Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đối với kttn tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh bắc hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.89 KB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Đề tài:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH BẮC HẢI DƯƠNG

Giảng viên hướng dẫn

:

PGS.TS NGUYỄN THỊ THU THẢO

Sinh viên thực hiện

:

NGUYỄN THỊ HUYỀN

MSV

:

LT 106109

Lớp

:


NH - K10B

Hµ Néi, 01/ 2011


LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát
triển, đang phát triển hay các nước cịn đang trong tình trạng kém phát triển. Trong
cơ cấu phát triển kinh tế của các quốc gia này đều có sự đóng góp của 3 khu vực
kinh tế cơ bản là: Khu vực kinh tế nhà nước, khu vực KTTN và khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi (liên doanh, liên kết hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài). Mỗi
khu vực kinh tế có những đóng góp nhất định vào sự phát triển chung của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, nhưng theo thống kê hiện nay thì khu vực kinh tế có đóng góp
lớn nhất cho sư phát triển đó là khu vực KTTN. Bởi loại hình kinh tế này có những
đặc thù nhất định như nguồn vốn không lớn, quy mô và địa bàn hoạt động nhỏ,
tham gia tất cả các lĩnh vực kinh tế mà pháp luật không cấm, nên dễ thích ứng với
sự biến động của thị trường, sự đổi của các yếu tố Cung – Cầu, môi trường pháp lý
và mơi trường cạnh tranh, dễ dàng có những thay đổi về mơ hình tổ chức, cơ chế
hoạt động, cơ cấu sản phẩm để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.
Ở Việt Nam chúng ta trong những năm Miền Bắc được giải phóng tiến lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội. Do những nhận thức sai lầm về KTTN, Đảng và Chính phủ
đã xây dựng chính sách đối ngoại bế quan tỏa cảng, xóa bỏ hồn tồn khu vực
KTTN xác định một nền kinh tế thuần nhất là kinh tế nhà nước. Sau năm 1986 cả
nước bước vào xây dựng nền kinh tế theo cơ chế mở cửa, đổi mới, kêu gọi tất cả các
thành phần kinh tế cùng phát triển, phát huy truyền thống tự lực tự cường của dân
tộc kết hợp với sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em và bạn bè quốc tế để phát
triển kinh tế và xây dựng đất nước.
Thực tế đã chứng minh rằng trong những năm qua ở Việt Nam nói chung và
trên địa bàn thị xã Chí Linh nói riêng khu vực KTTN đã phát triển mạnh mẽ cả về
số lượng và chất lượng đã có những đóng góp tích cực trong cơng cc Cơng

nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, tạo cơng ăn việc làm cho lực lượng lao động
nhàn rỗi và góp phần ổn định xã hội và phát triển kinh tế.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Hải Dương là một
đơn vị đóng trên địa bàn thị xã Chí Linh. Với chức năng của một trung gian tài
chính Ngân hàng đã khơng ngừng hồn thiện và đưa ra các dịch vụ cung ứng của
mình nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất. Ngân hàng đã tiến hành phân tích thị
trường, tìm hiểu địa bàn hoạt động, cơ cấu ngành trên địa bàn và nhận thấy khu vực

2


KTTN là “mảnh đất màu mỡ, ẩn chứa nhiều cơ hội cũng như là thách thức” mà
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và cả hệ thống ngân hàng thương mại cần
phải hướng đến trong hiện tại và tương lai. Sự chuyển hướng nhanh đối tượng tín
dụng từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực KTTN là một tất yếu không thể
tránh khỏi trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước
Đây là sự chuyển hướng phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế nói
chung và của Ngân hàng nói riêng. Mặc dù trong thời gian qua ngân hàng luôn
hướng tới đối tượng khách hàng nằm trong khu vực KTTN song quan hệ tín dụng
giữa ngân hàng và đối tượng này vẫn còn nhiều trở ngại và khúc mắc do ngân hàng
lo sợ vấp phải những rủi ro tín dụng. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và tìm ra
giải pháp nhằm tháo gỡ vấn đề là vô cùng quan trọng.
Qua thời gian học tập tại trường Đại học Kinh tế quốc dân và quá trình thực
tập, nghiên cứu và khảo sát thực tế, tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
chi nhánh Bắc Hải Dương, em đã chọn đề tài nghiên cứu:
“Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đối với KTTN tại Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Hải Dương” làm đề tài thực tập tốt
nghiệp của mình.
Ngồi phần mở đầu và kết luận chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan chung về vấn đề tín dụng đối với KTTN.

Chương II: Thực trạng tín dụng đối với KTTN tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam chi nhánh Bắc Hải Dương.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đối với KTTN
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Hải Dương.

3


Chương I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN

1.1. Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế.
1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân.
Trong nền kinh tế hiên nay dựa trên các đặc điểm cụ thể và thực tế của khu
vực KTTN mà người ta đưa ra rất nhiều các quan điểm khác nhau về đối tượng kinh
tế này, tuy nhiên thì chưa có một cơ quan hay tổ chức nào đưa ra một định nghĩa
chính xác về nó. Tuy nhiên theo quan điểm của bản thân mình thì tơi thấy rằng việc
dựa trên đặc điểm về sở hữu mà định nghĩa và đánh giá về đối tượng này là chính
xác nhất.
Khái niệm KTTN được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản suất, trong đó tài sản là của các chủ thể cá nhân chứ
khơng phải của nhà nước hay yếu tố nước ngồi. Khu vực KTTN bao gồm kinh tế
cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân (các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ
phần hóa mà trong đó vốn của tư nhân chiếm trên 51%, doanh nghiệp trách nhiệm
hữu hạn, hộ sản xuất và kinh doanh cá thể, cá nhân)….Tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh theo các quy định của pháp luật.
Nói theo nghĩa rộng, khu vực này bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh doanh của người Việt Nam không thuộc sở hữu nhà nước (hoặc Nhà
nước có góp vốn nhưng khơng giữ vai trị chi phối), khơng do nước ngồi đầu tư
(hoặc nước ngồi có góp vốn nhưng khơng giữ vai trị chi phối), không thuộc thành

phần kinh tế tập thể (các hợp tác xã).
Các loại hình kinh tế tồn tại trong KTTN rất đa dạng và phong phú, Sau một
thời gian dài nền kinh tế nước ta trì trệ với việc duy trì thuần nhất khu vực kinh tế
quốc doanh, các doanh nghiệp nhà nước này thụ động trong việc quản lý và điều
hành, phụ thuộc rất lớn vào cơ chế bao cấp đã làm nền kinh tế của nước ta lạc hậu
so với các quốc gia khác hàng chục năm, Sau cải cách mở cửa, việc thu hút đầu tư
nước ngoài đã mang lại những bước tiến mới cho nền kinh tế, tuy nhiên sau khi đã
nắm bắt được luật pháp và lão luyện trên thương trường thì các nhà đầu tư nước ngồi
này đã tìm đủ mọi cách để chuyển hầu hết tồn bộ lãi về chính quốc. Vì vậy giờ đây
Đảng và Nhà nước đã nhận định khu vực KTTN sẽ là đòn bẩy mạnh mẽ và là khu vực
đầu tàu chèo lái con thuyền nền kinh tế Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

4


1.1.2. Đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân.
Bản thân khu vực kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp tư nhân của nước ta
nhìn chung cịn nhỏ, yếu, mới hình thành, rất thiếu các nguồn lực cần thiết cũng như
thiếu sự liên kết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển.
Trong số các doanh nghiệp tư nhân của chúng ta có tới 90% thuộc quy mơ vừa
và nhỏ (theo tiêu chí của nước ta có dưới 300 lao động hoặc vốn kinh doanh dưới
10 tỷ đồng), các hộ sản xuất và kinh doanh cá thể, các trang trại và cá nhân sản xuất
nông nghiệp đều hoạt động ở quy mơ nhỏ, manh mún vì thiếu vốn đầu tư đồng bộ.
Cái yếu của khu vực kinh tế tư nhân nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động,
hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung cịn thấp so với doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Do nhỏ và yếu nên khu vực
kinh tế tư nhân của nước ta vừa khó đương đầu với tính cạnh tranh ngày càng khốc
liệt trên thị trường trong nước và quốc tế nhất là sau khi chúng ta gia nhập WTO
(mọi hàng rào thuế quan và chính sách bảo hộ sản xuất trong nước đều bị rỡ bỏ) vừa
dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường. Hơn 80% doanh nghiệp tư

nhan của nước ta ra đời sau khi luật doanh nghiệp năm 1999 được thi hành nên họ
còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường, chưa đủ thời gian để trưởng thành trong
khi đã phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay.
Khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản và cần
thiết cho họ như: nguồn vốn, đất đai, cơng nghệ, kỹ năng quản lý, nguồn nhân lực
có chất lượng. Ngồi ra họ cịn chưa thiết lập được được sự liên kết đơn vị thuộc
mọi thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan hoặc
trong từng vùng để tạo thé mạnh mang tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp.
Từng chủ thể kinh tế mới chỉ dựa vào sức mình là chính chưa khai thác và sử dụng
được sức mạnh của sự liên kết vốn rất cần thiết nhất là đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Môi trường kinh doanh trong nước cịn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng,
tình trạng này kéo dài đã lâu nhưng chưa được khắc phục khiến cho môi trường
kinh doanh luôn là thách thức lớn nằm ngồi khả năng kiểm sốt của khu vực
KTTN. Trong môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay, trở ngại lớn nhất của khu
vực KTTN là ở 1 số mặt sau:
Việc gia nhập thị trường tuy đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn địi hỏi chi phí
cao về tiền của và thời gian.

5


Còn những rào cản lớn về pháp lý và hành chính trong q trình hoạt động,
sản xuất, kinh doanh của khu vực KTTN. Hệ thống pháp luật và chính sách của
nước ta còn nhiều nhược điểm: thiếu minh bạch, thiếu tính nhất qn, thiếu ổn định,
khó tiên liệu, tổ chức thực thi luật pháp cịn kém. Hệ thống hành chính nước ta cịn
kém hiệu quả với tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động của các chủ thể
kinh tế phổ biến và kéo dài, sự yếu kém nhũng nhiễu của khơng ít cơng chức đã làm
vơ hiêụ hóa các chính sách tốt và cam kết cải cách của nhà nước. Còn tồn tại nhiêu
vướng mắc trong vấn đề thanh tra, kiểm tra, thuế, phí hải quan và đất đai kéo dài và

chậm giải quyết.
Việc tiếp cận các nguồn lực rất khó khăn và tốn kém. Khu vực KTTN rất khó
tiếp cận với các nguồn lực cần thiết và họ phải trả giá rất cao để tiếp cận các nguồn
lực đó. Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi lại được tiếp cận dễ dàng hơn với những điều kiện ưu đãi và chi phí thấp hơn
nhiều. Thực tế này gây bất binhg đẳng cho khu vực KTTN làm cho họ mất đi nhiều cơ
hội thị trường, tăng rủi ro và giảm đáng kể khả năng đầu tư. Điều này dẫn tới chi phí
sản xuất kinh doanh của họ tăng cao và hạn chế khả năng sinh lời, làm giảm động lực
và nguồn lực kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế này.
Thách thức của môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện
không thuận lợi cho các nước đang phát triển như nước ta, dự bất cơng, bất bình
đẳng khơng những khơng giảm mà cịn có chiều hướng tăng lên trong nhiều lĩnh
vực. Các nước lớn, các công ty đa quốc gia nắm quyền chi phối thị trường đã ln
tìm cách lái thị trường thế giới theo hướng có lợi cho họ.
Nhìn chung, chặng đường trước mắt của khu vực KTTN nước ta còn rất dài và
gian nan. Tuy nhiên, với quyết tâm cao và đường lối chính sách đúng đắn của Đảng
và nhà nước trong v iệc phát triển KTTN định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam chắc chắn khu vực KTTN Việt Nam sẽ vượt qua mọi thử thách, giành những
thắng lợi lớn hơn trong kinh doanh, phát triển mạnh và vững chắc để là độn lực đưa
nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập.

1.1.3. Vị thế của khu vực kinh tế tư nhân.
Sau đại hội Đảng VI, cùng với những nhận thức mới về đường lối phát triển
kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân như được sinh ra một lần nữa và đã khẳng định
được vị thế vô cùng quan trọng của mình trong quá trình xây dựng đất nước và phát
triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển
mạnh mẽ cả về mọi mặt cả về số lượng và chất lượng, mọi người dân hồ hởi phát

6



triển kinh tế cho bản thân, gia đình và góp phần xây dựng đất nước, đưa đất nước
tiến nhanh, tiến mạnh và con đường Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa và tiến lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một xu thế tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng ta.
Điều này thể hiện ở chỗ:
Với trình độ phát triển chưa cao như hiện nay của lực lượng sản xuất ở nước
ta, sự tồn tại của KTTN vẫn là nhu cầu khách quan.
KTTN đã và đang tiếp tục chứng tỏ vai trị động lực của nó đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước ta.
Sự phát triển của KTTN trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đóng góp
khong nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. Tât nhien
KTTN chỉ phát triển đúng hướng khi Đảng và Nhà nước có chính sách và biện pháp
quản lý phù hợp, không làm mất động lực phát triển của nó nhưng cũng khơng để
nó phát triển theo hướng tự phát.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền sản xuất xã hội nào muốn đạt hiệu
quả tăng trưởng cao đều phải xây dựng nền kinh tế thị trường. Công cuộc đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Một trong
những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự phát triển của nền kinh tế nước ta là đã khơi
dậy được tiềm năng của các thành phần kinh tế thơng qua chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần, trong đó KTTN có vai trị quan trọng và tiếp tục được khuyến
khích phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khu vực KTTN ở nước ta bao gồm khoảng hơn 200.000 doanh nghiệp hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp, hơn 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể, một bộ phận của
gần 100.000 trang trại và hơn 10 triệu hộ nông dân có sản xuất nơng sản hàng hóa
khơng tham gia các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác. Trong số này, 200.000 doanh nghiệp
tư nhân , với các hình thức tổ chức khác nhau (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân một chủ), có đầy đủ tư cách pháp
nhân, thường được coi là khu vực doanh nghiệp tư nhân chính thức; số cịn lại được

tổ chức kinh doanh ở hình thức thấp hơn, chưa có tư cách pháp nhân và do đó
thường được coi là khu vực tư nhân phi chính thức hoặc phi hình thức. Với lực
lượng đơng đảo của mình khu vực KTTN đã đóng góp một phần không nhỏ vào
công cuôc xây dựng kinh tế, củng cố chính trị của nước ta trong những năm qua:

7


Khu vự KTTN đã tạo ra môi trường kinh doanh năng động hơn và có tính
cạnh tranh cao hơn, góp phần thúc đẩy việc cải tổ và giảm thiểu tính độc quyền của
doanh nghiệp Nhà nước.
Sự đi lên của khu vực KTTN là một yếu tố quan trọng làm thay đổi diện mạo
của nền kinh tế Việt Nam. Theo nghiên cứu mới đây giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và Quỹ Phát triển Liên Hiệp Quốc cho thấy hoạt động tài chính của khu vực KTTN
đang cải thiện tốt hơn khối doanh nghiệp Nhà nước. Trong năm 2008, với 1 tỷ đồng
vốn, doanh nghiệp tư nhân có thể tạo ra 1,18 tỷ đồng doanh thu trong khi đó con số
này với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI lần lượt là 0,8 tỷ và 0,89 tỷ
đồng. Sự tăng trưởng nhanh của khu vực KTTN đã góp phần tạo ra sức hút đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thực tế đã chứng minh rằng khu vực KTTN hoạt động rất hiệu quả trong bối
cảnh nước ta hiện nay. Về khía cạnh năng suất và hiệu quả khu vực kinh tế tư nhan
cũng đã vượt các doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi. Theo đánh giá của bộ cơng thương thì từ năm 2005 đến năm 2009, khu
vực KTTN đã tạo ra tăng trưởng GDP trung bình trên 8%, cao hơn mức 7,38% của
cả nền kinh tế. Hiện nay khu vực KTTN chiếm 48% GDP và 40% tổng số đầu tư
vào nền kinh tế, đóng góp một nửa vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Một điểm hết sức quan trọng là khối doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra sự thay
đổi trong cấu trúc thị trường lao động, vốn đã mất cân bằng và điều này đóng góp
tích cực vào tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Hiện tại, lao động trong
khu vực KTTN chiếm 77% lực lượng lao động trong cả nước, không chỉ thu hút

những nguồn lao động kỹ thuật chất lượng cao mà còn tận dụng được lực lượng lao
động tại chỗ rất dồi dào, góp phần vào đẩy lùi tệ nạn và ổn định xã hội.

1.2. Tín dụng ngân hàng trong phát triển kinh tế tư nhân.
1.2.1. Khái niệm tín dụng đối với kinh tế tư nhân.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh
tế xã hội. Khó có thể đưa ra một mình nghĩa rõ rang về tín dụng. Vì vậy tùy theo
mỗi góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
có hồn trả giữa hai chủ thể. Như một cơng ty công nghiệp hay thương mại bán
hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này bên bán chuyển giao
hàng hóa cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua phải
trả tiền cho bên bán, giá cả của mua hàng trả chậm thường lớn hơn so với với việc

8


thanh toán ngay tiền hàng. Hay giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính
khác với các chủ thể (tổ chức, cá nhân…) thể hiện dưới hình thức cho vay tức là
ngân hàng cấp tín dụng cho bên đi vay, sau một thời gian nhất định người đi vay
phải thanh tốn vốn gốc và lãi.
Tóm lại, trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín
dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hồn trả vơ
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.

1.2.2. Các hình thức tín dụng đối với kinh tế tư nhân.

Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, hệ thống ngân hàng thương mại đã
không ngừng đổi mới hoạt động, cơ chế quản lý cũng như đưa ra hàng loạt các sản
phẩm, dịch vụ phong phú và đa dạng để phù hợp hơn với những thay đổi của nền
kinh tế thị trường. Cùng với sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội,
các hình thức tín dụng ngân hàng cũng ngày càng trở lên phong phú và đa dạng hơn
để đáp ứng các nhu cầu khác nhau về vốn trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng đã
trở thành yếu tố vô cùng quan trọng trong sự phát triển của các chủ thể trong nền
kinh tế, nó giữ vai trị then chốt trong việc thúc đẩy đầu tư, mở rộng sản xuất và
phát triển kinh tế xã hội. Đối với khu vực KTTN, hệ thống ngân hàng thương mại
cung cấp các hình thức tín dụng sau:

1.2.2.1. Cho vay từng lần (cho vay giản đơn).
Cho vay từng lần là tiến trình cho vay theo từng đối tượng cụ thể, như cho vay
theo từng lần mua hàng, hoặc cho vay dự trưc các loại hàng tồn kho (tồn kho
nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm…), hoặc tài khoản các khoản
phải thu.
Loại vay này có đặc điểm là: Ngân hàng cho vay và thu nợ theo từng món vay.
Khách hàng xin vay món nào thì phải làm hồ sơ xin vay món đó, trong 1 quý mà
khách hàng có bao nhiêu món vay thì sẽ phải làm bấy nhiêu hồ sơ xin vay, bộ phận
tín dụng sẽ tiến hành phân tích và xem xét cho vay đối với từng khoản vay cụ thể.
Việc tham gia vốn của ngân hàng cho từng đối tượng vay, có hai phương pháp tham
gia của ngân hàng như sau:

9


Ngân hàng tham gia theo phần cho từng đối tượng vay cụ thể, nghĩa là ngân
hàng chỉ tài trợ một phần nhất định còn phần còn lại bên đi vay phải sử dụng vốn tự
có của mình để trang trải.
Ngân hàng cho vay 100% nhu cầu vốn của một số đối tượng vay cụ thể. Khi

áp dụng phương pháp này chính sách tín dụng thường có các quy định cụ thể các
loại tài sản hoặc chi phí thuộc đối tượng vay và không thuộc đối tượng vay. Tài sản
và chi phí khơng thuộc đối tượng vay thì bên vay sẽ phải sử dụng vốn tự có để
thanh tốn, cịn lại ngân hàng sẽ tài trợ 100%.
Hình thức cho vay này thường được áp dụng với những khách hàng không
thường xuyên, khách hàng thường xuyên nhưng chưa được ngân hàng tín nhiệm cho
áp dụng hạn mức tín dụng và trong trường hợp yêu cầu khách hàng phải có tài sản
đảm bảo.

1.2.2.2. Cho vay vốn lưu động theo hạn mức tín dụng:
Cho vay vốn lưu động theo hạn mức tín dụng là loại cho vay để đáp ứng toàn
bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt của bên vay. Đây là loại cho vay tổng hợp đáp
ứng toàn bộ nhu cầu dự trữ tồn kho về nguyên liệu, hàng hóa và thu nợ khi có
doanh thu phát sinh từ việc bán hàng. Loại vay này có đặc điểm cơ bản sau:
Đối tượng cho vay là toàn bộ vốn nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt, vì vậy phải
xác định hạn mức tín dụng để làm cơ sở cho việc giải ngân.
Khơng có kỳ hạn nợ cụ thể gắn với từng lần giải ngân mà chỉ có thời hạn cho
vay cuối cùng và các điều kiện sử dụng vốn vay, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Chi phí mà người đi vay phải trả bao gồm chi phí lãi và chi phí phi lãi, chi phí
phi lãi thơng thường bao gồm chi phí cam kết sử dụng hạn mức tín dụng và số dư
tiền gửi bù trừ.
Cho vay vốn lưu động theo hạn mức tín dụng có thời hạn từ vài ngày đến 1
năm tùy theo chu kỳ sản xuất và khả năng tài chính của từng bên vay, loại vay này
là loại vay để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ.
Loại vay này được áp dụng với khách hàng là các chủ thể có hoạt động sản
xuất, kinh doanh mang tính thời vụ, thường xuyên phải vay – trả, tốc độ luân
chuyển vốn tín dụng nhanh và có mức độ tín nhiệm cao đối với ngân hàng.

1.2.2.3. Chiết khấu các chứng từ có giá.
Chiết khấu các chứng từ có giá là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó

khách hàng chuyển nhượng các chứng từ có giá (thương phiếu, trái phiếu, kỳ
phiếu…) chưa đáo hạn cho ngân hàng để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá của trái

1
0


phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Như vậy, với những CTCG
chưa đáo hạn khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng chiết khấu bằng cách làm giấy
đề nghị chiết khấu và lập các thủ tục mà cán bộ tín dụng yêu cầu. Ngân hàng sẽ tiến
hành phân tích tín dụng, nếu mọi rủi ro là nằm trong giới hạn và tầm kiểm soát của
ngân hàng thì ngân hàng sẽ tiến hành chiết khấu cho khách hàng. Thông thường các
ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu các chứng từ có giá mà thời hạn cịn lại của
chúng là nhỏ hơn 90 ngày. Trong trường hợp ngân hàng cần vốn để thanh toán và
đầu tư ngân hàng có thể mang các chứng từ có giá này đến Ngân hàng Trung Ương
xin tái chiết khấu.

1.2.2.4. Cho vay thấu chi.
Là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động thiếu hụt nhằm cân đối
ngân quỹ hàng ngày trên tài khoản vãng lai của khách hàng tránh phải đi vay nhiều
lần với nhiều thủ tục phức tap, phần lớn là đáp ứng nhu cầu chi trả, thanh toán. Tài
khoản vãng lai là tài khoản mà ngân hàng mở cho khách hàng để ghi chép nghiệp vụ
gửi tiền và rút tiền của khách hàng, đây là một tài khoản lưỡng tính có thể dư Có và có
thể dư Nợ. Khi tài khoản này dư Có thể hiện số tiền đang gửi tại ngân hàng còn khi tài
khoản này dư Nợ thì thể hiện số tiền khách hàng đang vay của ngân hàng.
Hình thức tín dụng này thường được áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu
thanh tốn khơng dùng tiền mặt cao d

1.2.2.5. Cho vay trả góp.
Cho vay trả góp là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm máy

móc trang thiết bị, nhu cầu tiêu dùng trong gia đình và một số nhu cầu khác của
khách hàng. Loại vay này thường có thời hạn trên 1 năm, tiền vay được thanh toán
dần cho ngân hàng theo đúng định kỳ và theo nhiều kỳ hạn trong suốt kỳ hạn trả nợ.
Các điều khoản về mức cho vay, lãi suất vay, thời hạn vay, kỳ hạn trả nợ, mức
trả gốc và lãi của từng lần được bên cho vay và bên vay thỏa thuận rõ ràng trong
hợp đồng tín dụng.
Cho vay trả góp là một thuật ngữ bao gồm cả việc ngân hàng mua khoản nợ
phát sinh do những đơn vị bán chịu hàng hóa, dịch vụ trả góp cho các tổ chức cà cá
nhân. Hình thức này vừa đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp lại vừa
hỗ trợ tiêu thụ hàng hóa. Đây là một hình thức tín dụng có tính kích cầu rất cao từ
đó kích thích được sự phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân.

1
1


1.2.2.6. Tín dụng cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn thơng qua
việc cho th máy móc trang thiết bị, phương tiện vận chuyển trên cơ sở hợp đồng
cho thuê giữa bên cho thuê với bên đi thuê. Theo đó bên cho thuê cam kết mua máy
móc trang thiết bị, phương tiện vận chuyển theo yêu cầu của bên đi thuê và nắm
quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê và bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán
tiền thuê trong suốt thời gian hai bên thỏa thuận.
Hình thức cấp tín dụng của cho th tài chính là bằng tài sản, bên đi th chỉ
có quyền sử dụng tài sản và định kỳ thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê theo thỏa
thuận. Thời hạn thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng của tài sản (ít nhất là 60%
thời gian hoạt động theo thiết kế) và trong thời gian này bên thuê không được hủy
ngang hợp đồng. Khi hết hợp đồng thuê hết thời hạn thì bên th có thể mua lại
hoặc ký hợp đồng thuê tiếp theo thỏa thuận của hai bên. Tổng số tiền cho thuê của

một tài sản ít nhất tương đương với giá trị của tài sản trên thị trường vào thời điểm
ký hợp đồng.
Các hình thức cấp tín dụng này chính là các dịch vụ và sản phẩm mà các ngân
hàng thương mại đưa ra để phục vu khách hàng. Nhu cầu của mỗi khách hàng là rất
khác nhau cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường cung cấp các dịch vụ tài
chính hiện nay là động lực để các sản phẩm và dịch vụ của các ngân hàng phát triển
cả về chất lượng và số lượng để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, qua
đó khẳng định được tên tuổi, vị thế và thị phần của ngân hàng mình. Với mỗi đối
tượng khách hàng khác nhau, chúng ta sẽ phải có các sản phẩm dịch vụ khác nhau
với mức lãi suất, thời hạn vay hợp lý để phù hợp với nhu cầu thực tế của khách
hàng. Nhận thức rõ về vấn đề này là vô cùng cần thiết, nhất là khi đối tượng cho vay
là khu vực KTTN, là đối tượng khách hàng có độ rủi ro tương đối cao.

1.2.3. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng.
Theo các tiêu thức khác nhau thì các loại hình tín dụng cũng được phân loại khác
nhau và từ đó kéo theo các đặc điểm khác nhau. Khu vực KTTN được chủ yếu gồm
các doanh nghiệp tư nhân, các hộ sản xuất và kinh doanh cá thể, cá nhân sản xuất
kinh doanh
Vậy hình thức tín dụng đối với thành phần KTTN có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, khu vực KTTN phần lớn là các thành phần kinh tế có quy mơ sản
xuất kinh doanh nhỏ nên mức tín dụng đối với khu vực này cũng đa phần là nhỏ bởi

1
2


lẽ các doanh nghiệp lớn thường là đã có lịch sử phát triển lâu dài đã có những vị thế
nhất định trên thị trường nên họ tận dụng được một lượng rất lớn tín dụng thương
mại, có lợi thế cạnh tranh hơn tín dụng ngân hàng, mặt khác các doanh nghiệp tư

nhân lớn thường phát triển theo hướng tập đoàn kinh tế nên có thể có sự chi phối
vốn giữ các công ty con và các công ty thành viên.
Thứ hai, tín dụng đối với khu vực KTTN chủ yếu là nhằm mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh và đầu tư trang thiết bị công nghệ để nâng cao năng lực sản
xuất nên các khoản tín dụng thường là tín dụng trung và dài hạn.
Khu vực này có số lượng khách hàng rất đông đảo, với các nhu cầu vay đa
dạng và phong phú để phát triển ở mọi khu vực của nền kinh tế từ nông – lâm –
thủy sản đếncông nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, tiềm năng phát triển của của
khu vực này là vô cùng lớn và hứa hẹn một mảng thị trường đầy tiềm năng nếu các
ngân hàng biết khai thác bằng cách đưa ra các sản phẩm hợp lý để hỗ trợ cho các
thành phần kinh tế tận dụng hết các điều kiện và tiềm năng của mình để phát triển.

1.2.4. Vai trị của tín dụng ngân hàng trong phát triển kinh tế tư nhân.
Hệ thống tài chính của mỗi quốc gia đều cơ bản dựa trên nền tảng bao gồm
các tổ chức trung gian tài chính mà trong đó ngân hàng có vai trị vơ cùng quan
trọng và thị trường tài chính. Tuy nhiên ở mỗi một nước lại có cấu trúc tài chính
khác nhau và hiện nay có thể chia làm hai hình mẫu cấu trúc tài chính cơ bản là: Hệ
thống tài chính dựa vào thị trường tài chính (thị trường chứng khốn) và hệ thống
tài chính dựa vào hệ thống ngân hàng. Mỗi loại cấu trúc lại có các ưu nhược điểm
khác nhau và phù hợp với những điều kiện khác nhau của mỗi quốc gia khi áp dụng.
Ở các quốc gia trên thế giới thì thị trường tài chính rất lâu đời và hoạt động rất
hiệu quả và đã trở thành một kênh dẫn vốn vô cùng hiệu quả cho nền kinh tế. Song
ở Việt Nam chúng ta,thị trường tài chính mà trong đó tiêu biểu là thị trường chứng
khốn cịn chưa hồn thiện, cịn nhiều bất cập trong hoạt động cũng như cơ chế tổ
chức, cơ chế thơng tín vẫn chưa minh bạch và rõ ràng trong khi đây là một yếu tố
vô cùng quan trọng trong hoạt động của thị trường tài chính, nó giúp cho các chủ
thể hoạt động một các hiệu quả và công bằng hơn, tuy nhiên điều này lại là điều
chưa được thực hiện tốt tại Việt Nam và nó làm cho thị trường tài chính Việt Nam
trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Đây là một trong số các nguyên nhân
khiến cho các ngân hàng thương mại ở Việt Nam vốn đã có một rất quan trọng

trong việc dẫn vốn cho nền kinh tế thì giờ đây vai trị của nó ngày càng được khẳng
định một cách rõ nét hơn.

1
3


Các ngân hàng thương mại đã trở thành kênh dẫn vốn không thể thiếu cho các
chủ thể trong nền kinh tế mà đăc biệt là đối với khu vực KTTN bởi lẽ nếu như khu
vực kinh tế Nhà nước thì nhu cầu về vốn được đáp ứng một phần bởi ngân sách và
các nguồn FDI có định hướng của nhà nước. Khu vực có vốn đầu tư nước ngồi thì
lại có một nguồn vốn vơ cùn phong phú từ nước ngoài cung vốn khu vực này
thường chủ động được nguồn vốn và họ thường chủ động được vốn trong kế hoạch
đầu tư của mình nên trong các cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước thường
bị thua bởi nhân tố này. Chỉ riêng có khu vực KTTN là phải hồn toàn chủ động và
phải dựa trên năng lực thật sự của họ để tìm kiềm dự án đầu tư của mình, vốn của
họ hồn tồn là của bản thân, gia đình, những người thân và họ hàng giúp đỡ nếu có
chăng thì họ chỉ được hỗ trợ một phần trong chính sách phát triển từng thời kỳ của
nhà nước như trong năm 2009 nhà nước hỗ trợ cho những cá nhân và hộ sản xuất
nông nghiệp và doanh nghiệp tư nhân sản xuất 4% lãi suất khi vay vốn ngân hàng
để sản xuất kinh doanh. Vì vậy dẫn đến vốn của khu vực KTTN thường rất nhỏ và
luôn thụ động về vốn trong kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Như chung ta đã biết vốn là vấn đề hết sức quan trọng trong sự phát triển của
mỗi nền kinh tế, nó là năng lượng là thứ dầu bôi trơn cho sự hoạt động của nền kinh
tế, nếu thiếu nó thì nền kinh tế sẽ không thể phát triển được. Tất cả các hoạt động
của các chủ thể kinh tế đều cần tới vốn và coi đó là vấn đề quan trọng đầu tiên để
khởi đầu việc sản xuất hay kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của khu vực KTTN là
một tất yếu khách quan. Cũng như tất cả các khu vực kinh tế khác thì trong quá
trình sản xuất kinh doanh các thành phần kinh tế đều sử dụng vốn tín dụng ngân

hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn và để tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn của
mình thơng qua việc sử dụng địn bẩy tài chính. Vốn tín dụng có vai trị rất quan
trọng đối với khu vực KTTN, nó khơng những thúc đẩy sự phát triển của khu vực
kinh tế này mà thơng qua đó cịn tác động trở lại thúc đây hệ thống ngân hàng phát
triển bằng việc các ngân hàng đổi mới chính sách tiền tệ và hồn thiện cơ chế, chính
sách về tín dụng, thanh tốn ngoại hối.
Qua đó chúng ta thấy được vai trị vô cùng quan trọng của vốn và hệ thống
ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của khu vực KTTN:
Thứ nhất, hệ thống các ngân hàng thương mại đã cấp tín dụng, tạo đà và cung
cấp nguồn lực phát triển cho khu vực này. Góp phần đảm bảo cho hoạt động của
khu vực kinh tế này được liên tục.

1
4


Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các đơn vị phải luôn cải tiến kỹ thuật,
công nghệ, nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm, đổi mới cơng nghệ
máy mócđể tồn tại đứng vững và phát triển. Trên thực tế thì khơng có một đơn vị
nào có thể đảm bảo tồn bộ nguồn vốn cho q trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Vì thế mà việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh phần lớn đều
dựa vào nguồn tài trợ từ tín dụng ngân hàng. Vốn tín dụng tạo điều kiện cho các
đơn vị mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm trang thiết bị máy móc và đổi mới
cơng nghệ. Có vốn khu vực KTTN sẽ hoạt động linh hoạt và hiệu quả hơn rất nhiều
từ đó góp phần thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách liên tục.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của khu
vực KTTN, giúp họ tận dụng được những lợi thế của mình và tạo ra địn bẩy tài
chính để phát triển hiệu quả hơn.
Khi sử dụng vốn tín dụng thì các thành phần kinh tế phải tôn trọng các điều
khoản của hợp đồng tín dụng bằng việc phải thanh tốn nợ gốc và lãi cho ngân hàng

khi đến hạn. Hơn thế nưa để tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng thì các đơn vị
này phải hoạt động có hiệu quả ở các thời điểm trước đó, khả năng tài chính phải
đảm bảo trả nợ. Do đó địi hỏi các đơn vị phải cố gắng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh tìm ra các phương án khả thi và hiệu quả để tạo ra tỷ suất lợi nhuận lớn
hơn lãi suất ngân hàng thì mới đảm bảo trả nợ cho ngân hàng và đảm bảo lợi ích
trong hoạt động sản xuất và kinh doanh. Và trong q trình cho vay thì ln có sự
kiểm tra, giám sát và đôn đốc của cán bộ tín dụng điều này buộc các đơn vị phải sử
dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả tránh được những rủi ro xảy ra trong tương lai.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao năng
lực cạnh tranh của khu vực KTTN và tạo công bằng trong cạnh tranh giữa các khu
vực kinh tế.
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu và khách quan trong nền kinh tế thị trường,
muốn tồn tại, đứng vững và phát triển đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải chiến thắng
trong cạnh tranh. Đặc biệt là đối với khu vực KTTN, vốn có nhiều hạn chế hơn so
với khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Để có
chiến thắng trong cạnh tranh thì một yếu tố quan trọng là phải có vốn lớn để đầu mở
rộng sản xuất kinh doanh, để làm được như với một khả năng tích lũy thấp thì phải
mất nhiều năm mới thực hiện được, khi đó thì cơ hội để phát triển khơng cịn nữa.
Như vậy để đáp ứng đáp ứng kịp thời cho cơ hội sản xuất kinh doanh thì các chủ thể
kinh tế chỉ có thể nhờ vào tind ụng ngân hàng.

1
5


Thứ tư, nguồn vốn tín dụng ngân hàng giúp khu vực KTTN nắm bắt được cơ
hội của thị trường. Vốn được đáp ứng và đưa ngay vào sản xuất kinh doanh và khi
sử dụng vốn tín dụng ngân hàng thì trách nhiệm của các chủ thể được nâng lên do
có áp lực và sự kiểm sốt từ phía ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có vai trị khơng
thể thiếu được trong sự tồn tại và phát triển của KTTN và KTTN giúp cho các ngân

hàng thương mại mở rộng được đối tượng khách hàng, tăng thị phần và lợi nhuân
đầu tư. Đây là mối quan hệ tương hỗ góp phần tích cực trong q trình phát triển
kinh tế - xã hội.

1.2.5. Quy trình tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Đối với bất kỳ một khách hàng nào khi có quan hệ tín dụng đối với ngân hàng
thì điều bắt buộc là phải thực hiện theo các bước của quy trình tín dụng để đảm bảo
cơng bằng và an toàn cho cả khách hàng và ngân hàng. Quy trình tín dụng được
thực hiện theo các bước sau:

1.2.5.1. Thiết lập hồ sơ cấp tín dụng.
Hồ sơ tín dụng là tài liệu bằng văn bản phản ánh quan hệ giữa ngân hàng với
khách hàng vay vốn.
Khi thiết lập 1 hồ sơ vay vốn phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố, các thông tin cơ
bản về khách hàng xin vay vốn. Một hồ sơ tín dụng hợp lệ và hợp pháp là một hồ sơ
tín dụng gồm 3 bộ phận cấu thành nên.
 Hồ sơ do khách hàng lập:
Giấy đề nghị vay vốn
Các giấy tờ chứng minh năng lực về năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự.
Các giấy tờ chứng minh tình hình tài chính, năng lực tài chính trong quá khứ
cũng như trong hiện tại cũng nhưcác giấy tờ chứng minh khả năng trả nợ vay (thu
nhập). Như các bảng cân đối kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
bảng lương, các thu nhập khác….
Phương án sản xuất kinh doanh trong tương lai, mục đích sử dụng vốn vay.
Các tài liệu đảm bảo tiền vay gồm các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối
với tài sản:
 Hồ sơ do Ngân hàng lập:
Các báo cáo về thẩm định và tái thẩm định
Báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay
Báo cáo phân tích tình hình tài chính

Các loại thơng báo cho vay hay từ chối cho vay.

1
6


Thông báo đến hạn, thông báo nợ quá han
Sổ theo dõi cho vay và thu nợ.
Thông báo tạm ngừng cho vay hoặc chấm dứt cho vay
 Hồ sơ do Ngân hàng và khách hàng cùng lập:
Hợp đồng tín dụng
Hợp đồng bảo đảm tiền vay.

1.2.5.2. Phân tích tín dụng.
Mục đích của việc phân tích tín dụng là phịng ngừa các rủi ro trong hoạt
động. Các tài liệu dùng để phân tích là:
Tài liệu thuyết minh về việc vay vốn (kế hoạch hay phương án sản xuất kinh
doanh, các hợp đồng cung cấp, tiêu thụ sản phẩm).
Các tài liệu kinh tế để đánh giá khả năng tài chính của khách hàng (bảng cân
đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng thuyết
minh về tình hình cơng nợ, bản giải trình về hoạt động kinh doanh), phân tích chi
tiết về tình hình lỗ, lãi và các tài liệu liên quan về đảm bảo tín dụng.
Ngồi việc đánh giá dựa vào các tài liệu do khách hàng cung cấp thì ngân
hàng cịn phải dựa vào rất nhiều các thông tin khác như phỏng vấn trực tiếp khách
hàng, thông tin từ hồ sơ lưu trữ của khách hàng tại ngân hàng, thông tin từ các mối
quan hệ của khách hàng. Hơn nữa ngân hàng cịn phải phân tích để đánh giá cả những
yếu tố phi tài chính như đánh giá năng lực pháp lý, đánh giá uy tín của khách hàng…

1.2.5.3. Quyết định cấp tín dụng.
Kết quả của q trình phân tích tín dụng là đưa ra quyết định cho vay hay

không cho vay. Đối với những khoản vay nhỏ, ngân hàng thường giao quyền phán
quyết cho cán bộ tín dụng cịn với những khoản vay lớn thì quyền phán quyết thuộc
về hội đồng tín dụng (mức độ lớn hay nhỏ của khoản vay thì mỗi ngân hàng sẽ có
những quy định riêng và sẽ có sự phân cấp xử lý rõ ràng cho các phòng ban).
Nếu hồ sơ vay vốn bị từ chối thì ngân hàng sẽ phải thông báo cho khách hàng
bằng văn bản và cho khách hàng biết lý do từ chối cấp tín dụng của ngân hàng.
Nếu yêu cầu vay vốn của khách hàng được chấp thuận thì ngân hàng cũng
phải thơng báo cho khách hàng biết bằng văng bản, rồi sau đó hai bên sẽ cùng ký
kết hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (nếu có).

1
7


1.2.5.4. Ký kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là 1 văn bản thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng
trong đó đặt ra nghĩa vụ và quyền hạn của các bên, đưa ra các bảo đảm nhất định và
thường đưa ra sự quy định bảo đảm sự kiểm soát của ngân hàng đối với khách hàng.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng:
- Tên gọi chính thức của hợp đồng.
- Tên, địa chỉ của các bên tham gia hợp đồng
- Mức cho vay
- Điều kiện giải ngân và sử dụng tiền vay (lãi suất, phí, thwoif ạng sử dụng
vốn vay, phươn thức và tiến độ trả nợ)
- Điều kiện đảm bảo tín dụng
- Quy định về bên trang trải chi phí kí kết hợp đồng
- Các điều khoản thi hành khác
- Chữ ký và dấu của các bên

1.2.5.5. Giải ngân (phát tiền vay).

Hồ sơ của khoản vay sau khi được giám đốc ký duyệt cho vay được chuyển
cho kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán, thanh toán rồi chuyển cho thủ quỹ để
giải ngân cho khách hàng.
Giải ngân là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết
trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc giải ngân là luôn luôn gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động
của hàng hóa và các dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này.

1.2.5.6. Giám sát và quản lý tín dụng.
Ngân hàng phải ln ln thực hiện cơng tác giám sát và quản lý đối với
khoản tín dụng cấp cho khách hàng để đảm bảo việc khoản tín dụng được sử dụng
đúng mục đích và hiệu quả. Việc kiểm tra giám sát phải được thực hiện trong suốt
quá trình trước trong và sau khi cho vay từ khi bắt đầu lập hồ sơ tín dụng cho tới khi
thanh lý hợp đồng tín dụng.
Kiểm tra trước khi cho vay là việc thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định.
Kiểm tra trong khi cho vay bao gồm: Kiểm tra mục đích, đối tượng vay vốn;
kiểm tra mức vay và thời hạn cho vay; kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của hợp đồng
vay vốn (ví dụ: hợp dồng cung cấp nguyên vật liệu, các chứng từ hóa đơn có liên
quan, hồ sơ và giá trị thực tế của tài sản thế chấp, cầm cố).

1
8


Kiểm tra sau khi cho vay: sau khi cấp tín dụng nhất định cán bộ tín dụng phải
kiểm tra việc sử dụng tiền vay ngay tại trụ sở kinh doanh của khách hàng. Định kỳ cán bộ
tín dụng phải kiểm tra và phân tích nợ để phát hiện nợ quá hạn, nợ khó địi từ đó đưa ra
biện pháp xử lý thích hợp để từ đó làm lành mạnh hóa quan hệ tín dụng.
Các hình thức xử lý của ngân hàng:
Giám đốc ngân hàng thương mại nơi cho vay căn cứ vào kết quả kiểm tra theo

mức độ vi phạm của khách hàng có thể đưa ra các quyết định xử lý sau:
- Tạm ngừng cho vay trong các trường hợp: khách hàng sử dụng vốn sai mục
đích so với mục đích đã ký kết trong hợp đồng tín dụng hoặc cung cấp thông tin sai
sự thật.
- Chấm dứt cho vay: trong các trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng tín
dụng đã cam kết nhưng khơng khắc phục, sửa chữa, khách hàng ngừng sản xuất có
thể dẫn tới phá sản, q trình tổ chức lại sản xuất khơng xác định được người chịu
trách nhiệm chính trước pháp luật về quan hệ vay vốn và trả nợ ngân hàng.
- Khởi kiện trước pháp luật: việc khởi kiện nhằm buộc khách hàng phải trả nợ
cho ngân hàng thông qua việc đề nghị cơ quan pháp luật được bán tài sản thế chấp
để trả nợ hoặc yêu cầu người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho khách
hàng. Nếu nợ vẫn chưa trả hết mà ngân hàng đánh giá khả năng tài chính của khách
hàng là khó khăn khơng thể khắc phục được thì lập hồ sơ đề nghị tịa án tuyên bố
phá sản khách hàng đó để ngân hàng tiến hành thanh lý tài sản và thu hồi nợ. Ngân
hàng thương mại nơi cho vay có quyền khởi kiện khách hàng (dân sự hoặc hình sự)
trong những trường hợp sau:
Khách hàng có nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan, nhưng khơng có biện
pháp khắc phục khả thi để trả nợ ngân hàng.
Khách hàng có năng lực trả nợ nhưng cố tình trốn tránh trả nợ ngân hàng theo
thỏa thuận.
Khách hàng có hành vi gian lân, lừa đảo.
Khách hàng có các vi phạm khác theo quy định của pháp luật.

1.2.5.7. Thu nợ.
Căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính thu nhập và
nguồn trả nợ của từng khách hàng mà ngân hàng nơi cho vay và khách hàng thỏa
thuận về việc trả nợ gốc và lãi cho vay như sau:
Các kỳ hạn trả lãi

1

9


Các kỳ hạn trả lãi cùng với một phần nợ gốc hoặc theo kỳ hạn riêng: tháng,
quý, năm.
Khi đến hạn trả nợ gốc hoặc lãi mà khách hàng không trả nợ đúng hạn và
khong được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc
hoặc lãi thì ngân hàng thương mại nơi cho vay chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá
hạn và khách hàng phải chịu lãi quá hạn (lãi phạt).
Trường hợp khách hàng trả nợ trước hạn số lãi phải trả chỉ tính từ ngày vay
đến ngày trả nợ. Giám đốc nơi cho vay thỏa thuận cùng khách hàng về điều kiện, số
phí trả trước hạn, số phí trả trước hạn phải được ghi vào hợp đồng tín dụng.

1.2.6. Rủi ro và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro trong tín dụng đối
với kinh tế tư nhân.
1.2.6.1. Rủi ro trong cho vay KTTN ở các ngân hàng thương mại.
Khu vực KTTN là khu vực kinh tế với nhiều thành phần kinh tế với những
quy mô tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng và ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh
tế từ những ngành đơn giản như sản xuất nông nghiệp đến những ngành chứa đựng
công nghệ cao như cơng nghệ phần mềm. Vì thế mà cho vay đối với KTTN chắc
chắn sẻ ẩn chứa rất nhiều khó khăn và rủi ro đối với các tổ chức tín dụng hơn là các
khu vực kinh tế khác. Một số rủi ro có thể nhận thấy như:
Thứ nhất, do đặc điểm phần lớn các đơn vị sản xuất kinh doanh của KTTN đề
có quy mơ tương đối nhỏ, vốn sản xuất kinh doanh hạn chế, trình độ trong quản lý
và điều hành của người lãnh đạo chưa cao nên các đơn vị kinh tế này thường gặp rất
nhiều khó khăn trong việc sản xuất và kinh doanh từ đó ảnh hưởng tới khả năng trả
nợ của khách hàng, có thể ngân hàng sẽ không thu hồi được nợ đúng hạn hoặc dẫn
tới mất vốn.
Thứ hai, hiện nay cơ chế tín dụng còn nhiều điểm chưa phù hợp với nhu cầu
phát triển của khu vực KTTN, ngoài ra khả năng thẩm định cuả cán bộ tín chưa cao,

phần lớn dựa trên những phán xét cá nhân, chưa quen với việc thu thập và xử lý
thông tin từ các nguồn bổ sung khác của khách hàng. Nên nhiều khi các quyết định
tín dụng khơng chính xác dẫn tới việc cho vay khơng hiệu quả.
Thứ ba, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ của khu vực KTTN
thường là yếu kém, lạc hậu nên ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất, chất lượng sản
phẩm và chưa tận dụng được hết năng lực làm việc của con người. Từ đó dẫn tới
giảm sản lượng cuả đơn vị và có thể làm chậm thời gian trả nợ của khách hàng và
dẫn tới rủi ro cho ngân hàng.

2
0



×