Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

bồi thường thiệt hại cho người bị oan – lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.13 KB, 22 trang )

Bồi thường thiệt hại cho người bị oan – lý luận và thực tiễn.
Sự ra đời của chế định bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra là một nỗ lực lớn của Đảng
và Nhà nước ta trong công cuộc dân chủ hóa hoạt động tư pháp, đảm bảo công
bằng xã hội, tinh thần đó đã được thể hiện trong các văn bản của Đảng cụ thể là
chỉ thị số 53 – CT/TW ngày 32/3/2000 của Bộ chính trị chỉ rõ “ cùng với việc
phát hiện và chú trọng giải quyết kịp thời các vụ án có dấu hiệu oan, sai cần khẩn
trương nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để bồi thường thiệt hại đối với
các trường hợp bị oan, sai do các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra”. “Việc bồi
thường thiệt hại cần được thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với từng trường
hợp cụ thể, những tài sản đã bị tịch thu, kê biên sai thì cần hoàn trả ngay, cần
làm rõ cơ sỏ pháp lý, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, phân định trách
nhiệm từng cơ quan và cá nhân tiến hành tố tụng và mức độ thiệt hại về dân sự
cho việc làm oan sai gây ra, chuẩn bị ngay các văn bản để ban hành làm cơ sở
pháp lý chặt chẽ cho việc thực hiện chủ trương này”. “Nghị quyết số 08 –
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng
cộng sản Việt nam yêu cầu “ khẩn trương ban hành và tổ chức, thực hiện nghiêm
túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị
oan sai trong hoạt động tố tụng. Nghiên cứu xây dựng quỹ bồi thường thiệt hại
về tư pháp”. Các văn bản trên là kim chỉ nam cho hoạt động cải cách tư pháp, là
cơ sở ra đời nghị quyết số 388/2003/NQ – UBTVQH 11 ngày 17/3/2003 về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra và Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT – VKSNDTC – BCA
– TANDTC – BTP – BQO – BTC ngày 25/4/2004 hướng dẫn thi hành một số
qyết định của Nghị quyết 388. Kể từ khi ra đời và thực hiện các văn bản nêu trên
cho đến nay, bên cạnh các mặt đã đạt được thì cũng nảy sinh một số vấm đề cần
phải xem xét một cách toàn diện ở cả góc độ lý luận và thực tiễn để từ đó đưa ra
đồng thời kiến giải nhằm thực hiện chế định này.
Để giải quyết một vụ việc yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra có lý có tình điều cần thiết là
đòi hỏi chúng ta phải làm rõ cho được khái niệm oan sai trong hình sự, đồng thời


xác định cho được những căn cứ pháp lý để xác định trách nhiệm bồi thường.
Sau đó nghiên cứu các nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường áp dụng cho
trường hợp bồi thường cũng như điều kiện, phạm vi của chủ thể có quyền yêu
cầu bồi thường và chủ thể có trách nhiệm bồi thường.
11
I. YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA.
1. Khái niệm về oan sai trong hình sự.
Trong phạm vi giới hạn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của cơ quan tố tụng hình sự gây ra thì oan sai được hiểu là những
hành vi trái pháp luật mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án đối với người không có
tội. Oan sai hiểu dưới góc độ của chủ thể bị hại – đối tượng của hành vi trái pháp
luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, đó là hậu quả thiệt hại
về vật chất và tinh thần, là nỗi oan ức của một người mà người đó phải gánh
chịu, thực hiện hành vi phạm tội với tính chất mức độ nhất định, nhưng bị truy
cứu về tội nặng hơn hoặc truy tố thêm tội danh thực tế đã không phạm, đã phải
thi hành án, được xác định trong trường hợp Bản án đó đã được Tòa án cấp trên
sửa theo hướng nhẹ hơn. Sai trong tố tụng hình sự cũng có nhều cấp độ khác
nhau. Tuy nhiên, không phải bất cứ trường hợp oan sai nào cũng được Nhà nước
bồi thường. Thực tiễn ở nước ta cũng như các nước trên thế giới Nhà nước chỉ
bồi thường cho những trường hợp bị sai ở mức độ nhất định, việc xác định mức
độ này theo pháp luật các nước khác nhau là khác nhau. Do vậy, chỉ có oan sai
được pháp luật quy định mới được Nhà nước bồi thường. Trong thực tế thường
xảy ra các khả năng sau đây:
Tạm giữ sai là việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng đối với
người bị bắt mà sau thời hạn tạm giữ cơ quan điều tra đã không xác định đủ căn
cứ khởi tố bị can và có quyết định của cơ quan điều tra tiến hành tố tụng có thẩm
quyền xác định việc tạm giữ là không có căn cứ.

Tạm giam sai là biện pháp ngăn chặn mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án đã áp dụng đối với một người mà hậu quả của nó là đã cách li người đó
với xã hội trong một thời gian nhất định và bị hạn chế một số quyền tự do của
công dân mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền là việc tạm giam là
không có căn cứ.
Truy tố oan sai là quyết định của cơ quan Viện kiểm sát được thể hiện
dưới hình thức Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố một người ra trước tòa án để
xét xử mà có quyết định của cơ quan tố tụng có thẩm quyền xác định cáo trạng
truy tố không có căn cứ, người bị truy tố vô tội bản án tuyên người đó không
phạm tội.
22
Xét xử oan sai là Bản án hoặc Quyết định của Tòa án tuyên bằng một phán
quyết đối với một người xác định trách nhiệm hình sự của người đó phải chịu
một hình phạt nhất định mà có bản án quyết định của cơ quan tố tụng có thẩm
quyền xác định người đó không phạm tội hoặc hành vi đó không cấu thành tội
pham.
Thi hành án oan sai là hành vi của giám thị, quản giáo… mà hậu quả của
nó là thời gian giữ đối với bị án bị kéo dài hơn so với bản án đã được tuyên và
các hành vi trái pháp luật khác gây thiệt hại cho người bị án về tính mạng, sức
khỏe, tài sản một cách trái pháp luật.
Tóm lại, oan sai là một hoặc một loạt các hành vi trái pháp luật của người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thực hiện trong hoạt động tố tụng hình sự
không đúng với thực tế tội phạm, và không tuân theo các qui định của pháp luật
gây thiệt hại cho quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và các chủ thể
khác.
2. Cơ sở pháp lý để xác định bồi thường.
Cơ sở pháp lý để xác định bồi thường đối với oan sai trong tố tụng hình sự
là yếu tố cần và đủ để xác định trách nhiệm bồi thường của những người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng là một hình thức cụ thể của trách

nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vậy cơ sở pháp lý của loại trách
nhiệm này về nguyên tắc phải tuân theo các qui định của Bộ luật dân sự. Tuy
nhiên trách nhiệm bồi thường của những người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng có tính đặc thù vì vậy trong nội dung cơ sở pháp lý của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra có nét riêng biệt đó là:
a. Có hành vi trái pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án của người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự
là những hành vi đã không thực hiện đúng các qui định của pháp luật tố tụng
hình sự. Hành vi của các chủ thể này đã không tuân theo yêu cầu đòi hỏi của qui
phạm pháp luật hình sự, đã thể hiện ra bên ngoài sự sai lầm trong hoạt động đánh
giá chứng cứ của các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự. Hành vi trái pháp luật
của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự được thực hiện chủ yếu bằng
hành động cụ thể như quyết định, phê chuẩn quyết định tạm giữ, tạm giam không
có căn cứ, ra quyết định truy tố người không phạm tội, xét xử tuyên án áp dụng
hình phạt người cho người không có tội, giam giữ lâu hơn hoặc gây thiệt hại về
33
tính mạng, sức khỏe của phạm nhân do lỗi của giám thị trại giam… Đồng thời
các hành vi này diễn ra theo nhiều chiều hướng khác nhau, với tính chất mức độ
nghiêm trọng khác nhau. Tuy nhiên trong căn cứ pháp lý của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại chúng ta thấy rằng chỉ có các hành vi trái pháp luật của người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự được thực hiện theo hướng truy cứu trách
nhiệm oan cho người vô tôi hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự thiếu căn cứ mới
phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp ngược lại hành vi của người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng là hành vi trái pháp luật ví dụ như bỏ lọt
tội phạm hoặc truy cứu trách nhiệm thấp hơn so với tính chất mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội mà bị cáo đã phạm. Song những hành vi này không thuộc
phạm vi cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà của các loại trách
nhiệm pháp lý khác. Do đặc điểm của hoạt động tố tụng hình sự diễn ra trong

nhiều giai đoạn tố tụng và được nhiều chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện, vì vậy
hành vi rái pháp luật của người có thẩm quyền tố tụng cũng được thực hiện bởi
chủ thể đa dạng: hành vi trái pháp luật của Điều tra viên, của Kiểm sát viên, của
Thẩm phán Hội thẩm nhân dân, của Giám thị trại giam… Nói tóm lại hành vi trái
pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là những hành vi thực hiện
không đùng và đầy đủ yêu cầu đòi hỏi của qui phạm pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự hoặc vượt quá nhiệm vụ quyền hạn công vụ, làm oan sai gây thiệt hại
cho các tổ chức công dân.
b. Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại ở đây phải là những thiệt hại thực tế đã xẩy ra cho người bị oan
sai. Đó là thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín và tổn thất về tinh thần của người bị oan sai đã phải gánh chịu.
Theo nguyên tắc chung các thiệt hạo này được xác định theo qui định tại các
Điều 612, 613,614,615 và 616 Bộ luật dân sự.
Về thiệt hại về tài sản bị xâm hại, bao gồm tài sản bị tịch thu, bị tạm giữ,
phong tỏa dẫn đến bị mất, hư hỏng, hủy hoại, các lợi ích gắn liền với tài sản và
các chi phi để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tài sản bị thiệt hại bao gồm cả
động sản và bất động sản, tài sản vô hình và tài sản hữu hình, trong một số
trường hợp còn là các quyền về tài sản, thu nhập bị mất hoặc giảm sút của người
bị thiệt hại do nguyên nhân bị thiệt hại về tài sản gây ra. Ví dụ bị tịch thu máy
móc thiết bị, nguyên vệt liệu trái pháp luật dẫn đến cơ sở sản xuất của người bị
oan bị đình đốn sản xuất, mất nguồn thu nhập.
Thiệt hại về nhân thân bao gồm:
- Thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm: các chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, phục hồi các chức năng bị mất, bị giảm sút…thu nhập bị mất,
bị giảm sút, nếu thu nhập của người bị hại không ổn định và không xác định
44
trước được thì áp dụng mức thu nhập bình quân của lao động cùng loại. Chi phí
hợp lí và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại
trong thời gian điều trị. Nếu người bị thiệt hại bị mất khả năng lao động và cần

có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc
chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người
bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: gồm chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa
, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết. Chi phí hợp lý cho mai
táng. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng. Tuy nhiên, đối với thiệt hại trong trường hợp bị thi hành án tử sai hiện
chưa có các quy định cụ thể hóa pháp luật. Đây là một thiệt hại lớn nhất, nghiêm
trọng nhât mà người bị oan sai cũng như những người thân thích của họ phải
gánh chịu vì vậy, nên chăng cần phải bổ sung những qui định về vấn đề này để
giải quyêt bồi thường.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm: gồm
phí hợp lí cho việc hạn chế khắc phục thiệt hại. Thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút
do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
- Thiệt hại về tinh thần: theo quy định của khoản 4 Điều 613 và 614 BLDS
thì thiệt hại về tinh thần là những tổn thất tinh thần được quy định cho những
người bị thiệt hại về sức khỏe và những người thân nhân gần gũi của nạn nhân bị
xâm phạm về tính mạng nói chung, loại thiệt hại này do tòa án quyết định tùy
từng trường hợp.
Nói tóm lại thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền
gây ra cho người bị oan sai thuộc phạm vi xác định bồi thường bao gồm: Thiệt
hại do tài sản bị xâm hại; thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại; thiệt hại về tính mạng
bị xâm hại; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại; tổn hại về tinh
thần đối với người bị oan sai trong thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam chấp hành
hình phạt tù, tổn thất tinh thần của người thân thích gần gũi của nạn nhân đã bị
thi hành án tử hình hoặc bị xâm phạm về tính mạng trong các trường hợp khác.
c. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người
có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng và hậu quả thiệt hại nói trên.
Xem xét mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người tiến

hành tố tụng và hậu quả oan sai ở đây được xác định trong quan hệ mà các hành
vi trái pháp luật của những người tiến hành tố tụng là nguyên nhân trực tiếp gây
ra các thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và tinh thần
cho người bị thiệt hại và hậu quả thiệt hại oan sai đã xảy ra. Đó la kết quả nội tại
55
tất yếu có tính khách quan của hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền
cảu cơ quan tiến hành tố tụng như: khởi tố, điều tra, truy tố và cuối cụng là xét
xử ra một bản án kết tội một người không phạm tội với mức án tù có thời hạn
hoặc không có thời hạn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến người bị hại đã bị tước
đoạt quyền tự do, các quyền lợi ích hợp pháp khác một cách trái pháp luật.
d. Có lỗi của chủ thể tiến hành tố tụng gây ra và có qui định của pháp luật về
phạm vi bồi thường.
Người gây thiệt hại phải gánh chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Điều
609 BLDS qui định : “ Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý…mà gây thiệt hại, thì
phải bồi thường”. Lỗi là một dấu hiệu và là căn cứ pháp lý bắt buộc trong pháp
lý để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Đối với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra, khoản 2 Điều 624 BLDS qui định : “ cơ quan tiến hành tố tụng có trách
nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải trả một khoản tiền mà
mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo qui định của pháp luật nếu người
đó có lỗi khi thi hành nhiệm vụ”. Vì vậy, trong trách nhiệm bồi thường của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng BLDS đã xác định trực tiếp dấu hiệu lỗi
trong việc xác định trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Theo tinh thần của bộ luật này cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền
của cơ quan chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có lỗi trong khi thực hiện nhiệm vụ. Trong trường hợp ngược lại
hoạt động tố tụng không có lỗi tức là họ đã thực hiện đúng nhiệm vụ điều tra,
truy tố, xét xử thi hành án đúng người đúng tội và đúng pháp luật thì điều đó có
nghĩa là không có oan sai, không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Lỗi của cơ
quan tiến hành tố tụng được xác định từ lỗi của người có thẩm quyền của cơ

quan tiến hành tố tụng. Về mặt hình thức lỗi của người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng là trạng thái tâm lí của họ đối với hành vi trái pháp luật và hậu quả của
hành vi thể hiện thái độ của họ đối với vi phạm được biểu hiện dưới hai hình
thức là cố ý và vô ý.
Lỗi cố ý là lỗi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi thực hiện
hành vi như bắt, ký, phê chuẩn Quyết định tạm giam, tạm giữ, Cáo trạng, Bản
án… đã nhận thức đầy đủ tính chất, mức độ hành vi và hậu quả của hành vi,
nhưng không mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra. Vì vậy
hình thức lỗi không những dẫn đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà có thể
dẫn đến trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm hoạt động tư pháp của chủ thể
thực hiện.
Hình thức lỗi vô ý là hình thức lỗi mà khi thực hiện hành vi chủ thể có
quyền tiến hành tố tụng đã không nhận thức được đầy đủ tính chất mức độ hành
66
vi và hậu quả thiệt hại đó. Pháp luật yêu cầu đòi hỏi ở họ tinh thần trách nhiệm
và tính cẩn trọng rất cao. Việc không nhận thức được có nhiều nguyên nhân khác
nhau, có thể do tính phức tạp của cụ án, do các yếu tố khách quan hoặc do trình
độ chuyên môn nghề nghiệp còn hạn chế của người tiến hành tố tụng hoặc do
quá tin tưởng vào hồ sơ mà các tố tụng trước đó đã thực hiện. Trong một số
trường hợp người tiến hành tố tụng vì quá tự tin vào niềm tin nội tâm của mình
mà niềm tin đó lại không có trong thực tiễn pháp lý của vụ việc. Đồng thời trong
hình thức lỗi này người thực hiện hành vi cũng không có thái độ mong muốn
hoặc bỏ mặc hậu quả xẩy ra. Do tính chất và mức độ của hình thức lỗi này cho
nên cần xem xét mức độ hoàn trả đối với khoản tiền mà cơ quan tiến hành tố
tụng đã trả cho người bị thiệt hại.
Trên đây là bốn yếu tố cấu thành cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Là cơ sở pháp lý được áp dụng để truy cứu trách nhiệm cho cá nhân một chủ thể
gây thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường của cơ quan tiến hành tố tụng
quản lý người đó. Trong thực tiễn thi hành nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và

thi hành án do đặc điểm phải phối hợp thực hiện nhiệm vụ tố tụng vì vậy khi
hoạt động tố tụng dẫn đến sai lầm thì hậu quả thiệt hại đã xẩy ra là kết quả của
nhiều chủ thể gây thiệt hại. Trong trường hợp như vậy thì cơ sở pháp lý sé được
áp dụng để truy cứu trách nhiêmh bồi thường cho trường hợp gây thiệt hại này.
Đó là trường hợp có nhều chủ thể cùng gây thiệt hại cho người bị oan sai
thì phải có trách nhiệm liên đới bồi thường. Cụ thể là các trường hợp Điều tra
viên trong một vụ án cùng gây thiệt hại, một Điều tra viên và Thủ trưởng cơ
quan điều tra cùng gây thiệt hại, Kiểm sát viên và Viện trưởng Viện kiểm sát,
các thành viên Hội đồng xét xử trong các vụ án hình sự cùng gây ra.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm liên đới bồi thường được xác định trong
BLDS. Điều 620 Bộ luật qui định: “ Trong trường hợp đồng thời cùng gây thiệt
hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng
với mức độ lỗi của mỗi người, nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải
bồi thường theo phần bằng nhau”.
Theo quy định của điều luật này khi có nhiều cá nhân có thẩm quyền tiến
hành tố tụng cùng gây thiệt hại thì họ có trách nhiệm liên đới với nhau về phần
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại.
Như vậy cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm bồi thường khi nhiều
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây thiệt hại chính là Điều 620 BLDS.
Các yếu tố cấu thành cơ sở pháp lý bồi thường này là có từ hai người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trở lên, họ thuộc quyền quản lý của một hoặc nhiều cơ
77
quan tiến hành tố tụng cùng có hành vi trái pháp luật đã gây thiệt hại cho ngườ bị
oan sai. Lỗi của họ có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý hoặc có chủ thể cố ý hoặc có chủ
thể vô ý gây ra thiệt hại. Tuy nhiên theo qui định của pháp luật họ phải liên đới
chịu trách nhiệm bồi thường theo mức độ lỗi của mình. Trường hợp không xác
định được mức độ lỗi của mỗi người thì các chủ thể gây thiệt hại cũng phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Theo qui định tại Điều 620 BLDS họ phải bồi thường
theo phần bằng nhau. Thực tiễn giải quyết bồi thường trong giai đoạn vừa qua,

khi oan sai xảy ra,các cơ quan tiến hành tố tụng thường có sự đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau, dây dưa kéo dài việc bồi thường, gây thiệt hại cho các quyền và
lợi ích của công dân. Thực tế đó đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu để cụ thể
hóa các qui định của BLDS nhằm tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ cụ thể để truy cứu
trách nhiệm bồi thường của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây thiệt hại
hoặc cùng gây thiệt hại. Mục đích của việc nghiên cứu nhằm nhanh chóng khôi
phục các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức bị thiệt hại.
3. Người có quyền yêu cầu bồi thường.
Người có quyền yêu cầu bồi thường là người bị oan sai, tức là người đã bị
tạm giữ, tạm giam, bị truy tố, xét xử, thi hành án. Bản chất pháp lý của người bị
hại, cũng giống như những người bị hại khác là người bị hại về tài sản và nhân
thân, nhưng lại không giống như những người bị hại bình thường khác họ là
người bị chính những cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ
pháp luật gây thiệt hại. Chính đặc điểm pháp luật biến họ trở thành người bị hại
đặc biệt, đôi khi họ vừa là bị hại vừa là tội phạm hay nói chính xác hơn họ trở
thành người bị hại từ địa vị mà các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng coi họ nguyên là tội phạm. Trong tình trạng pháp lý như vậy họ trở về đôi
khi đã mất tất cả cơ nghiệp gia đình, cuộc sống và bao nhiêu quyền và lợi ích
hợp pháp khác. Khi được minh oan sửa sai những người này trở thành chủ thể có
quyền yêu cầu được bồi thường. Một yêu cầu hợp pháp và chính đáng.
Người có quyền yêu cầu bồi thường có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Mặt
khác chủ thể của trách nhiệm hình sự chỉ có thể là cá nhân và cá nhân là chủ thể
chủ yếu của quyền yêu cầu bồi thường trong các vụ án oan sai song trong trường
hợp oan sai có thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức do hành vi gây
thiệt hại của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra thì đại diện hợp pháp
của tổ chức này có quyền yêu cầu bồi thường. Việc xác định tư cách khi bị oan
sai – đồng thời là người có quyền yêu cầu bồi thường phải dựa trên cơ sở quyết
định của cơ quan tố tụng có thẩm quyền xác định bằng một quyết định hoặc một
bản án.
88

Như vậy chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra bao gồm công dân Việt nam bị oan
sai, người không quốc tịch bị oan sai, kể cả người nước ngoài tại Việt nam bị
oan sai trừ trường hợp các Điều ước quốc tế mà Nhà nước Việt nam kí kết hoặc
tham gia có qui định khác.
Trong trường hợp người có quyền yêu cầu đòi bồi thường đã chết thì
người thừa kế của người này có quyền yêu cầu đòi bồi thường theo quy định của
pháp luật về thừa kế.
Đối với tổ chức là các chủ thể đã bị áp dụng các biện pháp trong tố tụng
hình sự như kê biên, phong tỏa, tịch thu tài sản hoặc bị tổn hại nghiêm trọng uy
tín kinh doanh trên thương trường một cách trái pháp luật cũng có thể trở thành
chủ thể yêu cầu đòi bồi thường. Ví dụ hành vi bắt giam oan sai một người
nguyên là phó giám đốc của một công ty đồng thời phong tỏa tài khoản và tịch
thu tài sản trái pháp luật đối với công ty này mà phó giám đốc chỉ là một thành
viên chiếm một phần vốn điều lệ trong công ty. Sau khi có quyết định đình chỉ
vụ án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì đại diện hợp pháp của công ty
này có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đối với công ty ngoài những thiệt
hại gây ra cho phó giám đốc là cá nhân người oan sai.
Những trường hợp người bị oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra được bồi thường thiệt hại:
Theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày
17/3/2003 thì những người thuộc các trường hợp sau đây được bồi thường thiệt
hại:
- Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực
hiện hành vi phạm tội.
- Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn,

tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Tòa án có thẩm
quyền xác định người đó không thực hiện hành vị phạm tội.
- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường hợp quy
định trên mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi pham tội.
99
I. NỘI DUNG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CÓ THẨM
QUYỀN CỦA CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA.
1. Các nguyên tắc giải quyết bồi thường thiệt hại do người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Nguyên tắc giải quyết bồi thường là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo mà
trong quá trình xây dựng pháp luật, thực hiện việc giải quyết bồi thường đối với
thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra đều phải
tuân theo. Theo Nghị định 47/CP ngày 3/5/1997 trong khoản 1 diều 5 quy định:
“nguyên tắc xác định thiệt hại, mức bồi thường, mức hoàn trả khoản tiền bồi
thường thiệt hại và việc miễn giảm hoãn trả bồi thường thiệt hại được thực hiện
trong BLDS”. Tuy nhiên, trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra có những điểm riêng biệt, có
tính nhạy cảm đối với xã hội. Do vậy, cần nghiên cứu đầy đủ các nguyên tắc của
Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại áp dụng trong thực tiễn bồi thường án oan
sai qua đó xem xét những vấn đề liên quan để có thể cụ thể hóa các nguyên tắc
bồi thường của Bộ luật dân sự cho sát hợp với thực tiễn bồi thường cũng như
kiến nghị Nhà nước bổ sung thêm một số nội dung hoặc nguyên tắc có tính chất
thủ tục tố tụng khi ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh về quan hệ giải
quyết bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụn
gây ra.
Nguyên tắc thứ nhất: việc giải quyết bồi thường phải bao gồm toàn bộ
thiệt hại, nhanh chóng, kịp thời, công khai.
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản rất quan trọng trong giải quyết
bồi thường thiệt hại, đặc biệt được áp dụng đối với bồi thường oan sai trong tố

tụng hình sự. Việc đáp lại yêu cầu chính đáng của nhũng người bị oan sai chính
là sự công bằng. Yêu cầu hợp pháp và chính đáng của họ cụ thể được thực hiện
khi mà việc giải quyết bồi thường của Nhà nước mà trực tiếp là cơ quan tiến
hành tố tụng có nghĩa vụ bồi thường được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp
thời, công khai và toàn bộ thiệt hại. Có như vậy mới kịp thời khôi phục các
quyền và lợi ích của người bị thiệt hại. Có bồi thường nhanh chóng kịp thời mới
thể hiện tính chất dân chủ và công bằng của Nhà nước và cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc thực hiện trách nhiệm sửa chữa sai lầm của minh. Có công bằng
mới góp phần thanh minh, minh oan cho người bị oan sai giúp họ nhanh chóng
hòa nhập cộng đồng, góp phần yên dân và ổn định xã hội. Có bồi thường toàn bộ
thiệt hại mới đảm bảo tính công bằng của pháp luật, tạo niềm tin cho mọi công
dân, tạo công lý và công bằng xã hội.
1
0
1
0
Việc dây dưa, kéo dài, đùn đẩy trách nhiệm trong việc bồi thường sẽ đi
ngược lại nguyên tắc pháp lý công bằng. Hơn thế nó là trái với truyền thống, đạo
đức của dân tộc ta, giảm ý nghĩa của việc bồi thường nhất là về tinh thần, danh
dự cho người bị oan sai. Nội dung của nguyên tắc này chứa đựng nhiều giá trị
pháp lý và nhân văn cần được cụ thể hóa và quán triệt trong thực tiễn giải quyết
bồi thường thiệt hại nói chung cũng như bồi thường thiệt hại do người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng nói riêng.
Nguyên tắc thứ hai: tạo điều kiện thuận lợi để người bị oan sai thực
hiện quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Một khía cạnh thứ hai liên quan đến thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt
hại oan sai do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hiện nay là hành trình gian
nan của người bị oan sai trên con đường pháp lý đồi công bằng cho chính mình.
Để được giải quyết bồi thường người bị oan sai phải tốn rất nhiều giấy mực,

công sức và tiền của. Đây là một thực trạng cần phải được giải quyết cho một
trình tự đặc biệt, trong khi Nhà nước ta đang tiến hành cải cách thủ tục hành
chính. Nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi cho người oan sai thực hiện quyền yêu
cầu bồi thường của mình đặt ra yêu cầu thứ nhất phải đơn giản hóa thủ tục để
người bị oan sai có thể dễ dàng thực hiện được quyền của mình. Họ có thể yêu
cầu đòi bồi thường bằng miệng đối với các chủ thể bị gây thiệt hại ở vùng sâu,
vùng xa hoặc bằng văn bản đối với co quan có trách nhiệm bồi thường. Trong
trường hợp người oan sai yêu cầu bằng văn bản thì cơ quan có trách nhiệm nhận
đơn và ghi vào sổ thụ lý để giải quyết. Khi họ yêu cầu bằng miệng cơ quan này
phải cử cán bộ tiếp và lập biên bản ghi về yêu cầu của đương sự. Trong trường
hợp người bị oan sai không đồng ý với cách thức và mức bồi thường của cơ quan
có trách nhiệm bồi thường họ dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết. Tất cả các yêu cầu của họ, kể cả yêu cầu Tòa án giải quyết đều được miễn
án phí và các phí khác.
Nguyên tắc thứ ba: thiệt hại được bồi thường bao gồm thiệt hại về vật
chất và thiệt hại về tinh thần theo các qui định cuả ộ luật dân sự và các qui
định pháp luật khác có liên quan. Người bị oan sai được phục hồi danh dự,
khôi phục việc làm, được tạo điều kiện sớm để hòa nhập cộng đồng.
Nội dung của nguyên tắc này xác định cụ thể phạm vi của quyền yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại của người bị oan sai và trách nhiệm bồi thường của các
cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Thiệt hại xác định ở đây bao gồm thiệt hại vật
chất, thiệt hại tinh thần, các tổn thất khác có liên quan. Khi các thiệt hại này là
thực tế xẩy ra thì người bị oan sai không bị hạn chế trong quyền yêu cầu, họ có
thể từ chối quyền yêu cầu bồi thường về một loại thiệt hại nào đó nhưng nếu họ
1
1
1
1
yêu cầu thí trách nhiệm của cơ quan giải quyết có trách nhiệm giải quyết đầy đủ.
Ngoài ra họ còn được phục hồi danh dự một cách đầy đủ, được khôi phục việc

làm khi có yêu cầu, đối với những người đã phạm tội phải có chính sách tạo việc
làm thì đối với những người bị oan sai thì đây là một yêu cầu cần phải được giải
quyết thỏa đáng để họ có điều kiện sớm hòa nhập cộng đồng.
Nguyên tắc thứ tư: cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại theo các qui định của pháp luật khi có yêu cầu của người bị oan sai hoặc
người đại diện hợp pháp của người này theo qui định của pháp luật.
Nội dung của nguyên tắc này xác định cơ sở pháp lý trực tiếp của trách
nhiệm yêu cầu về tư cách chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường. Vì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra là một dang cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, vì
vậy cơ sở pháp lý của trách nhiệm, các quyền và nghĩa vụ các bên do pháp luật
qui định. Theo nguyên tắc pháp chế, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực
hiện nghĩa vụ của mình theo qui định của Bộ luật dân sự. Nghị định 47/CP của
Chính phủ và các văn bản pháp luật khác có liên quan có một vấn đề đặt ra là
thực trạng các qui định về bồi thường do người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra ở nước ta còn nhiều bất cập, cần được nghiên cứu để bổ sung
cho hoàn thiện.
Nguyên tắc thư năm: là việc bồi thường được thực hiện trên cơ sở thỏa
thuận giữa hai bên: cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người bị oan sai.
Nếu không thỏa thuận được thì người bị oan sai có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Trong hoạt động tố tụng hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng và người có
thẩm quyền của cơ quan này được xác định là một bên của quan hệ pháp luật, đại
diện và nhân danh quyền lực Nhà nước. Vì vậy có sự bất bình đẳng về quan hệ
pháp lý giữa họ và các bị can, bị cáo. Nhưng trong quan hệ pháp luật dân sự về
bồi thường thiệt hại thì ngược lại, địa vị pháp lý của các bên hoàn toàn bình đẳng
với nhau. Lúc này các cơ quan tiến hành tố tụng được xác định là đương sự với
vị trí là một bị đơn. Do vậy việc trả bồi thường không phải là cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng áp đặt hoặc tùy tiện đưa ra mà dựa trên cơ sở thỏa thuận
vời người bị oan sai. Người bị oan sai có quyền của người trong việc đưa ra các

yêu cầu, đưa ra các chứng cứ để khẳng định lỗi và yêu cầu bồi thường của bên
kia mà không bị hạn chế về tự do ý chí. Kết quả mức bồi thường có được là sự
thỏa thuận của hai bên trên cơ sở tự chấp nhận yêu cầu của nhau dựa trên các qui
định của pháp luật. Trong trường hợp người oan sai không chấp nhận đề nghị
của cơ quan có nghĩa vụ bồi thường có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc
giải quyết của Tòa án sẽ theo qui định của pháp luật.
1
2
1
2
2. Chủ thể trực tiếp bồi thường và các trường hợp bồi thường thiệt hại.
Điều 624 BLDS xác định về Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành rố tụng gây ra, điều luật này qui định: “ Cơ quan tiến hành
tố tụng bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra trong khi
thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cơ quan tiến hành tố
tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền gây thiệt hại hoàn trả khoản
tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo qui định của phá luật nếu
người có thẩm quyền đó có lỗi khi thi hành nhiệm vụ”.
Chính vì vậy, cơ quan tiến hành tố tụng được Bộ luật dân sự nước ta xác
định là chủ thể có trách nhiệm bồi thường đầu tiên có trách nhiệm thụ lý và giải
quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đối với người bị oan sai. Sau đó là trách
nhiệm bồi thường của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của các cơ quan đó
với hình thức là trách nhiệm hoàn lại.
Trước hết là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trách nhiệm bồi
thường của các cơ quan tiến hành tố tụng được xác định là trách nhiệm của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đó. Đồng
thời, trách nhiệm được xác định theo nhiệm vụ tố tụng trong từng trường hợp cụ
thể ở các giai đoạn trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Việc xác định trách
nhiệm bồi thường của các cơ quan tiến hành tố tụng dựa theo nguyên tắc hoạt
động của các cơ quan này. Các giai đoạn tiến hành tố tụng hình sự gắn bó với

nhau rất chặt chẽ nhưng có tính chế ước, đồng thời lại có tính độc lập tương đối
trong hoạt động của hệ thống các cơ quan này. Trong hoạt động tố tụng các cơ
quan điều tra, truy tố, xét xử có các quyền độc lập tuân theo pháp luật đồng thời
chịu trách nhiệm về các hành vi và quyết định trong hoạt động tố tụng của mình.
Vì vậy qui định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng dựa trên nguyên
tắc giới hạn độc lập về nghiệp vụ của các cơ quan này. Đồng thời cũng xác định
trách nhiệm độc lập trong nội bộ một hệ thống cơ quan như Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm… Do vậy có thể phân định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của từng cơ quan tiến hành tố tụng như sau:
- Ở giai đoạn điều tra trong trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam được xác
định là không có căn cứ thì cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam phải chịu
trách nhiệm bồi thường, bởi cơ quan ra lệnh bắt, tam giữ, tạm giam phải chịu
trách nhiệm độc lập về quyết định của mình. Nếu việc bắt, tạm giữ, tạm giam
theo phê chuẩn của Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn lệnh có trách
nhiệm bồi thường.
- Ở giai đoạn truy tố và xét xử: Trong trường hợp Viện kiểm sát đã ra
quyết định truy tố mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội mà bản
1
3
1
3
án có hiệu lực pháp luật, hoặc trong trường hợp có kháng cáo kháng nghị thì Tòa
phúc thẩm vẫn giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo
không có tội thì Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố có trách nhiệm bồi
thường.
- Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo có tội nhưng tòa
án cấp phúc thẩm tuyên bố bị cáo không có tội thì Tòa án cấp sơ thẩm có trách
nhiệm bồi thường. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo có tội, bản án
có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị, Tòa án cấp giám đốc thẩm tuyên bố
bị cáo không có tội thì tòa cấp sơ thẩm có trách nhiệm bồi thường.

- Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo có tội và Tòa án
cấp phúc thẩm cũng tuyên bố bị cáo có tội, nhưng có kháng nghị Tòa án cấp
giám đốc thẩm tuyên bố bị cáo có tội, thì Tòa án cấp phúc thẩm có trách nhiệm
bồi thường.
Đó là những chủ thể trực tiếp có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với oan sai
do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
3. Các trình tự giải quyết bồi thường thiệt hại.
Trình tự giải quyết bồi thường là các bước nhằm thực hiện quyền được bồi
thường trên thực tế của người bị oan sai trong tố tụng hình sự. Nhũng người bị
oan sai có thể thực hiện quyền yêu cầu bồi thường theo một trong các trình tự
sau:
Trình tự 1: Trình tự hành chính.
Theo quy định của Nghị định 47/CP ngày 3/5/1997 của Chính phủ, trình tự
bồi thường tố tụng được bắt đầu bằng yêu cầu trực tiếp của người bị thiệt hại. Họ
có thể gửi đơn yêu cầu hoặc trực tiếp trình bày yêu cầu bằng miệng. Trong
trường hợp này trực tiếp phải lập biên bản ghi rõ nội dung trình bày và yêu cầu
đòi bồi thường của người bị thiệt hại. Biên bản phải lập ít nhất là hai bản có chữ
kí của người bị hại và người tiếp nhận yêu cầu. Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố
tụng (cơ quan thực hiện chức năng điều tra,truy tố, xét xử, thi hành án) phải tơ
chức xác minh vụ việc, đánh giá thiệt hại và gặp gỡ người bị hại hoặc đại diện
hợp pháp của người đó, thực hiện việc giải quyết với sự có mặt của cán bộ công
chức gây thiệt hại. Thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải thành lập
Hội đòng xét bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành
tố tụng của mình gây ra trong thời hạn 15 ngày để xem xét yêu cầu của người bị
thiệt hại vào ngày người bị thiệt hại yêu cầu.
Hội đồng xét giải quyết bồi thường thiệt hại bao gồm đại diện lãnh đạo cơ
quan, đại diện lãnh đạo công đoàn của người bị thiệt hại, đại diện cơ quan
1
4
1

4
….chính vật giá, đại diện cơ quan chuyên ngành khoa học, kĩ thuật có liên quan
và đại diện cơ quan tư pháp cùng cấp. Trong Hội đồng xét giải quyết bồi thường
thiệt hại, đại diện cơ quan của người gây thiệt hại là Chủ tịch hội đồng.
Hội đồng xét giải quyết bồi thường thiệt hại có nhiệm vụ xem xét đánh giá độ
thiệt hại, xác định trách nhiệm dân sự của các bên để kiến nghị với thủ trưởng cơ
quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng quyêt định mức bồi thường và phương
thức bồi thường thiệt hại.
Cơ quan của người gây thiệt hại chịu trách nhiệm về chi phí của hội đồng xét
giải quyết bồi thường thiệt hại.
Hội đồng xét giải quyết bồi thường thiệt hại tiến hành họp giải quyết trình tự:
Chủ tịch hội đồng công bố thành phần tham gia cử thư ký ghi biên bản, Hội đồng
nghe công bố yêu cầu đòi bồi thường của người bị hại nghe giải trình của người
gây thiệt hại; Hội đồng nghe báo cáo thẩm tra của cơ quan chuyên môn nếu có,
Hội đồng thảo luận công khai và quyết định theo đa số. Kiến nghị của Hội đồng
được thành lập thành văn bản và gửi cho lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền xem
xét, quyết định.
Trong trường hợp xét thấy cần thiết, Chủ tịch Hội đồng có thể mời người bị
hại hay người đại diện của họ tham gia phiên họp Hội đồng.
Hội đồng tự giải tán sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Thủ trưởng cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải
quyết bồi thường thiệt hại trong thời hạn 45 ngày kể tư ngày người bị thiệt hại
yêu cầu. Như vậy, về bản chất pháp lý Hội đồng xét giải quyết bồi thường được
thành lập ra để tư vấn giúp thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường có căn
cứ ra quyết định bồi thường đúng và khách quan.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau, tức đương sự là
người bị hại không chấp nhận mức bồi thường do cơ quan có trách nhiệm bồi
thường đưa ra hoặc ngược lại các bên có quyền yêu cầu Tòa giải quyết, hình
thành trình tự giải quyết tư pháp.
Trình tự 2: Trình tự tư pháp.

Trình tự tư pháp được thực hiện trong trường hợp các đương sự không đồng ý
với mức bồi thường mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường đưa ra thì đương sự
được quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân để bảo vệ quyền lợi của mình. Về
thẩm quyền thụ lý của Tòa án nhân dân, giải quyết loại việc về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do vậy về nguyên tắc thẩm quyền xét xử của Tòa dân sự tòa
án nhân dân nơi đương sự có địa chỉ thường trú hoặc nơi xẩy ra vụ việc gây thiệt
hại. Theo qui định của Điều 6 Quyết định 47/CP không qui định cụ thể Tòa án có
quyền thụ lý giải quyết loại viêc này. Vì vậy, việc thực hiện quyền yêu cầu bồi
1
5
1
5
thường của người bị oan sai thụ lý giải quyết theo thủ tục chung tức theo qui
định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
4. Các trường hợp loại trừ và miễn giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Cũng như trong các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra cũng có các trường hợp mà chủ thể gây thiệt hại được pháp luật
loại trừ trách nhiệm bồi thường và các trường hợp miễn giảm trách nhiệm bồi
thường.
a. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường.
- Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, đây là các trường hợp
người đã phạm tội nhưng khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển đổi
của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa, pháp luật có sự thay đổi.
- Trường hợp trước khi hànhvi phạm tội bị phát giác người phạm tội đã
khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả cào việc phát hiện và điều tra tội cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và được miễn trách nhiệm hình
sự.

- Trường hợp do người bị thiệt hại có lỗi cố ý trong việc giả mạo lời khai
cung cấp các chứng cứ khác hoặc tự mình phạm tội, nhận tội thay, Thậm chí có
những trường hợp tự ý gây thương tích gây tổn hại đến sức khỏe tính mạng của
chính mình trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù.
Trong các trường hợp này có lỗi cố ý của người bị thiệt hại là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hành vi gây thiệt hại của những người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Xét về bản chất pháp lý các hành vi cố ý này cũng là các hành vi trái pháp
luật đánh lạc hướng điều tra xử lý tội phạm, nếu nghiêm túc có thể phải xử lý
thành các tội phạm độc lập.
- Người phạm tội được đại xá: là các trường hợp có tội phàm xảy ra, tại
thời điemr hành vi phạm tội thực hiện có đầy đủ các yếu tố của một cấu thành tội
phạm. Do vậy hành vi thuộc chức năng nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng đã được thực hiện đối với các tội phạm đó như bắt, tạm giam,
tạm giữ, xét xử đối với những người đã thực hiện hành vi. Xét về bản chất pháp
lý của hành vi này của các cá nhân có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
phải hợp pháp phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của pháp luật hình sự và tố tụng hình
sự, những người bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự không có đòi hỏi
các cá nhân có thẩm quyền hay Nhà nước bồi thường. Nhà nước áp dụng biện
1
6
1
6
pháp miễn trách nhiệm hình sự thể hiện chính sự nhân đạo của nhà nước do có
chuyển biến của tình hình kinh tế xã hội cũng như có nhiều tình tiết giảm nhẹ thể
hiện thái độ ăn năn hối cải khắc phục hậu quả của người phạm tội.
b. Các trường hợp miễn giảm trách nhiệm bồi thường.
Là các trường hợp việc miễn giảm xuất phát từ phía các chủ thể bị hại do
chính lỗi của các chủ thể đó. Hình thức lỗi này rất đa dạng:
Thứ nhất, chính người bị thiệt hại có hành vi vi phạm pháp luật đang gây
thiệt hại, hoặc đe dọa gây thiệt hại chính vì vậy người có thẩm quyền tiến hành

tố tụng thực hiện quyền phòng vệ chính đáng của mình nhưng các biện pháp họ
đã sử dụng đã vượt quá giới hạn gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của
người bị hại. Đối với trường hợp gây thiệt hại này do yêu cầu của nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện hành vi gây
thiệt hại do vậy trách nhiệm của người tiến hành tố tụng cần được giảm một
phần.
Thứ hai, trường hợp người tiến hành tố tụng gây thiệt hại với hình thức
lỗi nhưng rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, ốm đau, năng lực hành vi dân sự
hạn chế. Đây là trường hợp cần được giảm mức độ trách nhiệm nhưng giảm
trong quan hệ nội bộ cơ quan tiến hành tố tụng, tức là sau khi cơ quan tiến hành
tố tụng đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và xem xet trách nhiệm hoàn lại
của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây thiệt hại.
Thư ba, trường hợp người tiến hành tố tụng gây thiệt hại đang phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường, có thái độ quyết tâm cao sửa chữa sai lầm khuyết điểm
đã mắc được tập thể và lãnh đạo ghi nhận đồng thời đã lập công lớn, có thành
tích xuất sắc trong nhiệm vụ phòng chống tội phạm thì cần được xem xét một
phần tiền bồi hoàn.
II. NHỮNG TỒN TẠI, BẤT CẬP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
CHẾ ĐỊNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CHO NGƯỜI BỊ OAN.
Thống kê của cơ quan tiến hành tố tụng về các vụ án oan cho thấy: tính đến
hết tháng 7/2004 theo kết quả rà soát của toàn ngành Kiểm sát thì hiện có 171
trường hợp bị oan mà ngành Kiểm sát sẽ phải bồi thường. Tuy nhiên, đây không
phải là con số cuối cùng và ngành đang tiếp tục rà soát để không bỏ sót các
trường hợp bị oan. Trong số 171 trường hợp này, các trường hợp oan thuộc thẩm
quyền giải quyết của cấp tỉnh, cấp huyện. Cấp trung ương chưa phát hiện được
trường hợp bị oan nào. Hiện nay mới chỉ có 17/171 người làm đơn yêu cầu được
bồi thường. Đã có 5 trường hợp được giải quyết dứt điểm với tổng số tiền bồi
1
7
1

7
thường trên 20 triệu đồng, 2 trường hợp chỉ yêu cầu khôi phục danh dự mà
không yêu cầu bồi thường vật chất và đã được khôi phục danh dự, 2 trường hợp
thương lượng không thành và 8 trường hợp đang thương lượng. Trên đây chỉ là
kết quả rà soát của ngành Kiểm sát – 1 trong 3 cơ quan tiến hành tố tụng đã cho
thấy số lượng các vụ án oan xảy ra khá nhiều làm ảnh hưởng không nhỏ tới
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thực tiễn gần đây cho thấy các hoạt động bồi thường thiệt hại cho người bị
oan đã có những chuyển biến tích cực và mang lại một số hiệu quả nhất định,
được dư luận đồng tình ủng hộ, niềm tin của người dân vào nền công lý được
nâng cao. Tuy nhiên chế định này đã và đang bộc lộ một số điển cần sửa đổi, đó
là vấn đề về giá trị tiền bồi thường, thời hiệu yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại giải quyết bằng chứng để được bồi thường.
Về giá trị tiền bồi thường đã có một số vụ án các bên không đạt được thỏa
thuận về khoản tiền bồi thường trong trường hợp tài sản bị xâm phạm; thiệt hại
do thu nhập thực tế bị mất. Điến hình là vụ đòi bồi thường thiệt hại giữa ông
Hoàng Minh Tiến và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; theo đó
ông Tiến bị oan từ năm 1993, do vậy ông Tiến yêu cầu đền bù trên 4 tỷ đồng. Vụ
ông Vũ Duy Hà (phường 10, quận 5, Tp. Hồ Chí Minh) yêu cầu công an thành
phố Hồ Chí Minh bồi thường do ông bị bắt giam oan, các khoản gần 4 tỷ tiền
thiệt hại về tinh thần và trên 3 tỷ về thu nhập bị mất. Vụ ông Trần Công Ơi ở
huyện Chợ Gạo, bị giam 4 năm 2 ngày; ông Bùi Văn Giang ở huyện Gò Công
Tây, tỉnh Tiền Giang bị tù oan 4 năm 3 tháng 12 ngày do thương lượng không có
kết quả, hai ông đã tiến hành khỏi kiện và được tòa án nhân dân huyện nơi
thường trú thụ lý giải quyết. Và gần đây các vụ đòi bồi thường thiệt hại do oan
sai vẫn tiếp tục xảy ra, điển hình là các vụ: Ông Nguyễn Văn Tuấn (SN 1967,
ngụ xã Suối Cát, huyện Xuân Lộc) vừa có đơn gửi TAND tỉnh Đồng Nai, yêu
cầu xem xét khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại tổng cộng hơn 1,8 tỉ đồng
cho ông vì bị bắt giam oan sai gần 1.700 ngày; Ông Nguyễn Đình Chiến – Tổng
giám đốc công ty cổ phần kinh doanh bất động sản Hải Phòng Vimproco – Giám

đốc công ty cung ứng hàng xuất nhập khẩu phía Bắc, đã đưa đơn yêu cầu Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Cần Thơ giải quyết bồi thường thiệt hại do ông Chiến bị
oan. Trong đó, tổng số tiền ông Chiến đòi bồi thường lên đến 568 tỉ đồng, cao
hơn 116 tỉ đồng so với đơn yêu cầu ngày 2.8.2006 (452 tỉ đồng).
Từ thực tiễn nêu trên cho thấy các trường hợp thương lượng không thành
vì số tiền bồi thường bên bị thiệt hại đưa ra quá cao, ngân sách dành cho bồi
thường thì hạn chế, đành rằng có thiệt hại về vật chất và tinh thần đối với người
bị oan là rất lớn và việc bồi thường cũng chỉ phần nào khắc phục được thiệt hại
đã xẩy ra. Chính vì vậy, Pháp luật cần sửa đổi theo hướng qui định chặt chẽ hơn
trình tự, thủ tục tố tụng hình sự để hạn chế đến mức thấp nhất các vụ án oan sai
1
8
1
8
đang là biện pháp ngăn ngừa hữu hiệu nhất. Tiến tới xây dựng đội ngũ cán bộ tố
tụng có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư, có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ vững vàng, đảm bảo cho bộ máy trong sạch, vững mạnh, góp phần
nâng cao hiệu quả trong hoạt động tố tụng. Tương lai, cần nâng mức tiền bồi
thường thiệt hại cho người bị oan sai cao hơn so với mức qui định hiện thời. Dẫu
sao, để việc thương lượng có kết quả đòi thỏi các bên phải thực sự có thiện chí
mới tìm được tiếng nói chung.
Một nguyên nhân nữa khiến thương lượng ít khi đi đến kết quả là do từ
trước đến nay các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ quen “cầm cân nảy mực” ít khi
thương lượng, hòa giải vì vậy họ khó thông cảm đến sự khốn khổ, tan nát nhà
cửa của người bị oan sai. Theo qui định của pháp luật, nếu thương lượng không
thành người bị oan có quyền khởi kiện dân sự. Tuy nhiên, người khởi kiện đa
phần là “ lực cùng thế kiệt” do mắc vào vòng công lý, cửa nhà, tài sản tiêu tan,
khởi kiện không nắm chắc phần thắng. Chính vì vậy, về vấn đề đàm phán bồi
thường không nên giao cho một cơ quan tố tụng nào đó thực hiện mà việc bồi
thường cần có một hội đồng bao gồm đại diện của các ngành các giới, do Ủy ban

mặt trận Tổ quốc chủ trì dưới sự giám sát của thường trực Hội đồng nhân dân
tỉnh thành và đoàn Đại biểu quốc hội của tỉnh thành. Chỉ như vậy mới đảm bảo
tính khách quan, có lý có tình.
Về thời hiệu yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại giải
quyết: điển hình là vụ ông Nguyễn Trọng Long (quận Tân Bình, Tp Hồ Chí
Minh) gửi đơn kiện đến Tòa án nhân dân quận Tân Bình khởi kiện Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bồi thường thiệt hại do ông bị truy tố oan. Sau
khi xem xét tòa đã bác đơn do hết thời hiệu khởi kiện, lí do là ông Long có quyết
định đình chỉ điều tra trước ngày 01/7/1996 do vậy căn cứ vào Nghị quyết 388
và Thông tư liên tịch 01 thì ông Long phải có những bằng chứng chứng minh
ông đã có đơn yêu cầu bồi thường bị oan đã được cơ quan tố tụng tiếp nhận
trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực nhưng chưa được giải quyết hoặc đang
giải quyết. Vụ anh Nguyễn Trường Giang và chị Lê Thị Tuyết Loan trú tại thị xã
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp bị oan xảy ra từ năm 1994. Tuy nhiên chỉ có anh
Giang gửi đơn yêu cầu bồi thường và có giấy báo đã nhận đơn của Viện kiểm sát
thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định của pháp luật thì chỉ có anh Giang được
bồi thường, nhưng sau khi xem xét một cách toàn diện, có lý có tình, Tòa án
nhân dân tối cao đã xét bồi thường cho cả chị Loan và anh Giang vì chị Loan có
mối quan hệ người nhà (chị vợ, em rể) cùng chung một vụ án, anh Giang cũng
trình bày là trong đơn khiếu nại có tên chị Loan.
Thực tiễn nêu trên cho thấy, nguyên nhân chủ yếu là do người bị oan sai
không am hiểu pháp luật, ngại hay sợ sệt mà không giám làm đơn hoặc làm đơn
không kịp thời, do lỗi của cơ quan nhận đơn đã làm thất lạc đơn, cơ quan nhận
1
9
1
9
đơn không ghi giấy biên nhận. Chính vì vậy, để bảo vệ tốt quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại pháp luật cần quy định theo hướng mở rộng thời hiệu yêu cầu cơ
quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại giải quyết. Đối với các trường hợp

người bị oan có quy định, bản án của cơ quan có thẩm quyền minh oan trước
ngày 01/7/1996 pháp luật cần quy định không tính thời hiệu, chỉ cần họ làm đơn
thì sẽ được bồi thường thiệt hại, trừ khi họ có đơn khước từ quyền được bồi
thường.
Các bằng chứng để được bồi thường cần được cơ quan có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại xem xét đánh giá một cách khác quan, toàn diện, có lý, có tình,
tránh thiệt thòi cho người bi oan. Bởi trên thực tế khi mắc vào vòng công lý
người bị oan thường hoang mang và không ý thức được là mình sẽ được minh
oan, họ cũng chỉ thu thập bằng chứng để chứng minh vô tội ít khi họ có động
thái thu thập hoặc thu thập không đầy đủ bằng chứng để sau này làm căn cứ cho
việc bồi thường thiệt hại.
Mới đây, theo TANDTC báo cáo còn hơn 6.000 đơn đề nghị nữa chưa
được xem xét. Nếu TANDTC, VKSNDTC và TAND, VKSND cấp tỉnh không
kịp thời xem xét (theo quy định thời hiệu giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có 3 năm),
thì đến khi chúng ta phát hiện sai lầm, thời hiệu kháng nghị đã hết, nhiều người
dân sẽ phải chịu các bản án oan sai. Trên thực tế đã xảy ra.
Trong thời gian tới, cần bổ sung quy định pháp luật theo hướng cán bộ,
công chức gây ra thiệt hại phải trực tiếp cùng lãnh đạo cơ quan có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại xin lỗi người bị oan (nếu họ còn đang làm việc). Điều này sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả và ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại cho
người bị oan.
Nghị quyết 388 và Thông tư 01 đã có hiệu lực với việc mở rộng cụ thể các
quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra nhằm dân chủ hóa đời sống
của xã hội, khắc phục và hạn chế các vụ án oan, thực hiện được các tinh thần cơ
bản của Nghị quyết 08 của Bộ chính trị. Có thể nói rằng đây là một bước ngoặt
quan trọng trong tiến trình pháp điển hóa pháp luật nói chung và trong lĩnh vực
bồi thường thiệt hại nói chung.
2
0

2
0
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GIÁO TRÌNH LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – NXB. CÔNG AN NHÂN
DÂN.
2. BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 – NXB TƯ PHÁP.
3. TẠP CHÍ TÒA ÁN SỐ 4/2008.
4. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN CỦA CƠ
QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA.
5. LUẬN ÁN TIẾN SĨ CỦA LÊ MAI ANH.
6. LUẬN ÁN THẠC SĨ CỦA NGUYỄN HỮU ƯỚC.
2
1
2
1
MỤC LỤC
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
GÂY RA.
1. Khái niệm về oan sai hình sự.
2. Cơ sở pháp lý để xác định bồi thường.
3. Người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
II. NỘI DUNG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN
CỦA CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA.
1. Các nguyên tắc giải quyết bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra.
2. Chủ thể trực tiếp bồi thường thiệt hại và các trường hợp bồi thường thiệt hại.
3. Các trình tự giải quyết bồi thường thiệt hại.
4. Các trường hợp loại trừ và miễn giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người

có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
III. NHỮNG TỒN TẠI, BẤT CẬP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
CHẾ ĐỊNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CHO NGƯỜI BỊ OAN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
MỤC LỤC.
2
2
2
2

×