MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mọi hoạt động kinh tế- xã hội (KT-XH) đều có quan hệ mật thiết với môi
trường không khí. Các điều kiện và tài nguyên khí hạu là thành phần quan trọng
của hệ sinh thái và là cơ sở quyết định cho sự phát triển KT-XH mỗi khu vực. Việc
khai thác và sử dụng hợp lý dạng tài nguyên này có ý nghĩa quan trọng trong sự
phát triển bền vững của mỗi địa phương. Trong các ngành kinh tế, thì du lịch cùng
với nông nghiệp chịu sự ảnh hưởng không nhỏ của các đặc điểm và tài nguyên khí
hậu.
Quảng Ninh là một tỉnh nằm ở địa đầu Đông Bắc của Tổ quốc nhưng lại là
một trong những tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Sự phát triển đột phá
của Quảng Ninh trong những năm qua dựa trên hai thế mạnh là công nghiệp khai
thác than và du lịch. Trong đó, du lịch “ngành công nghiệp không khói” sẽ là
hướng phát triển bền vững của tỉnh. Sự phát triển của du lịch chịu sự chi phối của
nhiều điều kiện, trong đó khí hậu có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của ngành.
Vì vậy, tiểu luận sẽ xem xét ảnh hưởng của tài nguyên khí hậu đến hoạt động
du lịch tỉnh Quảng Ninh nhằm phát huy những thuận lợi và khắc phục phần nào
những khó khăn do nó tạo ra với tiêu đề: “Tài nguyên khí hậu và một số ảnh
hưởng của nó đến hoạt động du lịch tỉnh Quảng Ninh”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ
2.1. Mục tiêu
- Phân tích các đặc điểm của tài nguyên khí hậu Quảng Ninh.
- Đưa ra những ảnh hưởng của tài nguyên khí hậu đối với hoạt động du lịch
và một số giải pháp.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu.
1
- Vận dụng các kiến thức trong học phần “ Tài nguyên khí hậu” để giải quyết
những nội dung của tiểu luận.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về tài nguyên khí hậu
1.1.1. Khái niệm về tài nguyên
Trong thiên nhiên tồn tại các thành phần khác nhau như địa hình, đất đá, khí
hậu, nước, sinh vật…Tổng lượng của các thành phần đó trong môi trường đã được
khai thác hoặc chưa khai thác gọi là điều kiện tự nhiên.
Một phần của các khối dự trữ đó có thể sử dụng trong những điều kiện xã
hội, kinh tế và công nghệ nhất định gọi là tài nguyên. Như vậy, tài nguyên là những
dạng thức có sẵn để cung cấp cho nhu cầu kinh tế- xã hội (KT-XH) của con người.
[3].
Tài nguyên thiên nhiên có thể đã được sử dụng hoặc chưa sử dụng nhưng
đều có thể sử dụng được.
1.1.2. Tài nguyên khí hậu
Khí hậu là một thành phần tự nhiên quan trọng. Tài nguyên khí hậu là nguồn
lợi về ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, gió… của một vùng nào đó mà có thể khai thác
nhằm thúc đảy sự sinh trưởng, phát triển, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi hoặc
phục vụ những mục đích phát triển của các ngành KT-XH. [3]
1.2. Khái niệm về du lịch
Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Pháp “tuor”, nghĩa là đi vòng quanh,
cuộc dạo chơi. Du lịch gắn với nghỉ ngơi, giải trí nhằm phục hồi, nâng cao sức
khoẻ và khả năng lao động của con người, nhưng trước hết liên quan mật thiết với
sự chuyển dịch của họ.
2
Theo tổ chức WTO năm 1994 thì du lịch được định nghĩa: “là một tập hợp
các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên quan đến việcdi chuyển tạm thời của con
người khỏi nơi ở thường xuyên nhằm mục đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, dưỡng sức…
và nhìn chung vì những lý do không để kiếm sống. [6]
1.3. Mối quan hệ giữa tài nguyên khí hậu và hoạt động du lịch
Khí hậu là thành phần quan trọng của môi trường tự nhiên có ảnh hưởng lớn
đến du lịch. Ảnh hưởng của nó đến du lịch được đánh giá thông qua khí hậu sinh
học với chỉ tiêu chính là nhiệt độ, độ ẩm không khí và một số chỉ tiêu khác như gió,
lượng mưa, số giờ nắng, áp suất khí quyển…[6]
Nếu điều kiện khí hậu thuận lợi làm cho con người có sức khoẻ dồi dào, tinh
thần thoải mái và hiệu quả làm việc cao thì rất thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng,
tham quan, giải trí cuối tuần… Khí hậu điều hoà, ít thiên tai, bao lũ sẽ không gây
trở ngại cho việc tổ chức các hoạt động du lịch cũng như gây thiệt hại đối với cơ sở
hạ tầng phục vụ du lịch. Những nơi có khí hậu điều hoà thường được du khách ưa
thích. Nhiều cuộc thăm dò cho thấy, khách du lịch thường tránh những nơi quá
lạnh, quá ẩm hoặc quá nóng, quá khô.
Mặt khác, sự phân hoá mùa của khí hậu còn quyết định mùa vụ du lịch.
1.4. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và KT-XH tỉnh Quảng Ninh
1.4.1. Vị trí địa lý
Quảng Ninh là tỉnh nằm ở vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam. Tỉnh được
xác định bởi toạ độ địa lý 20
0
40’B- 21
0
44’B và 106
0
25’Đ- 108
0
25’Đ. Phía Bắc giáp
Trung Quốc, phía Tây giáp Lạng Sơn, Bắc Giang; nam giáp Hải Dương, Hải
Phòng; phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ. Tổng chiều dài ranh giới khoảng 550 km,
trong đó đường biên giới với Trung Quốc dài 92 km và đường bờ biển là 250 km.
Diện tích toàn tỉnh là 5.938 km
2
, trong đó đất liền chiếm 85%, còn hải đảo
chiếm 15%. Quảng Ninh là một tỉnh dài và hẹp như vòng cung quay bề lõm về phía
3
biển. Từ Đông sang Tây nơi dài nhất tới 300 km, từ Bắc xuống Nam nơi rộng nhất
chỉ khoảng 50 km.
Hình 1: Lược đồ tỉnh Quảng Ninh
Đặc trưng về tự nhiên chia Quảng Ninh thành 2 miền: miền Đông và miền
Tây với 14 đơn vị hành chính
1.4.2. Điều kiện tự nhiên
* Địa hình- địa mạo: Quảng Ninh là tỉnh miền núi, song có sự đa dạng về địa
hình gồm cả đồi núi xen kẽ đồng bằng và vùng duyên hải phía Đông. Các dãy núi
lớn , hầu hết ở độ cao dưới 1.000m thuộc cánh cung Đông Triều, chạy theo hướng
Đông Bắc- Tây Nam song song với đường bờ biển. Tiếp theo dải đồi núi là vùng
đồi thấp, là những đồi bát úp, đỉnh tròn mềm mại. Đồng bằng nhỏ, hẹp chiếm
khoảng 10% diện tích toàn tỉnh gồm đồng bằng ven biển miền Đông và đồng bằng
phù sa sông Thái Bình ở miền Tây. [7]
4
Ngoài vùng biển là trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ kéo dài thành hình vòng cung
song song với bờ biển, trong đó các đảo đá vôi với nhiều hang động đẹp rất hấp dẫn
khách du lịch tập trung ở khu vực Hạ Long và Bái Tử Long.
* Sông ngòi: Sông ngòi Quảng Ninh mang đặc điểm chung của sông ngòi
duyên hải ngắn, dốc. Cả tỉnh có tới gần 30 con sông suối dài trên 10 km, mật độ
lưới sông khá dày, trung bình 1- 1,9 km/km
2
.
* Biển và tài nguyên biển: Biển Quảng Ninh có diện tích gần 6 vạn km
2
với
nhiều tiềm năng cho phát triển KT- XH, đặc biệt là du lịch. Cảnh quan của các vịnh
với hệ thống đảo đá và hang động trở thành kỳ quan Thiên nhiên của thế giới đã
được UNESSCO công nhận là lợi thế du lịch độc nhất vô nhị. Cảnh đẹp cùng nhiều
loại hải sản của vùng nhiệt đới có giá trị thu hút khách du lịch.
1.4.3. Điều kiện KT-XH
* Sự tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế: Tỉnh đã tập trung ưu tiên phát
triển công nghiệp và du lịch ở những khu vực trọng điểm như thành phố Hạ Long,
Cẩm Phả, Móng Cái, Uông Bí… Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn mức
trung bình cả nước và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1996-
2000 là 9,6%. [7]
Cơ cấu kinh tế của Quảng Ninh trong những năm qua có sự chuyển dịch
mạnh mẽ, phù hợp với lợi thế của tỉnh. Tỷ trọng nông- lâm- ngư nghiệp giảm, từ
năm 2000 đến 2005 tương ứng là 8,6% xuống còn 5,2%. Tỷ trọng du lịch- dịch vụ
cũng giảm từ 45,9% còn 40,3 %. Cùng thời kỳ công nghiêp- xây dựng tăng từ
45,3% lên 51%. [7].
Sự phát triển kinh tế của Quảng Ninh còn rất nhiều triển vọng của một tỉnh
trong vùng kinh tế trọng điểm.
* Cơ sở hạ tầng: Tiếp tục nâng cấp và hoàn thiện các tuyến đường giao thông
quan trọng từ Hạ Long đi Móng Cái. Đã xây dựng các công trình quan trọng như
5
cầu Bãi Cháy, cảng Cái Lân, cầu Tài Xá…Hoàn thành dự án cấp thoát nước ở
thành phố Hạ Long. Mở rộng mạng lưới điện.
* Văn hoá- giáo dục và quản lý bảo vệ môi trường: Văn hoá- giáo dục được
nâng cao đáp ứng nhu cầu học tập, giải trí của người dân. Tăng cường quản lý bảo
vệ tài nguyên môi trường, nhất là các dự án bảo vệ vịnh Hạ Long.
Như vây, Quảng Ninh là vùng đất có nguồn tài nguyên rất đa dạng, đặc biệt
là phát triển du lịch. Kinh tế- xã hội của tỉnh có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó du
lịch được xác định là ngành chủ lực.
6
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM TÀI NGUYÊN KHÍ HẬU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở QUẢNG NINH
2.1. Các nhân tố hình thành khí hậu của tỉnh Quảng Ninh
2.1.1. Bức xạ Mặt Trời
Do nằm trong khu vực nội chí tuyến (giữa chí tuyến Bắc và xích đạo) nên
luôn được Mặt Trời chiếu sáng quanh năm với độ cao lớn.Vì thế, bức xạ tổng cộng
cũng lớn, trung bình năm trên 200 kcal/cm
2
, tháng ít nhất cũng trên 10 kcal/cm
2
. [5]
Thực tế bức xạ tổng cộng giảm đi do lượng mây lớn (có tháng chiếm 80-
90% bầu trời). Bức xạt tổng cộng chỉ khoảng 50% bức xạ lý tưởng. Cán cân bức xạ
luôn dương, khoảng 60- 70 kcal/cm
2
. [5]
Đồng thời, do có hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh với khoảng cách nhỏ (chỉ
vài ngày) nên khí hậuchỉ có một cực đại và một cực tiểu.
Bức xạ Mặt Trời là yếu tố quan trọng hình thành khí hậu, quyết định số giờ
nắng, chế độ nhiệt, nên là động lực cho các quá trình và hiện tượng trong khí quyển
cũng như các nhân tố hình thành khí hậu khác.
2.1.2. Hoàn lưu khí quyển
Nằm trong khu vực Đông Nam Á, nơi giao tranh mạnh mẽ của hai hệ thống
hoàn lưu có qui mô lớn là hoàn lưu tín phong và hoàn lưu gió mùa châu Á. Sự giao
tranh làm biến tính khá mạnh bản chất “nhiệt đới” ở đây.
Tín phong là hoàn lưu thường xuyên ở vùng nội chí tuyến, nhưng ở Việt
Nam thì gió này không liên tục vì bị gió mùa lấn át. Tín phong thổi theo hướng
7
Đông Bắc nên mang nhiều hơi nước và khá nóng. Vì vậy, nó không ổn định, hay bị
nhiễu động, đôi khi gây thời tiết xấu.
Hoàn lưu gió mùa châu Á là một trong những chế độ gió mùa đặc sắc nhất
hành tinh, được hình thành chủ yếu bởi sự tương phản về nhiệt độ giữa lục địa châu
Á rộng lớn với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương; giữa hai bán cầu trong cùng
một mùa. [4]
- Gió mùa mùa đông gồm gió mùa cực đới của vùng đông bắc tràn xuống và
gió mùa có tính nhiệt đới (sự phát triển của tín phong) của vùng Đông Nam Á.
- Gió mùa mùa hè có thể là gió mùa Tây Nam Á (từ Ấn Độ Dương tàn sang)
và tín phong Nam Bán Cầu thổi lên theo hướng Đông Nam. Quảng Ninh không
chịu tác dụng của gió mùa Tây Nam.
Hai loại gió mùa này đã tạo nên hai mùa tương phản: mùa đông và mùa hè
cho miền Bắc Việt Nam, trong đó có Quảng Ninh. Gió mùa mùa đông đã tạo nên
một mùa đông lạnh với hai loại thời tiết: lạnh khô vào đầu mùa do khối không khí
cực đới lục địa và lạnh ẩm vào cuối mùa do khối không khí này qua biển đã bị biến
tính. Gió mùa mùa hè với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới đã tạo nên thời tiết
nóng ẩm cho Quảng Ninh.
Hoạt động của hai loại gió này cũng kèm theo các nhiễu động gây mưa như
frônt lạnh, dải hội tụ nhiệt đới, bão…làm cho khí hậu càng thêm phức tạp.
2.1.3. Các nhân tố địa lý
* Vị trí địa lý
Vĩ độ địa lý quyết định độ cao Mặt Trời, thời gian chiếu sáng nên quyết định
lượng bức xạ Mặt Trời. Quảng Ninh nằm trong khu vực nội chí tuyến, bức xạ Mặt
Trời lớn nên nền nhiệt độ khá cao (trừ mùa đông cho khối khí cực làm biến tính).
[3]
Mặt khác, do vị trí giáp biển nên khí hậu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hải
dương. Mùa đông, biển có tác dụng làm ấm không khí nên vào cuối mùa đây là khu
8
vực đầu tiên đón gió mùa Đông Bắc qua biển. Gió này đem lại thời tiết ấm, ẩm với
hiện tượng mưa phùn rất điển hình. Mùa hè gió từ biển thổi vào làm cho thời tiết
mát mẻ và ẩm hơn. Tác dụng của bão đến Quảng Ninh không mạnh mẽ do sự che
chắn của hệ thống đảo trên vịnh. Tuy nhiên, một số nhiễu động như lốc xoáy, mưa
lớn… cũng thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn về người và tài sản.
* Địa hình: Địa hình có hướng vòng cung do các dãy núi trong cánh cung
Đông Triều tạo thành. Cánh cung này cùng với sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn
chụm đầu ở Tam Đảo giống như hình nan quạt có tác dụng hút gió mùa Đông Bắc.
Vì thế, mùa đông Quảng Ninh chịu tác dụng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc tạo
nên một mùa đông sâu sắc, nhiệt độ xuống thấp (Tiên Yên nhiệt độ xuống tới 1
0
C)
Đồng thời, địa hình núi cao có hướng Tây Nam- Đông Bắc cũng trở thành
nơi đón gió Đông Nam tạo thành các điểm mưa lớn như Nam Châu Lãnh, Cao
Xiêm, Am Váp…
Địa hình đảo trong vịnh giống như bức tường thành giảm bớt sự hoạt động
của bão, gió mùa Đông Bắc.
* Dòng biển: Ở đây, không có những dòng biển lớn hoạt động ổn định hoạt
động quanh năm nên ảnh hưởng với khí hậu không lớn, ví dụ dòng biển nóng làm
khí hậu ấm suốt năm. Các dòng biển hoạt động theo mùa, mùa hè dòng biển nóng,
mùa đông dòng biển lạnh nên chỉ có tác dụng làm tăng cường các kiểu thời tiết đặc
trưng của mỗi mùa.
2.2. Đặc điểm tài nguyên khí hậu Quảng Ninh
Đặc điểm bao trùm khí hậu Quảng Ninh là tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa có
mùa đông lạnh và mùa hạ nóng, mưa nhiều. Đặc điểm đó đã tạo nên giá trị tài
nguyên khí hậu riêng biệt, chi phối các hoạt động KT-XH, trong đó có hoạt động
du lịch.
9
2.2.1.Tài nguyên bức xạ- nắng
Bức xạ- nắng là tài nguyên khí hậu cơ bản và quan trọng của Việt Nam nói
chung và Quảng Ninh nói riêng.
* Bức xạ tổng cộng: Do độ cao Mặt Trời lớn và thời gian chiếu sáng tương
đối đồng đều nên bức xạ tổng cộng hàng năm đến được mặt đất trên lãnh thổ
Quảng Ninh khá dồi dào. Trung bình bức xạ tổng cộng năm là là 114 kcal/cm
2
.
Lượng bức xạ tổng cộng có trị số lớn khoảng 8 tháng từ tháng IV đến tháng XI
(trên 10 kcal/cm
2
). Bức xạ tổng cộng đạt cực đại vào tháng V (12,2 kcal/cm
2
). Các
tháng có bức xạ tổng cộng đạt cực tiểu là tháng I, tháng II ( xấp xỉ 5 kcal/cm
2
).
Bảng 2.1: Bức xạ tổng cộng (kcal/cm
2
) [1]
Tháng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm
Trước
1975
5,8 5,7 6,9 10,
0
12,2 11,5 12,3 11,8 11,6 11,5 8,9 7,1 115,3
1976-
1985
5,6 5,2 6,6 6,3 12,2 10,3 10,4 11,4 11,2 9,9 9,3 8,1 106,5
1986-
1995
4,8 4,7 6,0 7,2 11,3 10,9 11,8 12,3 11,6 10,1 8,6 8,2 107,5
Khoảng thời gian lên xuống của bức xạ tương ứng với hai mùa trong năm:
mùa hạ và mùa đông. Bức xạ tổng cộng lớn tạo cơ sở cho một nền nhiệt dồi dào.
* Số giờ nắng: Liên quan trực tiếp đến bức xạ là chế độ nắng. Số giờ nắng
trong năm ở Quảng Ninh xê dịch trong khoảng 1.500- 1.800 giờ (trung bình cả
nước là 1.400- 3.000 giờ). Như vây, Quảng Ninh có số giờ nắng thuộc loại khá cao.
Cô Tô có số giờ nắng lớn nhất (1.941 giờ) và ít nhất ở Tiên Yên (1.514 giờ).
Không những có sự phân hoá theo không gian, số giờ nắng còn có sự phân hoá theo
thời gian trong năm. Tháng có số giờ nắng lớn nhất là tháng IX, tháng X (trên
1.800 giờ) do trời quang, ít mây. Ngược lại các tháng II và III, số gời nắng rất ít,
chỉ khoảng trên 400 giờ. Đây là thời điểm mùa xuân, nhiều mây và mưa phùn. [5]
Theo tính toán của GS. Nguyễn Trọng Hiệu (1975), số giờ nắng chỉ chiếm
50% thời gian chiếu sáng. Trong những tháng mưa phùn (II, III), nắng rất ít, tỷ suất
10
nắng không quá 20%. Vào các tháng IX, X, mặc dù thời gian chiếu sáng không dài
những số giờ nắng xấp xỉ các tháng giữa mùa hạ (VII, VII).
Như vậy, biến trình năm của số giờ nắng phù hợp với biến trình năm của
tổng xạ và phản ánh rất rõ ảnh hưởng của mây đến số giờ nắng.
2.2.2. Tài nguyên nhiệt
Tổng xạ và số giờ nắng tương đối lớn đã mang lại cho Quảng Ninh một nền
nhiệt khá dồi dào. Ở những vùng thấp dưới 200 m, tổng nhiệt độ năm trên 8.000
0
C
và nhiệt độ trung bình năm trên 21
0
C (đạt tiêu chuẩn của khí hậu nhiệt đới) [5]. Tuy
nhiên, nhiệt độ này có sự phân hoá theo thời gian và không gian.
* Phân hoá theo thời gian của nhiệt độ: gồm phân hoá theo ngày và theo
mùa.
- Biến trình ngày của nhiệt độ: Biến trình ngày của nhiệt độ trong các mùa
đều rất có qui luật. Từ sáng sớm, nhiệt độ bắt đầu tăng và đến chiều nhiệt độ bắt
đầu giảm. Thời gian có nhiệt độ cực tiểu là 4- 6 giờ sáng và cực đại vào lúc 10- 12
giờ. [5]
- Biến trình năm của nhiệt độ: Nhiệt độ có sự phân hóa thành các mùa rõ rệt.
Nếu thừa nhận mùa nóng là thời gian có nhiệt độ trung bình ngày trên 25
0
C, mùa
lạnh là thời gian có nhiệt độ trung bình ngày dưới 20
0
C, các mùa chuyển tiếp là thời
gian có nhiệt độ trung bình ngày nằm trong khoảng 20- 25
0
C thì ở những vùng thấp
mùa nóng bắt đầu từ cuối tháng IV và đầu tháng V, kết thúc vào cuối tháng IX, đầu
tháng X; mùa lạnh bắt đầu từ tháng XI và kết thúc vào cuối tháng III năm sau. [5]
Mùa hè có nhiệt độ khá cao, trị số trung bình tháng VII ở hầu hết các nơi
trong tỉnh dao động từ 27,9 đến 28,8
0
C. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối đạt tới trị số
38,8
0
C, ở các nơi dao động từ 36,2 đến 38,0
0
C. [5]
Mùa đông, nhiệt độ trung bình dao động từ 13 đến 15
0
C. Nhiệt độ tối thấp
tuyệt đối xuống thấp tới 0,9
0
C. [5]
11
Ở Quảng Ninh, tháng lạnh nhất là tháng I, tháng nóng nhất là tháng VII Biên
độ dao động nhiệt độ trong năm lớn (trên 10
0
C). Biên độ cực đại lên đến 30
0
C.
Biên độ năm ở miền Đông khoảng 12- 13
0
C, miền Tây khoảng 11- 12
0
C. Cô Tô là
nơi có biên độ năm lớn nhất [5]. Như vây, nếu dùng biên độ nhiệt độ năm để phán
ánh độ lục địa thì kết quả trái ngược lại với thực tế: độ lục địa của các nơi trên đất
liền nhỏ hơn ở các vùng đảo.
* Phân bố theo không gian của nhiệt độ:
Vùng ven biển có mùa đông khá lạnh, nhiệt độ trung bình tháng I dao động
từ 13- 15
0
C, do đây là vùng cửa ngõ đón gió mùa Đông Bắc. Mùa hè ở đây cũng
mát mẻ bởi đón gió từ biển thổi vào.
Do địa hình có sự phân hoá mạnh, nhiều đồi núi và thung lũng nên ở vùng
núi mùa đông lạnh và kéo dài (từ tháng XI đến tháng IV năm sau), thường xuất
hiện những ngày có nhiệt độ dưới 15
0
C. Đôi khi có những ngày rất rét, nhiệt độ hạ
thấp xuống còn 0,9
0
C (Tiên Yên).
Mặt khác, mùa lạnh ở các vùng phía Đông dài và rét hơn các vùng phía Tây,
mùa nóng thì ngược lại.
Bảng 2.2: Số ngày có nhiệt độ không khí trung bình các cấp (
0
C) [5]
Trạm Số
ngày
I II III IV V VI VII VII
I
IX X XI XII
Móng
Cái
t
0
≤
10
0
C
2,3 2,4 0,1 0 0 0 0 0 0 0 0 0,5
t
0
≤
15
0
C
6,7 12,9 4,9 0,2 0 0 0 0 0 0 1,1 8,5
t
0
≥
30
0
C
0 0 0 0 0 0,5 1,1 0,9 0,1 0 0 0
Cửa
Ông
t
0
≤
10
0
C
0,9 1,5 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0,5
t
0
≤
15
0
C
15,5 0,1 4,6 0,2 00 0 0 0 0 0 1,0 7,3
t
0
≥
30
0
C
0 0 0 0 0,7 1,6 4,3 1,4 0,2 0 0 0
12
Nhìn chung, nhiệt độ ở Quảng Ninh thấp hơn nhiều nơi khác ở miền Bắc tuy
ở cùng một vĩ độ và độ cao. Nhiệt độ giảm dần từ Nam lên Bắc, từ Tây sang Đông
và từ vùng thấp lên vùng cao.
2.2.3. Tài nguyên ẩm
Tài nguyên ẩm được biểu hiện qua mưa và độ ẩm trong không khí.
2.2.3.1. Mưa
* Lượng mưa
Quảng Ninh là một trong những nơi có mưa nhiều ở các tỉnh phía Bắc. Trung
tâm mưa lớn nhất là sườn đón gió phía đông của dãy Nam Châu Lãnh- Yên Tử và
vùng đồng bằng duyên hải trước dãy núi này gồm các huyện Móng Cái, Quảng Hà,
Tiên Yên với lượng mưa trên 2.000mm. Đây là một trong những điểm mưa của
vùng Đồng bằng sông Hồng. Điểm mưa nhỏ nhất là vùng đồi tiếp giáp với Lạng
Sơn, Bắc Giang, Đông Triều, Đồn Sơn, Bình Khê với lượng mưa dưới 1.600mm,
có nơi dưới 1.400mm. Lượng mưa này xấp xỉ với vùng ít mưa của Việt Nam.
Trong mùa hè lượng mưa dao động từ 1.100mm đến 2.400 mm. Sự phân bố
lượng mưa này giống như lượng mưa năm. Mùa đông, lượng mưa phần lớn các nơi
150- 400 mm. Càng về phía biển và hải ddaor càng lớn dần lên. Cô Tô, lượng mưa
trong mùa đông là 250 mm.
Như vậy, mặc dù trong phạm vi một tỉnh nhưng lượng mưa có sự khác nhau
giữa các nơi vào các thời điểm.
* Số ngày mưa và cường độ mưa
Số ngày mưa và cường độ mưa quyết định lượng mưa. Các cực đại và cực
tiểu mưa của Quảng Ninh cũng là các cực đại, cực tiểu của vùng Đồng bằng Bắc
Bộ. Móng Cái và Tiên Yên là hai địa phương có số ngày mưa nhiều nhất trên 160
ngày. Vùng núi Nam Châu Lãnh và các khu vực xung quanh có số ngày mưa trên
120 ngày. Ngược lại, vùng giáp ranh với Hải Phòng, Hải Dương, có số ngày mưa ít
(không quá 100 ngày). [5]
13
Bảng 2.3: Số ngày mưa trung bình của một số
địa điểm thời kỳ 1946- 1995 [5]
Trạm I II III IV V VI VII VII
I
IX X XI XII Tổng
Uông Bí 7 10 13 12 13 16 16 19 14 10 5 4 141
Hòn Gai 6 9 12 10 11 15 16 19 14 9 5 5 132
Móng
Cái
10 12 15 15 15 19 21 16 14 10 7 8 163
Cô Tô 7 8 10 9 9 12 12 20 14 9 6 5 117
Lượng mưa nhiều hay ít một phần do số ngày mưa nhưng chủ yếu do cường
độ mưa quyết định. Nếu phân ngày mưa theo các cấp thì cường độ mưa ngàng phổ
biến trong mùa đông là 0,1- 5,0 mm; mùa hè là 0,1- 25,0; trong các mùa chuyển
tiếp là 0,1-10 mm. Riêng Tiên Yên, Móng Cái cường độ mưa lớn hơn, cực đại
trong mùa đông là 10 mm; mùa hè là 50 mm; còn mùa xuân, mùa thu là 26 mm. [5]
Như vậy, các vùng mưa nhiều của tỉnh đều có số ngày mưa và cường độ mưa
lớn.
* Biến trình năm của mưa
Nhìn chung, lượng mưa phân bố không đồng đều trong năm, chia thành hai
mua. Mùa hè, lượng mưa chiếm phần lớn trong năm. Thời gian này kéo dài từ
tháng V đến tháng IX (chiếm 75- 85% cả năm). Mùa đông từ tháng X đến IV năm
sau, chỉ chiếm 15- 25% lượng mưa năm.
Về mùa hạ tháng nào lượng mưa cũng trên 100mm. Có năm tháng X, lượng
mưa lên đến 100 mmm. Mùa đông thì ngược lại, lượng mưa đều dưới 50- 100 mm.
[5]
Tháng có lượng mưa lớn nhất ở khu vực miền Đông và một số huyện miền
Tây như Hoành Bồ, Cẩm Phả là tháng VII; các đảo ngoài khơi và các huyện khác
còn lại là tháng VIII. Tháng có mưa ít nhất ở Quảng Ninh là tháng XII và tháng I.
2.2.3.2. Độ ẩm không khí
14
Độ ẩm của lớp không khí sát mặt đất được xem xét thông qua độ ẩm tuyệt
đối và độ ẩm tương đối. Ở đây, ta xét đến đại lượng độ ẩm tương đối. Độ ẩm trung
bình của tỉnh bằng mức trung bình của cả nước, trung bình là 83%. Tuy nhiên độ
ẩm có sự phân hoá theo khu vực. Nhìn chung, những khu vực có lượng mưa lớn
thường đồng nghĩa với độ ẩm tương đối lớn. Trị số này có giá trị lớn nhất là vùng
đảo Cô Tô, Tiên Yên, Móng Cái, Quảng Hà với mức trung bình trên 84%. Các khu
vực khác dao động từ 81- 83%, thấp nhất tuyệt đối đã xuống đến 4- 5%.
Nhìn chung, độ ẩm ẩm tương đối ở Quảng Ninh chênh lệch giữa các vùng
không lớn và phụ thuộc vào độ cao địa hình.
Bảng 2.4: Độ ẩm không khí trung bình của một số trạm [5]
Trạm I II III IV V VI VII VII
I
IX X XI XII TB
Uông Bí 78 83 86 86 83 83 83 85 82 78 75 75 81
Hòn Gai 80 85 88 87 83 84 83 86 82 78 76 76 81
Móng
Cái
79 83 87 88 86 86 86 86 82 78 76 76 83
Cô Tô 83 88 90 90 88 87 85 86 82 78 77 79 84
TB 81 85 88 88 85 85 86 83 79 78 76 77 83
Xét về độ ẩm tương đối có thể chia mùa đông thành hai thời kỳ. Nửa đầu
mùa đông độ ẩm rất thấp, tháng XII và tháng I có độ ẩm thấp nhất trong năm. Nửa
cuối mùa đông và tháng II, III độ ẩm xấp xỉ các tháng trong mùa hạ, thậm chí lớn
hơn cả mùa hè như đảo Cô Tô. Trong mùa đông, phân bố của độ ẩm tương đối phù
hợp với sự phân bố của lượng mưa.
* Lượng bốc hơi
Lượng bốc hơi toàn năm của vùng thấp 700- 1.300 mm, lớn nhất ở Đông
Triều và thấp nhất ở Móng Cái. Trong mùa hè, lượng bốc hơi từ 400- 650 mmm, ít
nhất là các tháng VII, VIII. Sang đông xuân lượng bốc hơi là 350- 700 mm, trong
đó các tháng XII, I có lượng bốc hơi nhiều nhất.
15
Sự tăng hay giảm của nhiệt độ không ảnh hưởng nhiều đến lượng bốc hơi. ở
đây, mưa và độ ẩm không khí ảnh hưởng chủ yếu đến lượng bốc hơi. Do đó biến
trình năm của lượng bốc hơi về cơ bản phù hợp với biến trìn năm của hai yếu tố
này.
Để đánh giá khả năng cung cấp nước tự nhiên cho các hoạt động KT- XH,
người ta thường dùng chỉ số khô hạn, hay chỉ số ẩm ướt. Chỉ số khô hạn là là tỷ số
giữa lượng bốc hơi và lượng mưa và ngược lại chỉ số ẩm ướt là tỷ số giữa lượng
mưa và lượng bốc hơi. Chỉ số khô hạn của Quảng Ninh rất nhỏ. Nơi mưa ít như
Đông Triều chỉ số khô hạn ≤ 0,5. Nơi mưa nhiều như Móng Cái, Tiên Yên chỉ số
khô hạn là 0,2. Đồng thời, chỉ số khô hạn cũng có sự khác nhau giữa các tháng
trong năm. Các tháng có chỉ số khô hạn nhỏ nhất là tháng VII, VIII (0,1- 0,4).
Trung bình chỉ số khô hạn các tháng mùa hè là ≤ 1,0. Những tháng mùa đông, chỉ
số khô hạn ≥ 1,0.
Như vậy, Quảng Ninh hầu như không bị đe doạ bởi nạn hạn hán.
16
2.2.4. Tài nguyên gió
Cũng như các tỉnh khác, mùa gió ở Quảng Ninh tương ứng với mùa hoàn
lưu: mùa đông và mùa hè.
Hướng gió mùa đông: chủ đạo là hướng Đông và Đông Bắc.
Hướng gió mùa hè: chủ đạo là hướng Nam và Đông Nam.
Hướng gió các tháng chuyển tiếp giống với hướng gió mùa đông nhưng tần
suất đồng đều hơn.
Trong đó, gió mùa Đông Bắc tác động đến Quảng Ninh rất rõ rệt. Là một
trong những yếu tố quan trọng chi phối thời tiết. Trung bình mỗi năm ở Quảng
Ninh có 20- 25 đợt gió mùa Đông Bắc. Trong mùa đông, mỗi tháng có gần 3 đợt,
có khi 4- 5 đợt, hoặc chỉ 1- 2 đợt. [5]
Tốc độ gió lớn nhất thường trên 15 m/s (bằng tốc độ gió cực đại của Việt
Nam). Ngoài khơi, tốc độ gió lớn nhất 10- 15 m/s. Trên đất liền, tốc độ gió nhỏ
hơn. [5]
Gió mùa Đông Bắc thường xảy ra trong các tháng XI, XII và I. Tháng II và
tháng III, gió này thường kèm theo mưa phùn, nhiều khi mưa kéo dài hàng tuần lễ.
Hầu hết các đợt gió mùa thường gây ra sự giảm nhiệt độ đột ngột trong 24 giờ,
chênh lệch nhiệt độ trước và sau lúc gió về thường 4- 5
0
C, có khi đến 10
0
C.
Gió mùa Đông Bắc mang đến cho Quảng Ninh một mùa đông lạnh với thời
tiết khô hanh vào đầu mùa và lạnh, ẩm vào cuối mùa. Mùa hè, gió Đông và Đông
nam từ biển thổi vào mang theo không khí mát và ẩm,phần nào giảm bớt đặc tính oi
nóng cho khu vực.
Trong một ngày- đêm, các khu vực ven biển còn có sự luân phiên của gió
đất- gió biển làm thời tiết dễ chịu. Ban ngày, mặt biển lạnh hơn so với mặt đất nên
gió từ biển thổi vào, gọi là gió biển. Ban đêm, gió thổi ngược lại, gọi là gió đất.
Như vậy, tài nguyên khí hậu Quảng Ninh khá phong phú về tiềm năng ánh
sáng, bức xạ, nhiệt và ẩm tương đối thuận lợi cho các hoạt động KT- XH.
17
2.5. Một số bất lợi của khí hậu Quảng Ninh
Bên cạnh những thuận lợi, còn có một số hiện tượng thời tiết đặc biệt gây bất
lợi cho con người.
2.5.1. Sương mù và sương muối
Đây là những hiện tượng thường xuất hiện ở Quảng Ninh.
Sương mù xuất hiện nhiều nhất ở vùng đồi khuất sau núi Nam Châu Lãnh.
Khu vực này quanh năm có sương mù. Còn các khu vực khác trong tỉnh, sương mù
thường xảy ra vào cuối mùa hè, đầu mùa đông, nhiều nhất vào tháng VIII. Số ngày
có sương mù trong năm là 15- 20 ngày. Cửa Ông và Cô Tô là hai địa điểm có
sương mù nhất (20- 29 ngày). Sương mù ít nhất ở Uông Bí (0,9 ngày). Sương mù
gây khó khăn cho các hoạt động, nhất là giao thông vận tải vì cản trở tầm nhìn.
Khác với sương mù, sương muối chỉ xuất hiện vào mùa đông, nhất là vào
những đợt gió mùa Đông Bắc, khi nhiệt độ hạ thấp xuống dưới điểm sương (< 0
0
C).
Những đợt sương muối của Quảng Ninh thường xảy ra vào các tháng XII, I, II.
Nhiệt độ có nơi xuống dưới 0
0
C, rất nguy hiểm đối với sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là gia súc, gia cầm.
2.5.2. Dông
Hàng thángở Quảng Ninh có khá nhiều dông. Móng Cái, Tiên Yên trung
bình năm 40- 55 ngày có dông. Đảo Cô Tô có ít dông nhất, khoảng 33 ngày.
Mùa hè thường xảy ra dông nhiệt vào những ngày có nhiệt độ cao, bốc hơi
mạnh, độ ẩm không khí lớn. Lớp không khí sát mặt đất trở lên kém ổn định nên
thường xảy ra dông, mưa lớn kèm theo gió mạnh. Trong mùa hè, mỗi tháng ít nhất
cũng có 6- 8 ngày dông.
Bảng 2.5 : Số ngày có dông tại một số trạm [5]
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Tổng
Uông
Bí
0,1 0,3 1,6 4,1 5,9 9,6 10,1 9,3 5,3 1,7 0,1 0,0 48,1
Hòn 0,2 0,3 1,2 4,1 5,2 7,6 6,2 10,1 5,7 1,6 0,2 0,1 42,5
18
Gai
Móng
Cái
0,1 0,3 1,6 4,1 5,9 9,6 10,1 9,3 5,3 1,7 0,1 0,0 48,1
Cô Tô 0,3 0,3 1,0 3,9 3,9 4,6 5,2 7,5 4,8 1,6 0,3 0,0 33,4
Mùa có dông thường bắt đầu từ tháng III, IV và kết thúc vào các tháng IX,
X. Có năm mùa dông kéo dài hơn bắt đầu từ tháng II và kết thúc vào tháng XI.
Thậm chí có năm, dông xuất hiện từ tháng I. [5]
Dông thường kèm theo gió mạnh và mưa rào. Nhiều cơn dông, tốc độ gió
trêm 25 m/s, thậm chí trên 40 m/s. Mưa dông không kéo dài nhưng có cường độ rất
lớn. Ở một vài nơi mưa dông kèm theo mưa đá. Hiện tượng này thường xảy ra vào
các tháng đầu và cuối mùa đông khi có frônt lạnh, gây thiệt hại cho sản xuất nông
nghiệp.
2.5.3. Bão
Là một địa phương giáp biển, Quảng Ninh cũng thường xuyên phải hứng
chịu các cơn bão biển Đông đổ bộ. Tháng có nhiều bão là tháng VII, VIII, sớm hơn
các khu vực khác ở miền Bắc. Tuy nhiên chủ yếu là các cơn bão ảnh hưởng gián
tiếp, ít các cơn bão ảnh hưởng trực tiếp. Trung bình mỗi tháng có 1 cơn bão, nhiều
thì 3- 4 cơn. Cũng có năm không có cơn bão nào đổ bộ.
Bão vào Quảng Ninh phần lớn là bão vừa và nhỏ. Tốc độ gió trong cơn bão
lớn nhất trên 25 m/s. Thỉnh thoảng có những cơn trên 40 m/s. Tốc độ gió này cũng
không kém các khu vực khác nên tác dụng che chắn của các đảo là không lớn. [5]
Bão thường gây ra mưa to, gió lớn. Những cơn bão đổ bộ trực tiếp cho mưa
rất to, nhỏ nhất cũng trên 100 mm/ngày. Có cơn bão cho lượng mưa tới 500 mm.
Các cơn bão ảnh hưởng gián tiếp nhiều, chủ yếu là những cơn đổ bổ vào bờ
biển Bắc Bộ và khu Bốn cũ. Bão vào Quảng Đông (Trung Quốc ) ít ảnh hưởng đến
Quảng Ninh. Bão là nguyên nhân chủ yếu gây mưa lớn và những thiệt hại về người
và của.
19
Tóm lại, khí hậu Quảng Ninh khá điều hoà, ít thiên tai bão lũ thuận lợi cho
các hoạt động KT- XH của người dân. Theo bảng Phân hạng các khu vực địa lý
theo tài nguyên khí hậu của Nguyễn Đức Ngữ và Nguyễn Trọng Hiệu tài nguyên
mưa và mưa mùa hè được xếp hạng 1, gió hạng 2 và bức xạ, nhiệt độ hạng 3, 4.
Qua đó cho thấy Quảng Ninh cũng có tiềm năng về tài nguyên khí hậu.
2.3. Ảnh hưởng của tài nguyên khí hậu đến hoạt động du lịch của tỉnh Quảng
Ninh
Ngoài nông nghiệp chịu sự chi phối trực tiếp thì các hoạt động du lịch cũng
bị ảnh hưởng lớn bởi khí hậu. Bất cứ tác động nào cũng có tính chất hai mặt: thuận
lợi và không thuận lợi, song tuỳ từng đối tượng mà một trong hai mặt sẽ là yếu tố
trội. Ảnh hưởng của tài nguyên khí hậu Quảng Ninh đến hoạt động du lịch cũng thể
hiện ở hai mặt thuận lợi và khó khăn.
2.3.1. Một số ảnh hưởng có lợi của tài nguyên khí hậu đối với hoạt động du
lịch
a, Khí hậu là thành phần tự nhiên chủ yếu tạo nên cảnh quan nhiệt đới ẩm gió
mùa và một số cảnh quan đặc biệt phục vụ cho du lịch
Động lực của mọi quá trình tự nhiên là bức xạ Mặt Trời, biểu hiện cụ thể là
nhiệt và ẩm. Hai yếu tố này chi phối sự hình thành, phát triển và đặc điểm của các
thành phần tự nhiên khác. Mang đặc điểm chung của khí hậu Việt Nam với nguồn
nhiệt và ẩm dồi dào đã tạo cho Quảng Ninh cảnh quan của vùng nhiệt đới ấm gió
mùa. Thổ nhưỡng từ đất feralit, đất phù sa, đất mặn đến đất mùn trên núi. Sông
ngòi dày đặc, quanh năm có nước. Từ đó, lớp “áo” cảnh quan là thảm thực vật rừng
thường xanh với độ đa dạng sinh học khá cao còn được bảo tồn ở một số nơi như
Cô Tô, Hoành Bồ… Ở đây thích hợp cho hoạt động du lịch nghiên cứu, tham quan,
dã ngoại…
Dọc theo ven biển là hệ sinh thái rừng ngập mặn với hai loài chủ yếu là sú và
vẹt rất đặc trưng cho vùng nhiệt đới. Nét đẹp của xứ nhiệt đới được tô điểm thêm
bởi những đồi thông của vùng ôn đới. Những đồi thông xuất hiện nhiều nơi trong
20
tình làm cho du khách có cảm giác rất dễ chịu, thư thái như được đến với xứ sở Đà
Lạt. Cái đẹp mà không một mảnh đất nào có được là sự kết hợp rất tinh tế của tự
nhiên tạo nên bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Từ đồi thông sát biển phóng tầm mắt
xuống dải sú vẹt ven biển và hít thở vị mặn mòi của biển cả cũng như thưởng
ngoạn công trình kiệt tác của tạo hoá đó là các đảo đá vôi lô nhô trên biển. Hệ
thống đảo đá vôi này mang đặc điểm riêng của xứ nhiệt đới. Từ trên cao nhìn
xuống màu xanh của thực vật nhiệt đới như tấm thảm vây quanh con rồng trên biển.
Còn địa chỉ nào hấp dẫn để du khách tham quan ngắm cảnh, nghỉ dưỡng hơn mảnh
đất Quảng Ninh này?
b, Đặc điểm của điều kiện và tài nguyên khí hậu thích hợp cho các hoạt động
du lịch
Như phần trên đã nói, các đặc điểm của khí hậu ảnh hưởng đến du lịch được
đánh giá thông qua các chỉ tiêu sinh khí hậu. Các học giả Ấn Độ đã đưa ra các chỉ
tiêu khí hậu sinh học để xác định mức độ thích nghi của khí hậu đối với con người.
Khí hậu có thích nghi với con người thì mới là tiền đề để phát triển du lịch vì mục
đích hàng đầu của nó là nghỉ ngơi, thư giãn.
Bảng 2.6: Các chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người [6]
Hạng Ý nghĩa
Nhiệt độ
trung bình
năm (
0
C)
Nhiệt độ
trung bình
tháng nóng
nhất (
0
C)
Biên độ dao
động nhiệt độ
(
0
C)
Lượng mưa
năm (mm)
1 Thích nghi 18- 24 24- 27 < 6 1.250-
1.950
2 Khá thích nghi 24- 27 27- 29 6- 8 1.950-
2.250
3 Nóng 27- 29 29- 32 8- 14 >2.250
4 Rất nóng 29- 32 32- 35 14- 19 < 1.250
5 Không thích
nghi
> 32 > 35 > 19 < 680
Đối chiếu bảng này với các đặc điểm khí hậu của Quảng Ninh ở phần trên
cho kết quả là thích nghi và khá thích nghi với sức khoẻ con người:
21
- Nhiệt độ trung bình năm > 21
0
C vào loại thích nghi.
- Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất 27,9- 28,8
0
C vào loại khá thích nghi.
- Biên độ dao động nhiệt độ 13
0
C, hơi nóng.
- Lượng mưa 1.800- 2.000 mm vào loại thích nghi và khá thích nghi.
Do vậy, khí hậu Quảng Ninh thuận lợi cho con người nghỉ ngơi, bồi dưỡng
sức khoẻ. Vì thế, nó là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng.
Là một tỉnh duyên hải, ưu thế mà Quảng Ninh có được là du lịch biển như
tắm biển, tắm nắng, bơi, tham quan vịnh…Tuy nhiên, các lợi thế không được phát
huy là khí hậu khắc nghiệt. Tài nguyên bức xạ nhiệt đã được đánh giá vào hạng 1,
tổng xạ cao, số giờ nắng trung bình ngày cao, nhất là vào mùa hè, nhiệt độ nước
biển thích hợp (21- 28
0
C). Đó là những điều kiện lý tưởng cho du lịch biển. Mùa hè
đến Quảng Ninh du khách được tắm biển, hít thở không khí mát mẻ của biển, thả
dù trên bãi biển, đi ca nô, đặc biệt là đi thuyền thăm vịnh trong cái nóng dễ chịu
chứ không oi ả như miền Trung. Đặc biệt thời tiết mùa thu, nhiệt độ đã giảm vài độ,
nắng vàng nhưng không gay gắt, trời trong xanh là điều kiện lý tưởng cho tham
quan hang động trên vịnh.
Mùa đông mặc dù nhiệt độ hạ thấp nhưng lại rất thích hợp cho các khu vực
nghỉ dưỡng hoạt động. Nếu Quảng Ninh hình thành các trung tâm nghỉ dưỡng tại
các khu vực đồi thông của Yên Hưng, Uông Bí, Hoành Bồ…phỏng theo mô hình
của Đà Lạt thì sẽ trở thành những địa chỉ hấp dẫn du khách từ Hà Nội, Hải Phòng
và các tỉnh lân cận, kể cả du khách nước ngoài ngay cả trong mùa đông.
c, Đặc điểm của khí hậu hình thành tính mùa vụ trong hoạt động du lịch
Nếu trong nông nghiệp tính mùa vụ rất rõ thì trong du lịch cũng chịu sự chi
phối của mùa trong khí hậu. Phần lớn các hoạt động du lịch là đưa du khách về với
thiên nhiên, đặc biệt du lịch sinh thái đang là thị hiếu của du khách hiện nay; đồng
thời việc đi lại cũng chịu tác động của thời tiết. Do đó, trong du lịch cũng hình
thành tính mùa vụ.
22
Tuy nằm trong vùng nhiệt đới nhưng cũng như các tỉnh khác của miền Bắc,
Quảng Ninh có một mùa đông lạnh bên cạnh mùa hè nóng, ẩm. Ở đây có bốn mùa
nhưng chủ yếu là có hai mùa khác nhau rõ rệt. Là một tỉnh ven biển, nên các hoạt
động du lịch biển chỉ sôi động trong mùa nóng. Vì thế, mùa hè và đầu thu mới là
mùa du lịch. Đến đây vào mùa hè, các hoạt động du lịch rất nhộn nhịp, khách du
lịch tập trung đông. Như vậy, sự phân mùa của khí hậu đã qui định tính mùa vụ của
du lịch. Từ đó, các cơ sở hoạt động phải tận dụng để phát huy thế mạnh của từng
mùa, phát triển các loại hình phù hợp. Đồng thời, du khách năm được để lựa chọn
hình thức du lịch, thời điểm đi du lịch hợp lý. Tuy nhiên, chính tính mùa vụ này
thường gây sức ép vào mùa du lịch như phòng nghỉ, giao thông…
2.3.2. Một số ảnh hưởng bất lợi của khí hậu đến du lịch
Mặc dù, khí hậu Quảng Ninh khá lý tưởng cho các hoạt động du lịch nhưng
cũng tạo nên không ít những khó khăn. Bản thân tính mùa vụ cũng là một hạn chế.
Thời gian mùa đông kéo dài vài tháng hoạt động du lịch gần như tạm ngừng. Thời
tiết giá rét, nhất là khi có gió mùa Đông Bắc thì ngay cả tham quan vịnh cũng khó
có thể tiến hành mà không nói đến tắm biển. Cuối mùa đông, mưa phùn kèm theo
giá rét và hiện tượng nồm thì du lịch gần như “bất động”.
Mùa hè mặc dù là mùa du lịch nhưng lại kèm theo mưa, nhất là những tháng
mưa ngâu các hoạt động du lịch cũng khó tiến hành. Các hiện tượng thời tiết bất
thường như bão, lốc xoáy không những làm ngừng trệ các hoạt động du lịch mà
còn phá hoại các công trình du lịch ven biển như các khu du lịch, tàu thuyền tham
quan
KẾT LUẬN
Sự phát triển của du lịch không thể tách rời với các tác động của khí hậu. Tác
động ấy có thể là thuận lợi hoặc khó khăn. Quảng Ninh một mảnh đất có thể coi
như là “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” đã được thiên nhiên ban tặng cho những kiệt
23
tác của tạo hoá, phong cảnh tươi đẹp, tài nguyên phong phú. Tất cả những tiềm
năng đó càng được phát huy trong ngành du lịch bởi một điều kiện khí hậu hết sức
thuận lợi. Khí hậu miền duyên hải điều hoà, với một mùa hè nóng ẩm và mùa đông
lạnh. Mảnh đất này cũng không nhiều những thiên tai, nếu có thì mức độ cũng
không mạnh. Đặc điểm đó rất thuận lợi cho các hoạt động du lịch, đặc biệt du lịch
nghỉ biển.
Bên cạnh các thuận lợi thì cũng còn một số khó khăn như thời gian du lịch
không nhiều do các hiện tượng thời tiết như gió mùa Đông Bắc, mưa phùn, mưa
rào, bão gió Điều đó làm giảm hiệu quả kinh tế của ngành.
Vì vậy, vấn đề đặt ra phải tận dụng tối đa các thuận lợi như phát huy các loại
hình du lịch nghỉ biển, tham quan để tận dụng tiềm năng bức xạ nhiệt; hay là phải
đẩy mạnh khai thác du lịch trong thời gian có thể hoạt động nhưng tránh quá tải. Có
thể phát triển thêm nhiều loại hình du lịch trong phòng như tham quan, triển lãm,
giải trí để du khách không bị nhàm chán nếu gặp thời tiết bất thường
Trên đây chỉ là cách nhìn nhận của tác giả về ảnh hưởng và một số giải pháp
nhỏ đóng góp vào sự phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Công Minh, 2006, Khí tượng và khí hậu đại cương, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
24
2. Sở Du lịch Quảng Ninh, 2000, Qui hoạch phát triển du lịch tỉnh
Quảng Ninh đến năm 2010- Định hướng đến năm 2020, Quảng Ninh.
3. Mai Trọng Thông- Hoàng Xuân Cơ, 2000, Giáo trình tài nguyên khí
hậu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Toàn- Phan Tất Đắc, 1998, Khí hậu Việt Nam, NXb
Khôạhc Kỹ thuật, Hà Nội.
5. Trạm dự báo và phục vụ Khí tượng thuỷ văn Quảng Ninh, 1997, Đề
tài khoa học “Số liệu khí tượng thuỷ văn tỉnh Quảng Ninh 50 năm 1946- 1995”,
Quảng Ninh.
6. Nguyễn Minh Tuệ và các tác giả, 1997, Địa lý Du lịch, Nxb TP Hồ
Chí Minh.
7. UBND tỉnh Quảng Ninh, 2001, Qui hoạch phát triển tổng thể KT-XH
tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010- Định hướng đến năm 2020, Quảng Ninh.
8. Một số trang Web.
25