Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Giáo trình nông lâm kết hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 167 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PGS.TS. ĐẶNG KIM VUI (Chủ biên) ThS. TRẦN QUỐC HÙNG - ThS. NGUYỄN
VĂN SỞ ThS. PHẠM QUANG VINH - ThS. LÊ QUANG BẢO - ThS. VÕ HÙNG

GIÁO TRÌNH NÔNG LÂM KẾT
HỢP
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2007
LỜI NÓI ĐẦU
Trong khoảng 2 thập niên cuối của thế kỷ 20, ngành nông lâm nghiệp đã và đang
có những biến đổi lý thú và quan trọng, trong đó phải kể đến sự ra đời của môn Nông
Lâm kết hợp. Môn này được trình thành do có sự gia tăng quan tâm đến việc hiện diện
của con người ở vùng rừng núi cao mà sự hiện diện này không phải lúc nào cũng là
nguyên nhân của sự suy thoái tài nguyên tự nhiên. Ngành Lâm Nghiệp hiện nay đang
phát triể
n thêm Lâm nghiệp ra hội đây cộng đồng trong đó cộng đồng người dân vùng
cao là các trợ thủ đắc lực của chính sách nông lâm nghiệp của nhiều quốc gia ở Châu
Á trong đó có Việt Nam. Cho đến nay, nhiều chính sách của nhà nước Việt Nam trong
đó có các chương trình 661, định canh định cư, giao đất khoán từng, và chương trình
327 đã hỗ trợ hàng vạn ha trồng rừng được tiến hành do sự hợp tác của dân cư và các
cơ quan nông lâm nghiệp nhà n
ước.
Trong hoàn cảnh hiện nay nhằm trang bị cho sinh viên những kiên thức mang
tính chất đa ngành để khi ra trường sinh viên có thểđáp ứng được các yêu cần thực tiễn
của sản xuất, chúng tôi đã tiên hành biên soạn giáo trình Nông Lâm Kết Hợp. Giáo
trình này được đặt cơ sở trên sự phối hợp hài hòa của các chuyên môn chính của nhà
trường như lâm nghiệp, nông nghiệp và chăn nuôi để tạo ra một ngành học phát triển
vững bền và mang tính bảo vệ sinh thái
ở vùng đồi núi cao. Đây cũng là kết quả của sự
hợp tác vềđào tạo giữa các trường Đại học trong nước gồm Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, Đại Học Nông Lâm Thủ Đức, Đại Học Lâm Nghiệp Xuân Mai, Đại Học Nông


Lâm Huế và Đại Học Nông Lâm Tây Nguyên trong Chương trình Hỗ trợ Lâm nghiệp
Xã hội (SFSP) và dự án mạng lưới đào tạo nông lâm kết hợp (SEANAFE).
Dưới sự chủ biên của PGS.TS. Đặ
ng Kim Vui chúng tôi đã xây dựng và cập nhật
thêm các tài liệu mới cho giáo trình này để nhằm giới thiệu một cách tổng thể về cơ sở
và kỹ thuật Nông Lâm kết hợp, trong đó giáo trình được chia ra làm 5 chương: chương
1 giới thiệu hình ảnh thực sự của vùng đồi núi cao hiện nay với sự tập trung vào hiện
tượng du canh phá từng làm lẫy và sự suy thoái tài nguyên thiên nhiên ở nước ta.
Chương hai nên về nguyên lý cơ bản của nông lâm kế
t hợp. Chương thứ ba giới thiệu
các hệ thống nông lâm kết hợp chính thường được áp dụng ở Việt Nam gồm các hệ
thống truyền thống và cải tiến. Chương thứ tư giới thiệu tổng quát các kỹ thuật nông
lâm kết hợp áp dụng cho các trang trại nhỏ gồm lâm nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi.
Và chương thứ năm tổng kết các cách tiếp cận để thiết k
ế, xây dựng và phát triển các
hệ thông Nông Lâm kết hợp nhằm đưa kỹ thuật này vào thực tế nông thôn.
Do thời gian biên soạn còn hạn chế nên chắc chắn giáo trình này vẫn còn những
phần thiếu sót, chưa đầy đủ về nội dung. Vậy chúng tôi rất mong được các độc giả
đóng góp ý kiến để chúng tôi có thể cập nhật và hoàn thiện cho lần xuất bản sao đầy
đủ hơn.
Các tác giả
CÁC TỪ VIẾT TẮT
FAO Tổ chức Lương Nông thuộc Liên Hợp Quốc
IIRR Viện Nghiên cứu Lúa Quốc Tế
GDP Thu nhập bình quân đầu người một năm
WB Ngân Hàng Thế Giới
IDRC Trung Tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế
CGIAR Nhóm Tư Vấn về Nghiên Cứu Nông Nghiệp Quốc tế
ICRAF Trung Tâm Nghiên cứu về Nông Lâm Kết Hợp
VAC Hệ thống Vườn-Ao-Chuồng

RVAC Hệ thống Rừng-vườn-Ao-Chuồng
SALT1 Kỹ thuật canh tác nông nghiiệp trên đất dố
c
SALT2 Kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp bền vững trên đất dốc
SALT3 Kỹ thuật canh tác nông nghiệp và chăn thảđơn giản
SALT4 Kỹ thuật canh tác vườn hộ trên đất dốc
PCARD Trung Tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông Lâm nghiệp Phillipin
ASF Cấu trúc mô phỏng theo rừng tự nhiên
IPM Quản lý sâu bệnh tổng hơp
PTD Phát triển kỹ thuật có sự tham gia
PMOE Giám sát, đánh giá có sự tham gia
PM Giám sát có sự tham Jia PE Đánh giá có sự tham gia
C, D&D Mô tả, Chẩn đoán và Thiết kế
SD Phát triển bền vững
SA Nông nghiệp bền vững
Chương I MỞ ĐẦU
1. CÁC VẤN ĐỀ THÁCH THỨC TRONG QUẢN LÝ BỀN VỮNG TÀI
NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1.1. CÁC VẤN ĐỀ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MIỀN NÚI
Ở các quốc gia Đông Nam Á, khu vực đất nông thôn và miền núi chiếm phần lớn
diện tích lãnh thổ và là nơi sinh sống của một bộ phận lớn dân cư của quốc gia. Ở Việt
Nam, đất đồi núi chiếm khoảng 2/3 diện tích và là vùng sinh sống của hơn 1/3 dân số
cả n
ước (Jamieson và cộng sự, 1998; Chu Hữu Quý, 1995; Rambo, 1995).
1.1.1. Tính chất mong manh và dễ bị tổn thương của đất và rừng nhiệt đới
Rừng và đất là hai nguồn tài nguyên cơ bản của vùng nhiệt đới ẩm. Khi không bị
tác động, các hệ sinh thái rừng nhiệt đới vốn ổn định nhờ vào sựđa dạng cao độ của các
loài cây và con, được gắn kết với nhau thông qua các chu trình dinh dưỡng gần như
khép kín (Wamer, 1991). Theo Richard (1977) (trích dẫn bởi Wamer, 1991), sựổn
định

của hệ sinh thái vùng nhiệt đới chính là sự thể hiện khả năng chống đỡ các biến đổi thất
thường của khí hậu và các yếu tố khác của môi trường tự nhiên. Trong đó, các loài thực
vật thân gỗđóng vai trò chủ đạo trong việc quyết định cấu trúc, chức năng và tính bền
vững của hệ sinh thái rừng.
Tuy nhiên sựổn định này chỉ có thể tồn tại trong khuôn khổ quá trình diễn th
ế tự
nhiên. Dưới tác động của con người, rừng và đất nhiệt đới trở nên rất dễ bị tan vỡ.
Chính các nhân tốđa dạng, phức tạp và chu trình dinh dưỡng khép kín vốn có khả năng
duy trì hệ sinh thái rừng nhiệt đới trong bối cảnh không bị tác động đã tạo nên các đặc
tính dễ bị tan vỡ khi tiếp xúc với con người (Wamer, 1991). Ở rừng mưa nhiệt đới, do
tính chất chuyên biệt cao độ c
ủa từng loài thực vật đã dẫn đến khả năng phục hồi thấp
khi có tác động trên qui mô lớn của con người (Goudic, 1984 - trích dẫn bởi Wamer,
1991). Do phần lớn chất dinh dưỡng trong hệ sinh thái được dự trữ trong sinh khối, nên
một khi rừng bị chặt phá đi thì xẩy ra hiện tượng thiếu chất dinh dưỡng để duy trì tăng
trưởng mới của các loài cây. Thêm vào đó do lượng mưa lớn, trong điế
u kiến không có
cây che phủ, các quá trình rửa trôi và xói mòn diễn ra mạnh mẽ làm đất đai bị thoái hóa
nhanh chóng. Như vậy sự bền vững của đất rừng nhiệt đới hoàn toàn phụ thuộc vào
lớp che phủ thực vật có cấu trúc phức tạp, đa dạng mà trong đó các loài cây thân
gỗđóng vai trò chủ đạo. Hiện tượng thiếu chất dinh dưỡng trong đất cũng như vai trò
quyết định của thảm thự
c vật rừng đến sự bền vững về sức sản xuất của đất cho thấy về
cơ bản thì đất nhiệt đới không phù hợp với các phương thức sản xuất nông nghiệp độc
canh.
1.1.2. Tính đa dạng về sinh thái - nhân văn của khu vực nông thôn và miền núi
• Đa dạng về địa hình -đất đai - tiểu khí hậu: Sự biến đổi mạnh về địa hình dẫn
đến biến động lớn về đất đai và tiểu khí hậu cả trên những phạm vi nhỏ.
• Đa dạng sinh học: Hệ động thực vật phong phú và đa dạng. Thực vật bao gồ
m

rất nhiều loài và dạng sống khác nhau.
• Đa dạng về dân tộc và văn hóa: Miền núi Việt Nam là địa bàn sinh sống của
hơn 1/3 dân số cả nước thuộc 54 dân tộc khác nhau. Mỗi dân tộc có các đặc điểm văn
hoá đặc thù (Jamieson và cộng sự, 1998).
• Đa dạng về các hệ thống canh tác truyền thống: Sựđa dạng vềđiều kiện tự nhiên
(điều kiện l
ập địa và sinh cảnh) và xã hội đã tạo nên sựđa dạng về hệ thống canh tác
truyền thống ở nông thôn miền núi. Các kiến thức kỹ thuật và quản lý truyền thống
trong sử dụng đất và canh tác của người dân ở nông thôn miền núi rất đa dạng, đã được
thử nghiệm, chọn lọc và phát triển qua nhiều thế kỷ.
• Nông thôn miền núi chịu ảnh hưởng của nhiề
u yếu tố kinh tế xã hội rất phức
tạp: Bên cạnh các đặc điểm phức tạp về tự nhiên như địa hình, tiểu khí hậu, đất đai và
sinh học, trong những thập kỷ gần đây khu vực nông thôn miền núi đang gánh chịu sự
tác động của nhiều nhân tố kinh tế xã hội như áp lực về dân số, sự biến động về chính
sách và kinh tế thị
trường, sự du nhập các yếu tố văn hóa, xã hội từ bên ngoài, v.v. đã
dẫn đến động thái/diễn biến tài nguyên sinh thái/nhân văn rất phức tạp, tạo ra những trở
ngại và thách thức lớn cho quản lý/sử dụng bền vững và có hiệu quả nguồn tài nguyên.

Tính đa dạng về sinh thái nhân văn của khu vực nông thôn miền núi là một trong
những cơ sở để đa dạng hóa các hệ thố
ng sử dụng đất, cũng như phát triển các hệ thống
sử dụng tài nguyên tổng hợp. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức lớn cho các nhà quản
lý, nhà lập chính sách do yêu cầu phải hình thành và phát triển từng hệ thống quản lý
sử dụng đất, các hệ thống canh tác phù hợp cho từng điều kiện sinh thái nhân văn đặc
thù.
1.2. CÁC THAY ĐỔI MANG TÍNH THÁCH THỨC CHO PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG NÔNG THÔN MIỀN NÚI
• Sự gia tăng áp lực dân s

ố gây ra các vấn đề bức xúc về đất canh tác và an toàn
lương thực, và sức ép lên tài nguyên thiên nhiên miền núi.
Ở các khu vực nông thôn miền núi, mật độ dân cư không cao như các khu vực đô
thịở vùng đồng bằng nhưng lại có tốc độ tăng dân số rất nhanh. Theo Đỗ Đình Sâm
(1995), tốc độ tăng dân sốở miền núi Việt Nam biến động trong khoảng 2,5 - 3,5%
trong khi tốc độ bình quân của cả nước ở dưới mứ
c này nhiều. Tình trạng này một phần
chủ yếu do phong trào di dân tự do từ các khu vực đồng bằng quá đông đúc lên các
vùng đồi núi, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây Nguyên (Đán Lan, Gia Lai, Kon Tum).
Dân số tăng trong điều kiện khan hiếm đất có tiềm năng nông nghiệp ở miền núi đã dẫn
đến bình quân đất canh tác đầu người giảm. Tuy miền núi Việt Nam được xem là khu
vực dân cư thưa thớt với mật độ bình quân 75 ng
ười/km
2
nhưng bình quân diện tích đất
canh tác đầu người rất thấp (vào khoảng 1200 - 1500 m
2
/người) (FAO và IIRR, 1995),
trong khi đó mức đất canh tác để đáp ứng nhu cầu lương thực tối thiểu là
2000m2/người. Ở khu vực miền núi của 11 tỉnh phía Nam, diện tích canh tác bình quân
đầu người ở dưới 1000m
2
/người, còn thấp hơn cảở miền núi ở các tỉnh phía bắc miền
Trung như Nghệ An và Thanh Hóa (Jamieson và cộng sự, 1998). Trong lúc đó khả
năng tăng diện tích lúa nước - là hệ thống sản xuất ngũ cốc có năng suất cao và ổn định
nhất Việt Nam -ở khu vực miền núi rất hạn chế, chỉ diễn ra ở các khu vực phân tán nhỏ
hẹp có thể tưới tiêu được Vì vậy có thể nói r
ằng mật độ dân sốđang tiến gần đến hoặc
thậm chí đã vượt quá khả năng chịu đựng của đất đai ở phần lớn khu vực miền núi
(Jamieson và cộng sự, 1998).

Sự gia tăng dân sốđã tạo ra áp lực lớn lên tài nguyên thiên nhiên miền núi là rừng,
đất và nguồn nước, làm các nguồn tài nguyên quí giá này suy giảm nhanh chóng.
• Sự suy thoái về tài nguyên thiên nhiên và môi trường Văn hóa và xã hội
-Sự suy giảm nhanh chóng tài nguyên
rừng: Độ che phủ rừng cả nước giảm từ từ
40,7% vào 1940 xuống chỉ còn 27,7% vào
1993 (Đỗ Đình Sâm, 1994). Cách đây 50
năm, rừng tự nhiên bao phủ phần lớn khu
vực đồi núi nhưng trong những năm gầ
n
đây đã giảm xuống dưới 20% ở phần lớn
khu vực đồi núi phía Bắc, thậm chí có nơi
giảm còn 10% nhưở khu vực miền núi
vùng Tây Bắc. Các diện tích rừng còn lại
phần lớn là rừng nghèo kiệt, trữ lượng gỗ
thấp và hiếm có loài cây có giá trị kinh tế.
Sự suy thoái của đất đai là điều dễ thấy ở khắp miền núi Việt Nam. Do thiếu rừng
che phủ
, xói mòn đất và rửa trôi chất dinh dưỡng diễn ra mạnh làm giảm độ màu mỡ
của đất. Canh tác nương rẫy vốn là phương thức canh tác truyền thống của các dân tộc
miền núi, tỏ ra khá phù hợp trong điều kiện mật độ dân cư thấp và tài nguyên rừng còn
phong phú Trong những thập kỷ gần đây, do áp lực dân số và sự suy giảm diện tích
rừng, giai đoạn canh tác kéo dài hơn và giai đoạn bỏ hóa b
ị rút ngắn lại, dẫn đến sự suy
giảm liên tục của độ phì đất và cỏ dại phát triển mạnh. Kết quả dẫn đến giảm năng suất
cây trồng một cách nhanh chóng.
Sự suy giảm về đa dạng sinh học. Nhiều loài động thực vật đã bị biến mất hoặc
trở nên khan hiếm. Nạn phá rừng, việc phát triển trồng rừng thuần loài và nông nghiệ
p
độc canh đã làm suy giảm đa dạng sinh học, trong đó chủ yếu bao gồm đa dạng di

truyền, đa dạng chủng loài và đa dạng về hệ sinh thái.
• Tình trạng đói nghèo
Vào năm 1994, khi GDP bình quân của cả nước là 270 USD thì ở miền núi phía
Bắc chỉ là 150 USD và ở Tây Nguyên là 70 USD. Rất nhiều nơi ở miền núi có thu nhập
tiền mặt bình quân đầu người dưới 50 Usd/năm. Hộ nghèo đói chiếm 34% ở miền núi
phía Bắc và hơn 60% ở Tây Nguyên, với thu nhập bình quân đầu người dưới
50.000đ/tháng, rất thấp so với tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân là 27% của cả nướ
c. Hơn
56% hộ gia đình ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên ở tình trạng suy dinh dưỡng
nghiêm trọng, có tiêu thụ năng lượng dưới l,500kcals/người/ngày trong lúc phải cần
2200-2500kcals/người/ngày (Jamieson và cộng sự, 1995). Tình trạng đói nghèo không
chỉ thể hiện ở thu nhập thấp mà còn ở không đảm bảo các nhu cầu cơ bản khác như
giáo dục, y tế, thông tin văn hóa xã hội, v.v.
• Sự phát triển theo các mô hình canh tác rập khuôn, áp đặt và phụ thuộc vào bên
ngoài.
Trái ng
ược với điều kiện đa dạng về sinh thái- nhân văn và sự phong phú về kiến
thức canh tác truyền thống ở miền núi, các chương trình phát triển miền núi của chính
phủ thường thực hiện theo các "mô hình" quản lý kỹ thuật đồng bộ, hình thành theo
cách nghĩ của người vùng đồng bằng. Các nhà nông nghiệp và lâm nghiệp được đào tạo
chính thống thường có định kiến về sự lạc hậu củ
a các phương thức sản xuất truyền
thống, hay nghĩ đến việc tăng cường thực hiện pháp luật nhà nước và áp đặt các mô
hình kỹ thuật sản xuất từ bên ngoài hơn là hình thành các và phát triển các hệ thống
quản lý kỹ thuật thích ứng, phối hợp giữa kiến thức bản địa và kỹ thuật mới phù hợp
với các điều kiện cụ thể của nông dân và thúc đẩy phát huy tính t
ự chủ của họ trong
quản lý tài nguyên (Hoàng Hữu Cải, 1999). Chính điều này đã làm giảm hiệu quả và
tác dụng của nhiều các chương trình phát triển miền núi mặc dù có đầu tư rất lớn.
• Xu hướng giao thoa giữa lâm nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác trong sử

dụng tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế.

Khái niệm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp một cách thuần túy và tách biệt theo
quan niệm trước đây đã trở nên không còn phù hợp ở nhiều khu vực dân cưở miền núi.
Phát triển sử dụng đất thuần nông hoặc thuần lâm đã bộc lộ nhiều hạn chế lớn, chẳng
hạn canh tác thuần nông trên đất dốc cho năng suất thấp và không ổn định trong khi
phát triển thuần lâm lại có khó khăn về nhu c
ầu lương thực trước mắt. Thực tiễn sản
xuất đã xuất hiện các phương thức sử dụng đất tổng hợp, có sựđan xen giữa nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
1.3. NHU CẦU VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG
THÔN MIỀN NÚI
1.3.1. Phát triển bền vững nông thôn và miền núi
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là quản lý và bảo tồn các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và định hướ
ng các thay đổi kỹ thuật và định chế nhằm đảm bảo
thoả mãn các nhu cầu của con người của các thế hệ hiện tại và trong tương lai. Đó là sự
phát triển đảm bảo bảo tồn đất, nước và các nguồn trên động thực vật, chống xuống cấp
về môi trường, phù hợp về kỹ thuật, khả thi vê kinh tế và được xã hội chấp nhận (FAO,
1995). Nói một cách đơn gi
ản hơn, phát triển bền vững chính là việc sử dụng tài
nguyên đáp ứng được các nhu cầu về sản xuất của thế hệ hiện tại, trong khi vẫn bảo tồn
được nguồn tài nguyên cần cho nhu cầu của các thế hệ tương lai.
1.3.2. Các thách thức
Như vậy, bối cảnh thay đổi trên đã cho thấy một nhu cầu và cũng là một thách
thức lớn cho phát triển bền vững nông thôn và mi
ền núi là:
• Hình thành và phát triển các phương thức quản lý sử dụng tài nguyên thiên
nhiên (bao gồm rừng, đất và nước) một cách tổng hợp trong đó có sự dung hòa giữa các
lợi ích về kinh tế và bảo tồn tài nguyên môi trường

• Quản lý và sử dụng đất đồi núi có hiệu quả.
• Quản lý và sử dụng đất đảm bảo tính công bằng.

Hình thành và phát triển hệ thống quản lý sử dụng đất
được sự chấp chấp nhận
của người dân và các nhóm đối tượng có liên quan khác.
Nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng đất tổng hợp giữ lâm nghiệp với
các ngành nông nghiệp (bao gồm cả chăn nuôi) và thủy sản, có nhiều ưu điểm và ý
nghĩa về bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế xã hội được công nhận rộng
rãi trên khắp thế giới
2. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM KẾT HỢP NHƯ LÀ MỘT
PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG
2.1. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM KẾT HỢP
2.1.1. Lịch sử phát triển nông lâm kết hợp thế giới
Canh tác cây thân gỗ cùng với cây trồng nông nghiệp trên cùng một diện lích là
một tập quán sản xuất lâu đời của nông dân ở nhiều nơi trên thế giới. Theo Keng
(1987), cho đến thời Trung c
ổở châu Âu, vẫn tồn tại một tập quán phổ biến là "chặt và
đốt" rồi sau đó tiếp tục trồng cây thân gỗ cùng với cây nông nghiệp hoặc sau khi thu
hoạch nông nghiệp. Hệ thống canh tác này vẫn tồn tại ở Phần Lan cho đến cuối thế kỷ
19, và vẫn còn ở một số vùng của Đức đến tận những năm 1920. Nhiều phương thức
canh tác truyền thống ở châu Á, Châu Phi và khu vực nhi
ệt đới châu Mỹđã có sự phối
hợp cây thân gỗ với cây nông nghiệp để nhằm mục đích chủ yếu là hỗ trợ cho sản xuất
nông nghiệp và tạo ra các sản phẩm phụ khác khác như: gỗ, củi, đồ gia dụng, v.v.
2.1.1.1. Sự phát triển của hệ thống Taungya
Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống taungya bắt đầu phát triển rộng rãi ở Myanmar dưới
sự bả
o hộ của thực dân Anh. Trong các đồn điền trồng cây gỗ tếch (Tectona grandis),
người lao động được phép trồng cây lương thực giữa các hàng cây chưa khép tán để

giải quyết nhu cầu lương thực hàng năm. Phương thức này sau đó được áp dụng rộng
rãi ởẤn Độ và Nam Phi. Các nghiên cứu và phát triển các hệ thống kết hợp này thường

hướng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp, được thực hiện bởi các nhà lâm nghiệp với
việc luôn cố gắng đảm bảo các nguyên tắc
• Giảm thiểu hoặc không gây tổn hại đến các loài cây rừng trồng là đối tượng
cung cấp sản phẩm chủ yếu trong hệ thống
• Sinh trưởng của cây rừng trồng không bị hạn chế bởi cây nông nghiệp
• Tố
i ưu hóa về thời gian canh tác cây trồng nông nghiệp sẽ đảm bảo tỉ lệ sống và
tốc độ sinh trưởng nhanh của cây trồng thân gỗ
• Loài cây rừng trồng có khả năng cạnh tranh với các loài cây nông nghiệp
• Tối ưu hóa mật độ để đảm bảo sự sinh trưởng liên tục của cây trồng thân gỗ.
• Chính vì vậy mà các hệ thống này chưa được xem xét như là một hệ th
ống quản
lý sử dụng đất có ý nghĩa cho phát triển nông nghiệp (Nair, 1995).

2.1.1.2. Các nhân tố làm tiền đề cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên phạm vi
toàn cầu
Nhiều nhân tố phát triển trong thập niên 70 của thế kỷ 20 đã tạo điều kiện cho
việc công nhận nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý sử dụng đất có khả năng áp
dụng cho cả trong nông nghiệp (trên nông trạ
i) và lâm nghiệp (trên đất rừng). Các nhân
tố này bao gồm:
• Sựđánh giá lại chính sách phát triển của Ngân hàng Thế giới (WB);
• Sự tái thẩm định các chính sách lâm nghiệp của Tổ chức Lương nông (FAO)
thuộc Liên hiệp quốc;
• Sự thức tỉnh các mối quan tâm khoa học về xen canh và hệ thống canh tác;
• Tình trạng thiếu lương thực ở nhiều vùng trên thế giới;
• Sự gia tăng nạn phá rừ

ng và suy thoái về môi trường sinh thái;
• Cuộc khủng hoảng năng lượng trong thập niên 70 của thế kỷ 20 và sau đó là sự
leo thang về giá cả và thiếu phân bón;
• Trung tâm Nghiên cứu phát triển Quốc tế (IDRC) của Canada thiết lập dự án
xác định các ưu tiên nghiên cứu về lâm nghiệp nhiệt đới
• Các thay đổi về chính sách phát triển nông thôn

Trong vòng 2 thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, dưới sự bảo trợ của Nhóm t
ư vấn
về Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế (CGIAR), nhiều trung tâm nghiên cứu nông
nghiệp quốc tế được thành lập ở nhiều khu vực trên thế giới nhằm nghiên cứu nâng cao
năng suất của các loại cây trồng và vật nuôi chủ yếu ở vùng nhiệt đới. Việc phát triển
các giống cây trồng ngũ cốc năng suất cao và các kỹ thuật thâm canh liên quan nhờ vào
nỗ lực của một số Trung tâm và các ch
ương trình quốc gia có liên quan đã tạo nên một
sự thay đổi lớn về năng suất nông nghiệp mà thường được gọi là Cách mạng Xanh
(Green Revolution) (Borlaug và Dowswell, 1988). Tuy nhiên các nhà quản lý và phát
triển đã sớm nhận thấy rằng các kỹ thuật thâm canh mới đã làm tăng nhu cầu phân bón
và các chi phí đầu vào khác trong khi đó vẫn còn một bộ phận lớn nông dân nghèo nằm
ngoài tầm ảnh hưởng tích cực của cuộc cách mạng trên. Phần lớn các Trung tâm nghiên
cứu nông nghiệp quốc tế và các chương trình phát triển nông nghiệp quốc gia trong
thời gian này chỉ mới tập trung nghiên cứu các loại cây trồng riêng rẽ trong khi thực tế
nông dân lạ
i canh tác một cách tổng hợp: trồng xen các loại cây nông nghiệp khác
nhau, cây ngắn ngày với cây gỗ dài ngày, v.v. Sự thiếu sót này đã được nhiều nhà quản
lý và hoạch định chính sách nhận ra.
Từ đầu thập niên 70, chính sách phát triển của Ngân hàng Thế giới đã bắt đầu chú
ý hơn các vùng nông thôn nghèo cùng với sự tham gia của nông dân vào các chương
trình phát triển nông thôn. Trong chương trình Lâm nghiệp xã hội của WB trong những
năm 1980 không chỉ chứa đựng nhiều yếu tố của nông lâm k

ết hợp mà còn thiết kế trợ
giúp nông dân thông qua gia tăng sản xuất lương thực thực phẩm, bảo vệ môi trường và
phát huy các lợi ích truyền thống của rừng. Trong thời gian này, bên cạnh phát triển
nông nghiệp, FAO đặc biệt chú trọng nhấn mạnh vai trò quan trong của lâm nghiệp
trong phát triển nông thôn, khuyến cáo nông dân và nhà nước nên chú trọng đặc biệt
đến các ích lợi của rừng và cây thân gỗ đến sản xuất nông nghiệp, khuyến cáo các nhà
quản lý s
ử dụng đất kết hợp cả nông nghiệp và lâm nghiệp vào hệ thống canh tác của
họ (Keng, 1979). Nhiều khái niệm mới về lâm nghiệp như lâm nghiệp cộng đồng, lâm
nghiệp xã hội đã được hình thành và áp dụng ở nhiều nước mà nông lâm kết hợp
thường được xem là một phương thức sử dụng đất nhiều tiềm năng, đem lại những lợi
ích trực tiếp cho cộ
ng đồng địa phương và toàn xã hội.
• Nạn phá rừng và tình trạng suy thoái môi trường
Cuối thập niên 70 và các năm đầu thập niên 80, sự suy thoái tài nguyên môi
trường toàn cầu, nhất là nạn phá rừng, đã trở thành mối quan tâm lo lắng lớn của toàn
xã hội. Sự phát triển của nông nghiệp nương rẫy đi kèm với áp lực dân số, sự phát triển
nông nghiệp thâm canh hóa học, độc canh trên qui mô lớn và khai thác lâm sản là
những nguyên nhân chủ yếu gây ra s
ự mất rừng, suy thoái đất đai và đa dạng sinh học.
Theo ước tính của FAO (1982), du canh là nguyên nhân tạo ra hơn 70% của tổng diện
tích rừng nhiệt đới bị mất ở châu Phi; diện tích đất rừng bỏ hóa sau nương rẫy chiếm
26,5% diện tích rừng khép tán còn lại ở châu Phi, khoảng 16% ở châu Mỹ Latin và
22,7% ở khu vực nhiệt đới của châu Á.
• Sự gia tăng các môi quan tâm về nghiên cứu các hệ thống canh tác tổng hợ
p và
các hệ thống kỹ thuật truyền thống
Thực trạng này cùng nhiều nỗ lực nghiên cứu đã gợi mở ra các chiến lược quản lý
sử dụng đất tổng hợp thay thế cho các phương thức quản lý hiện thời không bền vững
đã được xác định là một xu hướng tất yếu. Chẳng hạn như các nhà sinh thái học đã

cung cấp nhiều bằng chứng thuyết phục về vai trò của rừng và cây thân gỗ đối với việc
đảm bảo độ ổn định của hệ sinh thái, dẫn đến các biện pháp cần thiết để bảo vệ rừng
còn lại, đưa các loài cây thân gỗ lâu năm vào các hệ thống sử dụng đất cũng như làm
thay đổi quan điểm canh tác. Đã có nhiều kết quả nghiên cứu ban đầu
ở nhiều khu vực
trên thế giới về tính hiệu quả cao trong việc sử dụng các tài nguyên tự nhiên (đất, nước
và ánh sáng mặt trời) cũng như tính ổn định cao của các hệ thống xen canh, các hệ
thống canh tác tổng hợp so với hệ thống nông nghiệp độc canh (Papendick và cộng sự,
1976). Các nghiên cứu của các nhà nhân chủng học và khoa học xã hội về hệ thống sử
dụng đất đã chỉ ra t
ầm quan trọng của các hệ thống canh tác tổng hợp bản địa/truyền
thống và lưu ý cần xem xét chúng trong quá trình phát triển các tiếp cận mới (Nair,
1995).
• Sự hình thành Trung tâm Quốc tế về Nghiên cứu Nông lâm kết hợp (ICRAF)
Vào tháng 7/1977, được sựủy nhiệm của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc
tế (IDRC) của Canada, John Bene đã tiến hành dự án nghiên cứu với các mục tiêu:
-Xác định các khoảng trống trong đào tạo và nghiên cứu lâm nghiệp thế
giới;
-Đánh giá sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và lâm nghiệp ở các quốc gia
nhiệt đới có thu nhập thấp và đề xuất nghiên cứu nhằm tối ưu hóa sử dụng đất;
-Xây dựng các chương trình nghiên cứu lâm nghiệp nhằm tạo ra các tác động kinh
tế xã hội có ý nghĩa ở cho các nước đang phát triển;
-Đề xuất các sắp xếp về tổ chức, thể chế để
thực hiện các nghiên cứu trên một
cách có hiệu quả và
-Chuẩn bị kế hoạch hành động để có được ủng hộ của các nhà tài trợ quốc tế.
Mặc dù với mục đích ban đầu là xác định các ưu tiên nghiên cứu cho lâm nghiệp
nhiệt đới, nhóm nghiên cứu của John Bene đã đi đến kết luận rằng: để tối ưu hóa sử
dụng đất nhiệt đới, ưu tiên số
một nên là nghiên cứu và phát triển các hệ thống kết hợp

giữa lâm nghiệp với nông nghiệp và chăn nuôi. Hay nói cách khác, đã có một sự
chuyển dịch trọng tâm từ lâm nghiệp sang những khái niệm sử dụng đất rộng hơn, phù
hợp hơn ở cả hai phương diện trực tiếp (trước mắt) và dài hạn (Bene và cộng sự, 1977).
Báo cáo dự án này của IDRC đã được các cơ quan quốc tế xem xét và dẫn
đến sự hình
thành Hội đồng Quốc tế về Nghiên cứu Nông Lâm kết hợp vào năm 1977, vào 1991 cơ
quan này được đổi tên thành Trung tâm Quốc tế về Nghiên cứu Nông Lâm kết hợp
(International Centre for Research in Agroforestry - ICRAF. Kể từ khi thành lập,
ICRAF là tổ chức luôn đi đầu trong thu thập thông tin, tiến hành các dự án nghiên cứu,
chuyển giao kết quả .
2.1.1.3. Sự phát triển phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển
Song song với sự phát triển khái niệm và các nghiên cứu k
ỹ thuật, phương pháp
tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp cũng không ngừng được
cải thiện. Trong một thập niên gần đây, các công cụ chẩn đoán - thiết kế - phát
triển đã được phát triển trên cơ sở lý luận của các tiếp cận có sự tham gia vốn
được sử dụng phổ biến trong lâm nghiệp xã hội. Các nghiên cứu phân tích ảnh
hưởng của môi trường chính sách đến phát triển nông lâm kết hợp và các tác độ
ng
của phát triển nông lâm kết hợp lên hệ thống sử dụng đất, cảnh quan và môi
trường kinh tế xã hội cũng như khả năng chấp nhận của nông dân cũng đang được
chú trọng xem xét. Bên cạnh đó, nhiều phương pháp nghiên cứu mới có liên quan
đến các ngành khoa học khác như khoa học đất, sinh lý học thực vật, sinh thái
học, khoa học hệ thống và mô phỏng, v.v. đã được áp dụng vào nghiên cứu nông
lâm kế
t hợp đã tạo ra được các tiến bộđáng kể trong nghiên cứu.
2.1.1.4. Sự hòa nhịp của nông lâm kết hợp vào chương trình đào tạo nông
nghiệp, lâm nghiệp và phát triển nông thôn
Ngày nay, các kiến thức về nông lâm kết hợp đã được đưa vào giảng dạy ở các
trường đại học, viện nghiên cứu-đào tạo về công nghiệp, lâm nghiệp, phát triển nông

thôn và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Tiềm năng của nông lâm kết hợp trong vi
ệc cải
tạo đất bảo tồn đa dạng sinh học và nguồn nước nói chung đã được công nhận. Về thực
chất thì nông lâm kết hợp thường được xem như là một hệ thống sử dụng đất có tiềm
năng đem lại các ích lợi về lâm sản, lương thực thực phẩm trong lúc vẫn có khả năng
bảo tồn và khôi phục hệ sinh thái.
2.1.2. Lược sử phát tri
ển nông lâm kết hợp ở Việt Nam
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, các tập quán canh tác nông lâm kết
hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời, như các hệ thống canh tác nương rẫy truyền thống
của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái
trên khắp cả nước, v.v. Làng truyền thống của người Việt cũng có thể xem là một hệ
thố
ng nông lâm kết hợp bản địa với nhiều nét đặc trưng về cấu trúc và các dòng chu
chuyển vật chất và năng lượng.
Từ thập niên 60, song song với phong trào thi đua sản xuất, hệ sinh thái Vườn -
Ao - Chuồng (VAC) được nhân dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng
khắp cả nước với nhiều biến thể khác nhau thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể.
Sau đó là các hệ thống Rừng - Vườ
n - Ao - Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát
triển mạnh ở các khu vực dân cư miền núi. Các hệ thống rừng ngập mặn- nuôi trồng
thủy sản cũng được phát triển mạnh ở vùng duyên hải các tỉnh miền Trung và miền
Nam. Các dự án được tài trợ quốc tế cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất dốc
theo đường đồng mức (SALT) ở một số khu vực miền núi. Trong hai thập niên gần
đây, phát tri
ển nông thôn miền núi theo phương thức nông lâm kết hợp ở các khu vực
có tiềm năng là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Quá trình thực hiện
chính sách định canh định cư kinh tế mới, mới đây các chương trình 327, chương trình
5 triệu ha rừng (661) và chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại đều có
liên quan đến việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm kết hợp tại Việt Nam.

Các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng đã được một số nhà khoa học,
tổ chức tổng kết được những góc độ khác nhau. Điển hình là các ấn phẩm c
ủa Lê Trọng
Cúc và cộng sự (1990) về việc xem xét và phân tích các hệ sinh thái nông nghiệp vùng
trung du miền Bắc trên cơ sở tiếp cận sinh thái nhân văn. Các hệ thống nông lâm kết
hợp điển hình trong nước đã được tổng kết bởi FAO và IIRR (1995), cũng nhưđã được
mô tả trong ấn phẩm của Cục Khuyến Nông và Khuyến lâm dưới dạng các "mô hình"
sử dụng đất Mittelman (1997) đã có một công trình tổng quan rất tết về hi
ện trạng nông
lâm kết hợp và lâm nghiệp xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là các nhân tố chính sách ảnh
hưởng đến sự phát triển nông lâm kết hợp. Tuy nhiên các tư liệu nghiên cứu về tương
tác giữa phát triển nông lâm kết hợp với môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội xung
quanh (vi mô và vĩ mô) vẫn còn rất ít.

2.2. LỢI ÍCH CỦA CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP VÀ THÁCH THỨC
2.2.1. Các lợi ích của nông lâm kết hợp
Th
ực tiễn sản xuất cũng như nhiều công trình nghiên cứu trung và dài hạn ở nhiều
nơi trên thế giới đã cho thấy nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng tài nguyên
tổng hợp có tiềm năng thoả mãn các yếu tố của phát triển nông thôn và miền núi bền
vững. Các lợi ích mà nông lâm kết hợp có thể mang lại rất đa dạng, tuy nhiên có thể
chia thành 2 nhóm nhóm các lợi ích trực tiếp cho đời số
ng cộng đồng và nhóm các lợi
ích gián tiếp cho cộng đồng và xã hội.
2.2.1.1. Các lợi ích trực tiếp của nông lâm kết hợp
Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình nông lâm kết hợp được hình
thành và phát triển nhằm vào mục đích sản xuất nhiều loại lương thực thực phẩm, có
giá trị dinh dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ thống VAC
được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta. Ưu điểm của các hệ thống
nông lâm kết hợp là có khả năng tạo ra sản phẩm lương thực và thực phẩm đa dạng trên

một diện tích đất mà không yêu cầu đầu vào lớn.
Các sản phẩm từ cây thân gỗ: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có thể tạo
ra nhiều sản phẩm như gỗ
, củi, tinh dầu, v.v. để đáp ứng nhu cầu về nguyên vật liệu
cho hộ gia đình.
Tạo việc làm: Nông lâm kết hợp gồm nhiều thành phần canh tác đa dạng có tác
dụng thu hút lao động, tạo thêm ngành nghề phụ cho nông dân.
Tăng thu nhập nông hộ: Với sự phong phú về sản phẩm đầu ra và ít đòi hỏi về
đầu vào, các hệ thống nông lâm kết hợp dễ có khả năng đến l
ại thu nhập cao cho hộ gia
đình.
Giảm rủi ro trong sản xuất và tăng mức an toàn lương thực: Nhờ có cấu trúc
phức tạp, đa dạng được thiết kế nhằm làm tăng các quan hệ tương hỗ (có lợi) giữa các
thành phần trong hệ thống, các hệ thống nông lâm kết hợp thường có tính ổn định cao
trước các biến động bất lợi vềđiều kiện tự nhiên (như dịch sâu bệnh, hạn hán, v.v.). Sự

đa dạng về loại sản phẩm đầu ra cũng góp phần giảm rủi ro về thị trường và giá cho
nông hộ.
2.2.1.2. Các lợi ích của nông lâm kết hợp trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường
• Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên đất và nước
Hơn 20 năm nghiên cứu nông lâm kết hợp phối hợp với các kết quả nghiên cứu về
sinh thái học, nông nghiệp, lâm nghiệp và khoa học đấ
t đã cho thấy các hệ thống nông
lâm kết hợp - nếu được thiết kế và quản lý thích hợp - sẽ có khả năng giảm dòng chảy
bề mặt và xói mòn đất; duy trì độ mùn và cải thiện lý tính của đất và phát huy chu trình
tuần hoàn dinh dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng của cây trồng và vật nuôi.
Nhờ vậy làm gia tăng độ phì của đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và gi
ảm sức ép của dân
số gia tăng lên tài nguyên đất (Young, 1997).

Ngoài ra, trong các hệ thống nông lâm kết hợp do hiệu quả sử dụng chất dinh
dưỡng của cây trồng cao nên làm giảm nhu cầu bón phân hóa học, vì thế giảm nguy cơ
ô nhiễm các nguồn nước ngầm (Young, 1997).
• Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Thông qua việc cung cấp một phần lâm sản cho nông hộ, nông lâm kết hợp có thể
làm giảm t
ốc độ khai thác lâm sản từ rừng tự nhiên. Mặt khác, nông lâm kết hợp là
phương thức tận dụng đất có hiệu quả nên làm giảm nhu cầu mở rộng đất nông nghiệp
bằng khai hoang rừng. Chính vì vậy mà canh tác nông lâm kết hợp sẽ làm giảm sức ép
của con người vào rừng tự nhiên, giảm tốc độ phá rừng (Young, 1997).
Các hộ nông dân qua canh tác theo phương thức này sẽ dần dần nhận thức được
vai trò của cây thân g
ỗ trong việc bảo vệ đất, nước và sẽ có đổi mới về kiến thức, thái
độ có lợi cho công tác bảo tồn tài nguyên rừng.
Việc phối hợp các loài cây thân gỗ vào nông trại đã tận dụng không gian của hệ
thống trong sản xuất làm tăng tính đa dạng sinh học ở phạm vi nông trại và cảnh quan.
Chính vì các lợi ích này mà nông lâm kết hợp thường được chú trọng phát triển
trong công tác quản lý vùng đệm xung quanh các khu bảo tồ
n thiên nhiên và bảo tồn
nguồn tiền.
• Nông lâm kết hợp và việc làm giảm hiệu ứng nhà kính:
Nhiều nhà nghiên cứu gợi ý rằng sự phát triển nông lâm kết hợp trên qui mô lớn
có thể làm giảm khí CO2 và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác (Dioxon, 1995,
1996; Schroeder, 1994). Các cơ chế của tác động này có thể là: sự đồng hóa khí CO
2
của cây thân gỗ trên nông trại; gia tăng lượng cacbon trong đất và giảm nạn phá rừng
(Young, 1997).
2.2.2. Tiềm năng và triển vọng phát triển nông lâm kết hợp ở Việt Nam
• Sựđa dạng về sinh thái môi trường ở Việt Nam
-Đa dạng vềđiều kiện lập địa (đất đai, địa hình và tiểu khí hậu)

-Đa dạng sinh học (cảnh quan và hệ sinh thái, loài và các biến bị di truyền dưới
loài)

Sự phong phú và đa dạng về các kiên thức kỹ thuật bản địa về nông lâm kết hợp
Nhu cầu phát triển nông lâm kết hợp của nhân dân

• Chính sách của Đảng và Nhà nước về việc hỗ trợ, ưu tiên phát triển nông lâm kết
hợp
• Sự quan tâm đầu tư cho nghiên có và phát triển nông lâm kết hợp trên thế giới.
2.2.3. Một sốhạn chếtrong nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợ
p ởViệt Nam
Có thể chia các hiện thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam thành 2 nhóm các hệ
thống nông lâm kết hợp bản địa và các hệ thống nông lâm kết hợp mới được đưa vào.
Một thực trạng đã được chỉ ra và phân tích bởi một số nhà nghiên cứu là: trong khi các
hệ thống bản địa hoạt động một cách có hiệu quả, là kế sinh nhai của nông dân từ nhiều
năm nay thì phần l
ớn các "mô hình" nông lâm kết hợp mới du nhập trong những năm
gần đây bộc lộ nhiều hạn chế về tính hiệu quả, độ bền vững, tính công bằng và sự chấp
nhận của người dân địa phương.
Vấn đề cốt lõi của sự hạn chế này là do các "mô hình" được thiết kế và áp dụng
theo lối suy diễn của người bên ngoài (thường là người miền xuôi), lại thường đượ
c áp
dụng một cách đồng bộ nên không phù hợp với các tính huống sinh thái nhân văn đa
dạng và đặc thù của từng địa phương. Việc sử dụng thuật ngữ "mô hình nông lâm kết
hợp" thay vì "hệ thống nông lâm kết hợp: hoặc "tập quán/phương thức nông lâm kết
hợp" có thể là nguyên nhân của lối suy nghĩ phát triển theo lối suy diễn đơn giản -"sao
chép và nhân rộng mô hình" trong phát triển nông lâm kết hợp ở nhiề
u vùng của nước
ta.
Hơn nữa, phương pháp tiếp cận nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp thường

thiên lệch về kinh tế - kỹ thuật cô lập, chưa phối hợp được các kỹ thuật mới với các yếu
tố kiến thức kỹ thuật, đặc điểm văn hóa và nhân văn truyền thống của các cộng đồng
địa phương.
Công tác phát triển kỹ thuật nông lâm kế
t hợp nhiều nơi vẫn tiến hành theo lối áp
đặt từ trên xuống, chưa phát huy được nội lực và tính tự chủ của nông dân và cộng
đồng dẫn đến tính bền vững của các chương trình phát triển còn thấp.
Các nghiên cứu phân tích đánh giá các mô hình thường còn quá chú trọng về yếu
tố kinh tế kỹ thuật và xem nhẹ khía cạnh xã hội, thể chế cũng như tương tác của các hệ
thống nông lâm kết hợp với môi trường và cảnh quang. Vẫn còn quá ít các kết quả
nghiên cứu so sánh hệ thống nông lâm kết hợp với các hệ thống nông nghiệp, lâm
nghiệp trên các phương diện sinh thái, môi trường và kinh tế do thiếu các dự án nghiên
cứu/điểm nghiên cứu dài hạn.

Việc qui hoạch phát triển nông lâm kết hợp thường được tiến hành một cách độc
lập tách rời với tiến trình qui hoạch sử đụng đất ở nhiều nơi nên thường dẫn đến việc
đưa các "mô hình" nông lâm kết hợp thay thế các loại hình sử dụng đất hiện có. Trong
khi đó về mặt nguyên lý thì việc phát triển nông lâm kết hợp phải được dựa trên cơ sở
chẩn đoán các h
ạn chế trong sử đụng đất hiện hành và điều chỉnh chúng hơn là thay thế
hoàn toàn (Young, 1987, 1997). Chính vì thế, phát triển nông lâm kết hợp cần phối hợp
và lồng ghép với tiến trình qui hoạch sử dụng đất cũng như qui hoạch quản lý khu vực
đầu nguồn.
Để có thể thúc đẩy quá trình phát triển nông lâm kết hợp trong thực tiễn có hiệu
quả, phù hợp với nông dân, đảm bảo tính bền vững và công bằ
ng, cán bộ kỹ thuật cần
được trang bị các kiến thức và kỹ năng và thái độ có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác
nhau: sinh thái học, sinh thái nhân văn, các khoa học lâm nghiệp, nông học, chăn nuôi,
thủy sản, quản lý bảo tồn đất và nước, phân tích kinh tế nông trại, các phương pháp
nghiên cứu hệ thống và tiếp cận nghiên cứu-phát triển có sự tham gia, v.v… cũng như

sự am hiểu sâu sắc vềđiều kiện sinh thái và nhân văn c
ụ thể của từng địa phương.
Chương II
NGUYÊN LÝ VỀ NÔNG LÂM KẾT HỢP
1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Lịch sử phát triển các khái niệm về nông lâm kết hợp
Nông lâm kết hợp là một lĩnh vực khoa học mới đã được đề xuất vào thập niên
1960 bởi Keng (1969). Qua nhiều năm, nhiều khái niệm khác nhau được phát triển để
diễn tả hiểu biế
t rõ hơn về nông lâm kết hợp. Sau đây là một số khái niệm khác nhau
được phát triển cho đến hiện nay:
Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất vững bền làm gia tăng sức sản
xuất tổng thể của đất đai, phối hợp sản xuất các loại hoa màu (kể cả cây trồng lâu năm),
cây rừng và/hay với gia súc cùng lúc hay kế tiếp nhau trên một diện tích đất, và áp
dụng các kỹ
thuật canh tác tương ứng với các điều kiện văn hóa xã hội của dân cư địa
phương (Bene và các cộng sự, 1977).
Nông lâm kết hợp là một hệ thống sử dụng đất trong đó phối hợp cây lâu năm với
hoa màu và/hay vật nuôi một cách thích hợp với điều kiện sinh thái và xã hội, theo hình
thức phối hợp không gian và thời gian, để gia tăng sức sản xuất tổng thể của th
ực vật
trồng và vật nuôi một cách vững bền trên một đơn vị diện tích đất, đặc biệt trong các
tình huống có kỹ thuật thấp và trên các vùng đất khó khăn (Nan, 1987).
Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất đai trong đó các sản phẩm của
rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế tiếp nhau trên các diện tích đất thích
hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hộ
i và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa
phương (PCARRD, 1979).
Nông lâm kết hợp là tên chung của những hệ thống sử dụng đất trong đó các cây

lâu năm (cây gỗ, cây bụi, cọ, tre, hay cây ăn quả, cây công nghiệp ) được trồng có suy
tính trên cùng một đơn vị diện tích qui hoạch đất với hoa màu và/hoặc với vật nuôi
dưới dạng xen theo không gian hay theo thời gian. Trong các hệ thống nông lâm kết
Hợp có mối tác động hỗ tương qua lạ
i về cả mặt sinh thái lẫn kinh tế giữa các thành
phần của chúng (Lundgren và Raintree, 1983). Xem hình ở trang 21 để thấy rõ sự phối
hợp của 3 thành phần trên.
Các khái niệm trên đơn giản mô tả nông lâm kết hợp như là một loạt các hướng
dẫn cho một sự sử dụng đất liên tục. Tuy nhiên, nông lâm kết hợp như là một kỹ thuật
và khoa học đã được phát triển thành một điều gì khác hơn là các hướ
ng dẫn. Ngày nay
nó được xem như là một ngành nghề và một cách tiếp cận về sử dụng đất trong đó đã
phối hợp sựđa dạng của quản lý tài nguyên tự nhiên một cách bền vững. Trong nỗ lực
để định nghĩa nông lâm kết hợp theo ý nghĩa tổng thể và mang đậm tính sinh thái môi
trường hơn, Leaky (1996) đã mô tả nó như là các hệ thống quản lý tài nguyên đặt cơ sở
trên đặc tính sinh thái và năng động nhờ vào sự phối hợp cây trồng lâu năm vào nông
trại hay đồng cỏ để làm đa dạng và bền vững sự sản xuất giúp gia tăng các lợi ích về xã
hội, kinh tế và môi trường của các nông trại nhỏ
. Vào năm 1997, Trung Tâm Quốc Tế
Nghiên Cứu về Nông Lâm kết hợp (gọi tắt là ICRAF) đã xem xét lại khái niệm nông
lâm kết hợp và phát triển nó rộng hơn như là một hệ thống sử dụng đất giới hạn trong
các nông trại. Ngày nay nó được định nghĩa như là một hệ thống quản lý tài nguyên đặt
cơ sở trên đặc tính sinh thái và năng động nhờ vào sự phối hợp cây trồng lâu năm vào
nông tr
ại hay đồng cỏ để làm đa dạng và bền vững sự sản xuất cho gia tăng các lợi ích
về xã hội, kinh tế và môi trường của các mức độ nông trại khác nhau từ kinh tế hộ nhỏ
đến "kinh tế trang trại". Một cách đơn giản, nông lâm kết hợp là trồng cây trên nông
trại. ICRAF đã định nghĩa nó như là một hệ thống quản lý tài nguyên tự nhiên năng
động và lấy y
ếu tố sinh thái làm chính, qua đó cây được phối hợp trồng trên nông trại

và vào hệ sinh thái nông nghiệp làm đa dạng và bền vững sức sản xuất để gia tăng các
lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho người canh tác ở các mức độ khác nhau.
1.1.2. Các đặc điểm của nông lâm kết hợp
Với định nghĩa trên của ICRAF, một hệ canh tác sử dụng đất được gọi là nông
lâm kết hợp có các đặc điể
m sau đây:
Kỹ thuật nông lâm thường bao gồm hai hoặc nhiều hơn hai loại thực vật (hay
thực vật và động vật) trong đó ít nhất phải có một loại thân gỗđa niên.
Có ít nhất hai hay nhiều hơn sản phẩm từ hệ thống.
Chu kỳ sản xuất thường dài hơn là một năm.
Đa dạng hơn về sinh thái (cấu trúc và nhiệm vụ) và về kinh tế so với canh tác
độc canh
Cần phải có một mối quan hệ hỗ tương có ý nghĩa giữa thành phần cây thân gỗ
và thành phần khác.

Trong các hệ thống Nông lâm kết hợp sự hiện diện của các mối quan hệ tương hỗ
bao gồm về sinh thái và kinh tế giữa các thành phần của hệ thống là đặc điểm cơ bản.
Theo Nair (1987), các đặc điểm mấu chết của hệ thống nông lâm kết h
ợp đã được
đa số các nhà khoa học chấp nhận như sau:
Nó là tên chung để chỉ các hệ thống sử dụng đất bao gồm việc trồng các cây lâu
năm kết hợp với hoa màu vàlhay gia súc trên cùng một đơn vị diện tích;
Phối hợp giữa sự sản xuất các loại sản phẩm với việc bảo tồn các nguồn tài
nguyên cơ bản của hệ thống;
Chú trọ
ng sử dụng các loài cây địa phương, đa dụng;
Hệ thống đặc biệt thích hợp cho điều kiện hoàn cảnh dễ bị thoái hóa và đầu tư
thấp;
Nó quan tâm nhiều hơn về các giá trị dân sinh xã hội so với các hệ thống sử
dụng đất khác;

Cấu trúc và chức năng của hệ thống thì phong phú đa dạng hơn so với canh tác
độc canh.
Tóm lại, nông lâm kết hợp với sự phối hợp có suy tính giữa các thành phần khác
nhau của nó đã mang đến cho các hệ thống sản xuất nông nghiệp các điểm chính sau:
Tạo nên một hệ thống quản lý đất đai bền vững.
Gia tăng năng suất và dịch vụ trên một đơn vị diện tích sản xuất.
Sắp xếp hoa màu cách tác phù hợp giữa nhiều thành phần cây lâu năm hoa màu
và/hay vật nuôi theo không gian và thời gian trên cùng một diện tích đất.
Đóng góp vào phát triển cho các cộng đồng dân cư về các mặt dân sinh, kinh tế
và hoàn cảnh sinh thái mà vẫn tương thích với các đặc điểm văn hoá, xã hội của họ.
Kỹ thuật của nó mang đậm nét bảo tồn sinh thái môi trường.

1.1.3. Đặc điểm của hệ thống Nông lâm kết hợp phù hợp
Một hệ thống Nông lâm kết hợp phù hợp khi h
ội đủ các điều kiện sau đây:
+ Có sức sản xuất cao
Sản xuất các lợi ích trực tiếp như lương thực, thức ăn gia súc, chất đốt, sợi, gỗ,
cừ cột và xây dựng, các sản phẩm khác như chai, mủ, nhựa, dầu thực vật, thuốc trị bệnh
thực vật v.v.
Sản xuất các lợi gián tiếp hay "dịch vụ" như bả
o tồn đất và nước (xói mòn đất,
vật liệu tủ đất, v.v ) cải tạo độ phì của đất (phân hữu cơ, phân xanh, bơm dưỡng chất từ
tầng đất sâu, phân huỷ và chuyển hoá dưỡng chất), cải thiện điều kiện tiểu khí hậu
(băng phòng hộ, che bóng) làm hàng cây xanh, v.v.
Gia tăng thu nhập của nông dân.

+ Mang tính bền vững
Áp dụng các chiến thuật bảo tồn đất và n
ước để đảm bảo sức sản xuất lâu dài .
Đòi hỏi có vài hình thức hỗ trợ trong kỹ thuật chuyển giao để đảm bảo sự tiếp

nhận các kỹ thuật bảo tồn đặc biệt đối với các nông dân đang ở mức canh tác tự
cung tự cấp (thí dụ các động cơ về quyền sử dụng, canh tác trên đất, các hỗ trợ về
kỹ thuật và tín dụng v.v.).

×