Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Cung cầu của lúa gạo và chính sách giá của Chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.38 KB, 28 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài :
Cung cầu của lúa gạo và chính
sách giá của Chính phủ
GVHD : Ths Bùi Thị Hiền
MÔN : Kinh tế vi mô (210700410)
SVTH : Nhóm Hội ngộ
LỚP : DHQT7B
Kinh tế vi mô hoingoteam
TP Hồ Chí Minh, ngày 29 Tháng 9
năm 2012
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP Tp. HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
Tiểu luận môn: Kinh tế vi mô
Đề tài: “Cung cầu của lúa gạo và chính sách giá
của Chính phủ”
DANH SÁCH NHÓM
STT HỌ TÊN MSSV THAM GIA
1 Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 11065151 90%
2 Võ Văn Huy 11067851 90%
3 Nguyễn Thị Tố Loan 11070231 90%
4 Phạm Thị Ngoan 11073261 90%
5 Hoàng Thị Hồng Ngọc 11089781 90%
6 Đặng Thị Ngọc 11075791 90%
7 Đỗ Thị Quỳnh Như 11091181 90%
8 Nguyễn Thị Thảo 11074311 90%
9 Phạm Phú Tín 11073681 90%


10 Nguyễn Thanh Vương 11242971 90%

Ths Bùi Thị Hiền Trang 2
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 6 năm 2012
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 9 năm 2012
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 6 năm 2012Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 6 năm 2012Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 6 năm 2012Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 6 năm 2012
Kinh tế vi mô hoingoteam
























Ths Bùi Thị Hiền Trang 3
NHẬN XÉT CỦA GV
Kinh tế vi mô hoingoteam
Lời mở đầu
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng và là thế mạnh của Việt Nam, đóng góp
lớn vào GDP của nước nhà và giải quyết được việc làm cho đa số người dân. Hiện nay,
nước ta vẫn là một nước nông nghiệp. Vị trí chúng ta chỉ đứng thứ hai thế giới sau Trung
Quốc.
Với lợi thế là sản phẩm đa dạng, phong phú nhiều chủng loại với chất lượng tốt, giá
thành rẻ, các sản phẩm nông nghiệp giúp đóng góp lớn vào nền kinh tế, đặc biệt là các loại
cây lương thực như lúa gạo, ngô, khoai,… Hằng năm con số xuất khẩu các loại nông sản
không ngừng gia tăng đặc biệt là lúa gạo mang lại doanh thu lớn cho quốc gia.
Tuy nhiên không vì những điều đó mà chúng ta không thể hoang mang khi năm
2012 này nền kinh tế có nhiều những biến động gây ảnh hưởng tới toàn bộ nền nông
nghiệp trên thế giới. Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nền nông
nghiệp nước ta cũng đang gặp rất nhiều khó khăn: giá USD tăng trở lại cùng với giá xăng
dầu liên tục leo thang đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới đầu ra và việc sản xuất nông sản;
các mặt hàng chủ lực như gạo, cao su, cà phê, dừa… liên tục rớt giá, khiến hoạt động sản
xuất, xuất khẩu gặp không ít khó khăn.
Và người chịu thiệt ở đây không phải ai khác mà chính là những người nông dân lao
động lam lũ, quanh năm vất vả làm việc đồng áng để kiếm bát ăn. Cái mà họ mong chờ
nhất là được thu hoạch sản phẩm của mình và được mang ra thị trường bán nhưng với tình
hình hiện nay điều đó thật là khó khăn. Vậy đứng trước tình hình hiện nay người nông dân
phải làm thế nào? Chính phủ cần làm gì để cứu lấy họ? Cần đưa ra chính sách phù hợp gì
để cho người nông dân không bị lỗ, và bán được sản phẩm của mình?
Là người Việt Nam, được ăn chính những sản phẩm của người nông dân quê mình,
những bàn tay khô ráp gầy đi vì nắng mưa làm ra chúng em thấu hiểu được sự vất vả, lam
lũ của người nông dân. Thấu hiểu được mong ước của họ, mong ước được chính phủ quan
tâm, có chính sách trợ giá cho nông sản họ làm ra. Chúng em đặc biệt quan tâm tới vấn đề
này, đặc biệt quan tâm tới chính sách giá trần và giá sàn của chính phủ đối với giá nông

sản. Vì thế nhóm chúng em đã chọn đề tài này với đối tượng nghiên cứu là sản phẩm lúa
gạo của Việt Nam.
Vì kinh nghiệm còn hạn chế hơn nữa thời gian của học kì này nhanh chóng, phải
phân chia cho nhiều công việc khác nên bài tiểu luận này được hoàn thành nhanh chóng
nhằm đạt đúng thời hạn đặt ra nên có thể còn nhiều sai sót khó tránh khỏi mong CÔ rộng
lòng bỏ qua. Xin cảm ơn CÔ.
Nhóm Hội ngộ
Ths Bùi Thị Hiền Trang 4
Kinh tế vi mô hoingoteam
MỤC LỤC
Ths Bùi Thị Hiền Trang 5
Kinh tế vi mô hoingoteam
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nằm trong bộ môn nghiên cứu kinh tế học vi mô, với đề tài nghiên cứu là chính sách
giá trần và giá sàn của nhà nước đối với giá nông sản hiện nay. Qua những kiến thức tìm
hiểu được chúng ta có thể hiểu sâu hơn về chính sách ưu đãi, sự quan tâm của nhà nước
hiện nay đối với người nông dân. Quan trọng hơn giúp sinh viên hiểu và biết cách vận
dụng quy luật giá trần, giá sàn trong tính toán vi mô ngoài ra còn cung cấp những kiến
thức giúp sinh viên vận dụng vào công việc nghiên cứu kinh tế sau này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu về chính sách trợ giá của nhà nước để người nông dân và người thương
dân biết cách cân nhắc và điều chỉnh lượng sản phẩm nông sản tạo ra và lượng sản phẩm
thu mua. Để từ đó người nông dân không phải chịu thiệt mà thương gia cũng được phát
tài.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích kết hợp trừu tượng hóa và cụ thể hóa, liên kết cơ sở lí
thuyết và vận dụng thực tiễn với nhau từ đó đề xuất các giải pháp mang tính hiệu quả có
thể áp dụng được.
- Trao đổi, tìm kiếm thông tin qua sách vở, báo đài, các phương tiện truyền thông

khác…
- Nội dung nghiên cứu được chia thành những ý nhỏ cho từng thành viên trong
nhóm và sau đó được tổng hợp lại, như:
+ Tìm hiểu về giá trần, giá sàn
+ Chính sách trợ cấp của nhà nước như thế nào
+ Nhiệm vụ của người dân…
+ Kết hợp phân tích đánh giá khách quan và nêu quan điểm của từng thành viên về
đề tài nghiên cứu.
Phần 2. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Cầu hàng hóa (Demad-D)
1.1.1. Khái niệm
Cầu hàng hóa là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người mua có khả năng mua và
sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Lượng cầu (): Là tổng số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua sẵn sàng mua
và có khả năng mua ở mức giá đã cho trong một thời gian nhất định.
Ths Bùi Thị Hiền Trang 6
Kinh tế vi mô hoingoteam
1.1.2. Quy luật cầu
Lượng cầu về hàng hóa, dịch vụ có mối liên hệ nghịch chiều với giá cả (P). Nếu giá
hàng hóa giảm, các yếu tố khác không đổi, thì người tiêu dùng sẽ mua hàng nhiều hơn, và
ngược lại.
Ta có thể tóm tắt như sau :
P ↑ =>↓
P↓=>↑
1.2. Cung hàng hóa (Supply-S)
1.2.1. Khái niệm
Cung hàng hóa là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người bán có khả năng bán và
sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Lượng cung (): là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người bán sẵn sàng bán và có

khả năng bán ở mức giá đã cho trong một thời gian nhất định.
1.2.2. Quy luật cung
Cung hàng hóa, dịch vụ có mối quan hệ cùng chiều với giá cả. Nếu giá tăng và các
yếu tố khác không đổi, nhà sản xuất sẽ cung ứng nhiều hơn và ngược lại.
Ta có thể tóm tắt như sau :
P ↑ =>↑
P ↓ =>↓
1.3. Cân bằng thị trường
Trước khi tìm hiểu về sự cân bằng của thị trường chúng ta lướt qua hai khái niệm về
vượt cung và vượt cầu.
1.3.1. Vượt cầu
Vượt cầu tồn tại khi lượng cầu lớn hơn lượng cung ở một mức giá xác định.
Ths Bùi Thị Hiền Trang 7
Kinh tế vi mô hoingoteam
Khi vượt cầu xảy ra, người mua có khuynh hướng cạnh tranh nhau để mua được sản
phẩm ở mức giá đó với lượng cung hạn chế. Do đó trên thị trường có thể xảy ra sự điều
chỉnh các mức giá khác nhau một cách tự động dù lượng cung không đổi. Tại mức giá
vượt cầu có thẻ xảy ra hai tình hướng: (1) lượng cầu giảm vì người mua có thể chọn sản
phẩm thay thế; (2) lượng cung tăng do người cung ứng bán được giá cao hơn và họ tăng
sản lượng khi giá tăng.
Từ đó ta có thể kết luận khi lượng cầu vượt lượng cung, giá có khuynh hướng tăng
lên. Khi giá trong thị trường tăng, lượng cầu giảm và lượng cung tăng cho đến khi lượng
cung bằng lượng cầu, thị trường đạt trạng thái cân bằng.
1.3.2. Vượt cung
Vượt cung tồn tại khi lượng cung lớn hơn lượng cầu ở một mức giá xác định.
Khi vượt cung xảy ra, trên thị trường có khuynh hướng điều chỉnh các mức giá khác
nhau một cách tự động với lượng cung không đổi.Chẳng hạn người bán sẽ giảm giá để
khuyến khích người mua mua hàng bằng các chính sách khuyến mãi, giảm giá.Tình trạng
vượt cung sẽ gây ứ đọng hàng hóa, do đó để giải quyết lượng hàng ứ đọng này người bán
buộc phải giảm giá hoặc giảm lượng cung hoặc cả hai.Tiến trình điều chỉnh lượng và giá

cung cầu này sẽ còn tiếp tục cho đến khi tình trạng vượt cung không còn nữa.
Từ đó ta có thể kết luận khi lượng cung vượt lượng cầu, giá có khuynh hướng giảm
xuống. Khi giá giảm lượng cung chắc chắn sẽ giảm, lượng cầu chắn chắn sẽ tăng lên cho
đến khi lượng cung bằng với lượng cầu, thị trường đạt trạng thái cân bằng.
1.3.3. Trạng thái cân bằng trên thị trường
Mức giá của thị trường trong trạng thái cân bằng ta gọi là giá cân bằng. Giá cân
bằng là mức giá mà tại đó số lượng sản phẩm mà người mua muốn mua đúng bằng lượng
sản phẩm mà người bán muốn bán. ()
Lượng hàng hóa được mua bán trong thị trường cân bằng ta gọi là lượng cân bằng.
Sản lượng cân bằng là mức sản lượng mà tại đó giá sản phẩm mà người mua muốn
mua bằng với giá sản phẩm mà người bán muốn bán. ()
1.3.4. Sự thay đổi trạng thái cân bằng trên thị trường
Cung và cầu quyết định số lượng hàng hóa và giá cả cân bằng thị trường. Vì vậy khi
cung, cầu thay đổi thì giá cả và sản lượng cân bằng trên thị trường thay đổi. Ta có 3
trường hợp:
Trường hợp 1: Cung không đổi, cầu thay đổi.
Cầu tăng (cung không đổi):
Ths Bùi Thị Hiền Trang 8
Kinh tế vi mô hoingoteam
Khi cầu của một mặt hàng tăng lên, cung không đổi, đường cầu dịch chuyển sang
phải, đường cung không đổi. Thị trường sẽ cân bằng tại điểm cân bằng mới mà tại đó giá
cân bằng mới sẽ cao hơn mức giá cân bằng cũ và lượng cân bằng mới sẽ lớn hơn cân bằng
cũ.
Điều này cho thấy khi cầu của một mặt hàng tăng lên, cung mặt hàng đó không đổi
thì cả giá lượng mua bán trên thị trường sẽ tăng lên.
Cầu giảm (cung không đổi):
Khi cầu của một mặt hàng giảm xuống, cung không đổi, đường cầu dịch chuyển
sang trái, đường cung đứng yên. Thị trường sẽ cân bằng tại điểm cân bằng mới mà tại đó
mức giá cân bằng mới sẽ thấp hơn mức giá cân bằng cũ và lượng cân bằng mới sẽ thấp
hơn lượng cân bằng cũ.

Điều này cho ta thấy khi cầu của một mặt hàng giảm xuống, cung mặt hàng đó
không đổi thì cả giá lượng mua bán trên thị trường sẽ giảm xuống.
Trường hợp 2: Cầu không đổi, cung thay đổi.
Cung tăng (cầu không đổi) :
Ths Bùi Thị Hiền Trang 9
Kinh tế vi mô hoingoteam
Khi cung của một mặt hàng tăng lên, cầu không đổi, đường cung dịch chuyển sang
phải, đường cầu không đổi. Thị trường cân bằng tại điểm cân bằng mới mà tại đó giá cân
bằng mới sẽ thấp hơn giá cân bằng cũ và lượng cân bằng mới sẽ lớn hơn lượng cân bằng
cũ.
Điều này cho ta thấy khi cung của một mặt hàng tăng lên, cầu mặt hàng đó không
đổi thì giá cả trên thị trường sẽ giảm xuống.
Cung giảm (cầu không đổi):

Khi cung của một mặt hàng giảm, cầu mặt hàng đó không đổi, đường cung dịch
chuyển sang trái, đường cầu đứng yên. Thị trường sẽ cân bằng tại điểm cân bằng mới mà
tại đó giá cân bằng sẽ cao hơn mức giá cân bằng cũ, và lượng cân bằng mới sẽ thấp hơn
lượng cân bằng cũ.
Điều này cho thấy khi cung của một mặt hàng giảm, cầu mặt hàng đó không đổi, thì
giá cả trên thị trường sẽ tăng lên
Trường hợp 3: Cung và cầu đều tăng.
Cung tăng lớn hơn cầu tăng :
Khi cung và cầu của một mặt hàng hóa đều tăng lên, nhưng cung tăng lớn hơn cầu
tăng thì giá trên thị trường sẽ giảm.
Cung tăng nhỏ hơn cầu tăng:
Khi cung và cầu của một mặt hàng hóa đều tăng lên, nhưng cung tăng nhỏ hơn cầu
tăng thì giá trên thị trường sẽ tăng.
Cung tăng bằng cầu tăng:
Ths Bùi Thị Hiền Trang 10
Kinh tế vi mô hoingoteam

Khi cung và cầu của một mặt hàng hóa đều tăng lên và tăng lên với một lượng như
nhau thì giá và lượng trên thị trường sẽ cân bằng tại một mức mới lớn hơn giá và lượng
cân bằng ban đầu.
Ngược lại với trường hợp cung và cầu đều giảm.
1.4. Vận dụng cung cầu
1.4.1. Biện pháp can thiệp gián tiếp
1.4.1.1. Chính sách thuế
Giả sử chính phủ đánh thuế t đồng trên một đơn vị hàng hóa được bán ra phản ứng
của người bán là họ muốn được trả một mức giá thị trường cao hơn trước tđồng tại mọi số
lượng được bán ra. Điều đó có nghĩa là đường cung sẽ dịch chuyển song song lên trên một
đoạn bằng đúng khoản thuế t như hình trên. Đường cầu của người tiêu thụ không có lý do
gì để thay đổi. Trên đồ thị giá cânbằng tăng từ P1 lên P2 và lượng cân bằng giảm từ
Q1 xuống Q2. Giá cânbằng cao hơn có nghĩa là người sản xuất đã chuyển được phần nào
gánh nặng thuế sang cho người tiêu dùng, cụ thể là khoản E2A trên đồ thị. Nhưng mức
thuế mà người tiêu dùng gánh chịu qua giá mua nhỏ hơn mức thuế mà người sản xuất
phải nộp (E2A < 1), do đó người sản xuất cũng gánh chịu một phần thuế là AB = t –
E2A.
Hai trường hợp đặc biệt:
Đường cầu co giãn hoàn toàn theo giá thì người sản xuất phải gánh chịu toàn bộ
khoản thuế. (hình a)
Đường cầu không co giãn hoàn toàn theo giá thì người tiêu dùng phải gánh chịu
toàn bộ khoản thuế (hình b)
Ths Bùi Thị Hiền Trang 11
Kinh tế vi mô hoingoteam
1.4.1.2. Chính sách trợ cấp
Giả sử chính phủ trợ cấp S đồng trên một đơn vị hàng hóa đối vớingười sản xuất, họ
có thể cung ứng mức sản lượng cao hơn trước ở tất cả mức giá có thể có trên thị trường.
Điều đó có nghĩa là đường cung sẽ dịch chuyển sang phải hay dịch chuyển xuống dưới
một khoản bằng đúng khoản trợ cấp S như hình trên.
Đường cầu của người tiêu thụ không có lý do gì để thay đổi. Trên đồ thị giá cân

bằng giảm từ P1 xuống P2 và lượng cân bằng tăng từ Q1 lên Q2. Giá cân bằng thấp hơn
có nghĩa là người tiêu dùng cũng hưởng lợi từ chính sách trợ cấp, cụ thể là họ mua sản
phẩm với mức giá thấp hơn một khoản E1C trên đồ thị, do đóngười sản xuất chỉ hưởng
một phần trợ cấp là đoạn CD = s – E1C.
Xét hai trường hợp đặc biệt sau :
Đường cầu co giãn hoàn toàn theo giá thì sản xuất hưởng toàn bộ khoản trợ cấp.
(hình a)
Đường cầu không co giãn hoàn toàn theo giá thì người tiêu dùng hưởng toàn bộ
khoản trợ cấp (hình b)
Ths Bùi Thị Hiền Trang 12
Kinh tế vi mô hoingoteam
1.4.2. Biện pháp can thiệp trực tiếp
Đôi khi sự thay đổi trong cầu hay cung hàng hóa và dịch vụ đem đến giá cao hay
thấp bất thường có thể làm cho các thành phần nào đó trong xã hội được và mất một cách
không công bằng, chính phủ có thể can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào thị trường để điều
chỉnh. Để tránh tình trạng giá cao bất thường, chính phủ có thể ấn định giá trần, theo luật
giá cả không thể tăng trên mức giá đó. Để tránh tình trạng giá thấp bất thường, chính phủ
có thể ấn định giá sàn, theo luật giá cả không thể giảm dưới mức giá đó. Cả hai trường
hợp, chính phủ cố gắng đạt đến mục tiêu công bằng trong phân phối hàng hóa và dịch vụ.
Sự bất lợi của giá trần và giá sàn là nó không thể ngăn ngừa các thị trường di chuyển đến
điểm cân bằng. Nó có thể gây ra sự thặng dư hay khan hiếm trầm trọng và kéo dài hơn so
với tình trạng thị trường tự do.
Giá trần (hay giá tối đa – Pmax)
Giá trần là mức giá tối đa bắt buộc, nhằm điều chỉnh mức giá thấp hơn mức giá cân
bằng của thị trường hiện tại. Giá trần được đặt ra để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Đối với người sản xuất sẽ chịu thiệt vì phải cung cấp ở mức giá thấp hơn mức giá
mong muốn. Người bán chỉ sẵn sàng cung cấp một lượng Qs thấp hơn lượng cân bằng
nhưng người mua lại muốn mua một lượng Qd lớn hơn lượng cân bằng.
Đối với người tiêu dùng, một số được lời vì mua được hàng hóa giá thấp, một số bị
thiệt vì không mua được hàng nên phải mua ở thị trường không hợp pháp với mức giá cao

hơn mức giá cân bằng.
Kết quả gây nên hiện tượng thiếu hụt hàng hóa và lúc này thị trường chợ đen sẽ
xuất hiện.
Ths Bùi Thị Hiền Trang 13
Kinh tế vi mô hoingoteam
Giá sàn (hay giá tối thiểu – Pmin)
Giá sàn là mức giá tối thiểu bắt buộc, nhằm điều chỉnh giá cao hơn mức giá cân
bằng của thị trường. Giá sàn được đặt ra để bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất.
Người sản xuất sẽ sẵn sàng cung cấp một lượng hàng Qs lớn hơn lượng cân bằng
nhưng người mua chỉ muốn mua một lượng hàng Qd nhỏ hơn lượng cân bằng. Người bán
được lợi vì bán được hàng giá cao hơn mức giá cân bằng.
Người tiêu dùng bị thị hại vì phải mua một lượng hàng hóa ở mức giá cao hơn mức
giá cân bằng trên thị trường.
Kết quả gây nên hiện tượng dư thừa hàng hoá. Giá sàn được đặt ra để bảo vệ lợi ích
của nhà sản xuất
2. Vận dụng cung cầu trong chính sách giá trần và giá sàn đối với các sản
phẩm nông nghiệp Việt Nam
2.1. Tình hình nông nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây
Năm 2009, giá trị sản lượng của nông nghiệp đạt 71,473 nghìn tỷ đồng (giá so sánh
với năm 1994), tăng 1,32% so với năm 2008 và chiếm 13,85% tổng sản phẩm trong nước.
Tỷ trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế bị sụt giảm trong những năm gần đây, trong
khi các các lĩnh vực kinh tế khác gia tăng. Đóng góp của nông nghiệp vào tạo việc làm
còn lớn hơn cả đóng góp của ngành này vào GDP. Trong năm 2005, có khoảng 60% lao
động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, và thuỷ sản. Sản lượng nông nghiệp xuất
Ths Bùi Thị Hiền Trang 14
Kinh tế vi mô hoingoteam
khẩu chiếm khoảng 30% trong năm 2005. Việc tự do hóa sản xuất nông nghiệp, đặc biệt
là sản xuất lúa gạo, đã giúp Việt Nam là nước thứ ba trên thế giới về xuất khẩu
gạo. Những nông sản quan trọng khác là cà phê, sợi bông, đậu phộng, cao su, đường,
và trà.

Theo Báo cáo kết quả thực hiện tháng 6.2012 ngành nông nghiệp và phát triển nông
thông của Trung tâm tin học và thống kê Bộ NN&PTNT, kim ngạch XK nông lâm thuỷ
sản tháng 6 ước đạt 2,5 tỷ USD, đưa kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 6 tháng đầu
năm ước đạt 13,67 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu
các mặt hàng nông sản chính ước đạt xấp xỉ 7,7 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước tăng
9,6%; thuỷ sản ước đạt xấp xỉ 2,9 tỷ USD, tăng 10,6%; lâm sản ước đạt 2,3 tỷ USD, tăng
22,9% so với cùng kỳ năm trước: cụ thể ước tính xuất khẩu một số mặt hàng nông sản
trong tháng 6 vừa qua như sau: lúa đạt 750 ngàn tấn thu về 350 triệu USD, cà phê đạt 190
ngàn tấn với giá trị đạt 397 triệu USD, cao su 70 ngàn tấn, giá trị đạt 220 triệu USD…
Đến giữa tháng 9/2012, nhiều mặt hàng nông sản biến động thất thường. Trong khi
giá lúa, giá tôm sú tăng vọt do khan hiếm nguồn cung thì mía nguyên liệu, khoai lang, cá
tra rơi vào cảnh khốn đốn do giá cả bấp bênh. Giá cả nông sản tăng giảm thất thường.
Cách đây gần 2 tháng, giá lúa hè thu ở ngưỡng 5.000 đồng/kg, dù Hiệp hội Lương
thực Việt Nam (VFA) được Chính phủ giao mua tạm trữ nhưng giá vẫn không tăng. Khi
VFA mua hoàn thành chỉ tiêu tạm trữ, giá lúa lại nhảy lên 6.000 đồng/kg. Hiện giá mía
được thương lái thu mua chỉ còn 750-800 đồng/kg, giảm 50-100 đồng/kg, riêng giống
ROC 16 cao hơn, bán được 900 đồng/kg.
Với sự biến động bất thường của thị trường, chính phủ hiện đang có nhiều chính
sách nhằm bình ổn giá các mặt hàng nông sản Việt Nam.
2.1.1. Thuận lợi
- Điều kiện tự nhiên thuận lợi để:
+ Đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp.
+ Áp dụng các biện pháp thâm canh, tăng vụ, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ.
+ Tùy thuộc vào địa hình, đất để có các hình thức canh tác khác nhau.
- Đầu tư cho khoa học công nghệ nông nghiệp ngày càng tăng, kết hợp với tiếp thu
ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ về lúa của các nước trong khu vực và thế
giới.
- Hệ thống cơ chế, chính sách của nhà nứoc khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
sản xuất nông nghiệp.
- Việt Nam đã gia nhập WTO, đây là cơ hội lớn tạo điều kiện thuận lợi cho lúa gạo

và các loại sản phẩm nông nghiệp khác có quyền bình đẳng tham gia vào thị trường
thương mại nông sản của thế giới.
- Nước ta đang khai thác có hiệu quả nền nông nghiệp nhiệt đới, đó là:
+ Quan tâm chủ yếu tới 2 nhân tố là đất, khí hậu. Trong nông nghiệp người ta vẫn có
câu: Đất nào cây ấy hay khoai ruộng lạ mạ ruộng quen. Khi nào cho tới tháng ba hoa gạo
rụng xuống thì tra hạt vừng.
+ Ngày xưa ông cha ta đã đút rút những kinh nghiệm như vậy và ngày nay việc phân
bố cây trồng vật nuôi thì càng được chú ý bởi hiệu quả kinh tế.
Ths Bùi Thị Hiền Trang 15
Kinh tế vi mô hoingoteam
2.1.2. Khó khăn
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp bất hợp lý.
Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp chưa phù hợp với nhu cầu thị trường và với khai thác
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất và nước cho sản xuất, tính phân tán cao,
năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi còn thấp.
- Chưa hình thành được các chuỗi giá trị nông sản mạnh và bền vững.
Các yếu tố khách quan và chủ quan đối với việc tạo dựng và phát triển chuỗi giá trị
nông sản hàng hóa còn rất sơ khai, chưa hình thành đầy đủ; phổ biến tình trạng thiếu cơ
chế liên kết hữu cơ giữa SXNN với chế biến, đóng gói và tiêu thụ các loại nông sản; chính
sách khuyến khích sản xuất và tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng theo quy định tại
Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24-6-2002 của Thủ tướng Chính phủ chưa đủ mạnh
để tạo ra những liên kết chặt chẽ giữa nông dân với các doanh nghiệp và các tổ chức kinh
doanh nông nghiệp.
- Các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước chưa tạo động lực đủ mạnh để
khắc phục tình trạng yếu kém của SXNN hiện nay.
Cụ thể:
+ Chính sách đất nông nghiệp chưa hướng tới củng cố các vùng SXNN tập trung,
chưa thúc đẩy tạo ra các đơn vị sản xuất quy mô lớn;
+ Chính sách hỗ trợ về thuế, cước vận chuyển, các loại phí chưa được áp dụng đầy
đủ và chưa hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp;

+ Chính sách tín dụng ưu đãi về mức vốn vay, điều kiện cho vay, thời gian vay chưa
linh hoạt để hỗ trợ đắc lực cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn;
+ Chính sách đầu tư cũng chưa đủ lớn để tạo ra kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát
triển SXNN hàng hóa quy mô lớn, nhất là kết cấu hạ tầng ở các vùng sản xuất tập trung
cây công nghiệp, cây ăn quả, các vùng chăn nuôi đại gia súc
+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp chậm triển khai, bị coi nhẹ làm
cho nguồn nhân lực nông nghiệp không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hiện đại, có
tính hợp tác và tuân thủ nghiêm túc các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo các
cam kết của WTO;
+ Chính sách khoa học và công nghệ nông nghiệp chưa đủ tầm tác động nâng cao
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Nhiều ngành sản
phẩm nông nghiệp như chè, dâu tằm, rau, quả, chăn nuôi gia cầm, lợn thiếu công nghệ có
sức cạnh tranh về giống, quy trình canh tác, thu hoạch làm hạn chế việc nâng cao giá trị
gia tăng.
- Những yếu kém khác
+ Ngành công nghiệp chưa hướng vào phục vụ các nhu cầu về máy móc, trang thiết
bị phù hợp, có năng suất lao động cao trong nông nghiệp. Phần lớn trang thiết bị sau thu
hoạch, chế biến nông sản phải nhập khẩu với giá cao và không có dịch vụ hướng dẫn sử
dụng, bảo hành, gây nhiều khó khăn cho người SXNN.
+ Chưa hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản và vật tư nông nghiệp để
tạo ra thị trường nông sản và vật tư nông nghiệp lành mạnh. Tình trạng tồn đọng dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh cấm sử dụng trong nông sản hàng hóa và tình
trạng vật tư nông nghiệp có hại, không có hướng dẫn sử dụng được nhập khẩu tự do đang
Ths Bùi Thị Hiền Trang 16
Kinh tế vi mô hoingoteam
tồn tại phổ biến, gây ra nhiều khó khăn, bức xúc đối với cả người SXNN và người tiêu
dùng về tình trạng hàng giả, hàng kém phẩm chất, không bảo đảm yêu cầu về chất lượng
và an toàn cho sức khỏe.
2.1.3. Chính sách của chính phủ đối với ngành nông nghiệp nước ta
- Một số định hướng chính sách chung đối với nông nghiệp:

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế nhập khẩu đúng lịch trình
đi đôi với triển khai các biện pháp giúp người SXNN phòng ngừa rủi ro. Theo đó, cần đưa
ra các biện pháp phòng ngừa tác động xấu khi các mức thuế nhập khẩu mới được áp dụng
theo cam kết.
Thứ hai, chú trọng các biện pháp, chính sách mang mục tiêu dài hạn có tác động
nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa, hình thành các chuỗi giá trị nông sản mạnh tại
các vùng SXNN tập trung.
Thứ ba, triển khai biện pháp thích hợp với điều kiện chủ quan của nông dân Việt
Nam để phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp vừa có tri thức tốt về kiến thức nông học,
vừa có năng lực tốt về hợp tác, liên kết cùng nhau trong sản xuất và trong phối hợp với
doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh sản phẩm nông nghiệp trong chuỗi giá trị nông sản,
khép kín quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Thứ tư, thực hiện chiến lược nâng cao hiểu biết, năng lực và trách nhiệm của cán bộ
quản lý nhà nước về nông nghiệp ở các cấp, nhất là ở cấp huyện và cấp xã để bảo đảm
đúng chức năng cung cấp dịch vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ nông
dân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác trên địa bàn, bảo đảm cho việc thực hiện
các cam kết WTO của Việt Nam và các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp
được triển khai đầy đủ và đúng tới các đối tượng thuộc diện điều chỉnh và hưởng lợi.
- Bộ Nông nghiệp và PTNT cùng các địa phương tập trung triển khai thực hiện một
số biện pháp sau:
+ Đề nghị các địa phương hạn chế và tiến tới chấm dứt không sử dụng đất lúa, nhất
là đất lúa thuộc diện "bờ xôi, ruộng mật" để làm công nghiệp. Theo tính toán của các nhà
qui hoạch, để giải quyết vấn đề lương thực cho đất nước tiến tới trên 100 triệu dân thì phải
giữ ổn định 4 triệu ha đất sản xuất lúa.
+ Thực hiện các biện pháp phòng trừ rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá trên lúa;
chủ động các phương án đối phó với thời tiết bất thuận như hạn cuối vụ, mưa lũ sớm,
Có kế hoạch chuẩn bị thóc giống cho vụ Hè thu, vụ Mùa; đảm bảo đủ giống gieo cấy vượt
kế hoạch về diện tích.
+ Tăng cường đầu tư hạ tầng như thuỷ lợi, kênh mương nội đồng, cho sản xuất
lúa.

+ Đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ lai tạo giống sinh học, đảm bảo đủ giống
lúa chất lượng, giống xác nhận phù hợp với điều kiện của từng vùng
+ Thường xuyên nắm sát diễn biến thị trường vật tư nông nghiệp trong và ngoài
nước để chủ động việc nhập khẩu đảm bảo nguồn cung vật tư cho sản xuất nông nghiệp.
+ Tăng cường công tác dự báo thông tin, giá cả thị trường, khuyến nông, để hướng
dẫn nông dân áp dụng các qui trình kỹ thuật, sử dụng tiết kiệm giống, phân bón, nước,
thuốc trừ sâu, an toàn dịch bệnh, giảm chi phí đầu vào; chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo
hướng hiệu quả.
Ths Bùi Thị Hiền Trang 17
Kinh tế vi mô hoingoteam
- Chính phủ cũng đưa ra nhiều biện pháp bình ổn giá trong đó có biện pháp : Định
giá trực tiếp khi giá thị trường có những biến động bất thường đối với hàng hóa, dịch vụ
thuộc danh mục bình ổn giá Cụ thể, dự thảo đưa ra các hình thức định giá là: Quy định
giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá Bộ Tài chính phân tích, những cách thức quy định giá
nêu trên là những biện pháp hành chính sẽ giúp giá cả nhanh chóng ổn định; tuy nhiên, chỉ
áp dụng khi cần thiết đối với hàng hóa, dịch vụ cần thiết và trong điều kiện thật sự cấp
thiết; khi tình hình thị trường đã bình thường, phải dỡ bỏ ngay biện pháp này.
2.2. Tác động các biện pháp trực tiếp của chính phủ đối với sản phẩm lúa
gạo
2.2.1. Biện pháp giá trần
- Khi nhận thấy rằng giá của sản phẩm lúa gạo cao hơn mức bình thường (tức giá
cân bằng của lúa gạo rất cao) chính phủ ấn định giá trần (mức giá tối đa) thấp hơn giá cân
bằng nhằm bình ổn lại giá cả, bảo vệ người tiêu dùng.
Khi giá trần được áp đặt bởi chính phủ cao hơn mức giá cân bằng thị trường, giá trần
không có tác động đến nền kinh tế. Nó không hạn chế nguồn cung cấp cũng không
khuyến khích nhu cầu. Nó nói rằng bạn không thể thanh toán (hoặc phải trả) nhiều hơn
nhiều so với một số tiền đã trả.
Hình A cho thấy mức giá cân bằng 20.000đ cho một sản phẩm được xác định bởi
giao điểm của việc cung cấp và đường cầu.
Giá cân bằng là giá mà tại đó lượng cầu bằng lượng cung. Thông thường, các lực

lượng thị trường không di chuyển để thay đổi mức giá cân bằng.
Nếu Chính phủ bắt buộc giá trần 22.000đ đã được áp đặt, không ai có thể nhận thấy
kể từ khi giá trần áp đặt cao hơn mức giá thị trường. Nếu giá trần là 20.000đ nó sẽ không
có hiệu lực ngay lập tức, nhưng các lực lượng thị trường lần đầu tiên thay đổi để tăng giá
cân bằng, giá trần sẽ không còn được thấp hơn giá thị trường, và tác động sẽ bắt đầu được
cảm nhận.
 Tác động của Chính phủ áp đặt giá trần dưới mức giá cân bằng
Một mức giá trần có thể là trên hoặc dưới mức giá cân bằng, như thể hiện bởi các
đường đứt nét và liền trong Hình B.
Ths Bùi Thị Hiền Trang 18
Kinh tế vi mô hoingoteam
Một ảnh hưởng khác xảy ra khi Chính phủ áp đặt giá trần thấp hơn giá cân bằng thị
trường, như hình B. Những nhà cung cấp không thể tăng giá để đáp ứng nhu cầu thị
trường vì phải đáp ứng mức giá tối đa được quy định bởi giá trần của chính phủ.
Một mức giá trần thấp có thể làm cho các nhà cung cấp rời bỏ thị trường (giảm
nguồn cung), trong khi giá trần thấp làm tăng cầu tiêu dùng. Khi cầu tăng vượt quá khả
năng cung cấp, tình trạng thiếu hụt diễn ra.
Tích cực:
Người dân mua lúa gạo với giá rẻ, làm tăng sức mua của người tiêu dùng đảm bảo
được tính ổn định của giá lúa gạo, tránh sự tăng cao quá mức của lúa gạo.
Ngày 29-4 tại TP.HCM, giá gạo tiếp tục giảm thêm 2.000-3.000đ/kg so với ngày 28-4,
nhưng so với những ngày trước khi xảy ra cơn sốt gạo, giá vẫn còn cao hơn 5.000-
6.000đ/kg.
Tại chợ đầu mối Trần Chánh Chiếu (Q.5), lượng gạo về chợ chỉ còn 150-160 tấn/ngày, giảm
do ít người mua. Tại các chợ nhỏ hoạt động mua bán gạo đã trở lại bình thường, có niêm
yết. Giá gạo thấp nhất 11.000đ/kg, gạo đặc sản 17.000đ/kg.
Trong ngày 29-4, người dân vẫn xếp hàng mua gạo ở siêu thị vì giá bán nơi đây rẻ hơn
nhiều so với các điểm bán ở chợ. Hệ thống siêu thị Co.op Mart không còn hạn chế số lượng
mua, giá gạo vẫn giữ như cũ 10.780 đồng/kg gạo trắng hạt dài. Do nhu cầu mua lớn nên
nhân viên của siêu thị đóng gói gạo vào các bao xốp với trọng lượng 5kg/bịch.

Theo báo cáo nhanh của ban quản lý thị trường các quận, huyện, đến chiều 29-4 thị trường
gạo đã trở lại bình thường.
Niềm vui mua được gạo đúng giá
Ths Bùi Thị Hiền Trang 19
Kinh tế vi mô hoingoteam
Tiêu cực:
Người bán bị thiệt hại nhiều do phải bán lúa gạo với mức giá thấp hơn giá cân bằng,
người thiệt hại nhiều nhất đó là nông dân. Tình trạng thiếu hụt lương thực xuất nhập
khẩu… xuất hiện thị trường lúa gạo chợ đen bán với giá đắt.
2.2.2. Biện pháp giá sàn
Khi nhận thấy giá sản phẩm lúa gạo thấp hơn so vói mức bình thường (giá cân bằng
của sản phẩm rất thấp) hoặc tình trạng thiếu hụt lương thực, chính phủ sẽ ấn định giá sàn
(mức giá thấp nhất) thấp hơn giá cân bằng nhằm ổn định lại giá, bảo vệ người tiêu dùng,
kích thích nông dân sản xuất lúa gạo.
Tác động của chính phủ đối với giá sàn:
Tích cực:
Kích thích sản xuất, người nông dân được lợi từ việc bán lúa gạo với giá cao, mùa
màng bội thu.
Tiêu cực:
Giá sàn cao hơn mức giá cân bằng và cố định tại đó gây biến động trên thị trường:
- Thị trường không tự cân bằng mới được vì mức giá cố định do chính phủ quy định.
- Người tiêu dùng bị thiệt hại lớn vì phải mua lúa gạo với giá cao ảnh hưởng tới chi
tiêu và việc sử dụng ngân sách. Hơn nữa ở mức giá khá cao sức cầu về lúa gạo sẽ giảm đi
theo quy luật. Nhà nước đã kích thích nông dân sản xuất nhiều gây nhưng giá cao làm nhu
cầu lại giảm xuống. Có thể đánh giá đấy là biện pháp kích cung gây ra vượt cung và làm
dư thừa phần lớn hàng hóa lúa gạo trên thị trường. Và nếu nhà nước lại không tiếp tục can
thiệp vào thị trường thì người bị hại tiếp theo chính là những người nông dân sản xuất vì
không bán được hàng, không bù đắp được chi phí bỏ ra và sẽ bị lỗ nặng gây ảnh hưởng
đến toàn bộ nền kinh tế. Các biện pháp thường được sử dụng như mua lại số lúa gạo dư
thừa… đã được đề xuất để giải quyết tình trạng này.

Ths Bùi Thị Hiền Trang 20
Kinh tế vi mô hoingoteam
Năm 2009, sản xuất lúa gạo ở bốn vùng trọng điểm của Việt Nam đã có thặng dư lúa gạo
trừ hai vùng vẫn còn thiếu hụt đó là vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. ĐBSCL là nơi có
lượng lúa gạo hàng hóa lớn nhất nước (7,74 triệu tấn), vừa bảo đảm an ninh lương thực và
bình ổn giá lương thực quốc gia, dự trữ và tham gia xuất khẩu trên 90% (5,5 triệu tấn trong
6,05 triệu tấn năm 2009). Rất cần thiết để chính phủ đặt ra và áp dụng thuế xuất khẩu cũng
như tham gia xuất khẩu gạo có điều kiện nhằm cân bằng các lợi ích quốc gia về khai thác
lợi thế sản xuất và xuất khẩu gạo, tăng kim ngạch xuất khẩu (thay vì chỉ tăng số lượng xuất
khẩu), đảm bảo sinh kế cho nông dân trồng lúa. Tách bạch dự trữ gạo quốc gia và dự trữ
thương mại ở các công ty xuất khẩu gạo hiện nay nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia và bình ổn giá cũng như cung cấp gạo xuất khẩu có phẩm chất cao, trái vụ và giá cao.
Việc thành lập quỹ bình ổn giá lúa gạo dựa trên việc thu 1 USD trên 1 tấn gạo xuất khẩu là
rất cần thiết và thực hiện càng sớm càng tốt.
Đây là một hình thức tái đầu tư cho ngành hàng lúa gạo ở khâu sản xuất với các phương án
được đề nghị trong ngắn hạn và dài hạn.
2.2.3. Thực trạng tác động của các chính sách lúa gạo trên thị trường
Có thể thấy hiện nay các biện pháp kích cung ví dụ như quy định giá sàn, nhà nước
kích thích sự gia tăng sản xuất của nông dân đã gây nên lượng cung lớn về lúa gạo của
Việt Nam trong những năm gần đây.
Nông dân trồng lúa vùng ĐBSCL đã và đang trồng 47 giống lúa khác nhau và đang thử
nghiệm 9 loại giống mới (Nguyễn Công Thành, 2010), trong đó có một số giống có chất
lượng cao nhưng cũng có nhiều loại giống có chất lượng gạo trung bình và thấp, ví dụ như
giống IR50404 trong sản xuất vụ Hè Thu năm 2009 có chất lượng thấp, khó tiêu thụ ở nội
địa và xuất khẩu. Việt Nam tham gia vào thị trường gạo thế giới với khối lượng giao dịch
lớn và tập trung vào những mùa vụ cụ thể trong năm, điều này ít nhiều làm thay đổi cung và
tác động lớn đến giá gạo thị trường thế giới. Hơn nữa, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, kết
quả vụ mùa cũng như chu kỳ nhập khẩu của một số quốc gia như Indonesia, Phillipines sẽ
làm biến động giá và lượng của thị trường lúa gạo.
Song song với đó có thể thấy được những nỗ lực của Chính phủ để giải quyết lượng

lúa gạo dư thừa bằng việc đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu sang nhiều nước trên thế
giới và lập thêm các quỹ bình ổn giá phần nào giúp ổn định được thị trường. Nhưng điều
đó có phải đã là hoàn hảo không?
Việc điều hành xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay chủ yếu qua Chính phủ. Nghị định
12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 quy định định hướng điều hành xuất khẩu gạo: “Bộ
Thương mại phối hợp với Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các
tỉnh có sản lượng lúa hàng hoá lớn và Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) điều hành việc
xuất khẩu gạo hàng năm theo nguyên tắc bảo đảm về an ninh lương thực; tiêu thụ hết lúa
hàng hoá và bảo đảm giá lúa có lợi cho nông dân, đồng thời phù hợp với mặt bằng giá cả
hàng hoá trong nước; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các giải pháp xử lý khi các nguyên tắc
này không được bảo đảm hài hoà”. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách
nhiệm về việc dự báo và tính toán khối lượng gạo hàng hoá có thể xuất khẩu sau khi trừ đi
các nhu cầu tiêu dùng cá nhân trong nước, làm giống, chăn nuôi, tiêu dùng công nghiệp và
dự trữ. Tỷ trọng xuất khẩu gạo qua những hợp đồng Chính phủ (G2G) là khá lớn (năm 2007
chiếm 66,4% tổng lượng gạo xuất khẩu, năm 2008: 49,2% và chiếm 42,7% năm 2009)
(VFA, 2009). Đặc biệt trong năm 2008, chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định
để điều tiết sự biến động giá trong nước và xuất khẩu ngành hàng lúa gạo:
• Ngày 21/2/2008: Thủ tướng ký văn bản số 266/TTg-KTTH phê duyệt xuất khẩu 4 – 4,5
triệu tấn gạo trong năm 2008.
• Ngày 5/3/2008: Thứ trưởng Bộ Công thương ký văn bản số 1746/BCT-XNK giao cho
Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) kiếm tra việc xuất khẩu gạo trong khoảng từ 700 – 800
ngàn tấn trong quí I, từ 1,3 – 1,5 triệu tấn trong quí II, từ 1,3 – 1,4 triệu tấn trong quí III, và
700 – 800 ngàn tấn trong quý IV.
Ths Bùi Thị Hiền Trang 21
Kinh tế vi mô hoingoteam
• Ngày 21/3/2008: Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu 2,4 triệu tấn trong tháng 6/2008 với
mức giá trung bình là 437 USD/tấn.
• 25/3/2008: Thủ tướng ký văn bản số 78/TB-VPCP tạm hoãn xuất khẩu gạo cho đến
tháng 6/2008 và điều chỉnh tổng lượng xuất khẩu của năm 2008 xuống dưới 3,5- 4 triệu
tấn.

• Từ tháng 4 đến tháng 6, Việt Nam xuất khẩu 1,42 triệu tấn, lũy kế đến 2,44 triệu tấn,
bằng với cùng kỳ năm 2007.
• Giá xuất khẩu trong trong giai đọan này tăng dần, bắt kịp với giá quốc tế. Giá trung bình
tăng từ 564USD/tấn (tháng 4) đến 792 USD (tháng 5) và đạt 1.004USD/tấn trong tháng 6.
Nhưng khối lượng xuất khẩu trong tháng 6 chỉ có 200 ngàn tấn (do lệnh tạm hoãn trên).
• Chính phủ cho phép xuất khẩu gạo trở lại vào ngày 1/7/2008, sau khi Bộ NN & PTNT
công bố tổng sản lượng lúa năm 2008 là 37,6 triệu tấn, tăng 1,7 triệu tấn so với năm 2007.
• Trong tháng 7, Việt Nam xuất khẩu 350.000 tấn với giá trung bình cao hơn 971USD/tấn.
Tính đến cuối tháng 7, Việt Nam xuất khẩu 2,79 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu tích lũy đạt
1,81 tỷ USD.
• 21/7/2008 Thủ Tướng chính phủ ban hành quyết định về mức thuế xuất khẩu đối với
gạo từ 500,000 đồng/tấn (nếu giá xuất khẩu từ 600- 700 USD/tấn) đến 2,9 triệu đồng/tấn
(nếu giá xuất khẩu cao hơn 1.300 USD/tấn). Chính sách này cố gắng để giảm áp lực tăng
giá xuất khẩu của thị trường trong nước. Nhưng nhiều công ty đã ký hợp đồng với giá dưới
600USD/tấn để trốn thuế.
• Từ 15/8/2008 Bộ tài chính tăng mức giá xuất khẩu gạo phải đóng thuế là từ 600 USD/tấn
lên 800 USD/tấn để khuyến khích nhà xuất khẩu tăng giá mua.
• 11/8/2008, Thống đốc ngân hàng nhà nước chỉ đạo các ngân hàng ưu tiên vốn vay cho
các công ty xuất khẩu gạo để mua trữ lúa hè thu ở ĐBSCL, gia hạn các khoản vay cho
nông dân trồng lúa và cung cấp các khoản vay mới với lãi xuất thấp hơn (19,5%/năm thay vì
21% trong năm 2007) cho nông dân trồng lúa.
• Trong tháng 8, Ngân hàng Nông Nghiệp công bố ngân sách là 10.000 tỷ đồng, Ngân
Hàng Đầu Tư Phát Triển Việt Nam (BIDV) 1.500 tỷ; Vinafood 12.500 tỷ… để mua gạo và
cho vay sản xuất lúa gạo.
• 19/12/08 Bộ tài chính bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo đã được áp dụng đối với gạo trong tháng
8 xuất khẩu gạo của Việt Nam là 4,48 triệu tấn, tăng nhẹ so với 4,44 triệu tấn cùng kỳ năm
ngoái.
Việc nâng giá sàn xuất khẩu gạo thêm 10 đô la/tấn của Hiệp hội Lương thực Việt Nam
(VFA) vào ngày 22/12 vẫn không thể chặn đứng đà suy giảm của thị trường lúa gạo nội địa
trong những ngày đầu năm 2012 này. Điều này, tiếp tục đẩy thị trường lúa gạo nội địa và

xuất khẩu rơi vào cảnh bế tắc.
Như vậy vẫn thấy được các chính sách trên vẫn không hiệu quả hoàn toàn và gây
nên nhiều lo ngại. Vấn đề lớn vẫn là để phát triển kinh tế nhưng liệu cứ kích cung, sau đó
tăng giá, rồi lại đẩy mạnh xuất khẩu có phải là biện pháp vẹn toàn hay không? Hơn nữa
nếu tình trạng này tiếp tục xảy ra lâu dài sẽ làm nguời nông dân mất niềm tin vào thị
trường. Điều này gây một hậu quả đi ngược lại với mong muốn của nhà nước. Chúng ta
vẫn tiếp tục thấy những tín hiệu xấu từ thị trường lúa gạo như sau:
Tuột mốc 5.000 đồng/kg
Thiếu hợp đồng xuất khẩu gạo cho nên việc tăng giá sàn thêm 10 đô la/tấn vẫn không thể
chặn đứng được đà giảm giá mạnh của thị trường lúa gạo nội địa. Và đây là lần thứ 5 liên
tiếp giá lúa gạo nội địa giảm mạnh kể từ đầu vụ thu đông (lúa vụ 3) đến nay. Lần giảm này
đã kéo giá lúa xuống dưới mốc 5.000 đồng/kg đối với lúa IR 50404 tươi.
Ông Nguyễn Văn Ngoãn, thương lái mua lúa tại xã Mỹ Hạnh Đông, huyện Cai Lậy, Tiền
Giang cho biết, tiếp tục đà giảm giá do thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, giá lúa hàng hóa
Ths Bùi Thị Hiền Trang 22
Kinh tế vi mô hoingoteam
tại ĐBSCL trong những ngày đầu năm 2012 tiếp tục giảm 100 - 200 đồng/kg, xuống mức giá
4.850-4.900 đồng/kg đối với lúa IR 50404 tươi và 5.800 - 5.900 đồng/kg đối với lúa khô.
Đây là lần thứ 5 liên tiếp kể từ vụ thu đông giá lúa giảm mạnh và thấp hơn mức giá trong
những ngày cuối năm 2011 đến 100 - 200 đồng/kg.
Giá các loại lúa hạt dài OM 5451, OM 1490, OM 4218…, cũng giảm tiếp 100-200 đồng/kg
xuống mức giá 6.000 - 6.200 đồng/kg đối với lúa khô (tùy loại) và 5.000 - 5.300 đồng/kg đối
với lúa tươi thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp.
Không chỉ giá lúa giảm mạnh, trong những ngày đầu năm 2012 này, giá gạo nguyên liệu
cũng tiếp tục giảm mạnh. Theo các doanh nghiệp kinh doanh gạo tại khu vực xã Tân Bình,
huyện Cai Lậy và chợ đầu mối Bà Đắc, huyện Cái Bè, Tiền Giang, gạo nguyên liệu của
giống lúa IR 50404 chỉ còn 7.700 - 7.800 đồng/kg và 7.800 - 7.950 đồng/kg đối với gạo
nguyên liệu chế biến gạo 5% tấm, giảm 100 - 150 đồng/kg so với mức giá những ngày cuối
năm 2011.
Giá gạo thành phẩm được các đầu mối kinh doanh lúa gạo thu mua dao động quanh mức

8.400 - 8.500 đồng/kg đối với gạo của giống lúa IR 50404; 9.800 – 9.900 đồng/kg đối với
gạo 5% tấm; 9.400 - 9.500 đồng/kg đối với gạo 15% tấm.
Xuất khẩu “gặp hạn”, nội địa bế tắc
Theo VFA, ngoại trừ các hợp đồng xuất khẩu với khối lượng 600 ngàn tấn gạo đã được ký
kết với Indonesia và Malaysia thì đến nay vẫn chưa có hợp đồng xuất khẩu gạo mới nào
được ký thêm với Việt Nam. Chính điều này, làm cho tình hình hình xuất khẩu trong quí
1/2012 của Việt Nam được dự báo sẽ càng khó khăn hơn, đặc biệt là khi vụ lúa đông xuân
2011-2012 bắt đầu.
Trong một lần trả lời phỏng vấn Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, ông Phạm Quang Diệu,
chuyên gia ngành lúa gạo của Công ty Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam
(Agromonitor) cho rằng, giá lúa gạo nội địa của Việt Nam sẽ còn tiếp tục ảm đạm do triển
vọng thị trường xuất khẩu đang gặp rất nhiều khó khăn.
“Tính đến nay, triển vọng thị trường xuất khẩu gạo năm 2012 của Việt Nam rất là mờ nhạt.
Nếu vẫn “gặp hạn” đến giữa quí này thì lúc đó thị trường lúa gạo nội địa sẽ càng tồi tệ hơn
khi vụ lúa đông xuân bắt đầu thu hoạch, nguồn cung dồi dào”- bà Ba Ánh, Giám đốc doanh
nghiệp Tấn Tài III, chợ đầu mối Bà Đắc, huyện Cái Bè, Tiền Giang, đơn vị chuyên kinh
doanh lúa gạo nội địa và xuất khẩu cho biết.
Theo các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thị trường xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn tiếp tục
gặp nhiều khó khăn do sức ép từ nguồn cung gạo giá rẻ của Ấn Độ và Pakistan.
Không chỉ xuất khẩu gặp khó, thị trường tiêu thụ lúa gạo nội địa ngay những ngày đầu năm
2012 này ảm đạm, dù lúa hàng hóa không còn nhiều. Anh Trần Văn Thuận, thương lái mua
lúa tại chợ đầu mối Bà Đắc nói: “Hiện tình hình tiêu thụ lúa gạo nội địa trong khu vực rất
là chậm, dù giá xuống rất thấp nhưng chúng tôi vẫn không dám thu vào vì sợ lỗ”.
Tuy nhiên chúng ta không vì vậy mà phủ nhận đi những nỗ lực của chính phủ. Cái gì
cũng có ưu điểm của nó. Vì thế hãy cùng nhìn lại và đánh giá các biện pháp của chính phủ
một cách khách quan nhất.
 Ưu điểm của chính sách giá sàn
Thường được áp dụng để khuyến khích sản xuất (vd: nông nghiệp nước ta, chính
sách lương tối thiểu để bảo hộ người lao động). Tuy nhiên sự dư cung do chính sách giá
sàn có những hệ lụy. Việc ban hành chính sách giá sàn cần phải đi kèm với những biện

pháp giải quyết hậu quả của nó.
 Tiêu cực:
Dư thừa lúa gạo, người mua phải mua gạo với giá cao,…
 Biện pháp:
Ths Bùi Thị Hiền Trang 23
Kinh tế vi mô hoingoteam
+ Khuyến khích xuất khẩu
+ Dùng quỹ dự trữ quốc gia thu mua dự trữ
+ Hạn chế cung
 MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP – LÚA GẠO
NƯỚC TA:

Ths Bùi Thị Hiền Trang 24
Kinh tế vi mô hoingoteam
2.3. Đánh giá hiệu quả của các chính sách can thiệp của Nhà nước vào thị
trường
1. Ưu điểm
Dựa vào chính sách về giá trần và giá sàn mà chính phủ có thề bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng.
Điều chỉnh được mức giá của những mặt hàng nông sản và những loại mặt hàng
khác trên thị trường.
Không để xảy ra tình trạng vượt cầu, vượt cung quá mức.
Đưa nước ta từ nước nhập khẩu trở thành nước xuất khẩu gạo và nông sản lớn trên
thế giới.
Mặt hàng nông sản được nhiều quốc gia trên thế giới chấp nhận.
Có những chính sách phù hợp để người nông dân Việt Nam không bị thua lỗ trong
các vụ mùa.
2. Nhược điểm
Đưa ra chính sách nhưng không thi hành triệt để, các doanh nghiệp vẫn tự ý phá giá
gây ảnh hưởng xấu.

Đôi khi đưa ra mức giá không hợp lí gây ra tình trạng thiếu hụt hoặc dư thừa hàng
hóa trên thị trường.
Khi giá gạo xuất khẩu giảm mạnh vẫn chưa tìm ra biện pháp thích hợp để điều chỉnh
Vẫn để tình trạng các doanh nghiệp ép giá người nông dân.
Việc sản xuất nông sản không chú trọng tới chất lượng mà chạy theo số lượng là chủ
yếu nên chất lượng nông sản thấp.
Khi đưa ra chính sách giá cần phải kèm theo những biện pháp giải quyết khi mức giá
không hợp lí.
 Để khắc phục những điểm yếu của chính sách giá trần, giá sàn chính phủ đề ra
nhiều biện pháp:
Theo đó, cơ chế, chính sách hỗ trợ sẽ thực hiện ở cả "đầu vào" và "đầu ra" cho sản xuất
thông qua các giải pháp: Nhà nước hỗ trợ lãi suất vay vốn cho người sản xuất lúa để mua
vật tư đầu vào như: Giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu và hỗ trợ doanh nghiệp mua lúa
tạm trữ. Thực hiện được cơ chế này, Nhà nước thành lập quỹ bình ổn giá thóc, gạo và cho
phép doanh nghiệp mua khối lượng thóc tạm trữ được sử dụng Quỹ bình ổn giá để trực tiếp
bù đắp phần chênh lệch giữa giá thị trường và giá sàn định hướng. Theo tính toán, quỹ bình
ổn này chi ra khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm thì mới bảo đảm yêu cầu hỗ trợ cả nông dân và
doanh nghiệp. Nguồn thu của quỹ là một phần lợi nhuận trước thuế của lượng gạo xuất
khẩu của tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.
Để người sản xuất thật sự được thụ hưởng chính sách này thì điều kiện tiên quyết là doanh
nghiệp phải mua lúa trực tiếp từ nông dân. Điều này không dễ thực hiện ngay bởi hiện nay,
việc thu mua tại nhà người sản xuất chỉ đạt 20%, còn lại 80% vẫn qua trung gian, nên tình
trạng nông dân bị ép giá vẫn phổ biến. Vì vậy, các doanh nghiệp phải công bố hai loại giá ở
hai địa điểm mua khác nhau, gắn với tiêu chuẩn chất lượng của lúa để người sản xuất lựa
chọn nơi bán hàng hóa của mình thuận lợi nhất.
Tuy nhiên, cùng với chính sách hỗ trợ như vậy, để ổn định thị trường lúa, gạo trong nước,
cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ khác để bảo đảm tính bền vững như: Giúp nông dân
Ths Bùi Thị Hiền Trang 25

×