Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài 1 tiểu luận htkt xh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.46 KB, 14 trang )

Đề tài: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam hiện nay
I. Lý luận chung
Hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết có vị trí vơ cùng quan trọng.
Nó được coi là chìa khóa giúp con người hiểu tất cả các vấn đề về xã hội. Toàn
bộ nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cho con người hiểu được
nguyên nhân, động lực của sự phát triển xã hội xã hội loài người là một q
trình lịch sử tự nhiên, khơng phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người mà nó
tuân theo những quy luật khách quan.
Quan điểm này của K. Marx làm thay đổi hẳn cách nhìn của con người về xã
hội: trước đây người ta hiểu sự tồn tại và phát triển của xã hội là do một thế lực,
do nhà nước, do cá nhân của giai cấp cầm quyền muốn đưa đất nước theo hướng
nào thì đưa. Nhưng hiện thực đã chứng minh không phải như vậy. Bởi một điều
ta dễ dàng nhận ra là: nếu bất kỳ một nước nào mà những người đứng đầu muốn
đất nước mình giàu đẹp và hùng mạnh là quốc gia đó giàu đẹp, hùng mạnh ngay
thì Việt Nam ta khơng phải chịu bao cuộc chiến tranh xâm lược của hết kẻ thù
phương Đông lẫn Phương Tây.
Dù K. Marx và Engel chưa một lần đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về
hình thái kinh tế - xã hội. Nhưng qua hàng loạt những tác phẩm, qua ý tứ văn
phong của các nhà kinh điển vĩ đại của chúng ta thì tạm có định nghĩa hình thái
kinh tế - xã hội như sau: HTKT – XH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX
đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX, và với
một KTTT tương ứng được xây dựng trên những QHSX ấy.
II. Nội dung học thuyết
Đi vào cụ thể phân tích định nghĩa ta thấy trước hết hình thái kinh tế - xã hội là
một xã hội thống nhất, toàn vẹn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Tức nó bao
gồm đủ tính chất đơn giản lẫn phức tạp ở trong nó. Nhưng xã hội này không xét
chung chung, kéo dài triền miên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác mà nó
1



được xét trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể (được xét theo những dấu ấn mà
lịch sử đó để lại.
Như vậy trong lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội:
Cộng sản nguyên thủy; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến; Tư bản chủ nghĩa và hình
thái kinh tế - xã hội được coi là tương lai là hình thái Cộng sản chủ nghĩa nhưng
giai đoạn đầu của nó chính là thời kỳ Xã hội chủ nghĩa – một thời kỳ quá độ.
NHìn lại định nghĩa hình thái kinh tế - xã hội, ta thấy kết cấu của nó gồm các
yếu tố: Lực lượng sản xuất; Quan hệ sản xuất (Cơ sở hạ tầng) vả Kiến trúc
thượng tầng.
Ba yếu tố này có vị trí, vai trị khác nhau trong hình thái kinh tế - xã hội nhưng
giữa chúng có mối quan hệ với nhau và thể hiện qua 2 quy luật:
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
Suy cho đến cùng trong 3 yếu tố này thì lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định
các yếu tố cịn lại.
Qua đó cho thấy động lực của lịch sử chính là hoạt động thực tiễn của con người
dưới tác động của các quy luật khách quan. Nó chính là học thuyết chỉ ra cho
con người thấy con người muốn tồn tại và phát thì trước hết phải đảm bảo nhu
cầu ăn, mặc, ở… rồi sau mới đến hoạt động chính trị, vui chơi…
Học thuyết này cũng làm nổi bật các quan hệ xã hội vật chất tức những quan hệ
sản xuất và nó khắc phục những tư tưởng duy tâm về xã hội, nó trở thành hịn đá
tảng của mọi nghiên cứu về xã hội.
Như chúng ta đã biết, sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người
và xã hội lồi người. Đó là q trình hoạt động có mục đích và khơng ngừng
sáng tạo của con người. Con người muốn tồn tại phải lao động sáng tạo ra của
cải vật chất như Engels nói: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội lồi người với


2


loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người sản xuất”.
(M-E-toàn tập – tập 34 – tr,241)
Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuât vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra
chính bản thân con người. Ba q trình này khơng tách biệt nhau trong đó sản
xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội, xét đến cùng
có thể quy định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội. Vậy sản xuất ra của
cải vật chất và vai trò của nó thể hiện trong xã hội là như thế nào?
Ta thấy, sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên (trực tiếp hay gián tiếp), biến đổi các dạng vật chất của tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Chính lao động sản xuất giúp sáng tạo ra chính bản thân con người với đúng chữ
“Người” viết hoa và ngày càng hoàn thiện hơn. Cụ thể, hoạt động lao động sản
xuất đã giúp con người hàng triệu năm dò dẫm những bước đi từ bỏ cái lốt
hoang dã để bước vào thế giới con người. Hoạt động lao động vừa thay đổi cấu
trúc, vừa sáng tạo thêm những cái mà con vật khơng có. Đó là:
Làm cho lưng đứng thẳng
Làm cho não phát triển, làm ngôn ngữ, chữ viết ra đời…
Để tìm hiểu 1 cách sâu sắc học thuyết này ta đi tìm hiểu 2 quy luật cơ bản của
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Trước tiên là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất:
Mỗi giai đoạn của lịch sử, cách thức con người sản xuất là khac nhau nhưng dù
sản xuất bằng cách nào thì con người ln thực hiện mối quan hệ song trùng:
Con người với tự nhiên
Con người với con người
Và toàn bộ các yếu tố thuộc con người – thuộc tự nhiên tham gia vào quá trình
sản xuất gọi là lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất gồm nhiều yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động. Trong
tư liệu sản xuất phải kể đến đối tượng lao động và công cụ lao động.
3


Nói đến con người đây khơng phải là con người chung chung mà là người lao
động, người đang trong quá trình lao động sản xuất, có sức khỏe, khơng khiếm
khuyết về mặt cơ thể, có đời sống tinh thần bình thường, có trình độ..
Điều này ta thấy ngay trong chính sách ưu tiên phát triển nguồn nhân lực của
Đảng và nhà nước ta là đào tạo con người đủ cả thể lực, trí lực và đạo đức.
Khổng Tử dạy rằng: “Người có trí rồi mới có nhân”
Hồ chí Minh thì dạy rằng: “Lấy đức làm gốc”
Song điều quan trọng và đúng đắn nhất hiện nay là đức – tài phải song song
cùng tồn tại thì mới đào tạo được một đội ngũ những người con ưu tú, có ích cho
xã hội.
Xét về công cụ lao động, là những vật hay phức hợp vật mà cn người sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động tạo ra của cải vật chất.
Công cụ lao động là yếu tố xương cốt của sản xuất
Nhìn chung các yếu tố của lực lượng sản xuất ln biến đổi theo chiều hướng
ngày càng hồn thiện nên nó là yếu tố cách mạng.
Về phía quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong q trình sản
xuất ra của cải vật chất. Nó biểu hiện qua 3 mối quan hệ là:
Quan hệ về sự sở hữu tư liệu sản xuất
Quan hệ về sự tổ chức, quản lý và phân công lao động
Quan hệ về sự phân phối sản phẩm
Trong 3 mối quan hệ này thì quan hệ đầu tiên là quan hệ quan trọng nhất quyết
định hai mối quan hệ còn lại. Trong xã hội ai là người nắm quyền sở hữu sẽ là
người nắm quyền lực. Từ đó khẳng định QHSX là quan hệ ít thay đổi, là quan
hệ mang tính tĩnh.
Vậy mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là quan hệ biện chứng

Lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù
hợp:
Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất
(QHSX) từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX.
4


Khi đó, QHSX trở thành xiềng xích, kìm hãm LLSX phát triển. Yêu cầu khách
quan của sự phát triển LLSX tất yếu dẫn đến thay thế QHSX cũ bằng QHSX
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục
phát triển.
Nhưng rồi QHSX mới này sẽ lại trở nên khơng cịn phù hợp với LLSX đã
phát triển hơn nữa nên sự thay thế lại tiếp tục diễn ra.
QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX
Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy
LLSX phát triển.
Nếu QHSX (khơng phù hợp) lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả
tạo so với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Quy luật này có ý nghĩa lớn lao với nền kinh tế đi lên CNXH ở Việt Nam ta.
Cụ thể: Những năm quan liêu bao cấp, do chưa xác định chính xác trình độ lực
lượng sản xuất, chúng ta đã tiến hành nền kinh tế ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng trong khi nguồn ngun liệu thì ít, trình độ yếu kém, mà quan hệ sản xuất
lại hoàn toàn là quốc doanh, hợp tác xã … đã kìm hãm nền kinh tế nước ta đi
đến lạm phát 3 con số, khơng có một động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, bởi
mọi thứ đầu ỷ lại vào nhà nước, trong khi đất nước còn quá nghèo, thiếu thốn đủ
thứ..
Do vậy, quy luật mối qua hệ giữa LLSX và QHSX là cơ sở lý luận để ta tập
tring xóa bỏ quan liêu, ba cấp. Đảng ta xác định, muốn đi đúng hướng XHCN
tiến lên CSCN thì trong thời kỳ quá độ này,Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành
đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ

chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật. Nhằm phát huy, kích
thích mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mnah5 mẽ lực lượng
sản xuất của CNXH. Từng bước xã hội hóa XHCN, q trình đó được thực hiện
từng bước thơng qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, các hình thức tập thể, hợp tác xã, quốc doanh …
để dần hình thành những tập đồn kinh doanh lớn trong đó các đơn vị kinh tế
5


quốc doanh và tập thể của nhà nước làm nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì
của xã hội cũ khơng cịn phù hợp với xã hội mới, khơng đem lại hiệu quả kinh
tế. Chúng ta kế thừa những thành tựu kinh tế xã hội để phát triển đất nước. Đẩy
mạnh phát triển con người, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chăm lo
cho y tế, giáo dục. Đầu tư mạnh cho khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ hợp tác
đối ngoại với các quốc gia và tổ chức trên thế giới.
Tiếp theo, ta tìm hiểu quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. K/n: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản
xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Xét
về kết cấu của một cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ
sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới (mầm mống quan hệ sản xuất của xã
hội sau).
Trong mối quan hệ của các quan hệ sản xuất của cơ sở hạ tầng, thì quan
hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản
xuất khác. Tương ứng với quan hệ sản xuất trong cơ sơ hạ tầng là các thành
phần kinh tế khác nhau. Trong xã hội có giai cấp cơ sở hạ tầng mang tính giai
cấp. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị qui định các quan hệ sản xuất khác.
Đặc trưng của một cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui định.
K/n: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội như chính
trị, pháp quyền, triết học, tôn giáo, đọa đức, nghệ thuật,v.v. cùng với những
thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã

hội, v.v.và những quan hệ nội tại của nó được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất
định.
Mỗi bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều có đặc điểm và qui
luật riêng, nhưng chúng đều có sự tác động biện chứng qua lại lẫn nhau khi phản
ánh cơ sở hạ tầng. Trong các bộ phận khác nhau đó thì nhà nước, pháp luật và
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị là các bộ phận quan trọng nhất. Trong xã hội
có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, phản ánh tính giai cấp ở
6


trong cơ sơ hạ tầng. Trong đó ln thể hiện cuộc đấu tranh về mặt hệ tư tưởng
của các giai cấp đối kháng.
Đặc trưng của một kiến trúc thượng tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui
định. Nhưng trong xã hội có giai cấp đối kháng thì bộ phận thể hiện quyền lực
xã hội quan trọng nhất là nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị thể hiện
quyền thống trị xã hội của nó về mặt chính trị, pháp luật và các mặt quan hệ xã
hội khác.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể
hiện ở chổ, cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào thống trị
về mặt kinh tế thì đồng thời thống trị về mặt tinh thần. Cho nên cơ sở hạ tầng
nào thì sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Sự biến đổi của cơ sở hạ
tầng tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó
diễn ra trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, hoặc giữa các hình thái
kinh tế – xã hội khác nhau. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng
do nó sinh ra cũng sẽ mất theo và cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì một kiến trúc
thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Cho nên, một khi cơ sở hạ tầng
cũ bị thay thế bằng một cơ sở hạ tầng mới, thì sự thống trị của giai cấp thống trị
cũ cũng mất theo, làm xuất hiện một giai cấp thống trị mới, một nhà nước mới,
một hệ tư tưởng thống trị mới. Một khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc
thượng tầng của nó cũng mất theo. Nhưng có những nhân tố riêng lẽ của kiến

trúc thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại rất lâu trong xã hội mới, nhất là về mặt tư
tưởng. Mặt khác cũng có thể có những nhân tố nào đấy của kiến trúc thượng
tầng cũ còn được giai cấp thống trị mới kế thừa. Cho nên trong q trình chuyển
hóa giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ và cơ sở hạ tầng, kiến trúc
thượng tầng mới bao giờ cũng bao hàm sự kế thừa lẫn nhau dưới những hình
thức cụ thể nào đó.
Song, về phần mình các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều
tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Nhưng nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng chính
7


trị của giai cấp thống trị tác động một cách trực tiếp và quan trọng nhất. Còn các
bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật …
cũng đều tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nhưng sự tác động ấy thường
phải thông qua nhà nước, pháp luật, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thì mới
phát huy được hiệu kực của nó đối với cơ sở hạ tầng và xã hội.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng cũng
có thể thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển của cơ sở hạ tầng, đồng thời cũng có
thể kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng phản ánh
và thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì nó củng cố bảo
vệ và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Ngược lại nó phản ánh và khơng
thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì lại kìm hãm sự
phát triển của cơ sở hạ tầng.
Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần
kinh tế, tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình
thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế
quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất định về

mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh
tế do sự tác động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó là hệ thống các qui luật
kinh tế xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất, hệ thống các qui luật kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các qui luật kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng
hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà nước khơng chỉ bó hẹp trong kinh
tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các thành phần kinh tế khác, nhằm từng
bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả các thành phần kinh tế khác phục vụ
8


cho q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong đó
kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối với quá
trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải
thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân và gia đình có khả
năng phát huy được mọi tiềm năng kinh tế góp phần vào quá trình phát triển
kinh tế. Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu
cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin là tư
tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội cơng
bằng văn minh … Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin với chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp
công nhân, đội tiền phong của nó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bảo đảm
cho nhân dân ta là người chủ thật sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc
về xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
mọi khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã
hội trong cuộc phát triển kinh tế và văn hóa phục vụ ngày càng cao của đời sống
nhân dân. Các tổ chức, thiết chế xã hội, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ

thống chính trị xã hội chủ nghĩa đều hướng về mục tiêu chung làm cho dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
III. Học thuyết HTKT – XH - lý thuyết và thực tiễn
NHư vậy, xét đến cùng xây dựng đất nước thì khơng thể thiếu bất kỳ mặt
nào trong 3 mặt: LLSX – CSHT – KTTT. Có thể nói học thuyết hình thái kinh tế
– xã hội là quan điểm cơ bản khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và
vạch ra quy luật phát triển của xã hội như một quá trình phát triển tự nhiên. Việc
nhận thức đúng đắn quan điểm này và vận dụng nó một cách phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam đang trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
bởi nó gắn liền với tính chất của thời đại hiện nay là sự quá độ từ tư chủ nghĩa
lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Y nghĩa và tầm quan
9


trọng của vấn đề càng lớn hơn bao giờ hết, đặc biệt là khi hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ.
Những lập luận về con đường phát triển bỏ qua một hình thái kinh tế – xã
hội đã trình bày ở những phần đầu là cơ sở lý luận chung để nhận thức con
đường phát triển ở nước ta.
Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, khi nước ta còn là nước thuộc địa nửa
phong kiến, vấn đề giải phóng đất nước khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân
phong kiến đã là vấn đề to lớn, bức xúc nhất của nhân dân ta.
Cứu nước là đề tài bao trùm và sôi nổi nhất của các thế hệ Việt Nam trên
con đường tìm tịi, thể nghiệm bằng chính xương máu của mình. Các giai cấp và
tầng lớp trong xã hội lúc bấy giờ, từ những sĩ phu yêu nước, giai cấp tư sản,
thậm chí là giai cấp nơng dân cũng đã đứng ra giải quyết vấn đề mà thời đại yêu
cầu. Mặc dù thất bại nhưng các cuộc khởi nghĩa oanh liệt đó trong lịng xã hội
thuộc địa nửa phong kiến đã thể hiện một điều : những yêu cầu dân tộc, dân chủ
của công nhân, nông dân tiểu tư sản – tức của đại đa số dân cư – đã theo con
đường diễn biến tự thân mà hướng tới xã hội chủ nghĩa. Chính từ thực tiễn nước

ta và thực tiễn của các nước thuộc địa, phụ thuộc như nước ta, ngay từ những
năm 1921, Hồ Chí Minh đã nêu một nhận xét quan trọng : “Sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hơi chỉ cịn phải làm cái việc
là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi”.
Đảng ta ngay từ khi ra đời, đã ghi nhận đầy đủ khơng chỉ nhu cầu khach
quan của xã hội lúc đó, mà cịn khẳng địng đúng q trình phát triển hợp quy
luật của nó theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính cương vắn tắt của Đảng
chi( rõ :” Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ
nghĩa cộng sản”.
Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là sự kiện xác nhận quan niệm vừa
duy vật vừa biện chứng của Marx. Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trong nhiều
nước phát triển đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặt ách thống trị và
bóc lộtcủa nó trên phạm vi tồn thế giới, làm cho mâu thuẫn cơ bản của chế độ
10


đó căng thẳng cao độ, đồng thời tạo ra tiền đề cho sự qúa độ lên chủ nghĩa xã
hội. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, chủ nghĩa tư bản trở thành
nguồn gốc tàn phá các nguồn lực của nhân loại và kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Là
nguyên nhân gây ra cuộc Thế chiến thứ nhất. Vấn đề xố bỏ chế độ đó đã trở
thành đòi hỏi sự phát riển xã hội xét trên phạm vi tồn thế giới.
Sự tan vỡ của Liên Xơ cuối năm 1991 bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ, bên cạnh những thành tựu
có ý nghĩa lịch sữ, đã có những nhược điểm to lớn dẫn đến sự trì trệ của kinh tế,
xã hội. Nguyên nhân chủ yếu là do:
 Trong cải tổ Đảng cộng sản Liên Xô đã mắc phải sai lầm rất
nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức, thể hiện
trướcnhất ở người lãnh đạo cao nhất.
 Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện vừa tinh vi, vừa
trắng trợn trong diễn tiến hồ bình.

Vì vậy khơng thể nói cho đến nay vẫn chưa có điều kiện để một nước tiền
tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Đối với nước ta, con
đường phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một tất yếu
và có khả năng thực hiện .
Với những điều kiện chính trị:
Thành quả cuộc cách mạng tháng Tám đã chứng minh: Chủ nghĩa tư bản
có thể tại các thuộc địa trước khi bị đánh bại trên chính q hương của nó. Trãi
qua những gì đã chứng kiến, hơn ai hết nhân dân Việt Nam nhận ra bản chất
thực sự của chủ nghĩa tư bản và khơng thể khơng tìm kiếm một chế độ khác tốt
đẹp hơn. Sau hơn nửa thế kỷ được tôi luyện và thử thách, khuynh hướng chính
trị bỏ qua tư bản chủ nghĩa đã trở thành sức mạnh vật chất bám rễ trong lịng xã
hơi Việt Nam.
Điều kiện kinh tế:
Khi nhận định về tiền đề kinh tế trong sự hình thành ngay chủ nghĩa tư
bản, Lenin viết:” vin cớ là nền kinh tế của nhân dân ta còn lạc hậu về kỹ thuật để
11


đem đối lập với chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn phi lý, bởi chủ nghĩa tư bản tồn
tại cả khi còn kém phát triển về kinh tế cũng như khi kinh tế phát triển đã cao.
Chính điều này cho phép chúng ta có thể “bỏ qua”. Theo Lenin khơng ai chờ đợi
lịch sử cho ra đời một chủ nghĩa xã hội “hoàn bị”, một cách trơn tru, lặng lẽ và
dễ dàng.
Với những chủ trương đúng đắn về kinh tế, chúng ta đã và đang phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo,
chúng ta đã từng buớc giải phóng lực lượng sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế
cao. Kết hợp mở rộng kinh tế đối ngoại, nền kinh tế của chúng ta đã đạt mức
tăng trưởng cao trong mấy năm liền. GDP bình quân thu nhập đầu người đạt từ
400 USD trở lên trong đó khu vực TP Hồ Chí Minh cao nhất nước với thu nhập
1.200 USD. Điều đó chứng tỏ chúng ta có khả năng kế thừa những kinh nghiệm

thế giới, nhưng thực hiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam.
Mặt khác những yếu tố quốc tế đang tạo cho chúng ta cơ hội phát triển
nhưng đồng thời cũng buộc chúng ta phải đối mặt với những khó khăn. Vì vậy
để đảm bảo nhân dân ta nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hôi cần
tiến hành những việc sau:
Một khó khăn mà chúng ta đang đối mặt lại thiếu vốn, công nghệ cũng
như kiến thức quản lý để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nguồn vốn ấy trước hết
phải tự tạo ra từ các nguồn trong nước, mặt khác kế thừa những kinh nghiệm đã
tích luỹ, trãi qua thể nghiệm tìm tịi. Chúng ta cần kế thừa những kinh nghiệm
quản lý kinh tế, kinh nghiệm quản lý xã hội vận dụng một cách sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kế thừa sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thực
hiện chuyển giao công nghệ, đầu tư các cơng cụ lao động hiện đại.Nói như
Lenin là bắt nhà tư bản cày trên mảnh đất của người vơ sản.
Vừa học tập vừa giao lưu văn hố để có một nền văn hố đậm đà bản sắc
dân tộc Việt nhưng đảm bảo hiện đại và tiên tiến.

12


Với những lý do trình bày , ở nước ta trong điều kiện hiện nay, con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa là ngắn nhất để đưa đất
nước bước vào chủ nghĩa xã hội một cách hiện thực mà chúng ta hằng mong
đợi. Nhưng con đường đó khơng ít khó khăn, thử thách. Đường lối đổi mới toàn
diện của Đảng là điều kiện quan trọng giúp chúng ta vượt qua khó khăn , thử
thách trên con đường xây dựng đất nước giàu và đẹp.
Với cách mạng nước ta học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Marx
chính là cơ sở lý luận để Đảng xác định phương hướng chiến lược phát triển xã
hội nước ta như Đại hội Đảng lần IX đã nhấn mạnh Cùng với chủ nghĩa Marx ,
Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành kim chỉ nam trong tư tưởng và hành

động và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ.
Đó là khẳng định mà ĐH Đảng lần IV đã khẳng định và tiếp tục được
khẳng định, bổ sung vào các ĐH V, đặc biệt ĐH VI – ĐH của đổi mới. Đến nay,
trải qua các ĐH VII, VIII, IX, X, XI, chúng ta đã thấy rõ sự chuyển biến mọi
mặt của đất nước trong đó LLSX là yếu tố được đưa lên hàng đầu. CHúng ta xây
dựng xã hội đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước với mục
tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” như ĐH X,
XI đã khẳng định.
IV. Kết luận
Nói tóm lại, học thuyết HTKT – XH là học thuyết có giá trị vô cùng to
lớn cho sự phát triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam. Nó đặt ra vấn đề bức thiết lúc
này cần xác định được việc phát triển nguồn nhân lực, ổn định chính trị xã hội,
đẩy mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
CNXH cần phải làm thế nào để có thể tiến nhanh, tiến vững chắc đi lên xây
dựng đời sống ấm no cho nhân dân..

13


14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×