Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Luận văn thạc sỹ thế giới nghệ thuật thơ đỗ trọng khơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.44 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

LÊ VĂN TUẤN

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ
ĐỖ TRỌNG KHƠI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. TRẦN VĂN PHƢƠNG


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trong
bất kì một cơng trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận văn

Lê Văn Tuấn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu ................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................7
5. Đóng góp của luận văn ....................................................................................8


6. Cấu trúc luận văn.............................................................................................8
Chƣơng 1. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ TRỮ TÌNH, HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT THƠ CỦA ĐỖ TRỌNG
KHƠI ...................................................................................................................10
1.1. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình .............................................................10
1.1.1. Thế giới nghệ thuật .............................................................................10
1.1.2. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình .........................................................12
1.2. Hành trình sáng tạo thơ của Đỗ Trọng Khơi ........................................16
1.2.1. Con người và sự nghiệp ......................................................................16
1.2.2. Những chặng đường sáng tạo thơ......................................................18
1.3. Quan niệm nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi ...........................................22
1.3.1. Quan niệm về thơ ................................................................................22
1.3.2. Quan niệm về nhà thơ .........................................................................25
Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................28
Chƣơng 2. THẾ GIỚI HÌNH ẢNH TRONG THƠ ĐỖ TRỌNG KHƠI ......29
2.1. Hình ảnh cái tơi trữ tình ..........................................................................29
2.1.1. Cái tơi trữ tình đắm say và cơ đơn.....................................................30
2.1.2. Cái tơi trữ tình đời tư và triết lý ..........................................................37
2.2. Hình ảnh ngƣời tình .................................................................................43


2.2.1. Người tình hạnh phúc và yêu thương ................................................44
2.2.2. Người tình hy sinh và chia sẻ .............................................................49
2.3. Hình ảnh thế giới ......................................................................................54
2.3.1. Thế giới của tương giao, tương ứng ..................................................55
2.3.2. Thế giới của nghiệm suy và lắng đọng..............................................61
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................70
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ ĐỖ TRỌNG KHƠI ..................................................................71
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................71

3.1.1. Ngôn ngữ giàu biểu tượng ..................................................................72
3.1.2. Ngôn ngữ đậm chất thiền ...................................................................78
3.2. Không gian và thời gian nghệ thuật .......................................................85
3.2.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................85
3.2.2. Thời gian nghệ thuật...........................................................................91
3.3. Giọng điệu nghệ thuật ..............................................................................97
3.3.1. Giọng điệu buồn thương, chiêm nghiệm ...........................................98
3.3.2. Giọng điệu đằm thắm, dịu dàng .......................................................105
Tiểu kết chƣơng 3 ..........................................................................................112
KẾT LUẬN .......................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................116
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (BẢN SAO)


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ ca như một chiếc chìa khóa thần kì để con người mở cánh cửa tâm
hồn của chính mình với những rung động nhạy cảm chân thành. Để tạo nên một
tác phẩm thơ hồn chỉnh, khơng chỉ bộc lộ ở cảm xúc, nội dung, tư tưởng mà
còn thể hiện nghệ thuật độc đáo mang phong cách riêng của nhà thơ. Một tác
phẩm trọn vẹn luôn xuất hiện như một thế giới nghệ thuật mang tính chỉnh thể
được thể hiện ở ở nhiều bình diện: cái tơi, ngơn từ, giọng điệu, hình ảnh, khơng
gian, thời gian nghệ thuật,… Sáng tác thơ, vì vậy, là q trình sáng tạo nghệ
thuật mà ở đó mỗi nhà thơ mang một phong cách, một dấu vân tay riêng; nói
cách khác là một thế giới nghệ thuật riêng của mình. Nghiên cứu thế giới nghệ
thuật của một nhà thơ là cơ sở để đánh giá và cảm thơ của mỗi tác giả.
1.2. Đến với thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi là đến với cái tơi rất
đỗi bình dị, đời thường nhưng lại có sức gợi sâu lắng về cuộc sống, nhân gian.

Mỗi một hình ảnh thơ trong sáng tác của ơng đều đi vào lịng người với khả năng
gợi đục khơi trong. Chúng tôi yêu thơ Đỗ Trọng Khơi và càng yêu hơn về con
người nghị lực, khơng khuất phục hồn cảnh trớ trêu của ơng. Trước sự bộn bề
đầy phức tạp của cuộc sống mưu sinh, thơ Đỗ Trọng Khơi vẫn giữ được sự tỉnh
táo, sáng suốt giữa được và mất, giữa hư và thực,… Tất cả đều được chiêm
nghiệm từ chính cuộc đời, số phận của nhà thơ. Thơ Đỗ Trọng Khơi đi từ lịng
mình đến với lịng người và kết tụ ở điểm nhìn về cuộc sống về nhân gian cho
nên càng thâm nhập vào thế giới thơ ông người đọc như càng bừng tỉnh với
những chiêm nghệm sâu sắc về bản thân, về cuộc đời.
Từ việc khảo sát và nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi,
chúng ta sẽ thấy được những nét lớn độc đáo và đặc sắc nhất của thơ ông, nhất là
về cảm hứng chủ đạo, cái tôi trữ tình và phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
Chính từ những lí do trên, chúng tơi chọn Thế giới nghệ thuật thơ Đỗ
Trọng Khơi làm đề tài nghiên cứu. Đề tài của chúng tơi là cơng trình chun biệt


2
đầu tiên; là một đóng góp trên cơ sở tiếp thu các ý kiến nhận xét, đánh giá của
những người nghiên cứu đi trước nhằm tìm hiểu, phân tích và lý giải thơ Đỗ
Trọng Khơi trên bình diện thế giới nghệ thuật, nhấn mạnh mối liên hệ giữa cuộc
sống, thời đại với quá trình sáng tạo của thi sĩ. Qua đó, khẳng định những đóng
góp của ơng cho nền thơ Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Đỗ Trọng Khơi được thi đàn biết đến từ cuộc thi thơ 1990 - 1991 của
Tuần báo Văn nghệ. Ông được trao giải nhì với một giọng thơ thật mới, thật
riêng. Kể từ đó đến nay, “nhà thơ viết nằm” này ln viết có trách nhiệm, đều
đặn và có chất lượng. Thơ của Đỗ Trọng Khơi đã được các nhà nghiên cứu văn
học, các nhà văn, nhà thơ và nhiều bạn đọc bình luận, như: Mai Văn Phấn,
Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Khánh Phương, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Bùi
Vợi, nhà phê bình Chu Văn Sơn, Lê Quốc Hán, Đặng Văn Tồn… Nhìn chung,

các tác giả đều đánh giá cao thơ ông và đều nhất trí thơ Đỗ Trọng Khơi thuộc
dạng u buồn, tĩnh lặng thiên về chiêm nghiệm.
Trong nền thơ ca Việt Nam đương đại, Đỗ Trọng Khơi nổi lên là một
gương mặt mới nhưng vô cùng tiêu biểu. Với tài năng thiên phú và khát vọng
sáng tạo nghệ thuật không ngừng nghỉ, Đỗ Trọng Khơi đã cho ra mắt bạn đọc
nhiều tác phẩm thơ hay, giá trị ở nhiều thể tài khác nhau, góp phần vào sự phát
triển chung của nền văn học đương đại của dân tộc và góp phần phổ biến tinh
hoá thơ văn Việt Nam với thế giới (nhà thơ Đỗ Trọng Khơi từng vinh dự được
đài truyền hình Nhật Bản giới thiệu cho công chúng Nhật). Với tài năng và tầm
vóc thơ ca đã được chú ý nghiên cứu, nhưng đến nay vẫn chưa có cơng trình
chun luận nào khảo sát một cách toàn diện và tập trung về thơ ơng. Theo tơi
tìm hiểu của chúng tơi, đến nay mới chỉ dừng chủ yếu ở một số bài viết bình luận
trên các báo, tạp chí của một số tác giả và chủ yếu chỉ tập trung về một mảng thơ
lục bát.
Ngơ Văn Giá nhận định: “Đỗ Trọng Khơi thì viết nhiều thứ, như thể thơ
tự do, thơ cách luật... thế nhưng thơ lục bát lại chính là phần nổi trội, và tinh hoa


3
nhất của nhà thơ Đỗ Trọng Khơi. Và tơi có nói rằng là định danh Đỗ Trọng Khơi
có “căn” thơ lục bát. Thì ở đây chúng ta thấy có mấy cái đặc sắc. Đây là thơ lục
bát tâm linh chứ không phải thơ lục bát thế sự. Là lục bát tâm linh tức là những
người viết thơ lục bát tâm linh cũng đã có nhưng thưa thớt, rất ít. Tính từ thời
anh Trúc Thơng chẳng hạn cũng đã có một hai bài. Nhưng mà phải tính đến Đỗ
Trọng Khơi thì cái dịng lục bát tâm linh mới hồn tất và có thể coi là một dịng
đầy đặn và có diện mạo. Và đấy là cái đóng góp lớn nhất của Đỗ Trọng Khơi.
Cái thứ hai là bởi vì là dịng lục bát tâm tinh cho nên nó là cái lấp lánh của đời
sống thẳm sâu của con người, trong cái cõi ẩn ức, cái cõi tâm linh của con người.
Đỗ Trọng Khơi đã biểu đạt rất tinh tế và rất giỏi. Trong đó có những bài thơ có
thể nói là điêu luyện và như vậy xét riêng dòng lục bát thì cái cơng của Đỗ Trọng

Khơi là tạo ra vỉa lục bát riêng và cũng truyền năng lượng cho dòng lục bát để
tiếp tục tìm kiếm và biểu đạt” [36].
Sự thành công trong sự nghiệp sáng tác thơ của Đỗ Trọng Khơi khơng chỉ
ở thể thơ lục bát mà cịn trải rộng ra ở nhiều thể thơ khác. Mỗi tác phẩm hiện lên
dưới cây bút của người nghệ sĩ tài hoa này đều chứa đựng giá trị nghệ thuật đặc
sắc. Đúng như nhận xét của nhà thơ Mai Văn Phấn: “Thơ ơng có lúc bảng lảng,
mơ hồ mà tinh tế như một bức tranh lụa, nét bút thanh thoát, tài hoa. Thường khi
ơng giữ cho mình một tâm thế hướng nội lặng lẽ, tuy cô đơn nhưng luôn tự tin
đến được đích. Thơ Đỗ Trọng Khơi nhói sáng nét đẹp của nỗi đau thân phận với
cách thể hiện ung dung, tự tại, nhiều câu thơ ma mị đến u huyền ngỡ như mang
nhịp sinh học, hơi thở của ông” [29].
Để tâm hồn thi sĩ được thăng hoa trong những vần thơ thì nhà thơ phải sẳn
sàng đánh đổi bằng cả mồ hơi, nước mắt thậm chí cả máu của mình. Tâm hồn
thơ luôn gắn liền với cuộc đời như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết “Chẳng có
thơ đâu giữa lịng đóng khép/ Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia” (Tiếng hát con
tàu). Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Đỗ Trọng Khơi ln mở cõi lịng mình
ra để đón nhận cả niềm vui và nỗi buồn của cuộc đời bằng nguồn cảm hứng bất
tận để rồi khái quát thành cả một kiếp người. Nguyễn Quang Thiều đánh giá:


4
“Trong thế gian đầy bóng tối đã sinh ra thi ca… Ở Đỗ Trọng Khơi là một cảm
hứng sống bất tận, khơng hề trách móc cuộc đời mà chứa đựng trong thơ một tư
tưởng sâu sắc. Và chính tinh thần trong những tác phẩm của Đỗ Trọng Khơi đã
khiến cho nhiều người yêu mến thơ anh” [28].
Cảm hứng chủ đạo trong thơ Đỗ Trọng Khơi chủ yếu được lấy từ chất liệu
đời sống chân thực về cuộc đời, số phận đầy u trầm và bó hẹp trong khơng gian
chật chội, u buồn của căn phòng tạo nên chất men làm say đắm tâm hồn người
đọc trong không gian tĩnh lặng ấy. Khao khát về vũ trụ bao la rộng lớn bên ngoài
bằng cả da thịt và cảm nhận bằng cả tiềm thức, nhà thơ đã thả tâm hồn trong

trẻo, đẹp đẽ và đầy tính nghiệm suy vào thơ để tạo ra một phong cách rất riêng.
Đúng như nhà thơ Đàm Khánh Phương nhận xét: “Sự đan quyện giữa những suy
tưởng, chứng nghiệm về cuộc đời và thân phận, về vẻ đẹp và tâm hồn, với những
biểu tượng quen thuộc của thiên nhiên nguyên khởi… Đỗ Trọng Khơi mang
dáng vẻ duy mỹ, vừa có độ rộng lớn, kỳ vĩ của khơng gian hồi tưởng, vừa có sự
kín đáo, uyển chuyển, tinh tế của tâm thức riêng tư” [29].
Cảm hứng thơ của Đỗ Trọng Khơi không chỉ ở sự chắt lọc trước cuộc đời,
số phận mà cịn được chắp cánh bởi tình yêu đặc biệt của nhà thơ dành cho mảnh
đất quê hương Thái Bình của ơng. Dương Hà phát hiện: “Nhà thơ Đỗ Trọng
Khơi - cây bút của quê lúa Thái Bình khiến người đọc xúc động khơng phải vì
nhân thân thiệt thịi của tác giả mà chính vì những câu thơ luôn phảng phất nỗi
buồn mà vẫn tha thiết niềm u sống của ơng” [20].
Tính chiêm nghiệm cũng là đặc trưng khá rõ nét trong thơ Đỗ Trọng
Khơi. Đến với thế giới thơ của ơng con người như tìm thấy chính mình trong cõi
sâu thẳm của tâm hồn với những rung động thực sự của chốn bình yên, của miền
tâm linh sâu thẳm. Là một độc giả yêu mến thơ Đỗ Trọng Khơi, Chu Văn Sơn đã
có lời giới thiệu tinh tế cho tập thơ Ở thế gian: “Thơ là trải nghiệm từ những lăn
lộn, và xiết trong trường đời. Thơ còn là những chiêm nghiệm về thế sự nhân
sinh. Thơ trải nghiệm thường giàu chất sống với những cảm giác, cảm xúc tươi
nguyên nhựa đời. Thơ chiêm nghiệm lại nặng đồng cân bởi những suy tư thâm


5
trầm nhằm kết lắng bao nỗi đời thành những lẽ đời. Thơ Khơi thuộc về chiêm
nghiệm hơn là trải nghiệm. Đó là lựa chọn của một sở thích cũng là lựa chọn của
một số phận. Chiêm nghiệm bằng thơ chính là cách thế sống của Khơi. Bằng
cách ấy, Khơi đã xi ngược một đời trong cõi chữ” [8, tr.4].
Có nhiều lí do để người đọc tìm đến và u thơ Đỗ Trọng Khơi. Một trong
những yếu tố quan trọng để làm nên phong cách, giá trị của thơ ơng chính là sự
truyền lửa. Dường như năng lượng sống tích cực lạc quan như một ngọn núi lửa

âm thầm mà vô cùng mãnh liệt đang bùng cháy trong lòng nhà thơ đã tạo sức lan
tỏa lớn cho người đọc, khơi dậy khát vọng và nghị lực sống dồi dào trong từng
vần thơ của ông. Ngô Văn Giá cho rằng: “Nhà thơ sinh ra là để xác quyết sự
sống, tôn vinh sự sống. Ngay cả việc làm thơ cũng đồng nghĩa với việc làm nên
sự sống, trao truyền sự sống bằng thơ và qua thơ. Qua thơ Đỗ Trọng Khơi, thấy
những quầng sống tuy nhỏ nhoi nhưng vô cùng đẹp đẽ thuộc về khung cảnh lẫn
con người. Đắm vào sự sống là có thơ hay. Tơi dám quyết đốn rằng đây là
những câu thơ hay nhất của Đỗ Trọng Khơi” [29].
Nghệ thuật thơ của Đỗ Trọng Khơi thiên về cái tĩnh lặng, chiêm nghiệm
và mang đậm sự sáng tạo riêng về phong cách. Đọc thơ ông, cả một miền tâm
tưởng được gợi lên trong cách biểu hiện nhân sinh quan và những tình cảm
thiêng liêng cao đẹp của một con người thấu hiểu sự đời. Vì vậy đón nhận thơ
ơng khơng chỉ bằng mắt mà còn trộn lẫn cảm xúc và cả sự chiêm nghiệm về thế
giới quan. Lời tâm sự, giãi bày của của chính nhà thơ đã nói lên điều đó: “Những
ai hiểu một chút thơi về giáo lý nhà Phật đều biết đến hai chữ “sắc- không” ta gọi
là “sắc sắc khơng khơng”. Thế thì cái chữ “khơng” nó qn xuyến tồn bộ cái
tinh thần thơ ca của tơi. Cái chữ “không“ở đây không phải hiểu theo nghĩa thông
thường nghĩa là nó khơng phải là cái gì cả, một cái không hư vô triệt để. Mà cái
không ở đây có thể tính đếm được. Nó giống như cái căn phịng này, cái khoảng
khơng ở đây là cái khoảng khơng ta sử dụng được. Cái khoảng không này càng
rộng bao nhiêu thì khả năng sử dụng càng lớn bấy nhiêu. Và cái quán xuyến cho
thơ của tôi là đều trong chữ “khơng” ấy. Một cái khơng rất có thể tính. Vì vậy


6
mà chất liệu đời sống vẫn cứ có được ở trong ấy. Chẳng hạn như câu thơ:
Sớm nghe một giọng chim lành
nguôi ngoai bao nỗi mong manh phận người.
Gặp làn mây trắng rong chơi
như ai ru lại ta thời ấu thơ

Ngợ hư vinh cãi phù du
trong binh boong tiếng chuông chùa thu khơng” [36].
Mảnh đất q hương Thái Bình đã sinh ra hai nhà thơ lớn là Đỗ Trọng
Khơi và Trần Văn Thước. Họ đều là biểu tượng cho ý chí, nghị lực và sức sống
mãnh liệt vượt qua hồn cảnh, số phận tật nguyền, bất hạnh để khẳng định mình
và xứng đáng trở thành niềm tự hào của quê hương. Như bài thơ sau đây của
Phạm Xuân Trường là một minh chứng thuyết phục nhất:
Gửi Đỗ Trọng Khơi và Trần Văn Thƣớc
Thứ ba ngày 18 tháng 6 năm 2013 5:26 AM
Một người đứng - Một người nằm
Một đôi lam lũ như tằm nhả tơ
Giời còn bắt tội làm thơ
Hay vì đau hộ giấc mơ luân hồi.
Chợ đời người xuất khẩu người
Chợ thơ nhan nhản những lời giả yêu
Thơ khôn lựa gió biết chiều
Thì mình lấy dại để u thật lịng.
Xin gom ngọn gió ngồi đồng
Cánh cị cõng cả dịng sơng mang về
Người q tìm đến người q
Mặc ai đánh tráo lời thề cỏ non.
Mặc ai tính cuộc vng trịn
Cái mất là được cái cịn là khơng
Cánh cị dại với dịng sơng


7
Chim kêu dại với cánh đồng mưa tn...
Người ta có ngọn có nguồn
Nỗi đau đau đứng - Nỗi buồn buồn nghiêng.

Trên đây là những ý kiến tham khảo hết sức q báu đối với chúng tơi
trong việc tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi. Qua tìm hiểu chúng
tôi nhận thấy hầu như các yếu tố nội dung, các cấp độ nghệ thuật của thơ Đỗ
Trọng Khơi đã ít nhiều được đề cập tới. Nhưng các phương diện đó chưa được
nghiên cứu một cách có hệ thống và còn một số yếu tố, cấp độ chưa thật sâu,
chưa thật cụ thể. Tuy nhiên, nhưng điểm dừng của người đi trước cũng sẽ là
những gợi mở để người viết đi tiếp ở luận văn này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những sáng tác thơ của Đỗ Trọng
Khơi, gồm các tập: Con chim thiêng vẫn bay, Ở thế gian, Tuyển tập thơ, Gặp
người ở ngõ thế gian. Bên cạnh đó, các tập truyện ngắn, các bài tiểu luận, tạp
văn của ông cũng được xem là tài liệu tham khảo quan trọng, soi sáng nhiều vấn
đề trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
- Phạm vi nghiên cứu:
Qua việc nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi một cách có
hệ thống, phạm vi của luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu những điểm đặc sắc về nội
dung và hình thức biểu hiện của các tập thơ ở những giá trị nổi bật về ngôn từ
nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật, hình ảnh nghệ thuật, không gian và thời gian
nghệ thuật, các biện pháp tạo nghĩa….
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp vận dụng lý thuyết thi pháp học: Luận văn sẽ khảo sát tần
số xuất hiện hệ thống hình ảnh trở đi trở lại như ám ảnh nghệ thuật trong thơ Đỗ
Trọng Khơi, và hệ thống các phương thức, phương tiện cấu thành chỉnh thể nghệ
thuật đó.


8
- Phương pháp vận dụng lý thuyết văn học sử: Nghiên cứu một tác giả cụ

thể, chúng tôi không tách rời, biệt lập mà đặt trong mối quan hệ với trào lưu
cùng thời. Vì văn học là một quá trình lịch sử - hiện thực, một quá trình lịch sử sáng tạo, cho nên mỗi hiện tượng văn học thường có định hướng của cả phong
trào. Tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi, chúng tôi đặt trong mối
quan hệ giữa tác giả và trào lưu, tác phẩm và thời đại…
- Phương pháp liên ngành: Luận văn vận dụng yếu tố hỗ trợ của các
phương pháp nghiên cứu văn học khác như: văn học sử, phê bình văn học, ngơn
ngữ văn học… từ đó phân tích, tổng hợp, so sánh để thấy được thế giới nghệ
thuật thơ Đỗ Trọng Khơi.
Tuy vậy, chúng tôi quan niệm, mỗi phương pháp nghiên cứu nói trên
khơng thể rạch rịi, tách biệt mà có thể tiếp cận được chân lý. Vì thế, trong q
trình thực hiện, chúng tơi cố gắng cùng lúc kết hợp nhiều phương pháp và các
thao tác khoa học để giải quyết vấn đề một cách tối ưu và hiệu quả nhất.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu tồn diện và có hệ thống, chi
tiết về thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi. Từ đó, luận văn góp phần phát
hiện những điểm mới sau:
- Những đặc điểm cụ thể, mới mẻ về nội dung và nghệ thuật thơ của Đỗ
Trọng Khơi qua các tập thơ của ông.
- Khẳng định giá trị về thơ của Đỗ Trọng Khơi trong tiến trình vận động,
phát triển của thơ Việt Nam đương đại.
- Khám phá khả năng biểu đạt cuộc sống phong phú của Đỗ Trọng Khơi
qua các phương diện: Đề tài, hình ảnh, ngơn ngữ, giọng điệu thơ ca.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội
dung luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương 1. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình, hành trình sáng tạo và quan
niệm nghệ thuật thơ của Đỗ Trọng Khơi


9

Chương 2. Thế giới hình ảnh trong thơ Đỗ Trọng Khơi
Chương 3. Phương thức biểu hiện thế giới nghệ thuật trong thơ Đỗ Trọng
Khơi


10

Chƣơng 1.
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ TRỮ TÌNH, HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT THƠ CỦA
ĐỖ TRỌNG KHƠI
1.1. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình
1.1.1. Thế giới nghệ thuật
Khát vọng chinh phục, khám phá những giá trị về nội dung, nghệ thuật
mang tính chiều sâu, chỉnh thể về tác phẩm văn học nói riêng và phong cách
nghệ thuật của nhà văn nói chung đã thơi thúc sự hình thành khái niệm về thế
giới nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật của một nhà văn không chỉ là cảm xúc, cách
nhìn nhận về thế giới hiện thực khách quan mà cịn là phương diện đánh giá tài
năng, tìm tịi sáng tạo riêng của họ nhằm hướng người đọc tới vẻ đẹp tồn diện
của chân - thiện - mỹ. Vì vậy cần có một khái niệm thật bao quát, đầy đủ về thế
giới nghệ thuật mới tạo tiền đề lí luận cho việc tiếp cận, đánh giá về một tác giả,
tác phẩm hay hiện tượng văn học.
Nghiên cứu một nhà văn, xét đến cùng là nghiên cứu về thế giới nghệ
thuật của nhà văn ấy. Khái niệm thế giới nghệ thuật không phải đơn giản chỉ rút
ra từ một tác phẩm riêng lẻ của nhà văn. Thế giới nghệ thuật của nhà văn là linh
hồn, là hạt nhân của tác phẩm, là kết tinh của những cảm nhận, suy nghĩ của nhà
văn về cuộc đời. Tư tưởng nghệ thuật thấm nhuần trong tác phẩm như máu chảy
trong huyết quản thấm đến từng tế bào cơ thể. Qua tác phẩm, những vấn đề cấu
thành thế giới nghệ thuật của nhà văn “náu mình” trong những hình ảnh sinh
động, những cảm hứng sâu lắng. Thế giới nghệ thuật chịu sự qui định của thế

giới quan, vốn sống và tài năng của nhà văn. Tác phẩm văn học chân chính bao
giờ cũng là nơi khẳng định những tư tưởng sâu sắc, mới mẻ về cuộc sống qua
sức mạnh truyền cảm của nghệ thuật. Vậy, vấn đề thế giới nghệ thuật có tính
tổng hợp cao rút ra từ toàn bộ tác phẩm của nhà văn. Đó là một thế giới bao trùm


11
cả sự nghiệp sáng tác của nhà văn, chi phối và tạo ra tính chỉnh thể cho thế giới
nghệ thuật của nhà văn.
Dưới đây là một số khái niệm về thế giới nghệ thuật mà tôi xin được đề
xuất làm cơ sở lí luận:
Theo Nguyễn Đăng Mạnh, “Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiểu đúng
nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là chỉnh thể ắt phải có cấu trúc nội tại theo
những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ nội tại giữa các yếu tố
phải có quy luật” [22, tr.87].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ
chỉnh thể các sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng: Sáng tác
nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo theo các quy tắc tư tưởng, khác
với thế giới thực tại vật chất hay tâm lý của con người, mặc dù nó phản ánh thế
giới ấy… Như vậy, khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo
về tư duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan,
văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ” [13, tr.73].
Theo sách Lí luận văn học (tập 2) do Trần Đình Sử Chủ biên: “Gọi bằng
thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt có sự thống nhất khơng tách rời,
vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo của tác giả, có sự
khúc xạ thế giới bên trong của nhà văn. Thế giới này chỉ có bên trong tác phẩm
và trong tưởng tượng nghệ thuật… Nghiên cứu cấu trúc của thế giới nghệ thuật
vừa cho ta hiểu hình ảnh nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm của tác giả về thế
giới, vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của nhà văn, cái thế giới chi
phối hình thành phong cách nghệ thuật ” [35, tr.54].

Từ các định nghĩa về thế giới nghệ thuật trên, có thể hiểu thế giới nghệ
thuật là sự sáng tạo riêng độc đáo của nhà văn dựa trên những quy tắc chung
nhằm tạo nên những hình ảnh nghệ thuật thể hiện tư tưởng của nhà văn trong
cách phản ánh, đánh giá về thế giới khách quan cũng như tâm hồn của con
người. Vì vậy, thế giới nghệ thuật ln có sự vận động vơ cùng đa dạng, phức
tạp và có chiều sâu nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ.


12
Hiểu rõ thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ như nắm được chìa khóa hé
mở những giá trị về nội dung tư tưởng trong sáng tác của nhà văn. Trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ vận dụng cơ sở lý luận của định nghĩa về
thế giới nghệ thuật để tìm hiểu những nét đặc sắc về thế giới nghệ thuật trong thơ
Đỗ Trọng Khơi.
1.1.2. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình
Nói đến chất trữ tình trong tác phẩm văn học là đang đề cập đến vấn đề
mang tính chủ quan với cái nhìn rất riêng thuộc thế giới quan của nhà văn về các
vấn đề trong cuộc sống cũng như bộc lộ cảm xúc cá nhân trong một khoảng thời
gian, không gian nhất định. Thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình thường được
biểu hiện rất đa dạng và mang tính sáng tạo, trong đó hạt nhân là cái tơi trữ tình và
hình ảnh thế giới mang phong cách thẩm mỹ riêng, không lặp lại của nhà văn. Lê
Quang Hưng trong Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước năm 1945
cho rằng: “Thế giới nghệ thuật trong thi ca là thế giới được người nghệ sĩ sáng tạo
ra bằng phương tiện ngôn từ. Nó chưa từng tồn tại trong thế giới vật chất và mãi
mãi khơng bao giờ có thể biến thành thực tại vật chất. Nhưng nó lại mang sự sống
và tâm hồn chân thực của một người, một thế hệ, một thời… Nói theo ngơn ngữ
của lý luận quen thuộc thì nó vừa phản ánh“hiện thực”, vừa phản ánh “ý thức chủ
quan” của người nghệ sĩ ” [16, tr.47]. Và, “Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình là một
chỉnh thể thống nhất bao hàm các thành tố cấu trúc và các quy luật cấu trúc chung
thể hiện q trình cái tơi nhà thơ nội cảm hóa thế giới khách quan bằng tưởng

tượng của mình. Một mặt thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với kinh nghiệm cá nhân,
với phong cách sáng tác của bản thân nhà thơ, mặt khác nó phản ánh trình độ sáng
tác của một giai đoạn lịch sử, một thời đại” [16, tr.30].
Theo Từ điển Thuật ngữ văn học: “Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và
tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là
tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng biểu hiện phức tạp của thế giới
nội tâm, từ các cung bậc của thế giới tình cảm cho tới những chính kiến, những
tư tưởng triết học” [13, tr.73].


13
Biêlinxki cho rằng: “Những cảm xúc, suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật
trữ tình trước hiện thực đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá
thể hố của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu
hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể
hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm từ những cung bậc của tình
cảm cho tới những chính kiến, những tư tưởng phức tạp” [13, tr.317].
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Trần Đình Sử cho rằng: “Văn bản thơ
khơng chỉ gồm câu chữ, vần điệu, ngắt nhịp… mà bao gồm cả thế giới hình ảnh
bên trong như một thế giới sống đặc thù. Phải miêu tả cả thế giới ấy, cho dù nó
khác với thực tế như thế nào, có vẻ vơ lí như thế nào. Đó chính là thế giới chủ
quan nội cảm của tác phẩm” [ 33, tr.6].
Nhận định về cái tơi trữ tình trong thơ, Lê Lưu Oanh viết: “Cái tơi trữ tình
là một giá trị cụ thể của cái tơi nghệ thuật. Trữ tình là sự trình bày trực tiếp cái
tôi nghệ thuật ấy. Cái tôi trữ tình là thế giới chủ quan, thế giới tinh thần của con
người được thể hiện trong tác phẩm trữ tình bằng các phương tiện của thơ trữ
tình” [27, tr.97].
Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình được biểu hiện ở một số phương diện cơ
bản sau đây:
Thứ nhất: Văn học nhận thức thế giới bằng hình ảnh, do đó thế giới nghệ

thuật của một nhà văn chính là một thế giới hình ảnh hiện ra như một chỉnh thể
sống động, chứa đựng một quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ của nhà văn. Hình
ảnh nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện lại một cách
sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm
quan trọng của hình ảnh nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta
có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng. Đó có thể là một đồ vật, một
phong cảnh thiên nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận. Hình ảnh nghệ
thuật có thể tồn tại qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó bao giờ cũng ở
phương diện tinh thần. Người đọc không chỉ thưởng thức “cuộc đời thực” trong
tác phẩm mà còn cảm nhận được sự suy tư, lòng trắc ẩn và cả nụ cười ẩn trong


14
cuộc đời thực ấy. Hình ảnh nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học và
thẩm mỹ của nghệ thuật. Hình ảnh nghệ thuật trong văn học là hình ảnh ngơn từ.
Thơng qua hình ảnh ngơn từ, tác phẩm đem đến cho người đọc “không phải là
bức tranh đời sống đứng yên mà luôn luôn sống động, lung linh, huyền ảo, vừa
vơ hình vừa hữu hình, cụ thể đấy mà mơ hồ đấy như mặt trăng đáy nước, bóng
người trong gương, như khơng gian vốn ba chiều nay thu lại trong không gian
hai chiều của hội hoạ, như một mái chèo trên hai thước chiếu sân khấu mà tác
giả đã vẫy vùng trước đại dương” (Lê Lưu Oanh). Hình ảnh chính là dạng thức
sống tồn vẹn của thế giới nghệ thuật, nên thế giới nghệ thuật được thể hiện qua
trục xuyên suốt thế giới hình ảnh, sống trong hình ảnh và sống bằng hình ảnh.
Đó khơng phải là một thế giới tĩnh mà là một thế giới động, vừa vận động vừa
phụ thuộc vừa phản ánh những biến chuyển trong tư tưởng của người nghệ sĩ.
Thế giới hình ảnh của một tác giả văn học hiện đại thông thường là một cấu trúc
tam diện nhất thể: Cái tôi trữ tình - Người tình - Thế giới. Sáng tác văn học, nhất
là sáng tác thơ trước hết là nhu cầu bộc lộ cảm xúc cá nhân để chia sẻ. Một trong
những cách để bộc lộ cảm xúc cá nhân là thơng qua tiếng nói trữ tình. Đặc biệt,
nói đến thơ trữ tình là nói đến cảm xúc của chủ thể, của cái tơi cá nhân. Hình ảnh

trụ cột của thơ trữ tình là cái tơi trữ tình. Vì thế, hình ảnh cái tơi là biểu hiện đầu
tiên của tư tưởng nghệ thuật. Bên cạnh cái tơi, hình ảnh người tình cũng là một
trong những hình ảnh lớn của thế giới hình ảnh trong thơ. Người ta gọi đó là
nàng thơ, người tình lí tưởng của thi sĩ. Thế giới hình ảnh của thi ca được xem là
sản phẩm sinh ra từ cuộc hôn phối âm thầm của người thi sĩ và nàng thơ huyền
diệu đó. Hình ảnh người tình trong thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, vừa vô hình,
vừa hữu hình. Do đó, sự hồn thiện nhân cách không đơn độc mà là đối thoại với
tha nhân, tha nhân trực tiếp là người tình lí tưởng. Và hình ảnh bao trùm cuối
cùng là hình ảnh thế giới. Hình ảnh thế giới được hiểu như môi trường bao
quanh nhân vật tơi và người tình. Thế giới bao gồm: thiên nhiên và đời sống
(cuộc sống, các nhân vật). Hình ảnh thế giới không phải là phép cộng các yếu tố
mà là sự tổng hợp dựa trên một sự tổng quát nào đó. Đây là một lĩnh vực rất tinh


15
vi và sáng tạo của nghệ thuật. Từng bài thơ có hình ảnh thế giới khác nhau. Tuy
nhiên, với cái nhìn nhất thể, tất cả mọi cảnh sắc thiên nhiên và đời sống đều nằm
chung trong hình ảnh tổng quát của thế giới. Thông thường mỗi kiểu thi sĩ (cổ
điển, lãng mạn, cách mạng) có cách tổng hợp hình ảnh thế giới theo kiểu riêng.
Mỗi một phong cách nghệ sĩ cũng có một cách tổng hợp hình ảnh thế giới riêng.
Hình ảnh thế giới trong từng bài thơ như một mảnh vỡ của bức tranh tổng quát.
Thứ hai: Thế gới nghệ thuật thơ trữ tình được biểu hiện ở nghệ thuật biểu
hiện của tác giả trong quá trình xây dựng tác phẩm. Trong khn khổ cơng trình
này, chúng tơi chỉ tập trung tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trọng Khơi qua
một số phương diện nghệ thuật chủ yếu: Ngôn ngữ nghệ thuật, không gian nghệ
thuật, thời gian nghệ thuật và giọng điệu nghệ thuật. Ngôn ngữ là biểu hiện trực
tiếp của từ duy, là chất liệu làm nên tác phẩm văn học nên nó được xem là yếu tố
quan trọng nhất để hình thành thế giới nghệ thuật của một nhà thơ. Bên cạnh
ngôn ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật cũng có vai trị quan trọng trong
việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Không gian nghệ thuật và thời gian

nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là phương tiện chiếm
lĩnh đời sống, là mơ hình nghệ thuật về cuộc sống. Khơng gian nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật góp phần thể hiện quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn… Một
phương diện nghệ thuật khác không kém phần quan trọng là giọng điệu. Giọng
điệu bao gồm hệ thống sắc điệu và hệ thống những điểm nhấn ngữ điệu. Giọng
điệu là phạm trù thẩm mĩ của các tác phẩm thơ và cũng là dấu hiệu riêng ở sự
sáng tạo của mỗi cá nhân nhà thơ. Nó là một yếu tố có vai trị hết sức quan trọng
trong cấu thành thế giới nghệ thuật cũng như phong cách nhà thơ. Giọng điệu có
khả năng chứa đựng, diễn tả được những cung bậc cảm xúc, những tâm trạng và
những ý tưởng mà người nghệ sĩ kí thác. Bởi thế, sẽ khơng nhận diện được thế
giới nghệ thuật của nhà thơ, nếu không nhận diện được giọng điệu trong sáng tác
của nhà thơ đó.
Như vậy, thế giới nghệ thuật thơ trữ tình được biểu hiện qua hình ảnh cái
tơi cá nhân và hình ảnh thế giới vô cùng phong phú đa dạng. Thế giới nghệ thuật


16
thơ trữ tình có xu hướng thay đổi theo trào lưu, theo thời đại. Để nắm bắt thế
giới nghệ thuật thơ trữ tình của một nhà thơ cần phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử
xã hội cụ thể và xu hướng văn học mang tính đặc trưng. Đối với mỗi tác giả đều
có một giọng điệu trữ tình hay mẫu hình ảnh lí tưởng… mang lại cảm xúc và
phong cách riêng.
1.2. Hành trình sáng tạo thơ của Đỗ Trọng Khơi
1.2.1. Con người và sự nghiệp
Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi tên thật là Đỗ Xuân Khơi, hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam, sinh ngày 17-7-1960 tại Trần Xá, Văn Cẩm, Hưng Hà, Thái Bình.
Hiện tại, ơng cư trú ở phường Phú Khánh, thành phố Thái Bình
Đỗ Trọng Khơi bị bệnh viêm đa khớp từ năm lên 8, dẫn đến teo cơ và ông
phải bỏ học từ năm lên 10 (khi ấy mới học xong lớp 3). Bệnh tật không chỉ
khước từ con đường đến trường của Đỗ Trọng Khơi mà còn gắn chặt cuộc đời

ông với bệnh viện và chiếc xe lăn nhỏ hẹp, tù túng, bế tắc. Từ khi mắc bệnh
hiểm nghèo, cuộc sống của ơng là một hành trình chạy đua với số phận để giành
lại sự sống. Cùng với nỗi đau về bệnh tật là nỗi đau mất cha ngay từ nhỏ (năm
1966 người cha đã hi sinh trong chiến tranh), khiến Đỗ Trọng Khơi như sụp đổ
và rơi vào bế tắc đến cùng cực. Là con trai duy nhất trong gia đình ơng cảm nhận
được trách nhiệm và thấm thía tình thương u, hi vọng của bà, mẹ, chị gái, em
gái… đã tiếp thêm sức mạnh, nghị lực phi thường để nhà thơ vượt qua hoàn cảnh
và số phận của mình.
Bằng con đường tự học cùng sự khổ luyện, Đỗ Trọng Khơi đọc được rất
nhiều đầu sách, từ sách cổ của Trung Hoa, cho đến sách thời hiện đại của các
nước khối xã hội chủ nghĩa, như Liên Xơ, Đức, Hung-ga-ri, Tiệp Khắc… Ơng
đọc sách để tìm đến với chân lý sống, tìm đến những niềm tin, niềm lạc quan và
tìm thấy chính mình. Như một kết quả tất yếu, Đỗ Trọng Khơi đã có một sự
nghiệp văn học đáng trân trọng để trở thành cây bút tiêu biểu, xuất sắc đối với
thơ đương đại Việt Nam và chiếm được cảm tình lớn trong lịng bạn đọc. Mỗi
một hình ảnh nghệ thuật trong thơ Đỗ Trọng Khơi đều gắn liền với một tâm hồn


17
trong sáng, đầy ý chí, nghị lực vượt lên hồn cảnh, số phận, đầy chất suy tư
chiêm nghiệm của cái tơi trữ tình.
Với những nỗ lực khơng mệt mỏi, Đỗ Trọng khơi đã tìm thấy niềm vui, ý
nghĩa trong cuộc sống và tự khẳng định mình trong những tác phẩm thơ. Nhưng
niềm hạnh phúc chỉ thực sự đến với nhà thơ đầy nghị lực này khi ông bước lên
xe hoa ở tuổi 50. Vợ ông là chị là Đỗ Thị Thu Oanh, vốn quê gốc Nam Định
nhưng vào Nam sinh sống và là người yêu văn chương. Năm 2005, khi đang làm
ở thư viện tỉnh Bạc Liêu, chị vơ tình đọc được cuốn Đa tài đa tình của nhà thơ
Đặng Vương Hưng. Trong sách này có bài viết về nhà thơ Đỗ Trọng Khơi và sau
khi đọc xong, sự khâm phục xen lẫn tình thương, sự cảm mến đã thơi thúc chị
cầm bút viết thư cho anh, chỉ với mong muốn được sẻ chia và đồng cảm với nhà

thơ kém may mắn ấy trong cõi đời này. Để rồi từ đó thư từ, điện thoại qua lại
giữa hai miền Nam Bắc tạo thành mới lương duyên tiền định của nhà thơ và
người con gái yêu thơ, yêu người làm thơ.
Chị Oanh là người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi
sinh và sẳn sàng chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn với nhà thơ trong cuộc sống
cũng như trong sự nghiệp sáng tác của ơng. Chị cịn mang đến niềm hạnh phúc
vỡ òa khi sinh cho nhà thơ hai đứa con trai kháu khỉnh. Hạnh phúc viên mãn,
hồn thơ như được chắp cánh bay cao, tài năng tỏa sáng.
Bên cạnh những người phụ nữ sống gần gũi và giàu tình thương dành cho
nhà thơ thì hình ảnh người cha đáng kính trong tiềm thức ln là niềm động viên
ản ủi và tiếp thêm sức mạnh để Đỗ Trọng Khơi vượt lên mọi khó khăn thử thách
trong cuộc sống. Ơng ln trân trọng mọi giá trị mà cuộc đời đã ban tặng, đề cao
những giá trị quý báu của con người, sống gắn bó với tình u q hương đất
nước (đặc biệt là quê hương Thái Bình).
Đỗ Trọng Khơi khơng có điều kiện đi, lại bị bó hẹp trong không gian tù
túng của chiếc xe lăn nên ông cảm nhận cuộc sống bằng sự tĩnh lặng của tâm
hồn, bằng sự khao khát hướng tới vẻ đẹp thuộc về giá trị của chân – thiện – mĩ.
Chất thiền đã ăn sâu vào thơ mang đến như nghiệm suy về nhân sinh sâu sắc.


18
Chất thiền không chỉ được thể hiện ở chiều sâu tư tưởng của nhà thơ mà còn
được kết tinh ở hình thức nghệ thuật đầy sáng tạo, mới mẻ trong thơ.
Nói đến thành tựu của Đỗ Trọng khơi khơng gì rõ hơn là những giải
thưởng về văn học mà ông đã đạt được như: Giải nhì cuộc thi thơ trên Báo Văn
Nghệ (1990); Giải B truyện ngắn của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt
Nam (2002); Giải A - Giải thưởng Lê Quý Đôn của Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái
Bình (1996); Giải nhì truyện ngắn của Báo Tài Hoa Trẻ (1998); Giải C Giải
thưởng Lê Quý Đôn của Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình (2001); Giải 3 cuộc thi
thơ của Báo Tài Hoa Trẻ (2002), giải tư cuộc thi thơ Đây biển Việt Nam (2011)

do Vietnamnet tổ chức...
Số phận bất hạnh không thể làm gục ngã nhà thơ. Trái lại, khó khăn càng
tơn thêm ý chí và khát vọng để Đỗ Trọng Khơi đến với thơ ca. Cách mà nhà thơ
đến với thơ và đến với hạnh phúc tình yêu thật bất ngờ, như một mối lương
duyên và câu chuyện cổ tích. Nếu thơ là cầu nối cho tình yêu thì tình yêu lại
nâng đỡ cho hồn thơ đến với vẻ đẹp muôn sắc màu của sự thành công. Người
đọc yêu thơ Đỗ Trọng Khơi rồi yêu luôn con người chân chất, mộc mạc của ông
và càng trân quý hơn trước hạnh phúc của nhà thơ
Đỗ Trọng Khơi xuất hiện như một bông hoa lạ đầy quyến rũ giữa một vườn
hoa muôn sắc màu của thơ đương đại Việt Nam. Với quan niệm mới mẻ và
nghiêm túc về nghệ thuật thơ, Đỗ Trọng Khai đã tạo được một phong cách nghệ
thuật rất riêng và độc đáo để khẳng định tài tài năng nghệ thuật thơ ca của mình.
Mỗi một bài thơ của ơng là một hành trình đầy sáng tạo, có sự trộn lẫn giữa mồ
hơi, nước mắt và tài năng của một người nghệ sĩ thực thụ.
1.2.2. Những chặng đường sáng tạo thơ
Đỗ Trọng Khơi bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ từ những năm 70. Qua q
trình nỗ lực và khơng ngừng sáng tạo, đến nay ông đã gặt hái được nhiều thành
công và được bạn đọc yêu quý. Lúc đầu cầm bút, nhà thơ coi sáng tác thơ như
một người bầu bạn cho khuây khỏa, càng về sau ông lại lại càng dành cho thơ
một tình yêu và khát vọng mãnh liệt. Khi bắt đầu cầm bút nhà thơ bén duyên với


19
dịng thơ trữ tình nghiêng về tự sự sau này ông chủ yếu sáng tác thơ nghiệm suy
thấm đẫm chất thiền. Đến nay ông đã cho xuất bản: 13 tập thơ, 3 tập truyện và 1
tiểu luận phê bình văn học.
Tập thơ Con chim thiêng vẫn bay in lần đầu năm 1992 với 36 bài. Tái bản
lần 2 giữ 36 bài cũ, thêm vào 10 bài mới (được sáng tác từ năm 1992 trở về
trước). Trước số phận bất hạnh, nhà thơ đã cố gắng tìm kiếm điểm tựa tinh thần
trong cuộc sống và ơng đã tìm đến thơ và chốn tâm linh của đạo Phật để nương

náu tâm hồn. Bao nhiêu mơ ước, lí tưởng, khát vọng cao đẹp bất thành trong
hiện thực, ông mang cả vào trong thơ và chỉ có thơ mới giúp Đỗ Trọng Khơi tìm
được chính mình.
Những bài thơ đầu tiên của ơng được đăng trên Báo Thái Bình, Tạp chí
Văn nghệ Thái Bình (năm 1989 – 1990). Trong đó, 2 bài thơ Hi vọng và Ánh
trăng của Đỗ Trọng Khơi đạt giải Nhì trong cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ đã
tạo chiếc cầu nối diệu kì của hồn thơ với cuộc đời, tạo nên sợi dây liên kết với bè
bạn. Thơ Đỗ Trọng Khơi đã bước ra cuộc đời, được bạn đọc cả nước đón nhận.
Các nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Bùi Vợi, Nguyễn Đức Mậu, Lê Quang Trung,
Trần Bảo Hưng về tận quê gặp Khơi. Họ ngạc nhiên, khâm phục khi biết cuộc
sống của nhà thơ, họ đã viết giới thiệu thơ ông đến công chúng. Nghị lực bền bỉ
vượt lên số phận của mình như câu thơ ơng viết:
…Sinh ra Trời đã nhủ rằng
Tôi, một cái chết - sống trong lịng đời
Và rằng: Trời trọ vào tơi
Đi tìm ý nghĩa con người thế gian.
(Hi vọng - Con chim thiêng vẫn bay)
Đến với tập thơ Con chim thiêng vẫn bay là đến với một tâm hồn trong
sáng, ước mơ cháy bỏng và nghị lực phi thường, tràn đầy năng lượng tích cực,
như nhà thơ đã từng tâm sự “Con chim mượn âm thanh của trời để ca hát, tôi
mượn thơ ca để tập nói tiếng người. Nếu thơ là một ngơi mộ thì tấm thân tầm
thường của tơi khơng đáng được trú ngụ. Mừng thay, thơ là một linh hồn. Nhờ


20
vậy tơi cịn được lưu lại trên thế gian này để tìm kiếm...!” [40]. Tập thơ được
đánh giá cao, như một hiện tượng của thơ ca ngày ấy. Năm ấy Đỗ Trọng Khơi 31
tuổi. Ông đã đến với cuộc sống bằng sức mạnh nội lực bền bỉ, kiên trì cùng đức
tin vững chắc.
Tiếp nối sự thành công của tập thơ đầu tay, Đỗ Trọng Khơi đã ra mắt công

chúng những tập thơ, thể hiện tài năng của ông, như: Tháng mười thương
mến (1994), Bến thời gian (1995), Trước ngôi mộ thời gian (1995), 90 lần
nhật

nguyệt (1997), Gọi

làng (1999), Cầm

thu (2002), Khúc

đau

thương (2003).
Tập thơ Với tay ngắt bóng (Sau này được nhà thơ tái bản, in thêm một số
bài và đổi thành Ở thế gian) được in và ra mắt công chúng năm (2009), là tập
thơ được đánh giá cao. Tập thơ ra đời gắn với tâm tư tình cảm và hoà nhịp cùng
bước tiến xã hội. Đỗ Trọng Khơi tạo tiếng vang khi tập thơ cùng với Hai bầu
trời (Khánh Phương - Hà Nội) đã lọt vào vòng chung khảo của Giải thưởng thơ
Bách Việt 2009. Tập thơ là một hành trình dài, nhà thơ nỗ lực hóa giải, tìm kiếm
cái tơi nhỏ bé trong cõi nhân sinh. Ơng suy ngẫm về phận người, phận mình
trong cõi thế gian và thường xuyên đặt ra câu hỏi: Ta là ai? Ta từ đâu và tới đâu?
Ta có nghĩa lý gì khơng trong cõi nhân gian này?... Những câu hỏi nhân sinh đã
theo nhà thơ cho đến tận ngày nay.
Trong dòng đời bon chen, nhà thơ luôn giữ được sự điềm tĩnh, đầy suy
ngẫm. Để rồi, nhà thơ ngộ ra nhiều điều trân quý, mang tính nghiệm suy sâu sắc
về phận người, về những cái có - cái khơng, cái cịn - cái mất, những thực - hư,
thật - giả, được - thua, thành - bại, may - rủi, sướng - khổ, nghĩa lý - vô nghĩa lý…
trong cuộc thế phù du này. Cách nhìn nghiệm suy về cõi nhân gian chủ yếu được
bắt nguồn từ chính cuộc đời, số phận bất hạnh cùng những mơ ước cao đẹp nhưng
bất thành của nhà thơ nên tạo thành mạch cảm xúc, suy tư đời thực, gần gũi, dễ đi

vào lòng người, như quan niệm của nhà thơ về cái Tôi trong cõi nhân sinh:
Ta về ở ẩn trong ta
tấm thân cát bụi như là… thế thôi,


21
Men dòng nhật nguyệt ta đi
bao nhiêu sắc sắc đã về khơng khơng…
(Men dịng nhật nguyệt - Với tay ngắt bóng)
Hay trong bài thơ Ngợ hư vinh cãi phù du, Nhà thơ lại đặt ra vấn đề về
sống – chết, được – mất ở đời:
Ngợ hư vinh cãi phù du
trong binh boong tiếng chng chùa thu khơng,
Mai kia bóng rụng hình rơi
sống vào cõi chết nhẹ rời bước đi,
Một mai cát bụi về trời
nước - non ai gặp bóng tơi cất giùm.
(Ngợ hư vinh cãi phù du - Với tay ngắt bóng)
Tài năng của Đỗ Trọng Khơi thực sự nở rộ khi ông liên tiếp cho ra mắt
bạn đọc những tác phẩm thơ mang tính nghệ thuật cao như: ABC
(2012), Quê (2014), Tĩnh thì sáng (2014), Ở thế gian - Thơ lục bát chọn lọc
(2015), Tuyển tập thơ (2018) và Gặp người ở ngõ thế gian (2019). Tập thơ Gặp
người ở ngõ thế gian có 54 bài, chia đều cho 2 phần. Phần I, thơ lục bát, phần II,
thơ tự do. Trong tập, 90% là những sáng tác mới, viết mấy năm gần đây, có một
số bài được viết từ những năm 1990 và một số bài đã in trong Tuyển tập nhưng
chưa in trong tập riêng lẻ. Tập thơ mang chất giọng u trầm, suy nghiệm về lẽ thế
gian, đượm chút màu sắc ngôn từ Phật giáo, thơ thiền - ở thơ lục bát, là âm
hưởng chủ đạo; phần II, với chùm thơ thế sự, dấn bước cùng thời cuộc, một
hướng cảm xúc mới.
Cuộc đời Đỗ Trọng Khơi đầy những thăng trầm, bất hạnh: tật nguyền, mồ

côi và thất học. Bố ông là liệt sỹ chống Mỹ. Năm đầu lớp 4 ông bị bệnh bại liệt
phải nằm một chỗ, và phải bỏ học. Những tưởng niềm vui sống, ý nghĩa cuộc đời
đã vĩnh viễn phải khép lại trước mắt ông. Từ đó ông sống “nhỏ nhoi trên chiếc
xe lăn, tù túng ở chốn quê, quẩn quanh góc đời hẹp”. Thế nhưng, Đỗ Trọng Khơi
đã khơng ngã lịng, ơng đấu tranh quyết liệt với số phận. Bằng sự nỗ lực không


×