Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

đề tài chiến tranh chống mỹ trong truyện ngắn bảo ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.99 KB, 81 trang )

bộ giáo dục và đào tạo
Trờng Đại học Vinh
Lu thị thanh trà
đề tài chiến tranh chống mỹ
trong truyện ngắn bảo ninh
chuyên ngành: lý luận văn học
Mã số: 60.22.32
luận văn thạc sĩ ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. Phạm Tuấn Vũ

Vinh, 2006
Mục lục
Trang
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 1
3. Mục đích yêu cầu của việc giải quyết đề tài 5
4. Giới hạn của việc giải quyết đề tài 5
5. Phơng pháp nghiên cứu 6
6. Dự kiến đóng góp của luận văn 6
7. Cấu trúc của luận văn 6
Chơng 1.
Chiến tranh và nhân cách con ngời 7
1.1. Nhìn qua truyện ngắn về đề tài chiến tranh sau 1975 7
1.2. Vấn đề chiến tranh và nhân cách con ngời trong truyện
ngắn Bảo Ninh
11
1.3 Sự tác động của chiến tranh đến nhân cách con ngời
trong truyện ngắn Bảo Ninh
29


Chơng 2.
Chiến tranh và tình yêu 40
2.1. Những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Bảo Ninh khi
thể hiện tình yêu thời chiến tranh
41
2.2. So sánh đề tài chiến tranh và đề tài tình yêu trong truyện
ngắn và tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả
55
Chơng 3.
Hai điểm nhìn chiến tranh 67
3.1. Chiến tranh đợc hồi tởng lại 67
3.2. Chiến tranh đợc miêu tả nh đang diễn ra 75
3.3. Đối sánh điểm nhìn chiến tranh trong truyện ngắn với
tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả
81
Kết luận
92
Tài liệu tham khảo
94

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Cuộc chiến tranh chống Mỹ là một trong những đề tài quan trọng
nhất của văn học cách mạng Việt Nam. Mỗi thể loại, mỗi nhà văn nhận thức
và thể hiện đề tài này theo những cách riêng. Chọn đề tài này chúng tôi muốn
nghiên cứu việc nhận thức và thể hiện đề tài ấy ở truyện ngắn của một nhà văn
cụ thể.
1.2 Bảo Ninh là một nhà văn trởng thành khi chiến tranh chống Mỹ đã
kết thúc. Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu một nhà văn hậu chiến đã nhìn
nhận và thể hiện cuộc chiến tranh đó nh thế nào.

1.3 Bảo Ninh còn là tác giả của cuốn tiểu thuyết xuất sắc viết về chiến
tranh (Thân phận của tình yêu). Nghiên cứu đề tài này trong sự đối sánh với
đề tài chiến tranh ở cuốn tiểu thuyết trên góp phần nhận thức thi pháp của
truyện ngắn và tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề
Bảo Ninh là một trong số những nhà văn viết về đề tài chiến tranh có
đóng góp trong cách nhìn về đề tài chiến tranh trong văn học hậu chiến. Đề tài
chiến tranh đợc Bảo Ninh thể hiện trên hai thể loại: truyện ngắn và tiểu thuyết.
Nghiên cứu về các sáng tác của Bảo Ninh đang thu hút sự quan tâm của ngời
cầm bút bởi những đặc trng về thể loại và nội dung phản ánh. Trong Văn học
Việt Nam thế kỷ XX, Bùi Việt Thắng khẳng định Bảo Ninh là một trong những
nhà văn có duyên với truyện ngắn [13,337]. Bích Thu trong Những thành tựu
của truyện ngắn sau 1975 cũng xem Bảo Ninh là một cây bút ấn tợng với ngời
đọc [51,32]. Đi vào tìm hiểu nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Bảo Ninh, tác
giả cuốn sách Bình luận truyện ngắn chỉ ra truyện ngắn Khắc dấu mạn thuyền
là kiểu tình huống tợng trng [50,49]. Hay WayneKarlin trong lời giới thiệu
cho tuyển tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh nhận thấy truyện ngắn Bí
ẩn của làn nớc của Bảo Ninh: "in dấu niềm khao khát tình yêu" [59,12], "đối
diện trực tiếp với hậu quả chiến tranh, những bậc cha mẹ bị mất con" [59,14]. Đó là
những gợi ý tuy ít ỏi của các tác giả đi trớc song rất có ý nghĩa cho chúng tôi
khi nghiên cứu từng truyện ngắn Bảo Ninh để làm rõ những đặc sắc của truyện
ngắn Bảo Ninh trong việc thể hiện đề tài chiến tranh chống Mỹ.
Bảo Ninh là tác giả của cuốn tiểu thuyết rất thành công về đề tài chiến
tranh chống Mỹ: Thân phận của tình yêu, tác phẩm đạt giải nhất của Hội Nhà
văn Việt Nam năm 1991. Nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong tác phẩm này
3
đã trở thành mối quan tâm của các nhà văn, nhà nghiên cứu và ngời đọc.Tác
giả Đỗ Đức Hiểu trong Thi pháp hiện đại đã khẳng định: "Trong văn học mấy
chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình
yêu, quyển tiểu thuyết về tình yêu xót thơng nhất", tác giả nhấn mạnh: "nỗi

buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài 35
năm", "những cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt
trong tác phẩm" [18,265]. Bên cạnh nỗi buồn chiến tranh đợc phản ánh trong
tác phẩm là nỗi buồn về tình yêu, Đỗ Đức Hiểu nhận định: "Nỗi buồn chiến tranh
và nỗi buồn tình yêu (tr,98) thấm vào nhau. Kiên vẫn phải sống, sống một thời hậu
chiến u buồn (nỗi buồn hậu chiến) vì một "thiên mệnh mù mịt xa vời, tối tăm và
đau xót, đợc diễn đạt bằng đêm ("bóng đêm", "đêm hè", "đêm trờng" , [18,266],
"Tình yêu, chiến tranh, viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây
chóng mặt, bàng hoàng, nhức nhối. Ma và đêm, chiến tranh và sáng tác;
khủng khiếp và hồn hoang. Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt tất cả các biến động
của tiểu thuyết (ma và đêm) là một mối tình đau xót, kéo dài, vang vọng, âm ỉ
và nổ bùng, hủy hoại tất cả" [18,266]. Những nghiên cứu này của tác giả đã
giúp chúng tôi trong việc khảo sát so sánh tiểu thuyết Thân phận của tình yêu
và truyện ngắn Bảo Ninh.
Nghiên cứu về Thân phận của tình yêu ở góc độ thi pháp, tác giả Trần
Quốc Huấn trong tạp chí Văn học số 3 (1991) đã quan tâm đến thiên truyện từ
điểm nhìn chiến tranh. Tác giả viết: "Toàn bộ tác phẩm là cái nhìn ngoái lại,
thờ thẫn, đăm đắm của một ngời lính khi đã tàn cuộc. Cái nhìn dằng dặc, đầy
phân tán nhng không hề lơ đãng. Điểm nhìn có góc độ rộng, song khá tập
trung" [23,85]. Điều này đã gợi ý cho chúng tôi khi nghiên cứu về hai điểm
nhìn chiến tranh quá khứ và hiện tại trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu.
Bên cạnh đó Trần Quốc Huấn còn đa ra nhận xét về nhà văn Bảo Ninh. Ông viết:
"Bảo Ninh đã độc lập tác chiến trong quá trình rong ruổi ngợc. Anh can đảm
chấp nhận một lộ trình dốc đứng. Có lẽ anh trong số những ngời lính sống sót đã
mất đi khả năng quên. Đây chính là sự hành xác vừa đau đớn vừa đáng sợ. Buồn
đau đến thành mãn tính, ám ảnh, luôn mấp mé với bệnh hoạn" [23,86].
Nguyễn Thái Hòa trong công trình Những vấn đề thi pháp của truyện
lại nhấn mạnh đến cách xử lý thời gian linh hoạt của Bảo Ninh. Theo nhà
nghiên cứu, Bảo Ninh đã sử dụng thủ pháp đồng hiện trong cuốn tiểu thuyết
này. Nguyễn Thái Hòa viết: "Phong phú và đầy đặn hơn là cách kể, cách xử lí

thời gian của Bảo Ninh trong Thân phận của tình yêu. Cả quãng đời thơ ấu, đi
học, trớc chiến tranh, sau chiến tranh của nhân vật Kiên không phải liên tục,
4
đều đặn mà lần giở theo hồi ức" [21,143], "sự xê dịch trong Thân phận của
tình yêu mới thật là một thách thức đối với ngời đọc. Nó không có dấu hiệu
báo trớc và cũng chẳng biết kết thúc lúc nào" [21,131].
Trên tạp chí Văn học số 6 (1991), với bài viết Văn xuôi gần đây và
quan niệm về con ngời Bùi Việt Thắng đã đa ra nhận định hết sức xác đáng về
quan niệm nhân cách con ngời trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu. Ông
viết: "Cái phần đợc của Thân phận của tình yêu chính là ở chỗ Kiên mới dám
nhìn thẳng, nhìn sâu vào quá khứ, mới dám đối diện với hiện tại, rất công
bằng mà phán xét lịch sử. Cao hơn nữa là đối diện với chính mình, rồi xám
hối, tranh đấu và vợt lên" [49,17]. Đó là những định hớng quý báu cho chúng
tôi khi nghiên cứu so sánh tiểu thuyết Thân phận của tình yêu và truyện ngắn
Bảo Ninh cùng viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ.
Ngoài tập truyện ngắn và tiểu thuyết Thân phận của tình yêu, gần đây
Bảo Ninh còn viết một số bài trên báo Văn nghệ trẻ bàn về sự đổi mới của văn
học. Trong phần hai của bài viết Văn học đổi mới đến từ cuộc kháng chiến,
Bảo Ninh đã chỉ trích một số quan niệm ấu trĩ khi xử lí Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc T và lý giải về việc thởng thức văn học của độc giả. Đồng thời
đã khen ngợi sự đổi mới đề tài chiến tranh của Thái Bá Lợi (truyện ngắn) và
Lê Lựu (tiểu thuyết). Tác giả viết: "Tôi nghĩ rằng họ, chẳng hạn nhà văn Thái
Bá Lợi của Hai ngời trở lại trung đoàn, nhà văn Lê Lựu của Thời xa vắng, có
ý chí đổi mới sáng suốt và mãnh liệt đồng thời quả cảm và gan lỳ chẳng kém
gì ngời nông dân gan dạ dám chọn con đờng đúng đắn nhng đầy cay đắng và
cô đơn của bí th Kim Ngọc. Tôi tự hỏi rằng nếu không có những ngời nông
dân cựu chiến binh kháng chiến chống Mỹ ấy thì liệu nền kinh tế của đất nớc
và đời sống của mọi ngời ngày hôm nay sẽ nh thế nào?" [40,3]. Bảo Ninh là
một trong những nhà văn góp phần đổi mới văn học viết về đề tài chiến tranh,
nên ở đây thể hiện một quan niệm về sự đổi mới cách nhìn nhận chiến tranh.

Ông viết: "Nếu không có ý chí và tác phẩm sáng ngời tinh thần đổi mới ngay
từ đầu những năm 1980 của các nhà văn mà hầu hết là cựu chiến binh thì ngày
nay các nhà văn và cả độc giả nữa sẽ có kiểu t duy văn học kiểu gì?" [40,3].
Cũng trên báo Văn nghệ trẻ ở bài viết Nói hay làm dở, Bảo Ninh đa đến một
quan niệm mới về việc viết văn của lớp nhà văn sau chiến tranh. Ông dẫn ra
một loạt cuộc hội thảo bàn về nhu cầu đổi mới văn học: "Mỗi thầy mỗi khác,
nhng tựu trung đều kêu gọi và thôi thúc chúng tôi hãy khác đi, hãy mau mau
đổi mới, hãy mạnh dạn cách tân, hãy từ bỏ lối mòn trong suy nghĩ và trong
sáng tác" [41,2].
5
Gần đây cũng trên báo Văn nghệ trẻ, số 39 (2006) trong bài viết Tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại phong phú về lợng, khi bàn về tiểu thuyết Việt Nam
đơng đại, tác giả Nguyễn Trờng Lịch cho rằng tiểu thuyết Việt Nam không
nằm ngoài dòng chảy của tiểu thuyết thế giới, ông đa ra một số tác phẩm tiêu
biểu trong đó là tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh. Tác giả
viết: "Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh với độ dài của thời gian, điểm
nhìn mới mẻ về chiến tranh trong quá khứ giúp nhà văn mạnh dạn nhận rõ
cuộc chiến tranh không chỉ mang âm điệu hào hùng thắng lợi mà con đợm nét
đau thơng bi tráng trong những ngôi nhà, nơi ngõ phố vắng vẻ hoặc làng quê
núi đồi quạnh hiu qua từng nỗi bất hạnh cô đơn của bao ngời con gái nhỏ hậu
phơng đêm đêm không ánh đèn mỏi mắt chờ đợi" [31,3]. Nguyễn Trờng Lịch
còn phát hiện những mới mẻ ở cuốn tiểu thuyết này: "Và có lẽ điểm mới nhất
trong kết cấu Thân phận của tình yêu là chỗ tác giả lấy trục thời gian chi phối
mọi hành động xuyên suốt các tính cách nhân vật trải rộng trên các vùng không
gian mênh mông của chiến trờng từ Bắc chí Nam" [31,3].
Nh vậy, cha có một công trình nào thể hiện cái nhìn tổng quát toàn diện,
có hệ thống, chuyên sâu trong việc nghiên cứu đề tài chiến tranh chống Mỹ
trong tiểu thuyết Bảo Ninh. Vì thế, có một cái nhìn hệ thống về đề tài chiến
tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh là một vấn đề cần thiết.
3. Mục đích yêu cầu của việc giải quyết đề tài

3.1 Chỉ ra đợc phơng thức tiếp cận và thể hiện đề tài chiến tranh trong
truyện ngắn Bảo Ninh.
3.2 So sánh việc thể hiện đề tài chiến tranh trong tập truyện ngắn này
với việc thể hiện đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu.
3.3 Từ việc giải quyết những vấn đề trên, góp phần hiểu thêm một số
đặc điểm của truyện ngắn.
4. giới hạn của việc giải quyết đề tài
1. Luận văn nghiên cứu đề tài chiến tranh trong những truyện ngắn Bảo
Ninh đợc tập hợp trong Truyện ngắn Bảo Ninh do Nxb Công an ấn hành năm
2002. Đó là những truyện ngắn: Trại bảy chú lùn, Thời tiết của ký ức, Hà Nội
lúc không giờ, Rửa tay gác kiếm, Mây trắng còn bay, Hữu khuynh, Khắc dấu
mạn thuyền, Ngôi sao vô danh, Bí ẩn của làn nớc, Bên lề cuộc tấn công, Lá
th từ Quý Sửu, Ba lẻ một, La-mác xây-e.
2. Đối sánh với tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả ở
những vấn đề liên quan.
6
5. phơng pháp nghiên cứu
Vận dụng những phơng pháp nghiên cứu văn học phổ biến: phơng pháp
khảo sát - thống kê, phơng pháp miêu tả - phân tích và chú trọng phơng pháp
so sánh: so sánh trong nội bộ tập truyện ngắn, so sánh những vấn đề liên quan
ở tiểu thuyết Thân phận của tình yêu.
6. dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về đề tài chiến tranh chống Mỹ
trong truyện ngắn Bảo Ninh một cách có hệ thống trong sự đối sánh với tiểu
thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả.
7. cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn đợc triển
khai qua 3 chơng:
Chơng 1. Chiến tranh và nhân cách con ngời
Chơng 2. Chiến tranh và tình yêu

Chơng 3. Hai điểm nhìn chiến tranh
7
Chơng 1
chiến tranh và nhân cách con ngời
1.1. Nhìn qua truyện ngắn về đề tài chiến tranh sau 1975
Từ lâu đề tài chiến tranh đã đi vào trong văn học. Tuy nhiên ở mỗi thời
đại, mỗi dân tộc trong những bối cảnh cụ thể, vấn đề này đợc đề cập trong văn
học với những mức độ khác nhau.
Cuộc chiến tranh chống Mỹ kéo dài hơn 20 năm. Dân tộc Việt Nam đã
phải đơng đầu với một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, do đó, chiến thắng đế
quốc Mỹ là một sự nghiệp vĩ đại đòi hỏi những hy sinh to lớn. Con ngời không
thể vì hạnh phúc cá nhân mà yên lặng trớc sự giày xéo của quân thù. Cuộc
chiến đấu với giặc ngoại xâm giống nh một cuộc trờng chinh không ngng
nghỉ, chiến tranh là một chuỗi dài khó khăn gian khổ. Các nhà văn thời kỳ
này có nhiệm vụ phải nhận lấy sự ký thác của lịch sử là ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng. Trách nhiệm lớn lao của các nhà văn là: "phải có những tác phẩm xứng
đáng chẳng những để biểu dơng sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bấy giờ mà
còn để lu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế"
[61,27].
Trong văn học 1945-1975 (9 năm văn học kháng Pháp và hơn 20 năm
văn học chống Mỹ) với t duy sử thi, các cây bút phản ánh cuộc tử sinh của dân
tộc với những quan tâm là "viết cái gì?" hơn là "viết nh thế nào?". Bởi vậy, ở
giai đoạn này, trong các bài, th, báo bàn về văn nghệ, Đảng và Hồ Chí Minh
đều nhấn mạnh các yếu tố về nội dung đợc yêu cầu nh: "biểu dơng", "ghi lại
cho đợc", "phản ánh chân thật". Văn học Việt Nam ở thời kỳ này cái nhìn về
cuộc chiến còn phiến diện, chỉ ca ngợi mà cha khơi sâu, mô tả những đau khổ
của chiến tranh, những con ngời dù cận kề cái chết vẫn đợc lý tởng hóa. Đó là
hình ảnh của những ngời anh hùng nh anh Núp, Tnú , đó là hình ảnh của chị
Sứ, chị út Tịch Những điều đó đã đem lại cho văn xuôi trong thời kỳ này ít
nhiều hạn chế khi viết về đề tài chiến tranh. Trải qua bảy thế kỷ truyện ngắn

dân tộc từ Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV) đến nay, có thể thấy rằng truyện ngắn
Việt Nam đã đạt đến trình độ của truyện ngắn hiện đại, với "một kiểu t duy
mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang
tính chất thể loại" [17,37]. Thế nhng ở giai đoạn 1945-1975 ở thể loại truyện
ngắn còn có những hạn chế ở cái nhìn về cuộc chiến. Ngôn ngữ và nghệ thuật
trần thuật trong các tác phẩm còn phẳng lặng, một chiều, cái gai góc, đau đáu
khi viết về chiến tranh thật sự mờ nhạt hoặc là không có. Sau năm 1975, đất n-
8
ớc bớc sang một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng hòa bình trong xu thế đổi mới
hội nhập. Đề tài chiến tranh vẫn là nguồn cảm hứng lớn cho nhiều nhà văn.
Không chỉ với những nhà văn mặc áo lính, hay những nhà văn trởng thành từ
hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc mà cả với những cây bút trẻ sinh
ra và lớn lên trong cuộc sống hòa bình.
Suy nghĩ về đề tài chiến tranh, nhà văn Chu Lai cho rằng: "Chiến tranh
là một siêu đề tài và ngời lính cũng là siêu nhân vật. Càng khám phá, càng
thấy những độ rung không mòn nhẵn. ở đó mọi thứ đều đợc nén chặt đến ngột
ngạt và nếu biết cách khai mở thì đấy là đối tợng văn học vĩnh cửu nhất"
[28,41]. Còn Nguyễn Minh Châu, dù viết rất nhiều về chiến tranh nhng khi
nhìn nhận về nó ông cũng thành thật nhận thấy: "So với tầm vóc sâu rộng của
hiện thực đời sống bộ đội và nhân dân ta trong hơn một phần t thế kỷ qua thì
công việc của mình chỉ nh vừa mới đặt bàn chân lên cái bậc cửa của tòa thâm
cung đồ sộ, đầy biến động và thần bí, vừa mang tính chất thời cuộc vừa mang
tính chất lịch sử đó", "rất nhiều cuộc đời của những con ngời bình thờng nhng
chứa đựng số phận của cả đất nớc, chứa đựng cả một bài học lớn về đờng đời,
đang cần ngòi bút của nhà văn soi rọi trên trang giấy" [5,8].
Các nhà văn sau 1975 tập trung khai thác đề tài chiến tranh theo t duy
mới, điều này thực sự đem lại thành quả to lớn đối với nền văn học nớc nhà.
Một trong những thể loại tiên phong đổi mới của văn xuôi về đề tài chiến
tranh là thể loại truyện ngắn, đây cũng là thể loại đạt đợc những thành tựu đổi
mới sâu sắc nhất, nổi bật nhất và toàn diện nhất. Và một trong những nhà văn

góp phần thay đổi truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh sau 1975, tạo nên
những rung cảm nghệ thuật mới mẻ, đặc sắc đó là Bảo Ninh.
Bảo Ninh tên khai sinh là Hoàng ấu Phơng, sinh ngày 18/10/1952 tại
Diễn Châu, Nghệ An. Quê quán xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh. Anh từng
nhập ngũ và tham gia chiến đấu ở chiến trờng Tây Nguyên.
Trong ba lô ngời lính, Bảo Ninh đã cất giữ cho riêng anh những hoài
niệm từ chiến trờng gian khổ. Trong hành trang tinh thần của anh, chiến tranh
là nỗi nhớ, là nỗi buồn nguyên khối. Viết về chiến tranh sau cuộc chiến tranh
với Bảo Ninh cũng nh các nhà văn quân đội là niềm hạnh phúc hay chính là
món nợ văn chơng cần phải trả đối với cuộc đời. Trong Truyện ngắn Bảo Ninh
do Nxb Công an Nhân dân ấn hành năm 2002 có tất thảy là 16 truyện ngắn thì
có đến 13 truyện viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ: Trại "Bảy chú lùn", Ba lẻ
một, Bên lề cuộc tấn công, Lá th từ Quý Sửu, Bí ẩn của làn nớc, Ngôi sao vô
danh, Rửa tay gác kiếm, Mây trắng còn bay, Khắc dấu mạn thuyền, Thời tiết
của ký ức, Hữu khuynh, Hà Nội lúc không giờ, La- mác-xâye.
9
Trong 13 truyện ngắn viết về chiến tranh, chỉ có một truyện đứng ở thời
điểm quá khứ (Bên lề cuộc tấn công) và hai truyện đứng ở thời điểm hiện tại
(Mây trắng còn bay, La-mác-xây e) còn lại là truyện đan xen giữa hiện tại và
quá khứ. Trong 13 truyện ngắn ấy có 9 nhân vật chính là ngời lính. Đó là các
truyện: Trại "bảy chú lùn", Ba lẻ một, Là th từ Quí Sửu, Ngôi sao vô danh,
Rửa tay gác kiếm, Khắc dấu mạn thuyền, Bên lề cuộc tấn công, Hữu khuynh,
Hà Nội lúc không giờ (trong đó có 8 nhân vật chính là ngời lính trở về). Thống
kê nh thế để thấy rằng Bảo Ninh nhìn nhận cuộc chiến hầu hết là từ hơn hai
mơi năm sau. Tác giả đã cố gắng thoát ra khỏi khuôn khổ sáo mòn của đề tài
chiến tranh.
Có thể nói mạch chảy xuyên suốt trong nền văn học Việt Nam tính từ
sau cách mạng tháng tám là đề tài chiến tranh. Văn học của 30 năm chiến
tranh "tiêu biểu cho nền nghệ thuật còn tơi ròng sự sống, một nền nghệ thuật
thấm đẫm mồ hôi, khói và thuốc súng, một nền nghệ thuật chân chất, đẹp và

khỏe nh những chàng trai đang độ lớn". Do yêu cầu của thời chiến tranh mỗi
tác phẩm văn học phải phục vụ cho mục đích chính trị nên những tác phẩm
văn học của thời kỳ này đã miêu tả hiện thực cần có, nên có chứ cha phải là
miêu tả hiện thực đang tồn tại. Bởi vậy những hiện thực chiến tranh khốc liệt
còn bị khuất lấp, bao khó khăn, gian khổ trong đời sống ngời lính cha đợc
phơi bày. Số phận cá nhân, những con ngời phản bội Tổ quốc, những mâu
thuẫn trong nội bộ cha đợc phanh phui. Hiện thực chiến tranh cụ thể với
những trận đánh lớn, dữ dội đã bị đẩy lùi về sau. Truyện ngắn Bảo Ninh xây
dựng chiến tranh với cái nhìn của một ngời nghĩ về chiến tranh và viết sau
chiến tranh, nhng cuộc chiến ấy vẫn đầy máu và nớc mắt. Thế giới con ngời
luôn là niềm khao khát đợc khám phá của văn học, trong mảng đề tài chiến
tranh của văn học giai đoạn 1945 -1975 việc miêu tả con ngời thực sự đang
còn những non yếu. Bớc sang giai đoạn mới, con ngời trong chiến tranh đợc
miêu tả toàn vẹn hơn, mỗi nhân vật là một con ngời lỡng diện, con ngời với tất
cả những mặt tốt xấu của đời đó là Lực trong Cỏ lau, Hòa trong Ngời đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu). Truyện ngắn sau 1975 còn
quan tâm đến kiểu con ngời mới: con ngời tự nhận thức nh nhân vật ngời họa
sĩ trong truyện ngắn Bức tranh , con ngời tự nhiên nh các cô gái trong Ngời
sót lại của rừng cời của Võ Thị Hảo , con ngời tâm linh nh ngời lính trong
Bến trần gian của Lu Minh Sơn Chỉ riêng về việc thể hiện ngời lính, truyện
ngắn sau 1975 đã xây dựng hàng loạt kiểu nhân vật mới, đó là kiểu nhân vật
lạc thời, lạc môi trờng, nhân vật tha hóa, nhân vật chấn thơng
10
Trong truyện ngắn Bảo Ninh có những con ngời lớn dậy trong chiến
tranh hoặc tha hóa, biến chất trong hoàn cảnh đó. Con ngời mới ở đây là kiểu
con ngời chuyển từ cái ta cộng đồng sang cái tôi riêng biệt, là con ngời với
những trạng thái tâm hồn: khi khổ đau, khi vui sớng, khi hạnh phúc, và cả bất
hạnh nữa Bảo Ninh đã dựng lên những đời ngời không bằng phẳng. Những
gai góc, gồ ghề của cuộc sống bám chặt vào đời lính, họ đi ra từ chiến tranh
nhng nặng trĩu nỗi buồn (Lá th từ Quý Sửu), họ đi ra từ chiến tranh nhng

không quên nổi những oán thù cá nhân để rồi mang t tởng không đẹp (Hữu
khuynh), ở đó còn có những ngời giữ mãi lời thề mà bắt mình cứ mãi cô đơn
(Trại "bảy chú lùn") Chiến tranh đã "phạt ngang cuộc đời của họ".
Độ lùi của thời gian là một lợi thế của Bảo Ninh để nhìn lại những gì đã
diễn ra trong chiến tranh. Thời gian tạo cho nhà văn có cơ hội nhìn chiến tranh
nh một hiện tợng xã hội tổng thể và nhất là cho phép nhà văn kiểm chứng
những hậu quả xã hội của nó. Văn học hậu chiến của bất kỳ dân tộc nào cũng
có trách nhiệm lớn lao là bằng t duy nghệ thuật nhận thức lại, đo lại những
"chấn động" về mọi mặt xã hội do chiến tranh để lại cho dân tộc mình. Và
cũng dễ hiểu vì sao những tác phẩm viết về chiến tranh thời hậu chiến có cái
nhìn bình tĩnh hơn, khách quan hơn và vì thế mà đọc nó, ta thấy thấm thía hơn
những gì đợc viết trong khói lửa. Đề tài chiến tranh trong truyện ngắn Bảo
Ninh còn thể hiện sự đa chiều, đa diện trong việc dùng thủ pháp đồng hiện
biến đổi không gian, thời gian, miêu tả dòng độc thoại, nội tâm con ngời
Bên cạnh 13 truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ, Bảo Ninh
có cuốn tiểu thuyết Thân phận của tình yêu, đây là tiểu thuyết đạt giải thởng
của Hội Nhà văn năm 1991. Trong tác phẩm này, Bảo Ninh đã cho ngời đọc
thấy toàn bộ nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn tình yêu, những thân phận con ng-
ời, thân phận tình yêu Đó là sự sáng tạo của nhà văn Bảo Ninh trớc sự đổi
mới cách tiếp cận đề tài chiến tranh, anh đã kịp thời bắt nhịp với hớng đi mới,
đã cho độc giả những trang văn viết về đề tài chiến tranh ở hai thể loại truyện
ngắn và tiểu thuyết rất sống động, trung thực và đầy tính nhân văn. Điều này
dờng nh đã làm nên một phong cách rất riêng của nhà văn xứ Quảng Bình cát
trắng này.
1.2. Vấn đề chiến tranh và nhân cách con ngời trong truyện
ngắn Bảo Ninh
Chiến tranh là một nhân tố có tác động cực kỳ to lớn đối với nhân cách
con ngời. Nhân cách là "t cách và phẩm chất con ngời" [42,687], mỗi con ngời
11
ai cũng có t cách và phẩm chất. T cách, phẩm chất đó nh thế nào phụ thuộc

vào hoàn cảnh sống, điều kiện sống của mỗi cá nhân. Bùi Việt Thắng cho
rằng: "quan niệm về nhân cách là biểu hiện một trình độ cao của sự khái quát
nghệ thuật đời sống " [49,17]. Tác giả còn khẳng định: "nhân cách là một khái
niệm rộng và cao hơn khái niệm nhân vật tích cực" [49,17]. Nói đến nhân
cách con ngời là nói đến những điểm tốt đẹp của ngời trớc cuộc sống (Bùi
Việt Thắng). Nhng cuộc sống hôm nay "vốn đa sự" liệu con ngời có còn giữ đ-
ợc nhân cách của mình không? Chiến tranh đối với ngời lính hậu chiến nh thế
nào?
Chiến tranh chống Mỹ chiếm trọn hai mơi năm của thế kỷ. Con ngời
Việt Nam phải chịu sự tác động ghê gớm của cuộc chiến tranh trờng kỳ ấy.
Tới nay hòa bình đã trở lại nhng những d âm của chiến tranh vẫn là nỗi ám
ảnh khôn nguôi đối với con ngời thời hậu chiến. Sức tác động của chiến tranh
đến nhân cách con ngời cả trong chiến tranh và trong hòa bình vẫn là một chủ
đề của văn học hôm nay. Bên cạnh các tác giả văn học khác, Bảo Ninh thể
hiện sự tác động của chiến tranh đến nhân cách con ngời rất độc đáo. ở đây
chúng tôi đi vào tìm hiểu nhân cách con ngời trong truyện ngắn Bảo Ninh, từ đó
nhận thấy cùng với các nhà văn hiện đại, Bảo Ninh đã góp phần tạo điều kiện cho
sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngời văn học thời hậu chiến.
Truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu ra đời năm 1976 đợc
coi là tác phẩm mở đầu cho sự đổi mới lĩnh vực viết về chiến tranh. Trong tác
phẩm này Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho văn học một cách nhìn mới về
con ngời, hình tợng ngời lính không còn mang vẻ đẹp của ngời anh hùng nhất
phiến toàn diện nữa mà ở đó ngời lính trở về cuộc sống thờng nhật với bao khó
khăn vất vả.
Cũng viết về ngời lính và chiến tranh, truyện ngắn Hai ngời trở lại
trung đoàn của Thái Bá Lợi khám phá theo lối t duy mới, những ngời lính ở
đây không thể hiện phẩm chất anh hùng trong chiến đấu mà chủ yếu đợc
khám phá trong các quan hệ đời thờng, đời t. Đó là những con ngời không còn
mang vẻ đẹp lý tởng của văn học thời chiến mà là con ngời với lẫn lộn tốt xấu,
trắng đen.

Nhìn lại chặng đờng đổi mới nhiều nhà nghiên cứu cho rằng từ 1975
đến 1980 đề tài chiến tranh vẫn viết theo quán tính cũ [32,23]. Phải đến đầu
năm 1980, đặc biệt từ sau 1986, mảng văn học mới này mới có nhiều biến đổi
sâu sắc đối với từng tác giả và cả đội ngũ sáng tác. Không còn những tác phẩm
trực tiếp mô tả tái hiện lại hoàn cảnh chiến tranh nh Chiều vô danh (Hoàng Dân),
12
Thung lũng hoa vàng (Huỳnh Thạch Thảo) mà thờng gặp những truyện ngắn phản
ánh hiện thực chiến tranh từ số phận, từ những bi kịch cá nhân nh Biển cứu rỗi
(Võ Thị Hảo), Tiếng chuông trôi trên sông (Vũ Hồng)
Theo Bùi Việt Thắng: "Quan niệm con ngời vẫn đợc coi là thớc đo sự
tiến bộ nghệ thuật từ xa tới nay" [49,17]. Tìm hiểu nhân vật cũng là tìm hiểu
quan niệm nghệ thuật về con ngời. Nhân vật văn học là con ngời đợc nhà văn
sáng tạo trong tác phẩm: "là con ngời đợc miêu tả thể hiện trong tác phẩm
bằng phơng tiện văn học" [17,12]. Nhân vật là biểu hiện trực tiếp của những
quan niệm khác nhau về con ngời của từng tác giả, từng thể loại, từng giai
đoạn văn học. Bất cứ một nền văn học nào ra đời cũng xuất hiện những con
ngời mới, mỗi thời đại văn học có những kiểu con ngời khác nhau. Gắn với
thời cổ xa, văn học có con ngời thần thoại, con ngời sử thi , gắn với văn học
Trung Đại là con ngời tỏ chí, tỏ lòng Kiểu con ngời khác nhau ấy thể hiện
quan niệm nghệ thuật về con ngời của các nhà văn.
1.2.1 Ngời lính dới góc nhìn con ngời cá nhân
Văn học hôm nay đã tiếp cận cuộc sống con ngời cá thể hơn. Nhìn tổng
thể, trong văn học sau 1975, quan niệm nghệ thuật về con ngời xuyên suốt,
nổi bật là quan niệm về con ngời cá thể. Nhìn nhận con ngời trong cuộc sống
với đầy biến động, Bảo Ninh đã đem đến cho ngời đọc con ngời cá thể với
giọng nói riêng, tính cách riêng. Mỗi con ngời một số phận, mỗi con ngời với
niềm đau hạnh phúc riêng trong một cảm nhận về thực tại Tất cả họ hiện lên
trang giấy nh là nỗi ám ảnh về một quá khứ đầy đau thơng nhng rất đỗi anh
hùng.
Con ngời cá thể bắt đầu xuất hiện ở phơng tây từ thời đại Phục hng,

trong những tác phẩm của Sexpia, của Kant , giải phóng cá nhân con ngời đó
là mục tiêu của chủ nghĩa nhân văn thế kỷ XVI chống lại lễ giáo phong kiến
và nhà thờ.
ở nớc ta với nghìn năm Bắc thuộc, một thời gian quá dài ảnh hởng t t-
ởng Nho giáo. Bên cạnh đó Phật giáo với triết lý "vô ngã" đã phủ nhận sự tồn
tại của cá nhân. Trong văn học trung đại đã có con ngời cá nhân xuất hiện ở
mức độ đậm nhạt khác nhau nhng cha hình thành quan niệm về con ngời cá
nhân.
Đến đầu thế kỷ XX, do nhu cầu phát triển tự thân của văn học, văn học
có sự biến chuyển theo con đờng hiện đại hóa. ý thức con ngời trỗi dậy lớn
lao, nếu cá nhân trong văn học trung đại là cá nhân vũ trụ, tự nhiên thì ở đây
13
đợc đổi mới về chất và hết sức đa dạng. Tự lực văn đoàn đã mở đầu cách miêu
tả thế giới nội tâm con ngời còn Thơ mới đã thể hiện đợc số phận cá nhân, nói
rõ những "điều kín nhiệm u uất", "phát hiện cái tôi thành thực, công khai xem
cái tôi cá nhân nh một cách thế nhìn đời hợp pháp". Mặc dù Tự Lực Văn Đoàn
và Thơ mới đã có những quan niệm nghệ thuật về con ngời cá thể nhng cuối
cùng cũng đi đến cực đoan và bế tắc.
Sau 1945, do yêu cầu của một giai đoạn văn học trong chiến tranh, con
ngời cá nhân không đợc đề cập đúng mực. Cuộc sống cá nhân riêng t của mỗi
ngời phải thu hẹp lại đến tối thiểu, nhờng chỗ cho đời sống chung của tập thể,
của cả dân tộc. Con ngời đợc nhìn nhận, đánh giá trớc hết chủ yếu ở t cách
quan hệ với số phận của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng. Một thời kỳ
theo cách nói của Chế Lan Viên: "những năm đất nớc có chung tâm hồn, có
chung khuôn mặt nụ cời tiễn đa con, nghìn bà mẹ nh nhau".
Từ sau 1975, nhất là những năm 80 đến nay, ngời lính dới góc nhìn con
ngời cá nhân đợc quan niệm đúng đắn và có chiều sâu hơn, đặc biệt là ở
truyện ngắn. Bằng nhiều cách khám phá và thể hiện độc đáo, truyện ngắn đã
khắc họa chân dung con ngời cá thể một cách sinh động, sâu sắc và đa chiều
''Cuộc đời vốn đa sự, con ngời vốn đa đoan'' (Nguyễn Minh Châu). Mỗi nhà

văn một quan niệm riêng, biến thái, châu tuần chung quanh quan niệm chung
nhất. Đó là con ngời tự ý thức của Nguyễn Minh Châu, con ngời trần tục của
Nguyễn Huy Thiệp, con ngời bản năng của Dạ Ngân, Phạm Hoa, đều là
những dạng thức của con ngời cá thể. Nghiên cứu con ngời - ngời lính dới góc
nhìn cá thể trong truyện ngắn Bảo Ninh chúng tôi sẽ làm rõ nhân cách con ng-
ời trong chiến tranh và sau chiến tranh.
a. Ngời lính dới biểu hiện con ngời tự nhận thức (hay con ngời với
khát vọng, kiếm tìm)
Trong mảng viết về chiến tranh chống Mỹ của truyện ngắn Bảo Ninh,
có thể thấy ngời lính dới góc nhìn con ngời cá nhân biểu hiện khá rõ nét ở
dạng thức con ngời tự nhận thức. Quan niệm này bộc lộ chiều sâu trong quan
niệm nghệ thuật về con ngời, gắn liền với sự thức tỉnh ngày càng cao của ý
thức con ngời. Con ngời thao thức, tự nhận thức trong truyện ngắn Bảo Ninh
thể hiện rõ nét nhân cách con ngời trong và sau chiến tranh.
ở phơng Tây, ngời ta thấy con ngời tự nhận thức xuất hiện từ rất sớm,
Hăm lét của Sêxpia là một điển hình về con ngời tự nhận thức. Trong văn học
Việt Nam thời trung đại con ngời tự nhận thức xuất hiện nhiều trong văn học
giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX với kiệt tác Truyện Kiều
14
(Nguyễn Du), với Hồ Xuân Hơng, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm,
nhng ở đó con ngời tự nhận thức còn nằm trong khuôn khổ hạn hẹp của lễ giáo
phong kiến. Trong văn học cận hiện đại con ngời này từng xuất hiện trong các
sáng tác của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng và ở đó con ngời tự nhận thức với
nhiều hạn chế. Con ngời tự nhận thức tiếp tục xuất hiện trong văn học sau năm
1975 ở sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp Đến Bảo Ninh,
con ngời tự nhận thức trong hoàn cảnh trớc và sau chiến tranh trở thành một
hình tợng sâu sắc.
Con ngời tự nhận thức trong truyện ngắn Bảo Ninh thể hiện ở khát vọng
kiếm tìm, ở sự chiêm nghiệm, ở sự không hoàn thiện. Một loạt truyện ngắn
viết về chiến tranh của Bảo Ninh thể hiện ngời lính trong khát vọng kiếm tìm.

Kiếm tìm tình yêu, kiếm tìm hạnh phúc đó là giá trị tinh thần mà con ngời
luôn hớng đến "bởi cuộc đời thì hữu hạn mà tình yêu lại vô cùng". Trong
chiến tranh, khát vọng này càng trở nên cháy bỏng. Nói đến chiến tranh là nói
đến mất mát, đau thơng, là những hy sinh không thể tránh khỏi. Trong không
khí lửa đạn, tình yêu lứa đôi thể hiện nét đẹp trong tâm hồn ngời lính. Truyện
ngắn Bảo Ninh xuất hiện nhiều con ngời đi tìm nửa kia của mình: Trại "bảy
chú lùn", Rửa tay gác kiếm, Khắc dấu mạn thuyền, Hà Nội lúc không giờ
Trong truyện ngắn Trại "bảy chú lùn", nhân vật chính của câu chuyện là
Mộc, từ chiến tranh trở về kể lại quãng đời đã qua của anh. Đó là chuỗi ngày
gian khổ nhng đẹp và đáng nhớ, dẫu tận cùng gan ruột là nỗi khắc khoải về
thời gian anh không đợc sống cùng Nga - ngời con gái mà anh đã yêu thơng.
Và khi chiến tranh kết thúc, nỗi ớc vọng về Nga vẫn khôn nguôi trong trái tim
ngời lính vốn đã chịu nhiều đau khổ, mất mát. Hay trong truyện ngắn Rửa tay
gác kiếm chẳng hạn, Quang vốn không phải là nhân vật chính trong truyện nh-
ng câu chuyện về anh là câu chuyện ngời lính đi tìm hạnh phúc, tình yêu. Dẫu
đau đớn tột cùng khi bị ngời thân yêu phụ bạc nhng anh vẫn quyết đi tìm vợ,
bỏ qua lỗi lầm của vợ. Còn nhân vật "tôi" trong truyện ngắn Hà Nội lúc không
giờ khao khát đi tìm bạn tình của mình chiếm trọn cả quãng đời trai trẻ. Chiến
tranh không cho phép tuổi thanh xuân của anh gặp gỡ quen biết để yêu thơng
một ngời phụ nữ, cho nên trong trái tim anh vẫn cháy bỏng một mối tình
không có thực với một phụ nữ lớn tuổi hơn ở cùng khu xóm. Truyện ngắn
Khắc dấu mạn thuyền lại đem đến một hình tợng khác, đó là hình ảnh một ng-
ời lính tìm về kỷ niệm khắc sâu trong tâm khảm. Một tình cảm biết ơn trìu
mến về ngời con gái dới trời ma bom bão đạn từ hơn hai mơi năm trớc. Đó
cũng là một sự kiếm tìm vô vọng.
15
Thế giới nội tâm của con ngời luôn là miền đất bí ẩn và có sức thu hút
với nhiều ngòi bút. Đôxtôiepxki đã từng khẳng định: "con ngời là một điều bí
ẩn. Tôi tìm kiếm điều bí ẩn ấy vì tôi muốn trở thành con ngời". Con ngời tự
nhận thức là con ngời có chiều sâu tâm trạng. Các nhân vật trong các truyện

ngắn kể trên hầu hết đợc Bảo Ninh xây dựng theo môtíp lặng theo suy tởng về
một vùng ký ức xa xăm. Đó là ký ức về những ngày chiến tranh mà các nhân
vật chính trong vai ngời kể chuyện ở ngôi thứ nhất bày tỏ: "nh tôi còn thời nào
nữa ngoài thời đã qua" (Hà Nội lúc không giờ); "Giờ đây nhớ lại những ngày
tháng cuối cùng của đời bộ đội lòng tôi vô hạn một nỗi buồn nhớ sâu lặng"
(Rửa tay gác kiếm); hoặc là nỗi thổn thức của ông Phúc - ngời phía bên kia
giới tuyến trong truyện ngắn Thời tiết của ký ức: "Những nỗi niềm đã yên
nghỉ từ lâu âu sầu thức dậy, lần lợt hiện hình, lần lợt trôi qua, dằng dặc và
chậm rãi, theo nhịp đếm của chiếc đồng hồ để bàn" Kiếm tìm về quá khứ -
đó là phản ứng của tâm hồn nhạy cảm khi thời cuộc đã đổi thay. Tất cả các
nhân vật của Bảo Ninh đều nhận thức quá khứ đã vời xa và trong quá khứ lu
giữ kỷ niệm của một thời trai trẻ. Có một điều đáng lu ý là các nhân vật trong
truyện ngắn viết về chiến tranh của Bảo Ninh đều là những ngời đàn ông đã b-
ớc qua ngỡng của tuổi trẻ, nên khi bớc vào độ tuổi trung niên họ có những suy
t chiêm nghiệm của con ngời từng trải trong chiến tranh. ''Dĩ nhiên với dòng
đời vô cùng vô tận bốn mơi năm có là bao, chỉ là một khúc đò ngang ngắn
ngủi, nhng với đời ngời, đó là cả một thời gian mênh mang nh biển mà từ bờ
này sang bờ bên kia ngang với từ kiếp này qua kiếp khác'' (Thời tiết của ký
ức). Thời gian bốn mơi năm qua đối với ông Phúc thật là dài, bao nỗi niềm
yên nghỉ tởng nh vùi chôn cùng năm tháng, nào ngờ kí ức nh những thớc phim
quay chậm. Quãng đời phía trớc mang theo cả đớn đau, hạnh phúc trở về.
Những dòng suy tởng mang tính chất triết lí về cuộc đời, về thân phận. Có thể
thấy điều này rất nhiều trong truyện ngắn Bảo Ninh. Dờng nh chiến tranh đã
tạo nên con ngời chiêm nghiệm, suy t - những con ngời tự lí giải cho đau khổ,
mất mát của mình. Quang (Rửa tay gác kiếm) bị vợ phụ bạc ''bỏ nhà đi theo
trai'', vẫn thông cảm với vợ: ''Lấy nhau mới đợc có bảy ngày là tớ đã lên đờng
đi Bê. Nh vậy là cô ấy đã phải vò võ chịu đựng những mời năm trời có lẻ chứ
nào ít ỏi gì đâu, thế mà sức ngời có hạn''- Bảo Ninh đã xây dựng một nhân
cách cao đẹp, một con ngời biết thứ tha cho lỗi lầm của ngời khác, một ngời
trong đau khổ mất mát riêng t vẫn điềm đạm lí giải phân minh: ''Thêm nữa

nhà tớ lại kề ngay một bến sông nhộn nhịp, tứ xứ thuyền bè qua lại, sự thể nh
16
thế tất phải xảy ra''. Quang xem việc vợ bội bạc nh là một tất yếu trong hoàn
cảnh chiến tranh.
Quan niệm về con ngời tự nhận thức của Bảo Ninh cũng là nét t tởng
quán xuyến trong truyện ngắn hiện nay, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trong
quan niệm về con ngời so với các giai đọan trớc. Đó là sự thành công ở phát
hiện ''con ngời trong con ngời'' (Đôxtôiepxki) của truyện ngắn Bảo Ninh.
Ngời lính dới góc nhìn cá nhân cá thể còn thể hiện ở sự không hoàn thiện, dở
dang ở trong truyện ngắn Bảo Ninh. Lịch sử của loài ngời, xét đến cùng chính là
hành trình để hoàn thiện chính mình, nhng hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ vẫn
cha đạt đến đích muốn đến. Con ngời luôn dang dở, điều này đợc phản ánh trong
văn học từ rất xa xa. Từ văn học dân gian đến văn học viết đã có những biểu hiện rõ
ràng của quan niệm về con ngời không hoàn thiện.
Có thể thấy quan niệm con ngời khiếm khuyết đã in đậm trong văn học
hiện thực 1930-1945. Văn xuôi 1945-1975 cũng đã khai thác con ngời nh một
sản phẩm bất toàn và hớng đến việc làm cho nó đợc hoàn thiện. Sau 1975, con
ngời trở về với cuộc sống bình thờng, cũng có nghĩa là trở về với cuộc sống
đời thờng phồn tạp, muôn vẻ, lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, bi hài , các nhà văn
lại đề cập đến con ngời với t cách là sản phẩm bất toàn. Nhng nhìn chung
trong quá trình thể hiện khiếm khuyết, ít ngời kể đến khiếm khuyết của con
ngời trong và sau chiến tranh. Đến Bảo Ninh sự không hoàn thiện của con ng-
ời thời hậu chiến đợc tác giả nêu ra nh một vấn đề trọng tâm trong truyện của
mình. Đó là kiểu ngời xấu xí của Mộc: ''Vóc ngời anh to ngang, bè ra. Vai
rộng lạ lùng, lng gấu, hơi còng còng. Da dẻ dờng nh dày cộp, màu rỉ sắt, nom
khô và ráp. Tay chân ngắn nhng rất khỏe, không cuồn cuộn bắp thịt mà to xù
xụ còn khuôn mặt hiếm khi thấy một bộ mặt trông thô nh thế" (Trại bảy
chú lùn). Hay là vẻ đáng sợ của lão ăn mày trong La mác- xây-e: "Hai con mắt
của lão thụt sâu trong hai hốc xơng'', ''Cái miệng đen ngòm'', ''cổ họng ông lão
chằng chịt gân trắng gân xanh. Yết hầu chạy giật cục'', ''bàn tay khô khỏng"

xây dựng con ngời không hoàn thiện, Bảo Ninh còn chú ý đến con ngời tàn
rựa về nhân cách, con ngời tha hóa (La-mác-xây-e), con ngời cha hoàn thiện
trong truyện ngắn Bảo Ninh còn thể hiện ở việc nhận thức về cách mạng của
nhân vật, đó là sự lầm đờng lạc lối về chiến tranh của ông Phúc trong Thời tiết
của kí ức. Suốt cả quãng đời trai trẻ ông Phúc không đứng về phía nhân dân,
Tổ quốc. Con đờng ông chọn là phục vụ cho ngụy quyền. Do đó mãi trong
lòng ông luôn thổn thức những ăn năn, sám hối. Đây chính là nét mới rất nhân
văn trong truyện ngắn Bảo Ninh khi quan tâm đến cả số phận của những con
17
ngời từng ở bên kia chiến tuyến. Đó là một trong những khát vọng khám phá
đến tận cùng số phận đời t đợc thể hiện sâu sắc trong cái nhìn đa diện về con
ngời.
b. Ngời lính với thế giới tâm linh
Một trong những biểu hiện của con ngời cá thể trong truyện ngắn viết
về chiến tranh của Bảo Ninh là sự đề cập đến con ngời tâm linh. Điều này chịu
ảnh hởng của hai nguồn triết học Đông -Tây, cụ thể là triết thuyết Phật giáo và
học thuyết Bergson đề cao trực giác, linh cảm, hớng về thế giới vô thức của
con ngời. Là "sản phẩm của trực giác" con ngời tâm linh xuất hiện khá lâu
trong văn học truyền thống (Việt điện u linh, Truyền kỳ mạn lục, Truyện Kiều).
Trong văn học hiện đại, ở một số sáng tác của Nguyễn Tuân, Thạch Lam cũng
thoáng bóng con ngời tâm linh nhng khái niệm này nói chung còn xa lạ, bỡ
ngỡ. ở văn học cách mạng 1945-1975 vì một số lý do đặc biệt mà con ngời
tâm linh không xuất hiện, nếu có yếu tố vô thức thì bị coi là duy tâm, thậm chí
bị lên án gay gắt. Truyện ngắn sau 1975 chú ý hơn đến việc đi vào một thế
giới đằng sau thế giới hiện thực, đây là một biểu hiện của sự đổi mới quan
niệm nghệ thuật về con ngời. Đã có nhiều ý kiến khẳng định vai trò của văn
xuôi hôm nay là đi vào cõi tâm linh, vô thức của con ngời. Nhà văn Bùi Hiển
cho rằng: "Văn học với chức năng của nó là khám phá bản thể con ngời, lẽ tất
nhiên nó rất khao khát soi tìm vào những miền u uẩn, ảo của nội tâm, và
những động cơ thầm kín tối tăm của những ứng xử ý thức Các hiện tợng mà

ngời ta gọi là siêu tâm lý". Những truyện ngắn viết về chiến tranh của Bảo
Ninh thể hiện quan niệm này nh một thủ pháp để khám phá nội tâm thần bí
của nhân vật hoặc làm "phát lộ trong bóng tối gơng mặt một ngời quen biết".
Những giấc mơ, những cơn mộng mị của ngời lính xuất hiện từng lúc khác
nhau trong truyện ngắn Bảo Ninh.
Hớng về thế giới vô thức dờng nh là sở trờng để thể hiện đề tài chiến
tranh của Bảo Ninh. Thế giới đằng sau hiện thực rất có sức hấp dẫn ngời đọc,
bởi ở đó độc giả tìm thấy giá trị tinh thần mà trong đời sống hiện thực khó có
thể nhận biết. Nhân vật Quang trong Rửa tay gác kiếm bình tĩnh biện minh
cho lỗi lầm của vợ với bạn bè là thế nhng khi sống trong giấc mơ của mình
anh: ''chỉ toàn nằm mộng thấy kẻ bội bạc, anh nấc lên tên cô ta và vừa rên ử,
vừa nói lảm nhảm''. Giấc mơ chính là điều thẳm sâu con ngời cha thể bộc lộ , là thế
giới vô thức mà ở đó vẫn ngổn ngang câu chuyện cuộc đời. Nếu nh trong thế giới
hiện thực Quang che dấu nỗi đau của mình thì trong giấc mơ anh đã bộc lộ nỗi đau
đớn tột cùng. Và có đêm mọi ngời đã ''nghe thấy trong màn anh văng vẳng tiếng
khóc thút thít sụt sịt''. Thế giới của những giấc mơ cho Quang đợc sống với nỗi đau
18
buồn, cho anh nhận diện nhân tình thế thái. Quang không phải là thánh nhân,
anh không thể bàng quan đợc trớc mọi việc - Bảo Ninh đã xây dựng nên một
ngời lính "rất ngời", có lòng tự trọng, có sự tổn thơng, có nỗi đau bị bội bạc
không thể nào xoa dịu đợc.
Bảo Ninh khai thác những giấc mơ để thể hiện nhân vật. Có khi trong
cùng một truyện ngắn tác giả dựng lên các nhân vật với những giấc mơ khác
nhau. Tác giả viết: "tất cả anh em trong phòng đều ít nhiều gặp phải ác mộng
di chứng từ trận mạc. Bao giờ cũng là những ác mộng sinh động". Mỗi ngời
một giấc mơ - thế giới tâm linh đầy rẫy những hồn ma bóng quỷ vật vờ: "tôi
cũng thờng nằm mơ thấy những tên Mỹ. Không phải tất cả những âm hình
trong mơ đều là anh em đồng đội. Có những giấc mơ thật kỳ lạ, trong đó chỉ
toàn gặp những bóng ma quân thù. Chúng lững thững xuyên qua tờng, êm nh
ru bớc vào phòng, lợn sát đầu giờng tôi nằm". Những năm tháng chiến tranh đi

qua nhng âm hồn của những con ngời tử trận vẫn đeo đẳng tâm hồn ngời lính.
Thế giới vô thức kéo con ngời trở về với nỗi sợ hãi của chiến tranh. Những
bóng ma: "phần đa chỉ nhè nhẹ diễu lớt qua, nhng cũng có vài bóng nấn ná
dừng lại, hé cửa màn ra, và phà hơi thở lạnh toát, cúi sát xuống, nh thể nhận
mặt tôi". Trong h vô những ngời lính thấy kẻ thù của mình từ cõi chết trở về
nhng vẫn không quên ân oán cũ.
Đằng sau thế giới hiện thực, đằng sau hòa bình, chiến tranh vẫn là nỗi
nhức nhối đeo bám trong mỗi giấc mơ của những ngời lính. Mọi chuyện của
chiến tranh tởng nh đã chấm dứt vào năm 1975, mọi chuyện tởng nh sẽ đợc
"rửa tay gác kiếm", ấy vậy mà với Khơng (Rửa tay gác kiếm) đêm nào: "cũng
nói mớ và rên rỉ", "ban ngày, nom anh hoàn toàn bình thờng song cứ đến nửa
đêm. Khơng bảo rằng hồi đang đánh nhau chẳng hề bị nh vậy, chỉ từ hòa bình,
nhập trại an dỡng mới sinh ra thế". Khơng đau đớn không phải do vết thơng tái
phát, mà đau đớn bởi Khơng: "mơ thấy lại cảm giác đau của những lần bị thơng tr-
ớc đây". Ngời ta bảo đấy là di chứng từ chiến tranh, có lẽ đúng - bởi con ngời xác
thịt ấy từng phải "ăn đạn hàng chục lần, vỡ thịt toác xơng" thế mà vẫn sống, vợt
qua chết chóc, nghiến răng gợng dậy đợc để rồi bây giờ trong thế giới vô thức anh:
"lần hồi duyệt lại các vết thơng".
Thể hiện thế giới tâm linh, Bảo Ninh khẳng định dẫu chiến tranh đã kết
thúc nhng ký ức về nó vẫn là nỗi đau ám ảnh suốt đời của mỗi ngời lính, nỗi
đau mất mát đồng đội, nỗi đau phải bỏ một phần thân thể trên chiến trờng.
Chiến tranh có ngời còn sống, lành lặn trở về nhng tâm hồn bị chấn thơng
nặng nề. Những kỷ niệm, hồi ức về chiến tranh vẫn không thôi ám ảnh, gây
nhức nhối. Và cũng chẳng riêng gì Khơng trong Rửa tay gác kiếm, Bảo Ninh
19
viết: "Tú chẳng hạn, luôn sống lại với trái bom CBU ném xuống rừng cao su
Xuân Lộc. Hầm sập và Tú ú ớ ngạt thở, thấy mình bị chôn sống. Còn tôi, tôi
mơ thấy ma thuốc độc, mơ thấy những rừng già trên bờ Ngọc Bờ Chiêng bị
bọn Mỹ biến thành đại ngàn củi khô". Nỗi khiếp sợ súng đạn chiến tranh của
những ngời lính đã biến thành những giấc mơ hãi hùng trong thời hậu chiến. ở

cùng một truyện ngắn Bảo Ninh đã khắc họa không chỉ một nhân vật sống
trong những giấc mơ. Con ngời hớng về miền vô thức góp vào sự đổi mới quan
niệm nghệ thuật về con ngời trong truyện ngắn hôm nay.
Mặt khác, để biểu hiện con ngời tâm linh, Bảo Ninh còn xây dựng một
số nhân vật với những dự cảm trớc cuộc đời. Đó là Mộc: "Anh ạ, cho đến lúc
ấy mọi nguồn cơn nông nỗi đã đến với Nga, tôi không hề hỏi Nga, Nga không
thổ lộ. Nhng, bố của Nơng là ai thì chính trong đêm Nơng ra đời, tôi đã biết"
(Trại "bảy chú lùn"). Mộc không chỉ linh cảm đợc ngời đàn ông của Nga mà
còn cảm nhận đợc rất rõ "nỗi buồn niềm mong nhớ " của Nga với ngời đàn
ông kia. Bảo Ninh còn khai thác sự huyễn cảm ở con ngời nơi Mộc. Huyễn
cảm là khả năng đặc biệt của con ngời. Nó là khả năng cảm biết về một điều
gì đó, và thờng xảy ra giữa những ngời thân thiết, những ngời ruột thịt, cùng
huyết thống. Mộc yêu Nga, có lẽ vì tình yêu cao lớn thiết tha đó mà anh có
khả năng cảm biết về Nga. Trong sự nhạy cảm của thời cuộc Mộc thầm hỏi:
có phải Nga là ngời đã làm lộ bí mật hay không? "Khi hiểu đợc ra cái bí mật
quân sự bị lộ bem này bất giác tôi lặng đi, vì chợt nhớ rằng Nga của tôi rất sõi
tiếng Ba Na".
Đi vào tìm hiểu, khám phá con ngời từ nỗi "ám ảnh tâm linh", "những
tiếng vọng tiềm thức" là một hớng mới trong truyện ngắn hôm nay viết về đề
tài chiến tranh. Qua đó nhân cách con ngời đợc biểu hiện, và mặt khác nó giúp
chúng ta nhận thức về con ngời, hiện thực đợc nhìn nhận đánh giá từ nhiều phía,
góp phần tạo nên quan niệm mới phong phú về con ngời và hiện thực.
c. Ngời lính với mặc cảm, bi kịch, cô đơn
Trong truyện ngắn Bảo Ninh, viết về chiến tranh, nhà văn quan tâm đến
từng số phận con ngời. Trong số phận chung của dân tộc là mất mát, khổ đau
vì chiến tranh thì mỗi cá nhân con ngời trong truyện ngắn Bảo Ninh có những
nỗi mất mát, đau khổ riêng, không ai giống ai, mỗi ngời một cảnh ngộ. Chiến
tranh tạo ra ở con ngời những bi kịch đã đành, trong hòa bình bi kịch vẫn
không chừa những con ngời từng tham gia chiến tranh. Quan tâm đến thân
phận con ngời ở khía cạnh bi kịch, Bảo Ninh góp vào bức tranh chung của

20
cuộc chiến không chỉ có vinh quang mà còn có cả nớc mắt do chiến tranh -
những dòng nớc mắt của cá thể riêng lẻ.
Đọc truyện ngắn Bảo Ninh, ngời đọc luôn nhận ra bất hạnh khác nhau
của từng nhân vật. Âm thầm với nỗi đau từ hơn hai mơi năm trớc, Mộc trong
truyện ngắn Trại "bảy chú lùn" làm bạn với cánh rừng già, quên cuộc sống đã
hòa bình từ lâu. Anh không ra khỏi khu rừng gắn với anh một thời bom lửa.
Với anh cũng nh những đồng đội của anh gửi tuổi trẻ cho chiến tranh, chờ đợi
hết chiến tranh, nhng khi chiến tranh kết thúc, bớc vào hòa bình, anh ngỡ
ngàng, cô độc, ngời thân chẳng còn ai, không có gia đình. Mọi sự với ngời đàn
ông nh Mộc thế là dở dang. Mộc mất thăng bằng trớc cuộc sống hòa bình.
Anh không thích nghi với cuộc sống ngoài khu rừng già, hết chiến tranh anh
vẫn ở lại với cánh rừng bốn bề vắng lặng, một mình cô đơn. Theo nh lời của
Mộc, anh cô đơn bởi chịu sự trừng phạt của số phận vì anh vào chiến trờng mà
không biết thằng Mỹ mồm ngang mũi dọc ra sao? anh đã ở nơi đây những hơn
hai mơi năm cũng day dứt bởi điều đó.
Câu nói của anh với ngời đa th: "họa chăng có ông trời muốn biên th
cho tôi" một câu nói đùa nhng thực sự pha lẫn chua xót. Mộc hiểu rõ sự liên
hệ của anh với mọi ngời là không có, trớc đây anh có đồng đội nhng không ai
sống sót qua nổi chiến tranh. Họ chết không chỉ bởi hòn tên mũi đạn của giặc
Mỹ mà chết bởi những cơn sốt rừng, bởi những thân cây lớn đằn ngang ngời,
những cái chết y hệt nhau. Lần lợt từng ngời một Mộc phải từ giã họ, Mộc
nói: "chết vậy khổ lắm, hệt nh nhau, các anh ấy lên cơn sốt lúc đang phát rẫy.
Cây gẫy, chuyển răng rắc, nhng mắt hoa, chân tay run giật, đáng lẽ tránh sang
trái lại bớc sang phải. Mà khi cha tắt thở thì không thể nhấc cây lên đợc cằm
run bần bật, răng cắn nát môi, tóc bết vào trán và máu thì không rỉ một giọt,
mắt tím thâm và tỉnh táo, chịu trọn cái đau cho đến lúc chết. Mọi ngời xúm
quanh bất lực". Cái đau đớn của ngời chết và cái đau đớn của ngời chứng kiến
không có gì khác nhau. Tất cả những điều đó tạo thành bi kịch. Những đau
khổ tích tụ lại khiến Mộc không thể rời đợc chốn ấy, dù trong thời chiến anh

đã luôn luôn sống trong hy vọng, trong thấp thỏm: hy vọng một ngày hết
chiến tranh.
Trong chiến tranh Mộc không phải là ngời lính chiến, mới chớm chân
qua biên giới anh đã bị sốt rét ác tính, đơn vị gửi anh về lán anh Nua - một
trong những cơ sở hậu cần đầu tiên ở chiến trờng B3. Cùng với năm đồng chí
khác, Mộc đã đợc anh Nua một mình nuôi dỡng. Thế nhng nh một định mệnh
đã đợc định sẵn, buổi chiều trớc hôm Mộc và các đồng chí rời trạm thì anh
21
Nua chết ngoài nơng "chôn Nua xong, không ai bảo ai "họ" đồng lòng ở lại
cánh rừng này tiếp tục vụ rẫy mà anh Nua đang làm dở, cứ hết mùa rẫy này rồi
đến mùa rẫy khác, cứ thế, cứ thế mãi Miêu tả cái chết của anh Nua, sự thủy
chung tình nguyện ở lại của anh em, Bảo Ninh làm sáng lên nhân cách của ng-
ời lính hậu cần. Nhân cách đợc định hình trong chiến tranh.
Xây dựng kiểu ngời nh Mộc, nhà văn đã xoáy sâu vào nỗi đau lẩn khuất
trong tâm hồn của mỗi ngời lính. Anh đã yêu mà không dám thổ lộ, anh cay
đắng nhìn ngời mình yêu (Nga) sinh con cho ngời khác rồi lại thơng yêu đứa
trẻ nh con mình. Đây chính là bi kịch tình yêu trong đời của Mộc. Anh là mẫu
ngời chỉ yêu một lần trong đời. Bi kịch của Mộc cũng là bi kịch của nhiều ng-
ời lính, là bi kịch yêu thơng mà không đợc đền đáp, khát khao một mái ấm gia
đình nhng điều đó lại vợt quá tầm tay. Ngời lính đã hy sinh tất cả tất cả cho
cuộc sống, hạnh phúc của mọi ngời nhng cái mà họ nhận lại có khi chỉ là
những khổ đau, mất mát, những cay đắng, xót xa. Và ở truyện ngắn Trại "bảy
chú lùn" không chỉ mình Mộc âm thầm đau đớn vì tình yêu mà còn có Huy, có
Nga. Khi miêu tả số phận nh Mộc, Bảo Ninh nhằm lý giải một điều: chiến
tranh làm cho con ngời biết hy sinh và bi kịch do chiến tranh đem lại là điều
khó tránh khỏi.
Cùng có nỗi đau nh Mộc nhân vật "tôi" trong truyện Bí ẩn của làn nớc
không thể quên đợc điều bí ẩn của riêng mình. Năm tháng trôi qua, thời gian
nh dòng sông trôi chảy, chiến tranh là nguyên cớ của mọi nỗi đau, và với nhân
vật "tôi", đó là nỗi đau không thể nói nên lời, nó ở trong tận cùng tim anh,

trong sự mất mát vô bờ - trong định mệnh oái oăm. Bảo Ninh đã chớp lấy một
khoảng khắc đau buồn do chiến tranh gây ra, tạo nên một tình huống đầy kịch
tính: đó là trong cơn hoạn nạn của "đại hồng thủy", nhân vật "tôi" không thể
cứu đợc vợ con mình mà cứu đứa con của ngời khác. Thật chua xót khi mọi
ngời lầm tởng đứa con gái anh cứu đợc là con anh. Không ai biết, chỉ có anh
và dòng nớc biết, sự nhầm lẫn của số phận và nỗi bi kịch âm thầm chảy trong
mạch huyết của anh: "Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất
cả đểu đổi thay nhng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi ấy là một
niềm đau không thể nói nên lời".
Trong chiến tranh có ngời trở thành anh hùng, có ngời trở thành kẻ phản
bội, điều này dờng nh đã trở thành quy luật. Trong truyện ngắn của mình, Bảo
Ninh khai thác chiến tranh nh là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành
nhân cách con ngời, và một trong những bi kịch của con ngời trong truyện
ngắn Bảo Ninh là bi kịch thiếu niềm tin, thiếu lý tởng.
22
Dân tộc ta đã đi suốt chiều dài lịch sử với nền văn minh, văn hiến mà xa
nay chúng ta vẫn tự hào. Quá khứ ấy luôn luôn là chỗ an ủi cho đời sống tâm
hồn dân tộc, cũng luôn luôn có thể phát động đợc sức mạnh lớn lao để bảo vệ
lấy lịch sử của chính mình. Bởi vậy có lúc chúng ta sống bằng niềm tin, và
nhờ niềm tin mà chiến thắng. Nếu không có niềm tin, chúng ta khó có thể
chiến thắng trong Cách mạng tháng Tám, năm 1945, chúng ta khó có thể
chiến thắng trong cuộc chiến kéo dài ba mơi năm (1945-1975). Một dân tộc
không có niềm tin, cha biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhng một con ngời không có
niềm tin, thì con ngời ấy cha hẳn là đã sống, mà chỉ là tồn tại một cách vô cớ và
đáng chán.
Bớc ra khỏi chiến tranh, xã hội Việt Nam không còn cái không khí hào
hùng của cuộc chiến nữa mà thay vào đó là một cuộc sống mới với bao biến
động dữ dội nh lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải: "chiến tranh ồn ào, náo
động mà lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh mà chứa chấp
bao nhiêu sóng ngầm". Nếu nh bi kịch của những ngời lính khi bớc ra khỏi

chiến tranh là không khỏi ngỡ ngàng trớc cuộc sống hòa bình, có những ngời
cảm thấy cô đơn, lạc thời trong căn nhà mình, xã hội mình. Có những ngời
cảm thấy mình vô vị, vô nghĩa trong thời hậu chiến. Vinh quang chiến đấu đã
qua, đồng đội hy sinh quá nhiều, họ trở về sau chiến tranh nh ngời "chiến bại"
trớc hòa bình, họ sống trong những mặc cảm về thân phận (Mộc - Trại "bảy
chú lùn"). Có những ngời không tham gia chiến tranh, sống không vì lý tởng
của Đảng, không niềm tin đối với dân tộc thì bi kịch trong hòa bình của họ lớn
gấp trăm lần bi kịch của những ngời lính chiến. Bảo Ninh khai thác khía cạnh
này ở một số truyện ngắn nh: Ba lẻ một, Thời tiết của ký ức
ở truyện ngắn Ba lẻ một, ngoài nhân vật ngời lính và cô gái, Bảo Ninh
đã phác họa thêm nhân vật ngời cha - một con ngời không tham gia chiến
tranh, trốn tránh những ngời lính cộng sản trong ngày cuối cùng của chiến
tranh. "Thật tình cô không sao hiểu nổi nguyên do của nỗi ghê khiếp cộng sản
đã ám ảnh và chế ngự cuộc sống của cha cô cũng nh bao ngời khác nữa ở thị
trấn này". Để rồi khi hòa bình lập lại, quê hơng đổi thay ngời cha ấy đã bỏ xứ
mà đi, chạy trốn khỏi quá khứ, chạy trốn khỏi quê hơng vì mối mặc cảm về
quá khứ. Bảo Ninh cho ngời đọc thấy một trong muôn vàn con ngời khác
mang trong mình bi kịch "lạc thời", "lạc môi trờng" khi họ là những con ngời
thiếu niềm tin đối với Tổ Quốc, đối với quê hơng. Trong truyện ngắn Thời tiết
của kí ức, Bảo Ninh thể hiện nhân vật ông Phúc - một ngời không tham gia
chiến tranh trong hòa bình gặp những chấn động về mặt tinh thần. Suốt năm tháng
23
còn lại của cuộc đời, ông Phúc luôn sống trong day dứt trăn trở. Trớc đây, trong thời
chiến ông không hề tin vào Định - ngời bạn học của mình, vì thế trong những lần
hỏi cung của Định với ông, ông luôn nhìn Định với cái nhìn dò xét, thiếu niềm tin.
Một trong những phơng diện thể hiện bi kịch của ngời lính có sự cô
đơn. Quan niệm con ngời cô đơn là quan niệm chung của các nhà văn sau
1975, Lê Thị Hờng lý giải: "trong xã hội bề bộn, đen trắng, tốt xấu lẫn lộn
hôm nay - đâu ngời tri âm, tri kỷ, đâu là tình ngời, đâu là sự đồng cảm, đâu là
niềm tin? cô đơn vì thế trở thành điểm xoáy thu hút của nhiều cây bút truyện

ngắn hôm nay"[24,29]. Bảo Ninh xây dựng môtíp con ngời cô đơn chông
chênh giữa hai hoàn cảnh quá khứ và hiện tại. Quá khứ không đứng về phía
dân tộc, hiện tại day dứt, trở trăn hoặc quá khứ vì chiến tranh, hiện tại không
thích nghi đợc với hòa bình. Đó là kiểu ngời cô đơn, lạc thời giữa hòa bình,
giữa cộng đồng, đó là số phận của ngời lính không vợt qua nổi chiến tranh đã
mang nỗi buồn của thời hậu chiến. Nhiều nhà văn khác cũng vậy, Nguyễn
Huy Thiệp vẽ lên chân dung của một ông tớng về hu chỉ quen với cách nghĩ
giản đơn, rạch ròi của ngời lính. Trở về trong cuộc sống đời thờng ông Thuấn
vẫn giữ nguyên nếp suy nghĩ cũ nên sống giữa gia đình, ngời thân mà ông vẫn
cảm thấy cô đơn, lạc thời. Hay Phái trong Vùng biển thẳm của Triệu Quốc
Huấn cũng may mắn sống sót trở về, cũng sống cạnh vợ con, bạn bè nhng
cuộc sống trong đời thờng của anh thật tẻ nhạt, không có ý nghĩa, chẳng có
niềm vui, nỗi buồn, chẳng có đam mê và hứng thú Nhân vật ông lão trong
truyện ngắn Ngôi sao vô danh của Bảo Ninh là một ví dụ. Hòa bình đã về rồi
nhng ông vẫn ngỡ đang còn chiến tranh, do đó ông luôn luôn làm nhiệm vụ
của mình, đó là công việc "gác ghi" trong thời chiến. Hay là nhân vật lão T
trong truyện ngắn Hữu khuynh, sau chiến tranh khoác ba lô trở về làng, trở
về với ngôi nhà tang thơng, hoàn toàn cô quạnh, ngời thân, gia đình không
còn ai. Sống giữa làng xóm quê hơng mình mà chỉ thấy chống chếnh một nỗi
cô đơn.
Trớc những ngổn ngang, phồn tạp của đời thờng ngời lính phải có cái
nhìn tỉnh táo, quyết đoán, nếu không họ sẽ rơi vào sự lạc lõng, cô đơn của thời
hậu chiến. Bằng việc đặt trong mối tơng quan với hoàn cảnh sống, nhân vật
ngời lính, vì thế đã đợc nhà văn khai thác ở những ngõ ngách, gai góc của
cuộc đời, đó là cơ sở của diễn biến phức tạp của nội tâm.
1.2.2 Nhân cách ngời lính trong quan hệ với cộng đồng
24
Văn học 1945 -1975 hớng về con ngời sử thi, con ngời của cộng đồng,
những con ngời mang nét đẹp lý tởng của ngời anh hùng cách mạng, làm chủ
thời cuộc. Trong thời kỳ oanh liệt, với khí thế hào hùng cả nớc cùng ra trận, ở

bối cảnh trực diện của không khí chiến tranh, con ngời đợc miêu tả nh là một
lẽ tất yếu của mắt xích trong guồng quay khổng lồ của bánh xe chiến trận.
Phát hiện lớn nhất trong văn học 1945 - 1975 là con ngời quần chúng, con ng-
ời tập thể. Mọi mâu thuẫn tập trung trên hai giới tuyến đối đầu địch- ta, chiến
trận trở thành trung tâm giải quyết mâu thuẫn. Đối với văn học lúc bấy giờ
con ngời - ngời lính bao giờ cũng đẹp: "trong mỗi tác phẩm, nhà văn không
xem xét con ngời ở bình diện cá nhân, mà khám phá thể hiện của con ngời tập
thể, cộng đồng, dân tộc, giai cấp. Con ngời của gia đình, làng xóm đã trở
thành con ngời của cách mạng và kháng chiến, họ hiện ra với vẻ đẹp và sức
mạnh trong tập thể ấy. Mối quan hệ thế sự và đời t không nằm trong sự chú ý của
nhà văn, và nếu có đa vào trong tác phẩm thì cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi đời
sống cộng đồng và mang một ý nghĩa khác hẳn"[38,111]. Đây là một quan niệm
thể hiện tinh thần khí phách cách mạng của một thế hệ nhà văn "vừa là nghệ
sĩ, vừa là chiến sĩ", của một "nền nghệ thuật chân chất, đẹp và khỏe nh những
chàng trai đang độ lớn".
Bớc sang thời hậu chiến, với độ lùi thời gian cần thiết, cho phép nhà văn
nhìn nhận lại khách quan cuộc chiến, con ngời - ngời lính từ trong chiến tranh
trở thành chiến tranh trong cảm nhận ngời lính. Quan niệm con ngời cộng
đồng vẫn đợc các nhà văn sử dụng nh một thủ pháp nghệ thuật để làm nổi bật
nhân cách ngời lính.
Truyện ngắn Bảo Ninh thể hiện chiến tranh trong cảm nhận ngời lính d-
ới sự tác động sâu sắc của chiến tranh, những con ngời cá nhân vẫn sống và
chiến đấu vì lý tởng cộng đồng, họ vẫn là những con ngời tợng trng cho lý t-
ởng dân tộc: chiến đấu vì Tổ Quốc, quê hơng. Đó là những nhân cách cao đẹp
nh Mộc trong truyện ngắn Trại bảy chú lùn, anh không vì hạnh phúc cá nhân
mà quên nghĩa vụ của ngời lính, anh không bỏ khu rừng già khi tất cả anh em
đồng đội đã hy sinh. Trong tâm niệm của anh anh sẽ sống mãi ở khu rừng này,
mảnh đất này. Trong chiến tranh anh là một ngời lính bên cạnh những đồng
đội quên mình cho Tổ quốc, hòa bình về anh cũng tự nguyện ở lại nơi những
anh em chiến sĩ đã nằm xuống. Anh gắn bó với khu rừng già - nơi lu lại bao

máu và nớc mắt của đồng đội anh. Bên cạnh Mộc, trong truyện ngắn Bảo Ninh
những phẩm chất anh hùng của nhiều ngời khác cũng đợc khai thác. Đó là hình
ảnh của khẩu đội cao xạ trong truyện ngắn Bên lề cuộc tấn công, ở đó có những
25

×