền, vận động,
phổ biến cho đoàn viên, hội viên và quần chúng thực hiện.
Sách Một số vấn đề về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay (2015)
[151], tập hợp một số bài viết đã đăng báo, kỷ yếu hội thảo của tác giả Nguyễn Thế
Trung - Phó Trưởng ban Thường trực ban Dân vận Trung ương. Tác giả đã
phân tích những vấn đề cơ bản: quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân
vận để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới; đẩy mạnh phong trào thi đua “dân vận khéo”
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay; tăng cường mối quan hệ


10
Đảng – Dân trong giai đoạn hiện nay; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả
cơng tác dân vậntrong tình hình mới; nâng cao chất lượng vận động nhân dân xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; vai trị và ý nghĩa của công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngồi trong cơng tác dân vận của Đảng…Tác giả nêu lên một số
nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới nội dung, phương pháp CTVĐQC của Đảng là:
nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức về CTVĐQC; nâng
cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước, ban hành các
chính sách hợp lịng dân; phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân, trách nhiệm của đoàn viên, hội viên, già làng, trưởng bản, trưởng dịng họ,
người có uy tín trong CTVĐQC của Đảng; thực hiện rộng rãi và có hiệu quả các
chủ trương, chính sách về đại đồn kết tồn dân tộc, về cơng tác dân tộc, công
tác tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngồi.
Trong sách Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác dân vận của Đảng trong

thời kỳ mới (2015) [94], các tác giả đã phân tích 3 vấn đề chính: Cơ sở lý luận,
thực tiễn về dân vận, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng
trong thời kỳ mới; Chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong những
năm thực hiện đường lối đổi mới – thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm; Quan
điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận
của Đảng trong thời kỳ mới. Trong phần giải pháp, các tác giả đã đưa ra nhiều giải
pháp, trong đó đối với đồng bào DTTS, cần thực hiện những giải pháp cụ thể sau:
Kiên trì nguyên tắc “Bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”;
Khơng ngừng đổi mới và hồn thiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước;
đổi mới phương thức quản lý, điều hành việc thực hiện các chương trình, dự án
kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào DTTS; Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS; Chăm lo củng cố, xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở vùng đồng bào DTTS trong sạch, vững mạnh; Coi trọng công tác
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người DTTS; Làm tốt công tác bảo
tồn, phát huy, phát triển văn hóa các DTTS; Giải quyết vấn đề dân tộc cần gắn liền
với vấn đề tôn giáo; tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
Sách Xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận người DTTS trong thời kỳ mới


11
(2016) [131] đã phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vàĐảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận và xây dựng đội ngũ cán bộ
dân vận người DTTS; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ dân vận người DTTS qua
30 năm đổi mới. Trên cơ sở thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm, các tác giả
đưa ra những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS đến năm
2025 và tầm nhìn đến 2030.
Cơng trình Cơng tác tư tưởng trong điều kiện hiện nay: Thực trạng, vấn đề
đặt ra và giải pháp (2018) [88] là sản phẩm của Hội thảo lý luận lần thứ sáu giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào được tổ chức tại
Viêng Chăn tháng 7/2018. Trong bài viết Tăng cường công tác tư tưởng trong điều

kiện mới là nhiệm vụ chiến lược và cấp bách của Đảng Nhân dân cách mạng Lào,
tác giả Kikẹo Khảykhămphịthun – Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên
huấn Trung ương – đã khẳng định Đảng nhân dân cách mạng Lào coi công tác tư
tưởng là công tác chiến lược và nhiệm vụ cấp bách. Một trong các nhiệm vụ
chủ yếu và cấp bách trong thời gian tới của Đảng là đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, báo cáo viên, nghiên
cứu khoa học xã hội, chính trị, nghệ sĩ, nhà văn, ca sĩ, người phát ngơn, biên tập
viên, … để có đủ năng lực tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước gắn với việc bảo vệ và phát triển đất nước trong giai đoạn mới
một cách hiệu quả.
Bài viết Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, lý
luận trong điều kiện mới, tác giả Phuthắc Thípthạnuxỏn – Trợ lý Chánh Văn
phịng Trung ương Đảng, Ủy viên Hội đồng Khoa học xã hội quốc gia Lào – đã chỉ
ra kinh nghiệm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong việc lãnh đạo công tác
tư tưởng, lý luận. Đó là Đảng tập trung củng cố tổ chức và nhân lực, lựa chọn
người có năng lực, tài năng, đạo đức; củng cố chế độ, phương thức làm việc; tập
huấn nâng cao trình độ, tọa đàm cơng tác chuyên môn cho cán bộ làm công tác tư
tưởng, lý luận, đội ngũ phóng viên, biên tập viên, tác giả, nhà văn, nhà quảng cáo,
báo cáo viên; xây dựng lớp cán bộ kế cận có chọn lọc để cử đi đào tạo ở trong và
ngoài nước.


12
1.1.2.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động quần

chúng
Trong sách Mối quan hệ giữa Đảng và Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
(1997) [139], các tác giả đã phân tích: Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí

Minh về Dân và Đảng, mối quan hệ giữa Đảng và Dân; Thực trạng và nguyên nhân
tồn tại của mối quan hệ Đảng và Dân hiện nay; Tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và Dân trong thời kỳ mới. Theo các tác giả, nội dung chủ yếu mối quan hệ
giữa Đảng và Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với Dân là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo nên
sức mạnh to lớn của Đảng; Đảng dựa vào Dân, Dân tin vào Đảng là nhân tố bảo
đảm sự đúng đắn của đường lối và tạo nên cao trào cách mạng; Nêu cao vai trò
lãnh đạo của Đảng để phát huy quyền làm chủ của nhân dân; Đưa đường lối của
Đảng vào cuộc sống, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; Đảng cùng
dân kiên quyết chống tệ nạn tham ơ, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn khác trong
bộ máy của Đảng và Nhà nước. Nguyễn Thạc Hân trong sách Tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân vận (1998) [79] đã làm rõ những quan điểm của Hồ Chí
Minh về nội dung, phương thức dân vận, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước,
chính quyền với quần chúng nhân dân… Đồng thời, tác giả đã phân tích sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dânvận của Đảng, Nhà nước trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tác giả William J.Duiker đã khái quát cuộc đời hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh trong cuốn sách “Ho Chi Minh a life” (2000) [31]. Dù không đưa ra
những luận điểm cụ thể của Hồ Chí Minh về CTVĐQC nhưng tác giả đã đề cập
đến một số nội dung về việc Hồ Chí Minh thực hiện các hoạt động vận động, tuyên
truyền như: tham gia các hoạt động chính trị xã hội, câu lạc bộ Faubourg và ln
tích cực tranh luận, phát biểu; gửi Bản Yêu sách 8 điểm đến Hội nghị Verseille;
viết báo, sách... Tác giả cho rằng chính Hồ Chí Minh đã tận tay đưa bản Yêu sách
đó cho các thành viên chủ yếu của nghị viện và Tổng thống Pháp, cho các đoàn
đại biểu Đồng minh. Bằng các mối quan hệ của mình, Hồ Chí Minh đã công bố
bản Yêu sách trên báo Nhân đạo, phân phát hơn 6000 bản sao trên các đường phố


13
Pari. Đặc biệt, trong Phần 4, tác giả đã đề cập chi tiết các hoạt động hướng dẫn

cách thức vận động, tuyên truyền của Hồ Chí Minh cho các học viên lớp huấn
luyện của HộiViệt Nam Cách mạng Thanh niên. Theo William J.Duiker, Hồ Chí
Minh vừa là thầy giáo, vừa là cố vấn tinh thần, một người nghiêm khắc. Hồ Chí
Minh dạy học viên cách ăn nói, phát biểu, cách thơng cảm với nhân dân.
Hồng Quốc Bảo trong Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ
Chí Minh (2006) [22] đã làm rõ nguồn gốc, các khái niệm và những đặc trưng cơ
bản của phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh. Tác giả phân tích 3 đặc trưng cơ
bản trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh gồm: tính khoa học và tính cách
mạng, tính đại chúng và tính nghệ thuật, kết hợp giữa lời nói với hành động. Tác
giả đã đánh giá, phân tích thực trạng phương pháp tuyên truyền của cán bộ tư
tưởng cấp tỉnh và huyện, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm vận dụng phương
pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh để đổi mới phương pháp tuyên truyền của cán bộ
tư tưởng cấp tỉnh, huyện của Đảng hiện nay, cụ thể: Đẩy mạnh việc nghiên cứu,
học tập phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh; Quán triệt sâu sắc sự thống nhất
giữa lời nói và việc làm trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh; Nâng cao
năng lực trình độ, tạo điều kiện cho cán bộ tư tưởng cấp tỉnh, huyện vận dụng sáng
tạo phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh; Tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy,
huyện ủy đối với việc vận dụng phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh để đổi
mới phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ tư tưởng hiện nay.
Sách Đồng chí Hồ Chí Minh của E. Cơ bê lép (2010) [75] đã tái hiện một
cách sinh động cuộc đời, sự nghiệp, nhân cách, phẩm chất đạo đức của Hồ Chí
Minh. Đặc biệt, tác giả đã đề cập đến các hoạt động báo chí – một trong những
cách thức được sử dụng để vận động quần chúng - của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cơ
bê lép nhận định, thời gian ở Matxcơva, Nguyễn Ái Quốc tỏ rõ là một ký giả có
tầm cỡ quốc tế. Anh viết nhiều, đặc biệt là cho Tạp chí “Thư tín Quốc tế” - cơ quan
ngôn luận của Ban chấp hành Quốc tế cộng sản. Người lãnh đạo tạp chí này đã
nhận xét Nguyễn Ái Quốc là một trong những cộng tác viên tích cực nhất của Tạp
chí cho đến năm 1939 - năm Tạp chí đình bản.
Tác giả Nguyễn Bá Quang trong sách Học tập và làm theo phong cách “Dân



14
vận khéo” Hồ Chí Minh (2013) [126] đã phân tích những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận khéo; những tiêu chí về mơ hình và điển hình
dânvận khéo ở một số cơ sở; đề xuất một số nội dung và phương pháp nhằm hiện
thực hóa tư tưởng “Dân vận khéo” của Người trong giai đoạn hiện nay, đó là: thực
hành dân chủ, nêu gương; cải cách thủ tục hành chính; thực hiện kỹ năng “nghe
dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; đổi mới công tác cán bộ dân vận. Tác giả
khẳng định dân vận là công tác khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật. Người cán bộ
làm cơng tác dân vận phải có tâm và có tài.
Phạm Duy Hồng trong bài viết Nội dung, phương pháp vận động quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh (2018) [84] đã phân
tích 2 nội dung cơ bản là: tất cả vì dân, thực hành dân chủ và đồn kết tồn dân
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc và phương pháp bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở để
có nội dung, phương pháp và hình thức vận động quần chúng phù hợp, hiệu quả.
Theo tác giả, “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” là địi hỏi
đối với lực lượng Công an nhân dân khi tổ chức xây dựng phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đối với những vùng dân tộc dân tộc, miền núi, cán bộ
chiến sĩ phải thực hiện 4 cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc;
4 bám: bám thôn bản, bám dân, bám đối tượng, bám cán bộ cơ sở. Thực hiện
phương châm dùng người thật, việc thật để vận động, theo phương thức địch tuyên
truyền ở đâu ta vận động ngay đó bằng tiếng nói của những đối tượng chống đối
sau khi được cảm hóa để vạch mặt kẻ xấu, không để người dân bị lừa bịp.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “70 năm tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh” (2019) [14] gồm nhiều bài viết đi sâu làm rõ 2 chủ đề: Tác phẩm Dân vận –
Giá trị lý luận và thực tiễn; Tác phẩm Dân vận với công tác dân vận trong giai
đoạn hiện nay. Trong chủ đề thứ nhất, các nhà khoa học đã phân tích những nội
dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận: dân vận khéo, phương
pháp dân vận, đội ngũ cán bộ dân vận, mối quan hệ giữa dân chủ và dân vận, tinh

thần “nói đi đơi với làm”, những bài học mang giá trị trường tồn với cách mạng
Việt Nam từ tác phẩm Dân vận.


15
Tác giả Nguyễn Minh Tuấn trong bài viết “Quan điểm dân vận trong bài
Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh” cho rằng theo Hồ Chí Minh cơng tác dân vận
là nhiệm vụ chiến lược của Đảng vì “dân vận khéo, việc gì cũng thành cơng”;
cơngtác dân vận là của cả hệ thống chính trị, tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân;
công tác dân vận phải được tiến hành một cách đầy đủ, khoa học; cán bộ, đảng
viên phải thực sự nêu gương.
Tác giả Trần Minh Trưởng trong bài viết “Phương pháp dân vận qua bài
báo Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã làm rõ 3 phương pháp sau: “lấy dân
làm gốc”, “dân vận khéo” là phải biết phát huy dân chủ, phương pháp “nêu
gương”. Phương pháp “lấy dân làm gốc” là phải tôn trọng nhân dân, làm lợi cho
dân để dân hăng hái tham gia và ửng hộ cách mạng. Gốc rễ của tư tưởng “lấy dân
làm gốc” là vấn đề quan hệ máu thịt, gắn bó giữa Đảng với dân như Hồ Chí Minh
đã chỉ ra là không liên hệ chặt chẽ với dân nhất định thất bại. Phát huy dân chủ tức
là phải để cho dân thực sự được “làm chủ” và “là chủ”, người cán bộ dân vận phải
khiêm tốn học hỏi nhân dân, thành thực lắng nghe sự góp ý, phê bình của nhân
dân. “Nêu gương” là một trong những phương pháp vận động nhân dân hữu hiệu
nhất. Đảng viên, cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ trực tiếp làm cơng tác dân vận
phải là tấm gương nói đi đơi với làm, nói ít làm nhiều, nói được làm được, chưa
làm được thì chưa nói. Cán bộ, đảng viên càng giữ chức vụ cao càng phải hết sức
nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống mọi lúc, mọi nơi.
Trong bài viết “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong tác phẩm Dân vận”, tác giả Hoàng Phúc Lâm làm rõ lực lượng
phụ trách công tác dân vận theo Hồ Chí Minh là tất cả cán bộ chính quyền, cán bộ
đoàn thể và hội viên của các tổ chức nhân dân. Tác giả phân tích: yêu cầu Hồ Chí
Minh đặt ra đối với cán bộ làm công tác dân vận là “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe,

chân đi, miệng nói, tay làm”. Đây vừa là tiêu chuẩn của cán bộ dân vận, vừa là
phương pháp thực hiện có hiệu quả công tác dân vận. Trên cơ sở những tiêu chuẩn
này, để đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ dân vận phải
có uy tín cao, thuyết phục giỏi và khéo tuyên truyền.
Nhóm tác giả Hồ Trọng Hoài - Nguyễn Anh Tuấn trong bài viết “Về mối


16
quan hệ giữa dân chủ và dân vận qua tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh” đã làm rõ các luận điểm của Hồ Chí Minh: dân chủ là cơ sở lý luận,
địnhhướng nội dung, phương thức, mục tiêu của dân vận; đồng thời, dân vận là
phương thức, con đường, biện pháp cơ bản để thực hành dân chủ. Trong chế độ
dân chủ, vận động nhân dân là trách nhiệm, nghĩa vụ vinh quang của mỗi cán bộ,
đảng viên và tồn hệ thống chính trị. Các tác giả đưa ra những giải pháp thực
hiện dân chủ, dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: đổi mới, nâng cao
nhận thức cho tất cả cán bộ, đảng viên; bổ sung, hồn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật; thực hiện dân vận, dân chủ đầy đủ, nghiêm túc, sáng tạo theo đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; khen thưởng mơ hình
tốt, điển hình hay và xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm.
Nhóm tác giả Lâm Quốc Tuấn – Lê Hoàng Trang trong bài viết “Thực hiện
dân chủ theo tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh – một số bài học kinh
nghiệm” đã phân tích phương châm tiến hành cơng tác dân vận của Hồ Chí Minh:
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng. “Dân biết” tức là quyền của
dân được nhận thông tin. “Dân biết” là một trong những điều kiện của dân
chủ, đồng thời là cơ sở của vấn đề dân bàn, dân kiểm tra. “Dân bàn” không chỉ là
bàn để thực hiện nhiệm vụ mà cịn là bàn góp vào việc đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước. “Dân làm” là hệ quả tất yếu trong quy trình dân
biết, dân bàn. Nếu dân khơng làm thì sẽ khơng có kết quả và chứng tỏ rằng
hoặc là chủ trương không đúng, hoặc là dân chưa được biết, chưa được bàn. “Dân
kiểm tra” có tác dụng quan trọng trong q trình xây dựng Đảng, chính quyền

trong sạch, vững mạnh. Nếu thực hiện khơng tốt quy trình dân kiểm tra thì cả chủ
trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” sẽ bị đổ vỡ. “Dân hưởng” tức là
bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Nếu dân khơng được hưởng những thành quả do
chính mình làm ra thì khơng thể tạo ra động lực cách mạng.
Trong chủ đề thứ hai của Hội thảo khoa học “70 năm tác phẩm Dân vận của
Chủ tịch Hồ Chí Minh” [14]: Tác phẩm Dân vận với công tác dân vận trong giai
đoạn hiện nay, các nhà nghiên cứu phân tích sự vận dụng tư tưởng dân vận của Hồ
Chí Minh trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, trong việc vận động tập


17
hợp cơng nhân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, đồng bào DTTS,
ngườiViệt Nam ở nước ngoài; trong công tác dân vận của Quân đội, Công an…
Đặc biệt, trong bài viết “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận qua
bài báo Dân vận trong việc nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào DTTS
hiện nay”, tác giả Lê Văn Lợi cho rằng cần quán triệt sâu sắc tư tưởng dân vận của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào cơng tác vận động đồng bào DTTS, chú ý 5 vấn đề sau:
Nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ, từ đó đổi mới
nhận thức về hoạch định chủ trương, chính sách đối với các DTTS; Tiếp tục hồn
thiện thể chế, tạo mơi trường dân chủ để phát huy vai trò, sức mạnh của đồng bào
DTTS trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; Tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS;
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức tiến hành dân vận chính quyền trong vùng
đồng bào DTTS; Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và tăng cường bộ máy, đội ngũ cán bộ
làm công tác dân vận trong vùng đồng bào DTTS.
Bài viết “Đoàn kết, tập hợp, phát huy nguồn lực của thanh niên trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh” của
Trung ương Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã luận giải khái niệm dân
vận, quy trình của cơng tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh và những giải pháp

Đồn đã thực hiện để nâng cao hiệu quả cơng tác thanh vận. Quy trình cơng tác
dân vận được Hồ Chí Minh chỉ ra gồm 4 bước: Giải trình cho dân hiểu rõ quyền lợi
và nhiệm vụ của họ (dân biết); Bàn bạc với dân, hỏi ý kiến, kinh nghiệm của dân
(dân bàn); Động viên và tổ chức toàn dân thi hành (dân làm); Cùng với dân kiểm
thảo, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng (dân kiểm tra). Thấm nhuần tư tưởng
dân vận của Hồ Chí Minh, Đồn Thanh niên đã kế thừa và vận dụng sáng tạo trong
công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên 4 giải pháp: Đảm bảo nhận thức đúng đắn và
ngang tầm về thanh niên và công tác vận động thanh niên; Mở rộng mặt trận đoàn
kết, tập hợp các tầng lớp thanh niên, quan tâm đến những nhóm thanh niên đặc thù
và thanh niên yếu thế; Chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp và nhu cầu chính đáng
của thanhniên; Đồn và Hội đảm bảo quyền tiếp cận thơng tin, chính sách, pháp


18
luật và sự tham gia của thanh niên.
Bài viết của Ban Cán sự Đảng Bộ Nội vụ “Vận dụng tư tưởng về cơng tác
dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua bài báo Dân vận trong việc tăng cường và
đổi mới cơng tác dân vận chính quyền hiện nay” đã nêu lên một số nhiệm vụ và
giải pháp như: hoàn thiện thể chế theo hướng phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, quyền công dân theo tinh thần của Hiến pháp 2013; đổi mới hoạt động của cơ
quan nhà nước theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, thân thiện và gần dân;
đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo”.
Luận án tiến sĩ “Công tác dân vận trong đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam
Bộ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Nguyễn Phấn Đấu (2019) [71] đã
làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận: vai trò, nội dung, lực lượng,
phương pháp, ý nghĩa lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân
vận. Đồng thời tác giả đã phân tích thực trạng cơng tác dân vận trong đồng bào
Khmer Tây Nam Bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đề xuất phương hướng, giải pháp
thực hiện công tác dân vận hiệu quả hơn. Năm giải pháp cụ thể là: nâng cao ý thức
trách nhiệm của hệ thống chính trị và đồng bào dân tộc Khmer; tập trung phát

triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc Khmer; đổi mới nội
dung, phương thức tuyên truyền, vận động đồng bào Khmer phù hợp với bối cảnh
hiện nay; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm
trong vận động đồng bào Khmer; thực hiện tốt công tác cán bộ và phát huy vai trị
người có uy tín trong đồng bào dân tộc Khmer.
1.1.3.

Nghiên cứu về công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số ở

Tây Nguyên và tỉnh Đắk Lắk
Tác giả Nguyễn Thế Huệ trong sách Người cao tuổi dân tộc và già làng
trong phát triển bền vững Tây Ngun (2008) [90] đã phân tích vai trị và những
đóng góp của người cao tuổi dân tộc và già làng trong phát triển bền vững Tây
Nguyên. Tác giả khẳng định họ chính là lực lượng nịng cốt trong CTVĐQC ở địa
phương, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và chính quyền. Do đó, cần có chính
sách, chế độ thỏa đáng cho họ.


19
Lê Xuân Hảo trong bài viết Đắk Lắk: Coi trọng đổi mới nội dung tuyên
truyền trong vùng đồng bào DTTS (2009) [77] đã đánh giá ưu điểm và cả những
tồn tại của cơng tác tun truyền. Từ đó chỉ ra sự cần thiết phải chú trọng đổi mới,
nâng cao chất lượng nội dung thông tin tuyên truyền. Giải pháp thực hiện là:
Các cấp ủy, chính quyền cần thực sự quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát
công tác tư tưởng; có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan chức năng,
khắc phục tình trạng khốn trắng cho bộ phận làm công tác tư tưởng. Phát huy sức
mạnh của hệ thống thông tin tuyên truyền: sách, báo, phát thanh, truyền hình,
thơng tin cổ động… Đổi mới phương pháp tuyên truyền, vận động đồng bào bằng
những việc làm cụ thể, thiết thực. Coi trọng công tác giáo dục, thuyết phục và
thơng qua những người có uy tín như già làng, trưởng bn… Hình thức tun

truyền phải phong phú, đa dạng, phù hợp, kết hợp tiếng phổ thông với tiếng các
dân tộc như Ê Đê, M’nông. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào.
Tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc, tơn giáo của Đảng, Nhà nước.
Trương Minh Dục trong sách Thực hiện chính sách dân tộc của đảng ở miền
Trung, Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới (2009) [29], từ thực tế của việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng ở miền Trung, Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới, tác
giả đã đưa ra những giải pháp sau: Tăng cường công tác tuyên truyền vận động, tổ
chức tốt khuyến nông, khuyến lâm, đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất;
Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ DTTS. Ở những vùng khó khăn, cần tăng
cường cán bộ quản lý giỏi, cán bộ khoa học, kỹ thuật nhiệt tình gắn bó với đồng
bào các dân tộc, cầm tay chỉ việc, hướng dẫn cụ thể người dân kỹ thuật canh tác,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp. Có chính sách động viên, khuyến
khích cán bộ, nhất là cán bộ chuyên môn, kỹ thuật về công tác tại vùng sâu, vùng
xa.
Sách Một số vấn đề về văn hóa – xã hội các DTTS ở Tây Nguyên hiện nay
(2010) [92] là cơng trình tập hợp nhiều bài viết của các tác giả. Bài viết Mối quan
hệ giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội ở Tây Nguyên trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập quốc tế của tác giả Dương Xuân Ngọc trong sách này đã đưa
ra những giải pháp nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế ở


20
Tây Nguyên là: Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận
thứccho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là nhân dân các DTTS tại chỗ ở Tây
Ngun về vị trí, vai trị của việc giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội ở Tây Nguyên; Củng cố và từng bước hồn thiện hệ thống chính trị cơ sở,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc, cán bộ an ninh,
cán bộ người DTTS tại chỗ; Triển khai thực hiện có hiệu quả các mặt cơng tác
phịng, chống và giải quyết “điểm nóng”, biểu tình, bạo loạn.
Tác giả Linh Nga Niê Kdam trong bài viết Văn hóa truyền thống các dân tộc
Tây Nguyên trong sự ổn định và phát triển đã đưa ra một số kiến nghị đối với

ngành văn hóa và các đài phát thanh truyền hình địa phương. Tiêu biểu là: Biên
soạn một số cuốn sách mỏng về những nét đặc trưng nhất của phong tục tập quán
của 6 dân tộc chính Ê đê, M nông, Jarai, Ba Na, Xơ đăng, Cơ ho; Sách gồm những
câu hội thoại đơn giản và tuyên truyền chính sách, luật pháp bằng các thứ tiếng dân
tộc làm cẩm nang cho cán bộ làm CTVĐQC ở cơ sở. Thực hiện một số cuốn băng
có nhiều nội dung tuyên truyền khác nhau, xen kẽ các bài dân ca theo chủ đề, các
ca khúc sáng tác mới được dịch sang các thứ tiếng dân tộc, phát về các buôn trong
các tỉnh Tây Nguyên. Củng cố lại các đội thông tin lưu động huyện, công an và
quân đội, hợp đồng với một số cộng tác viên người dân tộc trong vùng để tham gia
biểu diễn các kịch bản tuyên truyền bằng tiếng dân tộc. Thu thanh, thu hình, phát
trên sóng phát thanh – truyền hình tiếng dân tộc của đài tỉnh, đài truyền thanh
huyện. Tác giả nhấn mạnh rằng bảo tồn những nét tích cực của văn hóa truyền
thống bên cạnh phát triển kinh tế bền vững, sẽ là một trong những điều kiện để ổn
định đời sống mọi mặt ở Tây Ngun.
Tác giả Lưu Văn Sùng trong cơng trình Một số điểm nóng chính trị - xã hội
điển hình tại các vùng dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây - hiện trạng,
vấn đề các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống (2010) [130] đã làm rõ 3
điểm nóng trên địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Tác giả đã khái quát
quá trình diễn biến của những sự kiện bạo loạn biểu tình ở Tây Nguyên trong tháng
2/2001 và tháng 4/2004, từ đó phân tích nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và đề
xuất giải pháp để khơng tái phát điểm nóng chính trị - xã hội ở khu vực này. Chỉ



×