Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Bài giảng môi trường và sức khỏe cộng đồng: Phần 1 - ThS. Hoàng Thị Mỹ Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.99 KB, 62 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
BỘ MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG











TÀI LIỆU MÔN HỌC






























Tháng 9/2012
GVPTMH: ThS. HOÀNG THỊ MỸ HƯƠNG

2

BÀI 1 - NHẬP MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG

MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được các thành phần chính của môi trường
2. Nêu được các khía cạnh lịch sử của sức khoẻ môi trường
3. Trình bày được mối quan hệ giữa sức khoẻ và môi trường, các chính sách về sức
khoẻ môi trường và quản lý môi trường
4. Giải thích được những vấn đề sức khoẻ môi trường mang tính cấp bách ở địa


phương và trên thế giới.
NỘI DUNG
Sức khoẻ môi trường là nền tảng của Y tế công cộng, cung cấp rất nhiều lý luận cơ bản nền
tảng cho một xã hội hiện đại. Quá trình cải thiện tình trạng vệ sinh, chất lượng nước uống,
vệ sinh và an toàn thực phẩm, kiểm soát bệnh tật và cải thiện
điều kiện nhà ở là nhiệm vụ
trung tâm của quá trình thực hiện việc nâng cao chất lượng cuộc sống và tiếp tục những
kinh nghiệm quý báu của cả thế kỷ qua. Tuy nhiên, hiện nay cuộc sống của người dân
trong thời kỳ đổi mới có nhiều thay đổi:
việc đô thị hoá, tăng dân số, thay đổi lối sống,
nạn phá rừng, tăng sử dụng hoá chất
bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, sử dụng các hoóc
môn tăng trưởng trong chăn
nuôi, sự phát triển công nghiệp và không kiểm soát được
những chất thải công
nghiệp v.v… làm cho môi trường ngày càng bị suy thoái.
Trong những năm qua,
thảm hoạ thiên nhiên đã gây nên nhiều thiệt hại lớn như lũ quét ở
Lai Châu, Sơn La,
úng lụt ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hạn hán ở nhiều nơi như Tây
Nguyên. Tại một số tỉnh phía nam hiện nay, những trường hợp bị nhiễm độc hoá chất,
ngộ độc các hoá chất bảo vệ thực vật và ngộ độc thực phẩm vẫn xẩy ra thường xuyên.

nhiều chỉ thị và nghị quyết bàn về phương hướng phát triển bền vững, nghĩa là bảo đảm
cho môi trường và môi sinh trong sạch, giảm thiểu ô nhiễm nhằm nâng cao sức
khoẻ con
người như Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam, Nghị định hướng dẫn thi hành luật, v.v…
Bên cạnh đó còn phải kể đến môi trường xã hội, môi trường làm
việc cũng có nhiều ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người. Do vậy, việc nghiên cứu, xử lý, phòng chống ô nhiễm môi

trường và cải thiện môi trường xã hội là một việc hết sức cần thiết. Muốn làm được điều đó
mọi người, mọi tổ chức trong xã hội mà trước hết là học sinh, sinh viên - những người làm
chủ tương lai đất nước phải cùng nhau
tham gia giải quyết thì mới đạt được kết quả.
Đó là những vấn đề môi trường ảnh hưởng đến đời sống xã hội, đến kinh tế đất nước.
Còn môi trường ảnh hưởng đến
sức khoẻ con người cụ thể như thế nào? Thế nào gọi là
sức khoẻ môi trường?
Chúng tôi sẽ trình bày những khái niệm này ở phần sau.
3


1. CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA MÔI TRƯỜNG
1.1. Môi trường là gì?
Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và
vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại,
phát triển của con người và sinh vật.
1.2. Các thành phần của môi trường
Cũng theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), thành phần môi trường
là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh
sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Tóm lại, các thành phần
của môi trường bao gồm môi trường vật lý, môi trường sinh học và môi trường xã
hội.
1.2.1. Môi trường vật lý bao gồm các yếu tố vật lý như: khí hậu, tiếng ồn, ánh sáng,
bức xạ,
gánh nặng lao động. Bên cạnh các yếu tố vật lý còn có những yếu tố hoá
học như bụi,
hoá chất, thuốc men, chất kích thích da, thực phẩm, v.v
1.2.2. Môi trường sinh học như động vật, thực vật, ký sinh trùng, vi khuẩn, vi rút,
các yếu

tố di truyền, v.v
1.2.3. Môi trường xã hội như stress, mối quan hệ giữa con người với con người, môi trường
làm việc, trả lương, làm ca, v.v
2. CÁC KHÍA CẠNH LỊCH SỬ CỦA SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
2.1. Khái niệm về sức khoẻ môi trường
Sức khoẻ môi trường là gì? Theo quan điểm của nhiều người sức khoẻ môi
trường chính là sức khoẻ của môi trường. Đây là các ý niệm về đời sống hoang dã,
về rừng, sông, biển, v.v . và theo họ thì sức khoẻ môi trường đồng nghĩa với việc
bảo vệ môi trường. Những người khác thì cho rằng sức khoẻ môi trường là các vấn
đề về sức khoẻ của con người có liên quan đến điều kiện sống, sự nghèo nàn, lạc
hậu, không đủ nước sạch, lũ lụt, sự phá hoại của côn trùng và súc vật có hại - tất cả
các thách thức đó chúng ta đã trải qua, đã chống trả trong suốt quá trình hình thành
và phát triển của con người và cuộc sống, nhất là những năm gần đây và chúng ta đã
chiến thắng.
Cả hai quan điểm này đều chưa đúng, chưa chính xác, sức khoẻ môi trường
không đồng
nghĩa với sức khoẻ của môi trường và bảo vệ môi trường và cũng
không bó hẹp trong
việc kiểm soát các loại dịch bệnh của thế kỷ qua. Cho đến hiện nay nhiều tác giả đưa ra
khái niệm về sức khoẻ môi trường như sau:“Sức khoẻ môi
trường là tạo ra và duy trì một
môi trường trong lành, bền vững để nâng cao sức
khoẻ cộng đồng”.
4

2.2. Lịch sử phát triển của thực hành sức khoẻ môi trường
Mỗi sinh vật trên trái đất đều có môi trường sống của riêng mình, nếu thoát ra khỏi
môi trường tự nhiên đó hoặc sự biến đổi quá mức cho phép của môi trường mà chúng đang
sống thì chúng sẽ bị chết và bị huỷ diệt. Do đó, đảm bảo sự ổn định môi trường sống là điều
kiện cơ bản để duy trì sự sống của mọi loài sinh vật trên trái đất. Những ví dụ rất giản đơn

mà mọi người đều biết là “ngộ độc ô xít các bon (CO) ở những người đi kiểm tra các lò gạch
thủ công đốt bằng than hoặc cá chết do nước bị ô nhiễm hoá chất của nhà máy phân lân Văn
Điển”, v.v Điều đó có nghĩa là môi trường, con người và sức khoẻ con người có mối liên
quan mật thiết với nhau và có
thể cái nọ là nhân quả của cái kia. Không phải đến bây giờ
con người mới biết tới
mối quan hệ này, mà từ hàng ngàn năm trước người Trung Quốc,
Ấn Độ, Ba Tư, Ai Cập cổ đại đã biết áp dụng các biện pháp thanh khiết môi trường để
ngăn ngừa và phòng chống dịch cho cộng đồng và quân đội. Các tư liệu lịch sử cho thấy từ
những
năm trước công nguyên, ở thành A-ten (Hy Lạp) con người đã xây dựng hệ thống
cống ngầm để thải nước bẩn, đã biết dùng các chất thơm, diêm sinh để tẩy uế không khí
trong và ngoài nhà để phòng các bệnh truyền nhiễm.
Người La Mã còn tiến bộ hơn: khi xây dựng thành La Mã, người ta đã xây
dựng
một hệ thống cống ngầm dẫn tới mọi điểm trong thành phố để thu gom nước thải, nước
mưa dẫn ra sông Tibre, đồng thời xây dựng một hệ thống cung cấp nước sạch cho dân
chúng trong thành phố. Vào thời kỳ này, độ cao của nhà ở, bề rộng các đường đi lại trong
thành đều được qui định và tiêu chuẩn hoá, những người đem bán loại thực phẩm giả mạo,
thức ăn ôi thiu đều phải chịu tội.
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, dân số, ô nhiễm môi trường

phòng chống ô nhiễm môi trường càng được tăng cường và phát triển. Như
chúng ta
đã biết, các nhân tố sinh học, các hoá chất tồn tại một cách tự nhiên và các nguy cơ vật lý đã
tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử loài người. Đồng thời các chất ô nhiễm
môi trường do hoạt động của con người sinh ra cũng có quá trình phát triển từ từ và lâu dài.
Cuộc khủng hoảng môi trường lần thứ nhất xuất hiện ở Châu Âu lần đầu tiên vào
thế kỷ 19, nguyên nhân là do thực phẩm kém chất lượng, nước bị ô nhiễm ảnh
hưởng đến

sức khoẻ cộng đồng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã làm cho
nước Anh trở
thành xứ sở sương mù do ô nhiễm không khí, thời gian này vấn đề ô nhiễm công nghiệp là
một vấn đề hết sức nghiêm trọng nhưng bị chính phủ lờ đi vì còn nhiều vấn đề xã hội khác
quan trọng hơn, mặc dù năm 1848 Quốc Hội Anh đã
thông qua Luật Y tế công cộng đầu
tiên trên thế giới. Trong quá trình phát triển
công nghiệp, ô nhiễm kéo dài cho đến giữa
thế kỷ 20 và hàng loạt những ô nhiễm mới song song với ô nhiễm công nghiệp là ô nhiễm
hoá học, hoá chất tổng hợp, nhất là trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Những tiến
bộ của kỹ thuật, lĩnh vực hoá học, đặc biệt là ngành công nghiệp hoá chất đã tạo ra các hoá
chất tổng hợp như
cao su tổng hợp, nhựa, các dung môi, thuốc trừ sâu v.v đã tạo ra rất
5

nhiều chất
khó phân huỷ và tồn dư lâu dài trong môi trường như DDT, 666, Dioxin v.v
gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề, dẫn tới sự phản đối kịch liệt của cộng đồng nhiều nước
trên thế giới trong suốt thời kỳ những năm 60 và 70 của thế kỷ 20.
Làn sóng lần thứ 2 về các vấn đề môi trường xẩy ra vào những năm giữa của thế
kỷ 20 với hai phong trào lớn là môi trường và sinh thái. Phong trào môi trường là việc
bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là những tài nguyên không tái tạo. Kết quả là động
vật trên đất liền ở nhiều vùng thiên nhiên hoang dã, các vùng đất, biển quý hiếm khác,
cảnh quan thiên nhiên được bảo tồn và tôn tạo. Về phong trào sinh thái tập trung vào các
chất có thể gây độc cho con người hoặc có khả năng gây huỷ hoại môi trường. Kết quả
của những phong trào này cùng với Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và con
người đã được tổ chức vào năm 1972 đã thuyết phục được nhiều chính phủ các nước
thông qua luật lệ nhằm hạn chế ô nhiễm công nghiệp và phát thải rác, phòng chống ô
nhiễm hoá học, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc, v.v
Làn sóng lần thứ 3 về các vấn đề sức khoẻ môi trường là từ những năm 80, 90 đến nay,

ngoài những vấn đề ô nhiễm công nghiệp, hoá chất còn có các vấn đề
về dioxit cac bon,
clorofluorocacbon gây thủng tầng ozon, vấn đề cân bằng môi trường, phát triển bền
vững, môi trường toàn cầu thay đổi, khí hậu toàn cầu nóng
lên, v.v sẽ còn phải giải quyết
trong nhiều thập kỷ tới.
HỘP 1.1. CÁC VÍ DỤ VỀ NHỮNG SỰ KIỆN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG

QUAN TRỌNG
- 1798 - Thomas Malthus xây dựng lý thuyết về phân bố tài nguyên và dân số
- 1848 - Quốc hội Anh thông qua Luật Y tế Công cộng
- 1895 - Svante Arrhenius mô tả hiện tượng hiệu ứng nhà kính
- 1899 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về cấm vũ khí hoá học
- 1956 - Anh thông qua Luật Không khí Sạch
-
1962 - Việc xuất bản cuốn sách Mùa xuân Lặng lẽ (Silent Spring) của Rachel

Carson đã thu hút được sự chú ý tới vấn đề thuốc trừ sâu và môi trường
-
1969 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về hợp tác trong trường hợp ô nhiễm biển
(Vùng Biển phía Bắc)
- 1972 - Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Con người, Stockholm;
DDT đã bị cấm sử dụng ở Mỹ
- 1982 - Hội nghị đa phương về sự a xít hoá môi trường đã khởi đầu quá trình dẫn
tới chính thức thừa nhận vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới và nhu cầu về sự kiểm
soát quốc tế
- 1986 - Hội nghị quốc tế đầu tiên về nâng cao sức khoẻ (health promotion) thông
6



qua Hiến chương Ottawa, trong đó định nghĩa nâng cao sức khoẻ là tạo điều

kiện cho con người kiểm soát những yếu tố quyết định tới sức khoẻ của họ.
-
1987 - Báo cáo của Uỷ ban Brundtland "Tương lai chung của chúng ta" (Our
Common Future) đã kêu gọi hướng tới "phát triển bền vững"; Nghị định thư

Montreal về hạn chế phát thải clorofluorocacbon (CFC) vào không khí để giảm
tốc độ suy giảm tầng ozon ở tâng bình lưu
-
1992 - Hội nghị thượng đỉnh trái đất (Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi
trường và Phát triển), Rio de Janeiro
- 1994 - Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển, Cairo
-
1995 - Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Phát triển Xã hội,
Copenhagen
- 1996 - Hội nghị của Liện Hiệp Quốc về vấn đề định cư (HABITAT II), Istanbul
- 1997 - Hiệp định khung của Liên Hiệp Quốc về Thay đổi Khí hậu, Kyoto
Nguồn: Yassi và cộng sự, 2001
3. NỘI DUNG KHOA HỌC MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
Tất cả các khía cạnh của sức khoẻ môi trường là xác định, giám sát, kiểm
soát các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học và xã hội có ảnh hưởng đến sức khoẻ con
người.
Thực hành sức khoẻ môi trường bao gồm đánh giá, kiểm soát và phòng ngừa các yếu tố
trong môi trường ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ con người, đồng thời
phát huy các yếu
tố môi trường có lợi cho sức khoẻ. Việc này bao gồm tất cả các
biện pháp cần thiết để đối
mặt với các vấn đề như suy thoái môi trường, thay đổi khí hậu, các nguy cơ môi trường như
ô nhiễm đất, nước, không khí, ô nhiễm thực phẩm, tiếp xúc với hoá chất và vấn đề rác thải

hiện nay. Thực hành sức khoẻ môi trường còn tạo điều kiện, cơ hội để nâng cao sức khoẻ
bằng cách lập kế hoạch nâng cao sức khoẻ và tiến tới xây dựng một môi trường có lợi cho
sức khoẻ. Các hoạt động sức khoẻ môi trường được thực hiện ở tất cả các cấp, bao gồm:
 Xây dựng, phát triển các chiến lược và tiêu chuẩn, gồm:
- An toàn dân số
- Tư vấn cộng đồng, bảo vệ sức khoẻ trong các trường hợp khẩn cấp
- Theo dõi, quan trắc và xây dựng các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn về nhà ở v.v
- Nâng cao phát triển sức khoẻ
 Phát triển và đưa ra các khuyến cáo về sức khoẻ môi trường:
- Cung cấp thông tin cho cộng đồng về sức khoẻ môi trường
- Nghiên cứu sức khoẻ môi trường
7

- Giáo dục sức khoẻ môi trường
 Cần phải có kế hoạch xây dựng luật sức khoẻ môi trường
 Quản lý môi trường vật lý:
- An toàn nước, nhất là an toàn nước ở khu giải trí - An toàn thực phẩm
- Quản lý chất thải rắn
- An toàn và sức khoẻ nghề nghiệp
- Phòng chống chấn thương
- Kiểm soát tiếng ồn
- Sức khoẻ và chất phóng xạ
 Quản lý nguy cơ sinh học
Kiểm soát côn trùng và các động vật có hại
- Quản lý bệnh truyền nhiễm qua vật chủ trung gian truyền bệnh
- Kiểm soát vi sinh vật
 Quản lý nguy cơ hoá học:
- Xây dựng các tiêu chuẩn an toàn hoá học cho không khí, đất, nước sinh hoạt,
nước thải và thực phẩm
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn

- Đánh giá và quản lý các nguy cơ sức khoẻ ở các vùng bị ô nhiễm ví dụ như

dioxin, v.v
- Kiểm soát thuốc, chất độc, các sản phẩm y dược khác
- Chất độc học
- Kiểm soát thuốc lá
Bên cạnh đó còn nhiều các yếu tố khác cần phải kiểm soát như cung cấp đủ thức ăn dinh
dưỡng, cung cấp nước sạch, điều kiện vệ sinh và xử lý rác thải nhất là ở nông thôn hiện
nay; cung cấp nhà ở và bảo đảm mật độ dân số v.v
Ngoài ra, còn một số các yếu tố khác nhất là khả năng tiềm tàng của các
nguy cơ môi trường và suy thoái môi trường tác động lên sức khoẻ do các đặc điểm
sau:
 Thường xẩy ra sau một thời gian dài tiếp xúc
 Các bệnh liên quan đến môi trường thường do hoặc liên quan đến nhiều nguyên
nhân khác nhau, ví dụ như viêm phế quản mãn tính có thể là do môi trường bị ô
nhiễm, do vi khuẩn, thể lực v.v.
Thực hành sức khoẻ môi trường sử dụng kiến thức và kỹ năng của nhiều lĩnh vực khác nhau
để tập trung giải quyết các vấn đề sức khoẻ tiềm tàng.
“Loài người là trung tâm của phát triển bền vững. Họ có quyền sống một
cuộc sống khoẻ
8

mạnh và hoà hợp với tự nhiên”.
(Tuyên bố Rio de Janero về Môi trường và Phát triển)
4. QUAN HỆ GIỮA SỨC KHOẺ VÀ MÔI TRƯỜNG
Khi con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất, tuổi thọ trung bình của họ chỉ
khoảng từ 30 đến 40 tuổi. Do sống trong môi trường khắc nghiệt, tuổi thọ của họ
thấp
hơn nhiều so với tuổi thọ của con người trong xã hội hiện nay. Tuy vậy, 30 - 40 năm cũng đủ
để cho họ có thể sinh con đẻ cái, tự thiết lập cho mình cuộc sống với

tư cách là một loài có
khả năng cao nhất trong việc làm thay đổi môi trường theo
hướng tốt lên hay xấu đi.
Để có thể sống sót, những người tiền sử phải đối mặt với những vấn đề sau đây:
 Luôn phải tìm kiếm nguồn thức ăn và nước uống trong khi tránh ăn phải những
thực
vật có chứa chất độc tự nhiên (ví dụ nấm độc) hoặc các loại thịt đã bị ôi

thiu, nhiễm độc.
 Bệnh nhiễm trùng và các ký sinh trùng được truyền từ người này sang người

khác hoặc từ động vật sang con người thông qua thực phẩm, nước uống hoặc các
côn trùng truyền bệnh
 Chấn thương do ngã, hoả hoạn hoặc động vật tấn công
 Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, mưa, tuyết, thảm hoạ thiên nhiên (như bão lụt,
hạn hán, cháy rừng v.v.) và những điều kiện khắc nghiệt khác.
Những mối nguy hiểm đối với sức khoẻ con người luôn luôn xảy ra trong môi
trường tự nhiên. Trong một số xã hội, những “mối nguy hiểm truyền thống”
trên đây vẫn
là những vấn đề sức khoẻ môi trường được quan tâm nhiều. Tuy nhiên,
khi con người đã
kiểm soát được những mối nguy hiểm này ở một số vùng, thì
những “mối nguy hiểm
hiện đại” do sự phát triển kỹ thuật, công nghiệp tạo ra cũng đã trở thành những mối đe doạ
đầu tiên đối với sức khoẻ và sự sống của con người. Một số ví dụ về các mối nguy hiểm môi
trường hiện đại là:
 Môi trường đất, nước ở nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng do sử dụng hóa chất
bảo vệ thực vật không đúng chủng loại, liều lượng và không đúng cách.
 Các sự cố rò rỉ các lò phản ứng hạt nhân/ nhà máy điện nguyên tử, …
 Sự thay đổi khí hậu toàn cầu, hiệu ứng nhà kính, v.v

 Trong một vài thập kỷ vừa qua, tuổi thọ của con người đã tăng lên đáng kể ở hầu hết
các quốc gia. Các nhà điều tra cho rằng có 3 lý do cơ bản dẫn tới việc tăng tuổi thọ
của con người:
 Những tiến bộ trong môi trường sống của con người
 Những cải thiện về vấn đề dinh dưỡng
 Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị y học đối với các loại bệnh tật
9

Những tiến bộ trong y tế luôn đi cùng với với những cải thiện về chất lượng môi
trường, dinh dưỡng và chăm sóc y tế. Ngày nay, những người ốm yếu có cơ hội sống sót cao
hơn nhiều do hệ thống chăm sóc y tế được cải thiện. Rất nhiều người
luôn sống khoẻ mạnh,
do có nguồn dinh dưỡng tốt và kiểm soát tốt các mối nguy
hiểm về sức khoẻ môi trường.
Khoa học môi trường là một môn học rất cần thiết và quan trọng dựa trên hai lý do
căn bản sau đây:
 Nghiên cứu những mối nguy hiểm trong môi trường và những ảnh hưởng của
chúng lên sức khoẻ
 Ứng dụng những phương pháp hiệu quả để bảo vệ con người khỏi những mối
nguy hại từ môi trường.
Muốn vậy chúng ta hãy xem xét thế nào là sức khoẻ và thế nào là môi
trường?
Trước hết chúng ta hãy điểm qua vài nét về hệ sinh thái:
Ra đời từ những năm 1930, thuật ngữ “hệ sinh thái” có thể được định nghĩa
như là
một hệ thống gồm những mối quan hệ tương tác qua lại giữa các sinh vật
sống và môi
trường tự nhiên của chúng. Đó là một thực thể đóng đã đạt được các cơ chế tự ổn định và nội
cân bằng đã tiến hoá qua hàng thế kỷ. Trong Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam (2005), hệ
sinh thái được định nghĩa là “hệ quần thể sinh vật trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất

định cùng tồn tại và phát triển, có tác động qua lại với nhau”.
Trong một hệ sinh thái ổn định, một loài này không loại trừ một loài khác,
nếu
không thì nguồn cung cấp thức ăn cho những loài ăn thịt sẽ không tồn tại. Các hệ sinh thái
ổn định và cân bằng sẽ có tuổi thọ cao nhất. Một hệ sinh thái sẽ không thể duy trì được một
số lượng lớn vật chất và năng lượng được tiêu thụ bởi một loài mà lại không loại trừ một
loài khác, và thậm chí còn gây nguy hiểm cho khả năng
tồn tại của toàn bộ hệ sinh thái.
Tương tự như vậy, khả năng của một hệ sinh thái trong việc chứa đựng chất thải và tái
tạo đất, nước ngọt không phải là vô hạn. Tại
một thời điểm nào đó, những tác động từ bên
ngoài sẽ phá vỡ cân bằng của hệ sinh thái, dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng hoặc làm huỷ
diệt hệ sinh thái đó.
Định nghĩa sức khoẻ và môi trường
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1946) thì sức khoẻ là “trạng thái
thoải
mái về cả tinh thần, thể chất và xã hội chứ không chỉ đơn thuần là vô bệnh,
tật”. Khái
niệm bệnh, tàn tật và tử vong dường như được các nhân viên y tế đề cập
tới nhiều hơn so
với khái niệm lý tưởng này về sức khoẻ. Do vậy “khoa học sức khoẻ” hầu như đã trở
thành “khoa học bệnh tật”, vì nó tập trung chủ yếu vào việc
điều trị các loại bệnh và chấn
thương chứ không phải là nâng cao sức khoẻ.
Tương tự như vậy, nhiều định nghĩa về môi trường trong bối cảnh sức khoẻ đã
được đề cập. Theo một định nghĩa được đưa ra năm 1995, môi trường là “tất cả những gì ở
10

bên ngoài cơ thể con người. Nó có thể được phân chia thành môi trường vật lý, sinh học, xã
hội, văn hoá Bất kì môi trường nào hay tất cả các môi trường

trên đều có thể ảnh hưởng
tới tình trạng sức khoẻ của quần thể” (Theo Annalee,
2001).
Định nghĩa này được dựa trên quan điểm là sức khoẻ của con người chủ yếu được
xác định do yếu tố di truyền và môi trường. Yếu tố di truyền (gen) do cha mẹ truyền lại,
bao gồm ADN trong mỗi tế bào cơ thể. Các gen này tồn tại khi phôi được hình thành và
không có sự thay đổi nào về di truyền trong suốt quá trình phát triển của con người. Nếu
như có sự thay đổi gen (như trong trường hợp đột biến), nó có thể dẫn tới sự mất chức
năng, chết tế bào và ung thư (ở một số trường hợp đột biến cụ thể). Cơ sở vật chất di truyền
của một cá thể là một trong những yếu tố chính xác định việc cá thể đó bị ảnh hưởng như
thế nào bởi các yếu tố môi trường.
Một số cá thể sẽ bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với các chất độc hại, các nguy hiểm môi
trường với hàm lượng lớn. Một số cá thể khác lại bị ảnh hưởng ở mức độ thấp hơn, bởi vì họ

các yếu tố nguy cơ/ điều kiện kép hoặc nguy cơ/ điều kiện đã có từ trước. Một số
người bị ảnh hưởng ở một mức độ rất thấp do tính nhạy cảm di truyền. Điều đó
minh
chứng cho những ảnh hưởng của môi trường đối với sức khoẻ. Tuy nhiên, đã một thời
chính con người đã làm huỷ hoại và suy thoái môi trường. Vì suy thoái môi
trường nên có
ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng như ung thư da tăng lên ở
Ôxtrâylia khi tầng ozon
bị suy giảm.
Con người đã phá rừng trong quá trình phát triển của mình và hậu quả là con
người
phải chịu những hậu quả của lũ quét, của thay đổi khí hậu toàn cầu, của ô
nhiễm các chất
thải công nghiệp. Khi con người huỷ hoại môi trường thì theo qui luật nhân quả học, con
người cũng phải chịu những mối đe doạ từ môi trường, đó là những mối nguy hiểm hiện
đại và truyền thống.

Khái niệm về sức khoẻ môi trường
Hiện nay trên thế giới, vẫn còn nhiều tranh cãi về các định nghĩa như môi
trường
là gì? Sức khỏe môi trường là gì. Đặc biệt việc phân biệt sự khác nhau giữa
hai phạm trù
môi trường và sức khỏe môi trường là rất khó khăn. Sức khỏe môi
trường là một thuật
ngữ không dễ định nghĩa. Nếu chúng ta cho đó là “Sức khỏe của môi trường” thì dường như
chúng ta không quan tâm tới một loài nào cụ thể, ví dụ loài người. Nhưng nếu một ai đó lại
muốn định nghĩa thuật ngữ này ám chỉ tới sức khỏe con người thì điều này lại còn quá
nhiều chỗ để tranh cãi. Hai định nghĩa dưới
đây, định nghĩa đầu tiên quan tâm tới những
ảnh hưởng của môi trường lên sức
khỏe trong khi định nghĩa thứ hai quan tâm tới những
dịch vụ sức khỏe môi trường.
Định nghĩa 1
:
Sức khỏe môi trường bao gồm những khía cạnh về sức khỏe
con người, bao gồm
11

cả chất lượng cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý,
hóa học, sinh học, xã hội và
các yếu tố tâm lý trong môi trường. (theo định nghĩa
trong Chiến lược Sức khỏe Môi
trường Quốc gia của Ôxtrâylia - 1999). Định nghĩa
này cũng ám chỉ tới cả lý thuyết và
thực tiễn của việc quyết định, kiểm soát và
phòng ngừa đối với những yếu tố trên trong
môi trường, những yếu tố có thể có ảnh hưởng tiềm tàng bất lợi đối với sức khỏe của các thế

hệ hiện tại cũng như các thế hệ tương lai.
Định nghĩa 2:
Các dịch vụ sức khỏe môi trường là những dịch vụ nhằm cải thiện các chính sách
về sức khỏe môi trường qua các hoạt động giám sát, kiểm soát.
Chúng cũng thực hiện vai
trò tăng cường sự cải thiện những giới hạn của môi
trường và khuyến khích việc sử
dụng các công nghệ sạch và khuyến khích những
thái độ cũng như những cách cư xử tốt
đối với môi trường và sức khỏe. Những dịch vụ này cũng có vai trò quan trọng trong việc
phát triển và đề xuất những chính sách mới về sức khoẻ môi trường.
5. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ, ĐÔ THỊ HOÁ LÊN SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG

MÔI TRƯỜNG
Những thách thức về dân số Việt Nam là rất nghiêm trọng đối với tất cả các
vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tăng dân số vẫn ở mức cao 1,7%
(1999) và di dân nội bộ từ các khu vực nghèo tài nguyên và kinh tế kém phát triển
vẫn đang tăng lên và không kiểm soát được. Theo Tổng cục Thống kê, cho đến cuối
năm 2006, dân số nước ta đã là hơn 84 triệu người. Theo dự báo đến năm 2020, dân
số nước ta xấp xỉ 100 triệu người, trong khi đó các nguồn tài nguyên đất, nước và
các dạng tài nguyên khác có xu thế suy giảm, vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu,
vùng xa chưa được giải quyết triệt để. Hiện tại, cũng theo số liệu của Tổng cục
Thống kê (2006), thu nhập bình quân đầu người năm 2004 là 484.400 đồng/ tháng,
trong đó, sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị là gần 440.000
đồng/ tháng. Tỉ lệ hộ nghèo trong cả nước năm 2004 là 19,5%; và có sự chênh lệch
lớn giữa thành thị và nông thôn (3,6% ở thành thị và 25,0% ở nông thôn). Quá trình
đô thị hoá và phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hoá đòi hỏi nhu cầu về
năng lượng, nguyên liệu ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường sống
ngày càng xấu đi nếu không có các biện pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt khác, quá
trình đô thị hoá và công nghiệp hoá ở nhiều khu vực, vùng lãnh thổ lại không được

quán triệt đầy đủ theo quan điểm phát triển bền vững, nghĩa là chưa tính toán đầy đủ
các yếu tố môi trường trong phát triển kinh tế xã hội. Theo dự kiến, tốc độ tăng
trưởng GDP phải đạt xấp xỉ 7%/năm và được duy trì liên tục đến năm 2010. Theo
tính toán của các chuyên gia nước ngoài, nếu GDP tăng gấp đôi thì nguy cơ chất
thải tăng gấp 3 - 5 lần. Và nếu như trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất,
trình độ quản lý sản xuất, trình độ quản lý môi trường không được cải tiến thì sự
12

tăng trưởng sẽ kéo theo tăng khai thác, tiêu thụ tài nguyên và năng lượng. Điều này
dẫn đến khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tạo ra sự gia tăng các loại chất
thải và ô nhiễm môi trường gây nên sức ép cho môi trường. Trong khi đó môi
trường đô thị, công nghiệp và nông thôn tiếp tục bị ô nhiễm. Đến năm 2006, dân đô
thị đã là 27,1% so với dân số cả nước - tăng 2,18% so với cùng kỳ năm 2005 (Tổng
cục Thống kê, 2006), dự kiến năm 2010 là 33% và 2020 là 45%.
Môi trường đô thị ở nước ta bị ô nhiễm bởi các chất thải rắn, nước thải chưa
được thu
gom và xử lý theo đúng qui định. Khí thải, bụi, tiếng ồn v.v từ các
phương tiện giao
thông nội thị và mạng lưới sản xuất qui mô vừa và nhỏ cùng với
cơ sở hạ tầng yếu kém
càng làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị
đang thực sự lâm vào tình trạng
đáng báo động. Hệ thống cấp và thoát nước lạc hậu,
xuống cấp không đáp ứng được nhu
cầu. Mức ô nhiễm không khí về bụi, các khí
thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho
phép nhiều lần, nhất là tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vượt
tiêu chuẩn cho phép 2 - 3 lần:
VD: Hà Nội, thành phố trong bụi
Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá. Những công trình hạ tầng cơ sở về cấp,

thoát
nước, điện lực, thông tin liên lạc, đường sá, nhà hát, sân thi đấu thể thao, nhà
ở liên tục
được sửa chữa, nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới. Có thể ví Hà Nội
hiện nay như một
đại công trường, hàng ngày tạo ra một lượng lớn bụi bẩn.
- Quá tải:
Nồng độ bụi bẩn ở Hà Nội ngày một nhiều hơn. Trung bình ở các nơi công cộng
trong thành phố nồng độ bụi vượt quá chuẩn cho phép từ 2 đến 4 lần (theo tiêu
chuẩn
của các nước phát triển ở châu Âu, châu Mỹ, nồng độ bụi ở các thành phố chỉ được phép
vượt quá tiêu chuẩn cho phép 1-2 lần). Hứng chịu nhiều nhất là các khu vực đang xây dựng,
cải tạo, sửa chữa: Mai Động, Thượng Đình, ngã tư Vọng, Cầu Diễn, Bắc Thăng Long,
Chèm, Văn Điển, Láng - Hoà Lạc, Trần Duy Hưng , vượt
quá chuẩn cho phép 5 lần.
Nồng độ các chất ô nhiễm khác đều vượt chuẩn nhiều
lần, cực độc có Pb, SO2. Ô nhiễm
do bụi cao nhất là vào hôm trời hành, gió mạnh.
- Nguyên nhân gây ra bụi
Ngoài chuyện đổ rác bừa bãi của dân, thì phế thải rắn trong xây dựng (đất, đá,
sỏi ), vật liệu thi công được coi là tác nhân chính gây bụi bẩn. Từ trung tâm đến ngoại ô, từ
các trục giao thông chính đến ngõ ngách, đâu đâu cũng thấy xây dựng. Thành phố đã quy
định về bảo đảm vệ sinh, tránh bụi bẩn, các công trình xây dựng nhà ở phải được che chắn
kỹ, nhưng không ít chủ công trình đã lờ đi. Nhiều chủ phương tiện chở vật liệu, phế thải
không che đậy kín, chở quá tải trọng, phóng nhanh làm rơi vãi ra đường phố.
Các công trình thi công, kè sông, đường giao thông, cầu vượt, đường hầm dành cho
13

người đi bộ không hoàn thành đúng tiến độ, đã tạo nên một lượng bụi rất lớn: cụ thể là
đường hầm ngã tư Vọng, hành lang Tây Sơn dài 6,8 km

Ngoài ra còn có bụi, khói từ các khu công nghiệp tập trung (cũ và mới), ô tô, xe
máy. Đa phần các cơ sở sử dụng công nghệ lạc hậu, dùng than đá mà không có thiết
bị thu
gom xử lý bụi. Các nhà máy đan xen với dân cư, cơ sở hạ tầng không được
xây dựng
đồng bộ nên cũng gây ô nhiễm nặng.
Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng
yếu kém. Việc sử dụng không hợp lý các hoá chất nông nghiệp đã và đang làm cho môi
trường nông thôn ô nhiễm và suy thoái. Việc phát triển các làng nghề tiểu
thủ công nghiệp
đã làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nước sinh hoạt và vệ
sinh là vấn đề cấp bách,
tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh ở nông thôn thấp, chỉ đạt 18% theo
TC 08/QĐ-BYT (Cục YTDP
Việt Nam, 2006). Cho đến năm 2005, toàn quốc có
62% dân số nông thôn được sử dụng
nước sạch (Cục BVMT, 2005).
Nạn khai thác rừng bừa bãi, thậm chí xảy ra ở cả các khu rừng cấm, rừng đặc
dụng; nạn đốt phá rừng đã gây ra những thảm hoạ cháy rừng nghiêm trọng như vụ
cháy rừng nước mặn U Minh năm 2001. Đồng thời, việc săn bắt động vật hoang dã
cũng đang làm suy giảm đa dạng sinh học và gây huỷ hoại môi trường. Những vấn
đề của môi trường xã hội ngày càng trở nên bức xúc như ma tuý, HIV/AIDS, bạo
lực, và gần đây là các vụ dịch như SARS, cúm gia cầm H5N1 Những vấn đề môi
trường
toàn cầu như tầng ozon bị suy giảm, hiệu ứng nhà kính, khí hậu toàn cầu
nóng lên, thay đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao, hiện tượng El-Nino, La-Nina gây nên
các hiện tượng hạn hán, lũ lụt xẩy ra ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có
Việt Nam. Đồng thời, nạn chuyển dịch ô nhiễm sang các nước đang phát triển cũng
là một vấn đề cần chú trọng.
Từ những vấn đề trên thực tế đòi hỏi phải có một chính sách về môi trường,

sức
khoẻ môi trường một cách đúng đắn, đồng bộ và hợp lý trong giai đoạn phát
triển mới
của đất nước ta.
6. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN CHO MÔI TRƯỜNG LÀNH MẠNH
6.1. Bầu không khí trong sạch
Không khí rất cần thiết cho sự sống, nếu thiếu không khí, con người sẽ chết
chỉ sau một vài phút. Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề môi trường
trầm trọng nhất trong các xã hội ở tất cả các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau.
Hàng ngày, có khoảng 500 triệu người phải tiếp xúc với một hàm lượng lớn ô nhiễm
không khí trong nhà ở các dạng như: khói từ các lò sưởi không kín hoặc lò sưởi
được thiết kế tồi. Có khoảng 1,5 tỉ người ở các khu vực thành thị phải sống trong
môi trường bị ô nhiễm không khí nặng nề. Sự phát triển của ngành công nghiệp đi
14

đôi với việc thải ra số lượng lớn các khí và các chất hạt từ quá trình sản xuất công
nghiệp và từ quá trình đốt cháy các nhiên liệu hoá thạch cho nhu cầu giao thông vận
tải và lấy năng lượng. Khi các tiến bộ công nghệ đã bắt đầu chú trọng đến việc kiểm
soát ô nhiễm không khí bằng cách giảm việc thải ra các chất hạt thì người ta vẫn
tiếp tục thải ra các chất khí, do vậy ô nhiễm không khí vẫn còn là vấn đề lớn. Mặc
dù hiện nay nhiều nước phát triển đã có những nỗ lực lớn để kiểm soát cả việc thải
khí và các chất hạt, ô nhiễm không khí vẫn là nguy cơ đối với sức khoẻ của nhiều
người.
Ở những xã hội phát triển nhanh chóng, việc kiểm soát ô nhiễm không khí
không được đầu tư thích hợp vì còn những ưu tiên khác về kinh tế và xã hội. Việc
phát triển công nghiệp nhanh chóng ở những nước này đã xảy ra đồng thời với việc
gia tăng lượng ô tô và các loại xe tải khác, nhu cầu điện thắp sáng tại các hộ gia
đình cũng tăng lên, dân số tập trung ở các khu đô thị hoặc các thành phố lớn. Kết
quả là một số thảm hoạ ô nhiễm không khí tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới đã xẩy
ra.

Ở các quốc gia nơi mà việc sử dụng các nguồn năng lượng sạch ở các hộ gia
đình
vẫn chưa được chú trọng, ô nhiễm không khí đã trở thành một vấn đề trầm
trọng vì năng
lượng dùng để sưởi ấm và đun nấu còn thiếu và sản sinh ra rất nhiều khói, dẫn đến ô nhiễm
trong nhà và ngoài trời. Kết quả là con người có thể bị kích thích màng nhày, mắc các bệnh
hô hấp, bệnh phổi, các vấn đề về mắt và tăng nguy
cơ bị ung thư. Phụ nữ và trẻ em ở
những cộng đồng nghèo khổ tại các nước đang
phát triển là những người đặc biệt phải tiếp
xúc nhiều với ô nhiễm không khí.
Chất lượng không khí trong nhà cũng là vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nước phát triển vì
các toà nhà được thiết kế theo kiểu kín gió và có hiệu quả cao về mặt năng lượng. Hệ thống
lò sưởi và hệ thống làm lạnh, khói, hơi từ các vật liệu tích trữ trong nhà tạo ra nhiều chất hoá
học và gây ra ô nhiễm không khí.
6.2. Có đủ nước sạch cho ăn uống và sinh hoạt
Nước cũng rất cần thiết cho sự sống. Trung bình mỗi người cần phải uống tối
thiểu 2 lít nước/ ngày. Nếu sau 4 ngày không có nước, con người sẽ chết. Nước
cũng cần thiết cho thực vật, động vật, và nông nghiệp. Trong suốt lịch sử phát triển,
con người luôn tập trung sống dọc theo các bờ sông, ven hồ để lấy nước cho sinh
hoạt và nông nghiệp. Nước cũng cung cấp phương tiện vận chuyển tự nhiên, được
sử dụng để xử lý chất thải và đóng một vai trò quan trọng trong các ngành công
nghiệp, ngư nghiệp và các trang trại. Mặc dù nước ngọt được coi là một nguồn tài
nguyên có thể tái sử dụng, nhưng nước ngọt cũng không phải là một nguồn vô hạn.
Hơn nữa, nước được phân bố không đồng đều ở các khu vực địa lý và dân cư trên
thế giới. Tại rất nhiều nơi, việc thiếu nước đã trở thành trở ngại lớn đối với việc
15

phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Trong một số trường hợp, việc thiếu nước
đã gây ra nhiều cuộc xung đột (ví dụ: những xung đột tranh chấp nước ngọt ở các

nước khu vực Trung Đông). Việc khan hiếm nước dẫn đến đói nghèo và làm cằn cỗi
đất đai. Rất nhiều thành phố và các khu vực nông thôn đã khai thác nước từ các tầng
nước ngầm với số lượng rất lớn, lớn hơn cả khả năng mà bản thân các tầng nước
ngầm này có thể tự bổ sung lại được.
Chất lượng của nước ngọt có tầm quan trọng rất lớn trong việc duy trì sức
khoẻ
con người. Rất nhiều bệnh truyền nhiễm đe doạ sự sống và sức khoẻ con
người được
truyền qua nước hoặc thực phẩm bị nhiễm bẩn. Khoảng 80% các bệnh
tật ở các nước đang
phát triển là do thiếu nước sạch và thiếu các phương tiện phù
hợp để xử lý phân (WHO,
1992). Có khoảng một nửa dân số trên thế giới mắc phải
các bệnh do thiếu nước hoặc
nước bị nhiễm bẩn, gây ảnh hưởng chủ yếu đối với
tầng lớp người nghèo ở tất cả các
nước đang phát triển. Có khoảng 2 tỉ người trên
trái đất có nguy cơ mắc phải các bệnh ỉa
chảy lây lan qua đường nước hoặc thực
phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra tử vong
khoảng gần 4 triệu trẻ em mỗi năm.
Các vụ dịch tả, thường được truyền qua nước uống bị
nhiễm bẩn, đang tăng lên
nhanh chóng về mặt tần suất. Bệnh sán máng (200 triệu người
nhiễm bệnh) và bệnh giun (10 triệu người bị nhiễm bệnh) là 2 dạng bệnh phổ biến trầm
trọng nhất có liên quan tới nước. Các vectơ côn trùng sinh sản nhờ nước cũng truyền các
bệnh đe doạ sự sống của con người, chẳng hạn như sốt rét (267 triệu người bị nhiễm), giun
chỉ (90 triệu người nhiễm), giun dưới da (18 triệu người nhiễm) và sốt xuất huyết (30 60
triệu người nhiễm) (WHO, 1992).
Việc thiếu nước thường dẫn đến các vấn đề có liên quan tới chất lượng nước. Nước

thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nông nghiệp và các khu đô thị đã làm vượt quá khả
năng của các vực nước tự nhiên trong việc phân huỷ các chất thải có
khả năng phân huỷ
sinh học và hoà tan các chất thải không có khả năng phân huỷ sinh học. Ô nhiễm nước
xảy ra trầm trọng nhất ở các thành phố nơi mà việc kiểm
soát các dòng thải công nghiệp
không chặt chẽ và thiếu các ống, rãnh dẫn nước thải, thiếu các nhà máy xử lý nước thải.
6.3. Đủ thực phẩm và thực phẩm an toàn
Thực phẩm cung cấp năng lượng cho cơ thể con người. Tuỳ vào trọng lượng cơ thể
và các hoạt động về thể lực mà cơ thể con người cần khoảng 1000-2000 calo năng lượng
mỗi ngày. Nếu như không có thực phẩm, con người sẽ chết sau 4 tuần. Thực phẩm cũng
cung cấp các vitamin và các chất vi lượng, nếu không có các chất này, con người cũng sẽ
mắc một số bệnh thiếu hụt.
Trong vài thập kỉ vừa qua, hệ thống sản xuất lương thực của thế giới đã đáp ứng đủ
so với nhu cầu tăng trưởng dân số (Hình 1.3). Tuy nhiên, những thành công trong nông
nghiệp toàn cầu cũng không được phân bố đồng đều. Các nước Châu Á
và Châu Mỹ La
Tinh đã tăng sản lượng lương thực trên đầu người một cách đáng
kể, nhưng sản lượng
16

lương thực của các nước châu Phi vẫn chưa theo kịp được mức
tăng trưởng dân số của họ,
và các nước thuộc Liên Xô cũ cũng đã giảm sút sản
lượng lương thực một cách đáng kể.
Đối với phần lớn dân số trên thế giới, suy dinh dưỡng và các bệnh liên quan tới suy
dinh dưỡng vẫn còn là một nguyên nhân chính gây ra tình trạng ốm yếu và chết yểu. Các
tác nhân gây bệnh qua thực phẩm gây ra
hàng triệu ca ỉa chảy mỗi năm, bao gồm cả hàng
nghìn người ở những nước phát

triển. Việc phân bố và sử dụng thức ăn không hợp lý là
thủ phạm chính gây ra các ca bệnh này. Việc suy thoái đất và cạn kiệt các nguồn nước một
cách nhanh chóng cũng tạo ra mối đe doạ nguy hiểm đối với việc sản xuất lương thực trong
tương lai.
8. KHÁI NIỆM MÔI TRƯỜNG HỖ TRỢ SỨC KHOẺ
Trong khái niệm môi trường hỗ trợ sức khoẻ, người ta bàn tới các yếu tố quyết định
sức khoẻ của toàn bộ quần thể, bao gồm các yếu tố sau:
 Vai trò của các yếu tố môi trường địa phương trong sự phát triển lành mạnh của
một cộng đồng
 Một cách tiếp cận tạo điều kiện nâng cao sức khoẻ cũng như bảo vệ khỏi tiếp xúc
với các yếu tố nguy cơ môi trường
 Xây dựng công bằng trong y tế đối với một cộng đồng
 Tầm quan trọng của phát triển bền vững như là một vấn đề sức khoẻ
 Tầm hiểu biết của con người về môi trường trên một diện rộng
 Nhận thức của con người về sự quan tâm và tham gia của cá nhân nhằm duy trì

hoặc tạo ra một môi trường lành mạnh
Nguồn: Haglund và cộng sự, 1992.
8. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
8.1. Tình hình thực hiện Chính sách và quản lý môi trường
Về chính sách bảo vệ môi trường. Vào những năm 80, lần đầu tiên các nhà
khoa
học đã đưa ra dự thảo chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Tháng 12/1992, Hội nghị
Quốc tế về Môi trường và Phát triển Bền vững đã thông qua kế hoạch 10 năm về môi
trường, đây được coi như một chiến lược quốc gia về môi trường cho giai đoạn 1991 - 2000.
Trên cơ sở đó, nhiều chính sách, văn bản pháp luật, hàng loạt các hoạt động về quản lý môi
trường đã được ban hành như Luật Bảo vệ Môi trường (1993, sửa đổi bổ sung năm 2005),
Nghị định 175/CP về "Hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường", Nghị định 26/CP về
"Xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường". Đặc biệt năm 1998, Bộ chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 36/CT-TW về "Tăng cường công tác

bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Hệ thống quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương đã được hình thành và đi
17

vào hoạt động nề nếp. Những điều này đã góp phần không nhỏ ngăn chặn ô nhiễm, suy
thoái và sự cố môi trường, góp phần cải thiện đáng kể chất lượng môi trường ở nước ta.
Về chính sách quản lý sức khoẻ môi trường, trong thời gian qua, ngành y tế
đã có
một số những chính sách, chiến lược riêng lẻ cho những hoạt động về sức
khoẻ môi
trường như quản lý chất lượng vệ sinh và an toàn thực phẩm (Cục Quản lý
Chất lượng Vệ sinh An toàn Thực phẩm, Viện Dinh dưỡng, ), những chính sách về
vệ sinh học đường, xây dựng các chỉ số đánh giá chất lượng nước sinh hoạt, xây
dựng tiêu chuẩn về vệ sinh lao động và xác định những bệnh nghề nghiệp v.v Một
vấn đề cơ bản là ngành y tế đã có một hệ thống hoàn chỉnh, hoạt động có hiệu quả
từ trung ương đến địa phương, đó là hệ thống y học dự phòng, các hoạt động về sức
khoẻ môi trường đều thông qua hệ thống này. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
thực thi các chính sách và chiến lược về sức khoẻ môi trường.
Tuy nhiên, cho đến
nay chúng ta chưa có một hội nghị nào có tầm cỡ quốc gia bàn
về chiến lược, các
chính sách riêng, cụ thể cho sức khoẻ môi trường bởi lẽ chúng ta cũng
chưa ra được
một định nghĩa rõ ràng hay một khái niệm cụ thể về sức khoẻ môi trường ở
Việt
Nam. Đây là một vấn đề trong thời gian tới các cấp, các cơ sở y tế trong toàn quốc
cần phải quan tâm và tiến hành. Cơ quan giữ vai trò quan trọng trong việc này là
Cục Y
tế Dự phòng - Bộ Y tế trong việc phối hợp với ngành môi trường cần đề nghị
Chính phủ để có một Hội nghị quốc gia bàn về chính sách và chiến lược quốc gia về

sức khoẻ môi trường. Trong năm 2006, diễn đàn quốc gia về sức khoẻ môi trường
đã được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với sự phối hợp của Cục Bảo
vệ Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường) và Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế). Bản
thảo chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường cũng đã được đưa ra bàn luận tại
diễn đàn để tiến hành thu thập ý kiến xây dựng.
8.2. Thực trạng và chiến lược về sức khoẻ môi trường
Tuy Việt Nam đã đạt nhiều kết quả về bảo vệ môi trường, tránh hiệu quả xấu tác
động lên sức khoẻ con người, nhưng còn nhiều vấn đề bất cập trong quản lý môi
trường,
sức khoẻ môi trường như qui hoạch môi trường chưa lồng ghép với phát
triển kinh tế -
xã hội, giáo dục-đào tạo, nâng cao nhận thức môi trường, qui hoạch phát triển đô thị, qui
hoạch quản lý tổng thể rừng, vùng ven biển, bảo tồn đa dạng sinh học, v.v . Hệ thống tổ
chức quản lý, cơ chế và chính sách còn nhiều hạn chế. Kinh phí ít, đầu tư dàn trải nên kết
quả nhiều khi không thấy rõ ràng, làm cộng đồng
dân cư thay đổi nhận thức còn quá chậm,
làm cho môi trường và sức khoẻ môi
trường hiện tại còn nhiều điều cần bàn.
8.2.1. Thực trạng
 Môi trường tiếp tục xuống cấp
- Rừng tiếp tục bị suy thoái
18

- Đa dạng sinh học trên đất liền và dưới biển tiếp tục bị suy giảm
- Chất lượng các nguồn nước tiếp tục xuống cấp
- Môi trường đô thị và công nghiệp tiếp tục bị ô nhiễm
- Chất lượng môi trường nông thôn có xu hướng xuống cấp nhanh
- Môi trường lao động ngày càng bị nhiễm độc -Sự cố môi trường gia tăng mạnh
- Môi trường xã hội: phân hoá giầu nghèo ngày càng tăng, tệ nạn xã hội, v.v
 Tác động của môi trường toàn cầu

- Vấn đề môi trường của lưu vực sông Mê Kông và sông Hồng - Vấn đề môi trường của
các rừng chung biên giới
- Vấn đề mưa a-xít
- Vấn đề ô nhiễm tầng khí quyển, hiệu ứng nhà kính và suy giảm tầng ozon,
hậu quả của vấn đề này gây ra:
+ Sự thay đổi khí hậu của trái đất đẫn đến sự mất cân bằng của hệ sinh thái + Mực
nước biển dâng cao do nhiệt độ trái đất tăng
+ Hiện tượng El-nino và La-nina làm gia tăng mưa bão và hạn hán nghiêm trọng
+ Vấn đề ô nhiễm biển và đại dương
- Vấn đề chuyển dịch ô nhiễm
 Thách thức của môi trường nước ta trong thời gian tới
- Xu thế suy giảm chất lượng môi trường tiếp tục gia tăng
- Tác động của các vấn đề môi trường toàn cầu ngày càng mạnh và phức tạp
hơn
- Gia tăng dân số và di dân tự do tiếp tục gây áp lực lên môi trường
- Tăng trưởng nhanh về kinh tế cùng với việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đã và đang tác động mạnh lên môi trường
- Hội nhập quốc tế, du lịch và tự do hoá thương mại toàn cầu sẽ gây ra nhiều
tác động phức tạp về mặt môi trường
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp kém
- Năng lực quản lý môi trường và sức khoẻ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu
- Mẫu hình tiêu thụ lãng phí hay khát tiêu dùng.
8.2.2. Chiến lược
 Phòng ngừa ô nhiễm
 Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học
 Cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội.
19

8.2.3. Giải pháp
 Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường và sức khoẻ môi

trường
 Tăng cường vai trò sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo
vệ môi trường
 Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường
 Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường và sức khoẻ môi trường
 Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút tài trợ nước ngoài
 Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội
 Cần có một chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010. Định hướng kế hoạch hành

động ưu tiên về bảo vệ môi trường giai đoạn 2001-2005 (Kế hoạch hành động

môi trường 2001-2005), Hà Nội, 2001.
2. UNEP, 2001. Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, 2001.
3. Annalee, Y. et al. Basic Environmental Heatlh, Oxford University Press, 2001.
4. Monroe T. Morgan. Environmental Health, 2
nd
Edition, Morton Publishing

Company, 1997.
5. The National Environmental Health Strategy, Publications Production Unit,

Commonwealth Department of Health and Aged Care, Commonwealth of

Australia, 1999.
20


BÀI 2. CƠ SỞ SINH THÁI HỌC CỦA SỨC KHOẺ VÀ BỆNH TẬT

MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Mô tả được mối quan hệ giữa các hoạt động của con người và mất cân bằng sinh
thái
2. Trình bày được những tác động của thay đổi hệ sinh thái lên sức khoẻ con người
3. Giải thích được mối quan hệ giữa sức khoẻ con người và môi trường xung quanh
4. Trình bày được một số bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm liên quan đến
môi trường
1. CON NGƯỜI VÀ HỆ SINH THÁI
1.1. Thế nào là một hệ sinh thái
Theo luật Bảo vệ môi trường Việt Nam 2005, hệ sinh thái là hệ quần thể sinh vật
trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất định cùng tồn tại và phát triển, có tác động qua lại
với nhau. Hệ sinh thái bao gồm cả thành phần lý học và hoá học như đất, nước và các chất
dinh dưỡng cung cấp cho các sinh vật sống trong nó. Những sinh vật này có thể là những
động vật, thực vật bậc cao, với cấu trúc cơ thể phức tạp nhưng cũng có thể là các vi sinh vật
nhỏ bé. Hệ sinh thái bao gồm những mối tác động qua lại giữa các sinh vật sống trong một
sinh cảnh nhất định và con người là một phần của hệ sinh thái. Sức khoẻ và sự phồn thịnh
của xã hội loài người phụ thuộc vào những lợi ích mà hệ sinh thái mang lại.
Con người đã được hưởng rất nhiều sản phẩm của các hệ sinh thái tự nhiên như thức
ăn, động - thực vật làm cảnh, gỗ để xây dựng và làm nhiên liệu, cùng vô vàn các loài động
vật, thực vật rất có giá trị trong công tác phòng và chữa bệnh. Những sản phẩm này chiếm
một phần quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, gần đây người ta mới
nhận thấy rằng các hệ sinh thái tự nhiên còn đóng nhiều vai trò hết sức quan trọng khác cho
sự tồn tại và phát triển của con người. Một số trong những vai trò này là khả năng làm sạch
không khí và nước, giải độc và phân giải

các loại rác thải, điều hoà khí
hậu, tăng sự màu

mỡ cho đất, kiểm soát hầu hết các động thực vật có hại cho nông
nghiệp, tạo ra và
duy trì đa dạng sinh học cung cấp giống cho nông nghiệp, nguyên vật liệu cho công
nghiệp, dược liệu v.v. Những lợi ích này tương đương hàng nghìn tỉ đô la mỗi năm, tuy
nhiên hầu như không được quy ra tiền để có thể thức tỉnh nhận thức con
người nhằm
thay đổi các hành vi làm tổn hại tới hệ sinh thái.

1.2. Môi trường và sức khoẻ con người
Tần suất mắc các bệnh do các yếu tố môi trường gây ra phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện địa lý và tình trạng kinh tế của từng quốc gia. Việc phơi nhiễm với các nguy cơ
21

từ môi trường có liên quan chặt chẽ tới tình trạng phát triển của mỗi quốc gia và tình trạng
kinh tế - xã hội của từng cá nhân và từng cộng đồng. Những người nghèo thường ít được
bảo vệ khỏi các nguy cơ môi trường hơn những người giàu, cho dù đó là những nguy cơ
từ các nhà máy, chất thải độc hại, môi trường trong và ngoài nhà, nước sinh hoạt bị ô
nhiễm v.v…
Trong khoảng 3 - 4 thập kỷ trở lại đây, ở những quốc gia có nền công nghiệp phát
triển, việc kiểm soát ô nhiễm, thay đổi công nghệ, các quy định và luật môi trường được
thực hiện chặt chẽ đã góp phần làm giảm đáng kể việc phơi nhiễm của con người với các
tác nhân độc hại. Mặc dù những nước này đã cố gắng cắt giảm những nguy cơ trực tiếp
ảnh hưởng tới sức khoẻ con người từ các tác nhân môi trường, nhưng toàn thế giới hiện
đang phải đối mặt với việc thiếu nước sạch do dân số thế giới ngày một tăng, nhu cầu sử
dụng nước cũng ngày một tăng. Việc sử dụng nguyên liệu hoá thạch và thải ra những chất
khí gây ảnh hưởng tới tầng ô zôn là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng “hiệu ứng nhà kính” và
“phá huỷ tầng ô zôn”.
Con người luôn chịu những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ các nguy cơ môi
trường. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng ô nhiễm không khí làm tăng nguy cơ mắc
các bệnh về đường hô hấp, tăng nguy cơ tử vong do các bệnh tim mạch và các bệnh phổi

mạn tính. Cũng theo thống kê của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP, 2003),
cứ 6 người thì có 1 người thường xuyên không có được nguồn nước uống an toàn, hơn 1/3
dân số thế giới (khoảng 2,4 tỉ người) không có các điều kiện vệ sinh đầy đủ, cứ mỗi 8 giây
lại có 1 trẻ em chết vì các bệnh có liên quan tới nước và 80% các bệnh tật, tử vong tại các
nước đang phát triển là có liên quan đến nước. Công nhân và cộng đồng dân cư ở tất cả các
quốc gia trên thế giới đều đang phải chịu những nguy cơ tiềm ẩn từ các sự cố công nghiệp.
Vụ nổ ở nhà máy điện nguyên tử Chernobyl (Liên Xô cũ, 1986) hay vụ nổ ở nhà máy hoá
chất Bhopal (Ấn độ, 1984) là những ví dụ điển hình, với hàng trăm đến hàng nghìn người tử
vong, hàng trăm nghìn người phải chịu ảnh hưởng (hộp 1).
Ví dụ: Thảm hoạ Bhopal, Ấn Độ, 1984.
Vụ thảm hoạ xảy ra vào khoảng 22h đêm 2/3/1984 tại trung tâm thành phố Bhopal
với khoảng 900.000 dân, bang Madhya Pradesh, Ấn Độ, và trở thành vụ thảm hoạ sự cố
công nghiệp lớn nhất trong lịch sử. Vào lúc 22h đêm 2/3/1984, khoảng 40.000 tấn methyl
isocyanate (MIC) - một loại chất trung gian được sử dụng trong quy trình sản xuất hoát chất
bảo vệ thực vật -rò rỉ từ 2 hầm lưu trữ từ một nhà máy Liên hợp sản xuất hoá chất bảo vệ
thực vật. Đây là một loại hoá chất nguy hiểm, có đặc tính nhẹ hơn nước một chút, nhưng lại
nặng hơn không khí gấp 2 lần, do vậy, khi thoát ra không khí, đám khí này sẽ tồn tại ở gần
mặt đất. Sự rò rỉ này kéo dài gần 2 tiếng, bắt đầu từ 22h ngày 2/3/1984. Do hiện tượng
nghịch đảo nhiệt, khí MIC sau khi rò rỉ không thoát lên cao được, và đám mây khí này bao
phủ một diện tích khoảng 8km2 quanh nhà máy. Đám mây khí độc hại này dày đặc đến nỗi
22

mọi người gần như không nhìn thấy gì. Đám khí này gây ho kích ứng, ngạt thở, cay xè -
bỏng mắt. Khí độc này làm bỏng các mô ở mắt và phổi nạn nhân, tấn công hệ thần kinh
trung ương, làm con người mất khả năng tự điều khiển (đái, ỉa không tự chủ trong quá trình
chạy trốn).
Vụ rò rỉ xảy ra vào ban đêm, lúc hầu hết mọi người đang ngủ nên số lượng nạn nhân
rất lớn, 2.000 người chết vào ngay sáng hôm sau thảm hoạ, và trong vòng 1 tháng sau sự cố,
có thêm 1.500 người chết. 300.000 người phải nhập viện vì ngộ độc khí MIC.
Sau thảm họa, những nạn nhân còn sống sót bị ảnh hưởng nặng nề như: ung thư, rối

loạn kinh nguyệt, quái thai, dị dạng bẩm sinh v.v 50.000 người không thể quay trở lại làm
việc do bị chấn thương, nhiều người thậm chí không thể đi lại được.
Đến năm 1989, Liên hợp sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật đồng ý chi trả 470 triệu
đô la cho việc đền bù thiệt hại do vụ rò rỉ khí MIC gây ra. Tuy nhiên, các nạn nhân không
được tham gia ý kiến trong các buổi thương thảo về việc định cư của họ. Nhiều nạn nhân
cảm thấy mình bị lừa khi chỉ nhận được các khoản đền bù từ 300 đến 500 $ hoặc số tiền
tương đương với các điều trị về mặt y tế trong 5 năm.
(Nguồn: truy cập ngày 5/4/2007 và
truy cập ngày 30/3/2007.)
1.3. Sự ổn định của hệ sinh thái: nền tảng của sức khỏe con người
Sức khỏe của con người không chỉ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những chất ô nhiễm
do con người hít phải, ăn phải, hay thấm qua da con người. Các chất độc hại còn ảnh hưởng
gián tiếp đến sức khỏe con người bằng cách phá vỡ sự ổn định của các hệ sinh thái, do vậy
làm giảm năng suất của hệ sinh thái và tạo điều kiện thuận lợi cho các tác nhân có hại cho
sức khỏe của con người sinh trưởng và phát triển.
Chẳng hạn, việc phá rừng lấy gỗ, đốn củi, lấy đất canh tác hoặc chăn nuôi làm giảm
khả năng giữ nước của rừng, tăng các dòng chảy xuống sông suối và gây nên lụt lội, trượt
đất, thậm chí lũ quét. Những hoạt động này đã gây ra các vụ lụt và trượt đất liên tiếp ở
Bangladesh và Philippines. Lụt lội làm giảm năng suất nông nghiệp, và ảnh hưởng lớn tới
sức khỏe con người, thậm chí tử vong do đuối nước hoặc do chấn thương. Lụt lội cũng làm
phá hủy các nhà máy xử lý nước và chất thải, tạo điều kiện cho các bệnh truyền
nhiễm lây lan. Ở những khu vực mà người dân sống quanh lưu vực các con sông, và
nguồn nước ăn, uống của họ là nước bề mặt tại các sông thì những ảnh hưởng tới sức
khỏe của dân cư tại vùng này trong và sau bão lụt lại càng nặng nề hơn. Việc phá các khu
rừng nhiệt đới cũng làm tăng sự lan truyền của bệnh sốt rét và một số bệnh do ký sinh
trùng, vì khi phá rừng con người đã làm tăng số lượng của các vũng nước tĩnh, nước đọng
xung quanh các khu rừng vừa bị đốn hạ và những con đường được tạo ra để chuyên chở
gỗ, củi.
23


Việc phá rừng, đô thị hóa nhanh chóng, đặc biệt là ở quanh các lưu vực sông, đã làm
tăng lượng các trầm tích lắng đọng và những chất ô nhiễm khác trong sông - nguồn nước
thường được sử dụng để làm nước ăn uống và sinh hoạt cho con người. Hậu quả là con
người lại phải đầu tư những trang thiết bị đắt tiền để xử lý nước nhằm bảo vệ sức khoẻ của
mình. Các nguồn nước thải từ đô thị cũng như các loại phân bón hoá học được thải vào
trong môi trường đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các vi sinh vật trong các dòng
sông và trong các vùng biển nông, từ đó lại làm giảm nồng độ ô xy hoà tan trong nước, ảnh
hưởng tới cá và các loài sinh vật khác.
Ngoài những tác hại trên, phá rừng còn làm thay đổi điều kiện khí hậu trong khu vực
cũng như trên phạm vi toàn cầu. Theo hai nhà bác học Myers và Shulka, phá rừng làm thay
đổi lượng mưa trong một khu vực và làm tăng sự ấm nóng trên toàn cầu.
Những mất cân bằng trong hệ khí quyển toàn cầu cũng tạo ra những nguy cơ gián tiếp đối
với sức khoẻ con người. Khí thải có chứa các hợp chất hydrocarbon từ các loại máy lạnh, tủ
lạnh và từ các nhà máy làm phá huỷ ôzôn ở tầng bình lưu. Kết quả là nguy cơ mắc ung thư
da ở người có thể tăng lên.
1.4. Các hoạt động của con người và tác động lên hệ sinh thái
Các hệ sinh thái tự nhiên tham gia vào rất nhiều quá trình khác nhau và có ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới con người và các sinh vật khác. Những hoạt động của con
người trong môi trường đã, đang và sẽ làm thay đổi rất nhiều quá trình tự nhiên này theo
một chiều hướng bất lợi cho sức khoẻ và sự phồn thịnh của chính xã hội loài người. Bảng
sau đây sẽ tóm tắt một số quá trình tự nhiên và những tác động của con người lên những
quá trình này:
Bảng 1. Những ảnh hưởng của con người lên một số quá trình diễn ra trong hệ sinh thái

Các quá trình của hệ sinh thái Tác động của con người
Quá trình tạo đất

Các hoạt động trong nông nghiệp đã tăng
sự tiếp xúc của lớp đất bề mặt với mưa
nắng làm giảm đáng kể lớp đất bề mặt màu

mỡ
Kiểm soát chu trình nước

Việc chặt phá rừng bừa bãi và các hoạt
động khác của con người gây ra lụt lội, lũ
quét hay hạn hán ở nhiều nơi

Phân hủy các loại rác thải Nước thải, rác thải không qua xử lý và
24

nước thải chảy từ đồng ruộng, trang trại
chăn nuôi làm tăng ô nhiễm nước

Dòng năng lượng

Một số ngành công nghiệp và nhà máy hạt
nhân đã làm tăng ô nhiễm nhiệt độ đối với
môi
trường xung quanh. Các hoạt động đốt cháy
các nhiên liệu hoá thạch sẽ phát thải ra các
khí nhà kính và có thể dần dần làm tăng
nhiệt độ trái đất (Hiệu ứng nhà kính)

Chu trình tự nhiên của các chất dinh
dưỡng

Việc sử dụng các nguyên liệu không phân
huỷ được và các hoạt động chôn lấp rác đã
ngăn cản quá trình hoàn trả lại môi trường
nhiều nguyên liệu hữu ích

Con người là một phần của hệ sinh thái trên trái đất. Những hoạt động của con
người có thể có lợi hay có hại đối với sự cân bằng của hệ sinh thái. Phá hoại nơi sinh sống
của các loài động - thực vật, có thể là do các hoạt động vô tình hay cố ý của con người, đều
đe doạ đến sự cân bằng của các hệ sinh thái trên trái đất. Nếu những tác động này không
được giải quyết thì sự ổn định của nhiều hệ sinh thái có thể không có khả năng phục hồi .
Con người có thể ảnh hưởng lên hệ sinh thái theo nhiều khía cạnh khác nhau như sau:
Bảng 2. Những tác động tiêu cực mà con người gây ra cho các hệ sinh thái
Hoạt động của con người Ảnh hưởng lên hệ sinh thái
Gia tăng dân số
Gia tăng dân số dẫn đến gia tăng tốc độ
tiêu thụ nguồn tài nguyên thiên nhiên phục
hồi và không phục hồi trên trái đất.
Tiêu thụ ồ ạt

Xã hội công nghiệp hoá ở những nước phát
triển tiêu thụ nhiều tài nguyên trên đầu
người hơn những nước nghèo và chậm phát
triển
Các kỹ thuật tiên tiến

Thông thường, chúng ta sản xuất ra và ứng
dụng vô vàn các kỹ thuật hiện đại mà không
hiểu rõ những tác động tiềm tàng mà nó sẽ
25

gây ra cho môi trường sinh thái
Chặt phá rừng

Làm mất đi một diện tích rất lớn rừng nhiệt
đới và các sản phẩm của đa dạng sinh học

trong các khu rừng này
Làm gia tăng ô nhiễm môi trường

Ô nhiễm đất, nước, không khí và phóng xạ
đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới hệ sinh
thái
Gây ra những thay đổi trong khí quyển
Bao gồm sự gia tăng của các khí nhà kính
mà chủ yếu là hậu quả của quá trình đốt
cháy các loại nhiên liệu hoá thạch và sự suy
giảm ô zôn ở tầng bình lưu. Các chất ô
nhiễm khác cũng gây nhiều tác động tiêu
cực tới sinh vật sống.
Gia tăng dân số tác động trực tiếp tới quá trình đô thị hoá và sự lan tràn bệnh dịch.
Trong vòng một nghìn năm qua, dân số thế giới gia tăng với một tốc độ chóng mặt. Gia tăng
dân số làm tăng tốc độ đô thị hoá, người dân ở nông thôn di cư ra thành phố để mưu cầu
một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân cũng như cho tương lai của thế hệ con cháu. Trước
những năm 1950, dân số sống ở đô thị trên thế giới chỉ chiếm khoảng dưới 30%, nhưng đến
năm 2050 thì con số này ước tính sẽ tăng lên tới hơn 60%. Vào năm 2000, trên thế giới có
khoảng 20 thành phố với số dân vượt quá 10 triệu người (McCartney, 2002). Điều kiện
sống đông đúc chật hẹp, vệ sinh môi trường kém do quá trình đô thị hoá xảy ra mạnh mẽ ở
nhiều nơi tạo điều kiện cho các bệnh truyền nhiễm phát triển và lây lan. Một số bệnh dịch
phổ biến trên thế giới làm nhiều người mắc và chết là các bệnh tiêu chảy, lao phổi, sốt rét và
tả. Ngoài ra còn có nhiều bệnh mới nảy sinh hay các bệnh cũ quay trở lại do sự thay đổi các
hệ sinh thái. Điều này chứng tỏ mối tương quan chặt chẽ giữa gia tăng dân số, thay đổi môi
trường sinh thái và sức khoẻ con người.
Các hoạt động của con người trong thời gian qua đã có những ảnh hưởng tiêu cực
tới trạng thái cân bằng của nhiều hệ sinh thái. Mối đe doạ trước mắt là sự phá hoại những
nơi sinh sống tự nhiên của sinh vật cũng như sự xâm nhập của các loài lạ xẩy ra sau khi sinh
cảnh bị tàn phá. Đối với hệ sinh thái biển thì việc đánh bắt cá và các loài hải sản tràn lan là

một mối đe doạ lớn tới sự cân bằng và phồn thịnh của các hệ sinh thái nơi đây. Một trong
những tác động lớn nhất mà con người gây ra cho hệ sinh thái đó là làm mất đa dạng sinh
học tự nhiên. Theo ước tính của Lawton và May (1995), cứ mỗi giờ qua đi trên thế giới sẽ
có một loài bị tuyệt chủng nhưng đáng tiếc là trong quá trình tiến hoá phải mất tới 10.000
năm hoặc thậm chí lâu hơn mới sinh ra được một loài mới. Các mối đe doạ khác tới hệ sinh
thái bao gồm sự thay đổi chu trình cacbon, nitơ và các chất hoá học khác trên trái đất do tác

×