Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tang thức của người Việt Bắc bộ là tín đồ Phật giáo và Công giáo (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.06 KB, 26 trang )

1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ CÚC
TANG THỨC CỦA NGƯỜI VIỆT BẮC BỘ LÀ TÍN ĐỒ
PHẬT GIÁO VÀ CÔNG GIÁO
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 62.22.03.09
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI – 2014
HOÀN THÀNH TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Hồng Dương
GS. TS Lê Hồng Lý
Phản biện 1: PGS.TS Hoàng Minh Đo
Phản biện 2: PGS.TS Đinh Ngọc Bảo
Phản biện 3: PGS.TS Đỗ Thị Minh Thúy
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện
Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Vào hồi……… giờ…… phút………… ngày……… tháng… năm 2014
Có thể tìm luận án tại thư viện:
- Học viện Khoa học Xã hội
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ niềm tin vào cái Thiêng, các tôn giáo đã đưa ra những
quan niệm và cách kiến giải về cái chết và thế giới sau khi chết. Tuy nhiên,
nhận thức về cái chết giữa các tôn giáo không hoàn toàn giống nhau. Trên
cơ sở nhận thức về cái chết, các tôn giáo đã quy phạm hóa thành các nghi
thức tang ma. Vì vậy, tín đồ của mỗi tôn giáo sẽ có các cách thức tổ chức


tang ma riêng.
Ở Việt Nam nói chung, vùng Bắc bộ nói riêng, Phật giáo và Công
giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa, xã hội và chính trị trên cả hai
phương diện tích cực và tiêu cực. Nghiên cứu thấu đáo ảnh hưởng của Phật
giáo và Công giáo trên lĩnh vực tang thức của người Việt sẽ thấy rõ ràng
hơn những mặt tích cực và hạn chế của các tôn giáo. Điều đó giúp cho xã
hội xóa đi những mặc cảm, định kiến đã định hình trong quá khứ về các tín
đồ và chính các tôn giáo này. Đồng thời, nó giúp cho các cơ quan quản lý
Nhà nước về lĩnh vực này có chủ trương phù hợp vừa đáp ứng được nhu
cầu chính đáng của người có đạo, vừa đảm bảo các hoạt động tôn giáo diễn
ra trong khuôn khổ của pháp luật.
Đề cập đến tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo là đề cập đến
một phần không thể thiếu trong đời sống của cộng đồng tín đồ các tôn giáo
này. Nghi thức tang ma ảnh hưởng trực tiếp tới từng gia đình và cộng đồng
trên nhiều phương diện từ đời sống tình cảm đến kinh tế vật chất. Đồng
thời, nó tác động đến trật tự xã hội và văn hóa của cộng đồng. Đặc biệt,
trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của kinh tế xã hội khiến con người
được thỏa mãn nhiều nhu cầu của cuộc sống hơn nhưng cũng gặp rất nhiều
rủi ro, áp lực khiến cho không ít cá nhân rơi vào bế tắc tự kết thúc cuộc
sống. Vì vậy, việc nghiên cứu nhận thức luận về cuộc sống và cái chết theo
các quan niệm khác nhau có ý nghĩa hiện thực nhân sinh đối với từng cá
thể và cộng đồng.
Nghiên cứu về tang thức của người Việt cũng đã có nhiều công trình
đề cập dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên cho đến nay, tiếp cận dưới
góc độ tôn giáo học vẫn chưa có công trình nào chuyên sâu đề cập đến
tang thức của cộng đồng người Việt theo Phật giáo và Công giáo ở Bắc bộ.
Từ thực tế trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Tang thức của người Việt
Bắc bộ là tín đồ Phật giáo và Công giáo’ làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên
ngành tôn giáo học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục đích nghiên cứu
1
Luận án nghiên cứu tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo
người Việt ở Bắc bộ để thấy rõ các nghi thức trong lễ tang hiện nay, từ đó
so sánh tang thức Phật giáo với tang thức Công giáo và đưa ra một số
khuyến nghị đối với việc cử hành tang thức hiện nay của người Việt ở Bắc
bộ.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo cứu quan niệm của Phật giáo và Công giáo về cái chết (có sự
đối chiếu với quan niệm truyền thống của người Việt).
Hệ thống hóa các nghi thức trong lễ tang hiện nay của tín đồ Phật
giáo, Công giáo trên cơ sở đối chiếu với các nghi thức theo lễ tang truyền
thống của người Việt.
Chỉ ra điểm giống và khác nhau trong tang thức hiện nay của người
Việt theo Phật giáo và Công giáo; so sánh với tang thức truyền thống của
người Việt. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra một số khuyến nghị liên quan
đến vấn đề tang thức nói chung hiện nay của người Việt Bắc bộ, đặc biệt là
tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tang thức của tín đồ Phật giáo và
Công giáo người Việt
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo
người Việt ở Bắc bộ nhưng giới hạn không gian nghiên cứu tại vùng đồng
bằng và khảo sát giai đoạn từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cở sở lý luận của việc nghiên cứu và thực hiện đề tài dựa trên cơ sở
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng và tôn giáo.

- Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác-Lênin.
- Luận án, kết hợp các phương pháp văn bản học như thống kê, mô
tả, tổng hợp, phân tích, so sánh; đặc biệt các phương pháp của dân tộc học
như điền dã, quan sát tham dự; phương pháp định tính và định lượng của
xã hội học như điều tra khảo sát bảng hỏi và phỏng vấn sâu để thu thập và
xử lý thông tin liên quan đến các nội dung cần giải quyết của luận án
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án luận giải khá sâu sắc về nhận thức và việc thực hành tang
lễ của tín đồ Công giáo và Phật giáo; cũng như đã làm rõ được sự giống
2
nhau và khác nhau cơ bản trong tang thức của tín đồ Phật giáo và Công
giáo người Việt ở vùng Bắc Bộ Việt Nam.
Luận án đã đề xuất được những khuyến nghị đối với chủ thể lãnh đạo
quản lý xã hội, từ phương diện chủ trương, chính sách, pháp luật và trong
tổ chức tang thức của Phật giáo, Công giáo và của xã hội nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa khoa học
làm sâu sắc thêm về lý luận và phương pháp nghiên cứu
cho chuyên ngành Tôn giáo học ở Việt Nam; đồng thời cho
thấy sự cần thiết tất yếu của việc vận dụng các lý thuyết
đa ngành trong nghiên cứu một đối tượng cụ thể của tôn
giáo học.
Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị không nhỏ và trực tiếp cho
chuyên ngành Tôn giáo học ở nước ta hiện nay; rộng hơn cho các chuyên
ngành khoa học khác có liên quan nhiều đến đối tượng nghiên cứu như
triết học, sử học, văn hóa học, dân tộc học…
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp những luận
cứ khoa học xác đáng, góp phần thiết thực trong việc điều
chỉnh nhận thức và cách thức tổ chức các nghi thức tang

ma hiện nay của cộng đồng người Việt ở Bắc bộ.
Những khuyến nghị của luận án giúp cho các cấp chính
quyền và cơ quan quản lý nhà nước đưa ra chủ trương đúng
đắn đối với sinh hoạt văn hóa cộng đồng và sinh hoạt tôn
giáo của tín đồ Phật giáo và Công giáo. Ngoài ra, nó còn có
giá trị tham khảo với cộng đồng dân cư và có thể chuyển
hóa phần nào thành các quy ước làng xã góp phần vào việc
xây dựng đạo đức và lối sống của người Việt hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Lời cam đoan, Mục lục, Bảng chữ viết tắt, Danh mục các
bảng, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Danh mục các bài viết liên
quan đến luận án của tác giả đã công bố, Phụ lục, Nội dung luận án gồm có
4 chương, 16 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1 Tổng quan các nguồn tư liệu, tài liệu
1.1.1 Nguồn tài liệu gốc
Về cơ bản, nguồn tài liệu gốc có thể chia thành các nhóm như sau:
Kinh sách của Phật giáo và Công giáo; Chính sử của các triều đại phong
3
kiến; Nghị quyết, nghị định, pháp lệnh, chỉ thị, văn kiện của Đảng và Nhà
nước; Tư liệu điền dã của tác giả luận án (tư liệu phỏng vấn định lượng là
kết quả tập hợp từ 683 phiếu khảo sát điều tra xã hội học về tang lễ của
người Việt tại đồng bằng Bắc bộ, tư liệu phỏng vấn sâu; tư liệu ảnh, phim
video).
1.1.2 Nguồn tài liệu tham khảo
Gồm nguồn tài liệu là sách lý luận về tôn giáo và chính sách tôn
giáo;Những công trình nghiên cứu về cái chết;Những công trình nghiên
cứu liên quan đến lễ tang Phật giáo và lễ tang Công giáo; Những công
trình nghiên cứu phong tục tập quán và đời sống tín ngưỡng tôn giáo ở

Việt Nam
1.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2.1 Tang thức của người Việt Bắc bộ được đề cập trong các công trình
bàn về quan niệm tang ma
Một số công trình tiêu biểu như cuốn sách “Chết đi về đâu” của
Thượng tọa Thích Nhật Từ; “Điều rất cần cho chúng ta”, tác giả Trần
Hữu Thành; “Tây Tạng sinh tử kỳ thư” của Liên Hoa Sinh - Tề Hân; sách
“Sống và chết theo quan niệm Phật giáo”, tác giả Thích Như Điển;
“Hiện tượng đầu thai” của Ian Stevenson;
Đây là nguồn tài liệu hữu ích mà tác giả luận án có thể tham khảo,
đối chiếu và kế thừa một phần khi giải quyết nội dung bàn đến nhận thức
luận về tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo.
1.2.2 Tang thức của người Việt Bắc bộ được đề cập trong các sách
liên quan đến Phật giáo
Một số sách tham khảo có nội dung liên quan đến tang thức của tín
đồ Phật giáo như sau: “Nghi thức cầu an- cầu siêu- sám hối – cúng
ngọ” ;“Nghi thức lâm chung” của Hòa thượng Thích Giải An; “Phật
giáo sinh tử kỳ thư” của Thích Điền Tâm; “Bardo – Bí mật nghệ thuật
sinh tử” của pháp vương Gyalwang Drukapa; “Nghi thức hộ niệm”
(Chùa Lân – Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử, tài liệu lưu hành nội bộ);
Nguồn tài liệu này giúp tác giả luận án giải quyết vấn đề liên quan
đến tang thức hiện nay của tín đồ Phật giáo ở Bắc Bộ.
1.2.3 Tang thức của người Việt Bắc bộ được đề cập trong các sách
liên quan đến Công giáo
Tang thức của tín đồ Công giáo chủ yếu được giới thiệu, nghiên cứu
bởi các nhà thần học và giới chuyên môn. Tiêu biểu như Nguyễn Hồng
Dương với công trình “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt
Nam”; “Nghi thức an táng và thánh lễ cầu hồn” (Ủy ban Giám mục về
Phụng Vụ, Sài Gòn 1971); “Những vấn đề căn bản trong thần học bí
4

tích Công giáo”; “Giờ Chúa gọi- nghi thức viếng xác và cầu hồn”
(NXB Tôn giáo, 2010);
Nguồn tài liệu này đã giúp tác giả luận án đối chiếu và kế thừa phần
nào khi giải quyết vấn đề liên quan đến tang thức hiện nay của tín đồ
Công giáo ở Bắc bộ.
1.2.4 Tang thức của người Việt Bắc bộ được đề cập trong các công
trình nghiên cứu về phong tục tập quán và đời sống tôn giáo nói chung
Về nội dung này có rất nhiều công trình như: “Phong tục thờ cúng
trong gia đình người Việt” của Toan Ánh;“Việt Nam phong tục” của
Phan Kế Bính;“Thọ mai gia lễ” của Hồ Gia Tân; “Dân gian sinh tử toàn
thư” của Thái Kỳ Thư; “Phong tục và lễ nghi cổ truyền Việt Nam” (NXB
Văn hóa Thông tin, H, 2007);
Đây là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết giúp luận án giải quyết
vấn đề so sánh tang thức truyền thống của người Việt nói chung với tang
thức của người Việt theo các tôn giáo (Phật giáo và Công giáo ở Bắc Bộ.
1.2.5 Những vấn đề đặt ra và hướng nghiên cứu của luận án
Cho đến nay, chúng tôi chưa thấy có công trình nào xem xét một
cách toàn diện và hệ thống các vấn đề về tang thức của người Việt ở Bắc
bộ; đặc biệt hệ thống hóa và so sánh tang thức của tín đồ Công giáo và tín
đồ Phật giáo người Việt.
Trên cơ sở tiếp thu những nghiên cứu trước, luận án sẽ nghiên cứu
vấn đề theo các hướng sau:
Thứ nhất, luận án khảo cứu chuyên sâu quan niệm của Phật giáo và
Công giáo về cái chết và thế giới sau khi chết (có sự đối chiếu với quan
niệm truyền thống của người Việt).
Thứ hai, luận án hệ thống hóa các nghi thức trong lễ tang Phật giáo,
Công giáo và lễ tang truyền thống của người Việt ở Bắc bộ hiện nay để đối
chiếu và so sánh.
Thứ ba, luận án làm rõ diện mạo tang thức Phật giáo và Công giáo từ
hình thức đến nội dung, thấy được thực chất của các nghi thức tang ma, từ

đó đưa ra một số khuyến nghị về thực trạng tổ chức lễ tang hiện nay của
cộng đồng người Việt ở Bắc bộ, đặc biệt là lễ tang của tín đồ Phật giáo và
Công giáo.
1.3 Khung phân tích lý thuyết
Ở Bắc bộ hiện nay, chúng tôi thấy có nhiều cách thức tổ chức lễ tang
cho các nhóm cộng đồng người Việt khác nhau (tín đồ Phật giáo, tín đồ
Công giáo và người Việt nói chung theo tín ngưỡng bản địa). Đặc biệt, các
nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo và Phật giáo có sự khác
biệt so với nghi thức lễ tang truyền thống của người Việt. Từ thực tế đó,
5
chúng tôi đặt ra các câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết khoa học cho đề tài
nghiên cứu. Sau đó, luận án vận dụng một số lý thuyết chính thuộc các
nhóm lý thuyết xã hội học tôn giáo, nhân học tôn giáo, văn hóa học tôn
giáo, tâm lý học tôn giáo để làm rõ bản chất, nguồn gốc và ảnh hưởng của
tang thức đối với đời sống của người Việt ở Bắc bộ.
1.4. Một số khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án
Luận án tập trung vào một số khái niệm và thuật ngữ như cái chết,
tang thức, nghi thức, nghi lễ, lễ tang, tín đồ Phật giáo (Phật tử), tín đồ
Công giáo (giáo dân), xác (thân xác), hồn (linh hồn), vong linh (hương
linh), thần thức, thân tâm, cầu siêu, cầu hồn Những thuật ngữ và khái
niệm trên được dùng như công cụ trong quá trình thực hiện luận án.
1.5 Vài nét về tín đồ Phật giáo và Công giáo người Việt ở vùng đồng
bằng Bắc bộ
Vùng đồng bằng Bắc bộ là nơi chiếm tỷ lệ người Việt đông nhất
trong khu vực Bắc bộ. Dân cư trong vùng chủ yếu theo tín ngưỡng bản địa,
ngoài ra còn có một bộ phận dân cư khá đông là tín đồ của Công giáo và
Phật giáo.
Vùng đồng bằng Bắc bộ là một trong những địa phương xuất hiện
Phật giáo và Công giáo sớm nhất ở Việt Nam. Phật giáo và Công giáo ở
vùng đồng bằng Bắc bộ có những đặc điểm khác nhau. Đặc điểm của Phật

giáo và Công giáo được thể hiện qua đời sống văn hóa nói chung, trong đó
có văn hóa tang ma của bộ phận tín đồ người Việt theo hai tôn giáo này.
Chương 2
QUAN NIỆM VỀ TANG THỨC CỦA TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO VÀ
CÔNG GIÁO NGƯỜI VIỆT Ở BẮC BỘ
2.1 Quan niệm về cái chết và sự tồn tại của con người sau khi chết
2.1.1 Quan niệm của người Việt nói chung
2.1.1.1 Cái chết
Trong ý niệm về cái chết, người Việt không đơn thuần hiểu cái chết
theo nghĩa vật lý thông thường (chết có nghĩa là chấm dứt sự hoạt động
hoàn toàn của cơ thể vật chất). Đối với người Việt, cái chết chẳng qua chỉ
là một giấc ngủ, một sự trở về, một đoạn đường đã hoàn thành, một sự
vắng mặt, một chuyến đi xa, một sự rời bỏ tạm thời. Quan niệm này hàm
ẩn niềm tin của người Việt vào tồn tại của con người sau cái chết.
2.1.1.2 Quan niệm chung và quan niệm về “linh hồn” của người Việt
- Từ xa xưa, nhiều tộc người ở khắp mọi nơi trên thế giới đã quan
niệm có sự tồn tại của linh hồn. Khái niệm linh hồn trở thành khái niệm rất
phổ biến. Qua khảo sát rất nhiều tộc người, các nhà nghiên cứu trên thế
6
giới đã tổng hợp được quan niệm đa chiều về những thuộc tính và những
biểu hiện khác nhau của “linh hồn”.
- Người Việt quan niệm con người là một tổ hợp được cấu thành từ
hai phần: xác - hồn. “Xác” chỉ hình vóc – dáng dấp bên ngoài của cơ thể
(cơ thể, thể xác vật lý) con người. “Hồn” chỉ yếu tố tinh thần đối lập với
thể xác, khi nhập vào thể xác thì tạo ra sự sống và tâm lí con người. “Hồn”
cũng chính là chỉ thần khí của con người. Ngoài “hồn”, người Việt quan
niệm trong tổ hợp cấu thành tinh thần con người còn có “vía” và “phách”.
Người Việt còn quan niệm “hồn” (linh hồn) người chết có thể tách thành
hai nhóm: “tổ tiên” và “ma”.
2.1.2 Quan niệm của tín đồ Phật giáo người Việt

2.1.2.1 Cái chết
Cái chết thường chia thành hai loại: cái chết thông thường và cái chết
bất thường. Phân loại cái chết, Phật giáo chia thành ba loại cơ bản: thứ
nhất là cái chết do tuổi thọ tự nhiên hao tổn như đèn cạn hết dầu thì tắt, sức
người không thể cứu vãn được. Thứ hai cái chết do phúc đã cạn như đèn
chưa cạn dầu nhưng không còn không khí giúp cho sự cháy nên đèn phải
tắt. Thứ ba là cái chết do các nhân tố bất ngờ gây ra giống như ngọn đèn
bỗng gặp cơn gió mạnh cuộc sống đột ngột chấm dứt không thể lường
trước được. Quan niệm về cái chết của Phật giáo được xây dựng trên cơ sở
lý thuyết nhân quả và nghiệp báo.
2.1.2.2 Quan niệm về “thần thức” - “chủng tử” của Phật giáo
Phật giáo cho rằng mọi chúng sinh, trong đó có con người là tổ hợp của
thân tâm. “Thân” chính là phần thể xác vật chất của con người được tạo
thành từ “tứ đại" (bốn yếu tố: đất, nước, lửa, gió). Thuộc tính riêng của
bốn yếu tố này tương quan với thuộc tính của các bộ phận trên cơ thể con
người.
Ngoài phần thân “tứ đại”, Phật giáo quan niệm trong con người còn
một phần quan trọng khác chính là “thức” hay “tâm thức”. “Thức” giống
như yếu tố tinh thần để phân biệt với yếu tố vật chất trong con người.
“Thức” bao gồm toàn bộ các hoạt động tư tưởng để điều chỉnh các hoạt
động hành vi của con người. Trong triết lý về sinh tử của con người, Phật
giáo cũng chủ thuyết, sau khi con người chết, phần thân “tứ đại” bị hủy
diệt nhưng phần “thần thức” (cái cốt lõi, cơ bản nhất của “thức” – trong
Phật giáo thường gọi là “chủng tử") của con người không bị hủy diệt.
2.1.2.3 Quan niệm về thuyết “tái sinh” của Phật giáo
Theo quan niệm Phật giáo,“tái sinh”chính là sự tái tạo thành sự sống
mới trong điều kiện mới. Để hiểu học thuyết “tái sinh” của Phật giáo,
chúng ta phải dựa vào hai định luật: Định luật Vô thường và định luật Hoạt
7
động và phản ứng (luật nhân –quả). Khi luật nhân - quả đề cập đến hoạt

động của con người nó được gọi là định luật của “nghiệp”. Con người tạo
ra “nghiệp” bằng những hành động ở nơi thân thể, lời nói và thậm chí cả
trong ý nghĩ. Trong quan niệm của Phật giáo, “nghiệp” cũng chính là nhân
quả đạo đức hình thành số phận của chúng sinh và dẫn đến « tái sinh ».
2.1.3 Quan niệm của tín đồ Công giáo người Việt
2.1.3.1“Cái chết”
Khác với Phật giáo, Công giáo chia “cái chết” thành hai loại: “chết
lành” và “chết dữ”. Công giáo chủ thuyết để có cái “chết lành”, người chết
trước đó phải có đời sống đạo chân thành, hăng say và bền bỉ và luôn tuân
giữ những luật lệ cần thiết cho đời sống đức tin của người Kitô hữu. Quan
trọng nhất người đó luôn thừa nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên
Chúa. Nhờ tình thương của Thiên Chúa, sau khi người đó chết sẽ được
Chúa ban cho sự sống và được lên Thiên đường.
2.1.3.2 Quan niệm về “linh hồn” của Công giáo
Trong Kinh Thánh đã khẳng định con người được kiến tạo bởi hai
phần: xác và hồn. Trong con người, thân xác vật chất là yếu tố được cha
mẹ sinh ra và linh hồn là yếu tố được tạo dựng trực tiếp bởi Thiên Chúa. Khi
một đứa trẻ được sinh ra, linh hồn sẽ nhập vào thân xác vật lý của đứa trẻ.
Linh hồn và thân xác sẽ hòa quyện vào nhau để tạo nên một sự sống mới nơi
cõi nhân sinh. Đến khi con người chết, linh hồn thoát khỏi thân xác. Lúc này,
thân xác sẽ bị hủy diệt, tan rã về vật lý nhưng linh hồn thì vẫn tiếp tục tồn tại.
2.1.3.3 Quan niệm của Công giáo về “sự phục sinh”
Công giáo quan niệm “chết là cửa dẫn vào cõi sống”, chết không
phải là chấm dứt sự sống mà sẽ có ngày con người được “sống lại”. Theo
Công giáo, khi con người chết, hồn thoát ra khỏi thể xác và đến gặp Chúa
Giêsu để được xét xử và nhận thưởng phạt, rồi đến ngày Chung cuộc hồn
được hiệp nhất với xác đã được biến đổi do quyền năng phục sinh của
Chúa Giêsu.
2.2 Quan niệm về thế giới sau khi chết
2.2.1 Quan niệm của người Việt nói chung về “Âm phủ”

Quan niệm về Âm phủ nằm trong hệ thống quan niệm về thế giới
siêu nhiên của người Việt. Về cơ bản, người Việt quan niệm thế giới siêu
nhiên gồm ba tầng: tầng trời, tầng đất và tầng dưới đất.
Âm phủ là tầng thấp nhất trong ba tầng. Trong tâm thức dân gian,
người Việt qui ước hóa bằng khoảng không gian dưới lòng đất. Âm phủ là
nơi dành riêng cho linh hồn những người đã chết. Xuất phát từ quan niệm
“trần sao âm vậy”, người Việt quan niệm thế giới Âm phủ cũng có tôn ti
8
trật tự; cuộc sống của linh hồn người chết dưới Âm phủ được người Việt
tưởng tượng giống hệt cuộc sống trần gian.
2.2.2 Quan niệm của tín đồ Phật giáo về “Tam giới” và “Tịnh thổ”
(cõi Cực lạc)
2.2.2.1 Quan niệm về “Tam giới”
Phật giáo quan niệm “thế giới của con người sau khi chết” gồm nhiều
cõi và cảnh giới khác nhau. Ba cõi chính được Phật giáo nhắc đến là cõi
Dục giới, cõi Sắc giới và cõi Vô sắc giới. Ba cõi này được gọi chung là
Tam giới.
Cõi Dục giới theo quan niệm của Phật giáo gồm sáu cảnh giới: Thiên
giới (cõi Trời), cảnh giới Atula (Cõi Bán thiên), cảnh giới Người, cảnh
giới súc sinh, cảnh giới Ngạ quỷ, cảnh giới Địa ngục. Cõi Dục giới là nơi
giam cầm con người trong vòng sinh tử của luân hồi lục đạo. Tùy thuộc
vào nhân duyên nghiệp báo và tương ứng với các trạng thái tâm thức tham,
sân, si, mạn, nghi, tà kiến khác nhau mà con người sẽ luân chuyển mãi
trong sáu đạo luân hồi.
2.2.2.2 Quan niệm về “Tịnh thổ” (cõi Cực lạc)
Phật giáo chủ thuyết không gian vũ trụ gồm mười phương. Cả mười
phương đó đều có chư Phật. Cõi “Cực lạc” theo phân định của Phật giáo
nằm ở Phương Tây. Đứng đầu cõi “Cực lạc” có vị Phật tên hiệu là A Di
Đà chuyên thuyết pháp cho người dân trong toàn cõi. Cõi “Cực lạc” qua
mô tả trong kinh Phật là một cảnh giới mà những đối tượng sống ở đó luôn

trong trạng thái hạnh phúc viên mãn. Trạng thái đó được duy trì kéo dài
mãi với thời gian không bao giờ chấm dứt.
2.2.3 Quan niệm của tín đồ Công giáo về “Thượng đế” và “Thiên
đàng”
2.2.3.1 Quan niệm về Thượng đế
Ý niệm về “Thượng đế” của Công giáo đồng nhất với ý niệm về
Thiên Chúa ba ngôi (Chúa Cha, Chúa Con và chúa Thánh Thần).
Chúa Cha là danh thứ nhất trong ba ngôi Thiên Chúa, còn được gọi
tắt là “Cha”. Chúa Cha là đấng sinh ra Chúa Con từ trước muôn đời. Đấng
cùng bản thể với Ngài. Chúa Con cũng chính là Chúa Giê su. Chúa Giê su
là con của Thiên Chúa nhờ phép của Đức Chúa Thánh Thần đã được sinh
ra bởi trinh nữ Maria. Chúa Thánh Thần là ngôi ba Thiên Chúa, cùng bản
thể và được phụng thờ tôn vinh như Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
2.2.3.2 Quan niệm về “Thiên đàng”
Theo thế giới quan Công giáo, thế giới của linh hồn cơ bản gồm ba
tầng: tầng Trời (Thiên đàng), tầng Luyện ngục và tầng Hỏa ngục. Ba tầng
9
này là nơi mà linh hồn người chết trú ngụ nhưng mỗi tầng có một đối
tượng linh hồn người chết riêng.
Thiên đàng (Tầng Trời – Nước Trời) là nơi dành cho đối tượng linh
hồn người chết được hưởng cái chết trong ơn nghĩa Chúa (sạch mọi tội
lỗi) và những linh hồn khi chết chưa hoàn toàn hết tội nhưng sau đó đã
được thanh luyện hoàn hảo và được Thiên Chúa đón nhận. Như vậy, theo
giáo lý Công giáo, Thiên đàng không phải bên trên tầng trời xanh mà là
tình trạng hay là cuộc sống của một người sau khi chết linh hồn người đó
hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa ba ngôi, Đức mẹ
Maria, các Thiên Thần và những người lành thánh. Với đức tin Công giáo,
đó là tình trạng hạnh phúc tối cao và vĩnh viễn và là cái đích tối hậu, là sự
hoàn thành mọi khát vọng sâu xa nhất của con người.
2.3. Tiểu kết chương 2

Giống quan niệm phổ biến của nhiều dân tộc trên thế giới, người
Việt cũng quan niệm con người được cấu tạo bởi hai phần “xác” và “hồn”;
khi con người chết, “xác” bị hủy diệt nhưng “hồn” tồn tại và tiếp tục một
cuộc sống mới ở thế giới giành riêng cho người chết. Tuy nhiên, ở Bắc bộ,
quan niệm của ba nhóm người Việt (tín đồ Phật giáo, tín đồ Công giáo và
người Việt theo tín ngưỡng bản địa) có một số điểm riêng biệt do ảnh
hưởng từ quan niệm của Phật giáo, Công giáo hoặc quan niệm dân gian.
Người Việt nói chung theo tín ngưỡng dân gian nên bị ảnh hưởng bởi
quan niệm có sự tồn tại “linh hồn” người chết và các lực lượng siêu nhiên;
tồn tại các khoảng không gian siêu hình giành cho linh hồn con người sau
khi chết như Âm phủ. “Linh hồn” người chết ở Âm phủ cũng có cuộc sống
giống hệt như cuộc sống trần gian. Nguồn gốc của nhiều nghi thức tang
ma của người Việt chắc chắn dựa trên quan niệm này.
Người Việt theo Phật giáo bị ảnh hưởng từ quan niệm của Phật giáo
về chủ thuyết có sự “tái sinh” của “thần thức” người chết, có tồn tại “Tam
giới”, “Tịnh thổ”. Đặc biệt, tín đồ Phật giáo sẽ tin tưởng và muốn hướng
đến cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà vì chỉ có cõi này mới giúp “thần
thức” người chết được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử trong Lục đạo
và đạt trạng thái hỷ lạc đời đời.
Tín đồ Công giáo bị chi phối bởi giáo lý Công giáo nên tin tưởng vào
sự tồn tại “linh hồn” bất tử, tin “linh hồn” sẽ được “phục sinh” trong ngày
Chung cuộc, tin vào Thiên Chúa và Thiên đàng. Điều này sẽ chi phối đời
sống đạo của tín đồ Công giáo. Trong các nghi lễ thường nhật, đặc biệt là
tang lễ, người Công giáo sẽ thực hành những nghi thức giúp củng cố và
gia tăng niềm tin vào Thiên Chúa để người tín hữu đó sau khi chết, linh
10
hồn sẽ được Thiên Chúa đón nhận về Nước Trời và được hưởng hạnh
phúc đời đời trong tình thương yêu của Thiên Chúa.
Tóm lại, ở Bắc bộ hiện nay, niềm tin vào sự tồn tại của con người sau
khi chết và thế giới sau khi chết chắc chắn sẽ được qui phạm hóa qua tang

thức của các nhóm cộng đồng người Việt theo Phật giáo, Công giáo hoặc
theo tín ngưỡng dân gian.

Chương 3
TANG THỨC HIỆN NAY CỦA TÍN ĐỒ
PHẬT GIÁO VÀ CÔNG GIÁO NGƯỜI VIỆT Ở BẮC BỘ
3.1. Tang thức truyền thống của người Việt ở Bắc bộ
3.1.1 Nghi thức trước lễ tang
Nghi thức trước lễ tang chủ yếu xoay quanh thời điểm người bệnh
lâm chung. Theo phong tục, vào thời điểm người bệnh lâm chung, con
cháu dù tụ tập rất đông nhưng cố gắng không gây náo động, ồn ào quá mức
để người bệnh sắp tắt thở được yên tĩnh. Bên cạnh đó, họ sẽ chia nhau làm
một số công việc cần thiết như đặt tên thụy (tên hiệu) cho người chết;
chuẩn bị nghi thức thiết hồn bạch Trước khi khâm liệm, theo phong tục,
người Việt cử hành một số nghi thức như “phục hồn” và “phạn hàm”.
Những nghi thức lễ tang truyền thống của người Việt về cơ bản phản ánh
niềm tin có linh hồn và tồn tại thế giới sau khi chết giống như thế giới hiện
tại của con người.
3.1.2 Các nghi thức chính trong lễ tang
3.1.2.1 Nghi thức khâm liệm và nhập quan
Sau nghi thức “phạn hàm” là nghi thức khâm liệm. Đây là một nghi
thức bắt buộc phải làm hết sức cẩn thận dưới sự chứng kiến của người thân
xung quanh. Sau khi người chết được khâm liệm xong sẽ diễn ra nghi thức
nhập quan.
3.1.2.2 Nghi thức phát tang và an táng
Sau khi hoàn tất nghi thức nhập quan, người nhà sẽ làm các công
việc như thiết linh sàng, linh tọa, minh tinh để chuẩn bị cho nghi thức phát
tang. Phát tang là lúc con cháu người chết chính thức mặc đồ tang phục để
thông báo với mọi người về tang sự của gia đình.
Trong qui trình tổ chức tang lễ của người Việt hiện nay, thông

thường sau khi gia đình làm lễ phát tang để chính thức thông báo về cái
chết của người thân sẽ đến nghi thức viếng của họ hàng, bạn bè, các đoàn
thể ở địa phương. Nghi thức an táng là nghi thức cuối trong giai đoạn tổ
chức tang lễ của người Việt. Nghi thức này gồm các một số lễ chính như lễ
truy điệu, lễ đưa tang và lễ táng.
11
Theo phong tục truyền thống người Việt chủ yếu áp dụng hình thức
địa táng. Sau khi táng, người Việt sẽ làm lễ phản khốc (khóc lại) và lễ an
vị cho vong linh.
3.1.3 Nghi thức sau lễ tang
3.1.3.1 Nghi thức cúng giỗ
Một trong những nghi thức quan trọng trong lễ tang của người Việt
là nghi thức tiến linh (cúng cơm). Ý nghĩa biểu tượng của mâm cơm cúng
linh không chỉ thể hiện tình nghĩa của người sống với người mới chết mà
còn thể hiện triết lý của người Việt về cái chết và thế giới sau khi chết.
Theo phong tục, nghi thức cúng người chết của người Việt diễn ra
suốt thời gian lễ tang cho đến sau lễ tang vào các dịp 3 ngày, 7 ngày, 49
ngày, 100 ngày, giỗ đầu, giỗ hết và các ngày giỗ tết sau đó. Một công việc
khác mà người Việt làm cho người chết sau lễ tang còn có lễ tảo mộ.
3.1.3.2 Nghi thức đốt vàng mã
Người Việt phổ biến tục đốt đồ vàng mã cho người thân đã chết.
trong rất nhiều dịp khác nhau (trong lễ tang, các dịp lễ cúng 3 ngày, 49
ngày, 100 ngày, các ngày giỗ, tết các ngày sóc, vọng hàng tháng, đặc biệt
vào lễ xá tội vong nhân - rằm tháng bảy âm lịch hàng năm). Trong lễ tang
của người Việt ở Bắc bộ hiện nay, nhiều phong tục cũ có xu hướng bị lược
bỏ hoặc giản lược nhưng phong tục đốt vàng mã vẫn là phong tục rất phổ
biến.
3.2. Tang thức của tín đồ Phật giáo người Việt ở Bắc bộ
3.2.1 Nghi thức trước lễ tang
Nội dung lễ tang của tín đồ Phật giáo về cơ bản có nhiều nội dung

giống lễ tang truyền thống của người Việt từ qui trình đến cách thức tổ
chức. Tuy nhiên, xuất phát từ quan niệm riêng về cái chết, lễ tang của tín
đồ Phật giáo có nhiều điểm khác biệt với lễ tang theo phong tục truyền
thống của người Việt.
Vào thời điểm người bệnh lâm chung, theo chủ trương của Phật giáo,
các gia đình Phật tử sẽ mời nhà sư đến khai thị hoặc mời ban Hộ niệm tụng
kinh trợ niệm cho người bệnh. Đây là điểm khác biệt rõ nét trong nghi lễ
tang ma Phật giáo so với nghi lễ tang ma của người Việt không theo Phật
giáo.
3.2.2 Nghi thức trong lễ tang
3.2.2.1 Nghi thức hộ niệm sau khi người bệnh tắt thở
Vào thời điểm người bệnh vừa tắt thở, theo chủ trương của Phật giáo
người nhà tiếp tục tiến hành nghi thức hộ niệm cho người vừa chết.
3.2.2.2 Nghi thức khâm liệm và nhập quan
12
Sau khi hoàn tất việc chuẩn bị chương trình tang lễ là đến nghi thức
khâm liệm. Tuy nhiên, khác với nghi thức khâm liệm trong lễ tang truyền
thống của người Việt, người Phật tử không bỏ kèm theo nhiều quần áo và
các đồ quý giá khác vì không tin người chết còn cần dùng những thứ đó.
Khi khiêng tử thi vào quan tài, ban hộ niệm có nhiệm vụ tán pháp và tụng
liên tục kinh Bát Nhã cho đến khi đậy nắp quan tài. Sau đó, họ tiếp tục
tụng Mười hai nguyện, Hồi hướng và Phục nguyện.
3.2.2.3 Nghi thức phát tang và an táng
Nội dung nghi thức phát tang của Phật giáo có điểm khác hơn so với
lễ tang truyền thống ở chỗ: mở đầu nghi thức phát tang, ban hộ niệm tiếp
tục tụng Mười hai nguyện, Hồi Hướng và Phục Nguyện cho người đã chết
được vãng sinh. Tiếp theo, gia đình người chết thường mời một sư thầy
đọc lời khai thị; cuối cùng mới đến nghi thức phát khăn tang giống như
phong tục chung của người Việt.
Giống qui trình tổ chức lễ tang truyền thống của người Việt, nghi

thức an táng là nghi thức cuối trong giai đoạn tổ chức lễ tang Phật giáo.
Nghi thức này cũng gồm một số lễ chính như lễ truy điệu, lễ đưa tang và lễ
táng. Theo phong tục chung của người Việt, trong lễ tang Phật giáo, sau
khi lễ viếng hoàn tất sẽ diễn ra lễ truy điệu. Sau lễ truy điệu sẽ đến lễ động
quan và di quan và lễ táng
Phật giáo chủ trương hỏa táng. Hiện nay, bên cạnh hỏa táng, đa phần
người Phật tử ở Bắc bộ vẫn áp dụng hình thức địa táng.
Sau khi lễ táng hoàn tất, thân nhân người chết sẽ đem di ảnh về nhà
đặt trên bàn thờ và làm lễ an vị cho vong linh.Trong vòng trước hoặc sau
49 ngày, một số gia đình Phật tử sẽ có nghi thức rước vong lên chùa với
mục đích muốn cho vong linh được hàng ngày nghe tiếng tụng niệm kinh
phật và sớm vãng sinh.
3.2.3 Nghi thức sau lễ tang
3.2.3.1 Nghi thức cúng giỗ
Qui trình lễ tang của tín đồ Phật giáo người Việt ở Bắc bộ về cơ bản
hoàn tất sau lễ an vị. Tuy nhiên, giống như phong tục chung của người
Việt, người Phật tử cũng làm nghi thức cúng người chết vào các dịp 3
ngày, 49 ngày, 100 ngày và các ngày giỗ. Trong các dịp này các gia đình
Phật tử ngoài việc làm lễ tiến linh (cúng cơm) còn kết hợp làm cỗ mời
người thân, bạn bè.
3.2.3.2 Nghi thức cầu siêu
Nghi thức cầu siêu là một nội dung quan trọng mà các gia đình Phật
tử cử hành sau lễ tang cho người đã chết. Đây cũng là nội dung tang lễ
mang màu sắc riêng của Phật giáo.
13
Phật giáo chủ trương, nghi thức cầu siêu nên được tiến hành vào giai
đoạn Trung ấm 49 – giai đoạn quyết định Nghiệp để thần thức « tái sinh »
hoặc vãng sinh lên cõi « Cực lạc ». Tuy nhiên, hiện nay nghi thức cầu siêu
cho người chết phổ biến diễn ra ở nhiều thời điểm khác nhau.
3.3 Tang thức của tín đồ Công giáo người Việt ở Bắc bộ

3.3.1 Nghi thức trước lễ tang
Các nghi thức trước lễ tang của người Công giáo chủ yếu xoay quanh
thời điểm người bệnh hấp hối. Các nghi thức chính trong giai đoạn trước lễ
tang gồm có: nghi thức thăm bệnh nhân và trao Mình Thánh Chúa; Nghi
thức Xức dầu và Phó linh hồn
3.3.2 Nghi thức trong lễ tang
3.3.2.1 Tẩm liệm và nhập quan
Trong quá trình tẩm liệm và nhập quan, người Công giáo thực hiện
một số nghi thức bắt buộc. Tất cả những nghi thức đó đều do linh mục
thực hiện và giáo dân không có chức Thánh thì không được thực hiện. Đó
là những nghi thức đã được giáo hội hướng dẫn như nghi thức làm phép
quan tài và nghi thức làm phép xác
2.3.2.2 Nghi thức phát tang và viếng xác
So với lễ tang truyền thống của người Việt, lễ tang của người Công
giáo không có nghi thức thiết hồn bạch, làm minh tinh, nhà táng… Trong
lễ phát tang, người Công giáo cũng phải thực hiện một số nghi thức theo
luật Công giáo như nghi thức làm phép khăn tang.
Sau nghi thức phát tang sẽ đến nghi thức viếng xác. Nghi thức viếng
xác của người Công giáo có điểm khác với nghi thức viếng xác của người
Việt nói chung.
3.3.2.3 Thánh lễ tại nhà thờ
Sau khi nghi thức viếng xác hoàn tất tại gia đình, gia đình tang quyến
cùng các hội đoàn trong giáo xứ sẽ đưa thi hài ra nhà thờ họ hoặc nhà thờ
xứ để tiến hành Thánh lễ an táng.
Thánh lễ an táng diễn tả lại hy tế của Chúa Giêsu xưa kia đã chịu
chết và Phục sinh để đẩy lui bóng đêm của tội lỗi và sự chết chóc. Đồng
thời Thánh lễ an táng góp phần an ủi thân nhân của người quá cố khi xác
lập đức tin của họ vào việc nguời chết sẽ được Phục sinh. Phần kết thúc
Thánh lễ chính là nghi thức từ biệt người quá cố lần cuối.
3.3.2.4 Nghi thức đưa tang và an táng nơi phần mộ

Kết thúc qui trình một lễ tang Công giáo chính là nghi thức an táng
nơi phần mộ. Ở các giáo xứ thuộc Bắc bộ, người Công giáo sẽ được chôn
riêng ở vườn Thánh (nghĩa trang riêng của người Công giáo) nhưng cũng
có nhiều giáo xứ người Công giáo sẽ chôn trong nghĩa trang chung của địa
14
phương. Khi đến Vườn Thánh hoặc nghĩa trang chung ở địa phương, linh
mục hoặc thừa tác viên sẽ tiến hành các nghi thức tiễn biệt cuối cùng với
người quá cố theo quy định của Giáo hội như nghi thức làm phép huyệt,
nghi thức từ biệt trước khi chôn cất…
3.3.3 Nghi thức sau lễ tang
3.3.3.1 Nghi thức cúng giỗ
Theo phong tục chung của người Việt, sau lễ tang người Công giáo
cũng cử hành một số nghi thức như nghi thức 3 ngày, 100 ngày và các
ngày giỗ cho người quá cố.
3.3.3.2 Nghi thức cầu hồn
Một nội dung quan trọng mà người Việt theo Công giáo cử hành sau
lễ tang chính là cầu nguyện cho người đã chết. Cầu hồn chính là việc cầu
nguyện cho linh hồn người chết được Thiên Chúa tha thứ và thương xót.
Nội dung nghi thức cầu hồn đã được nhắc đến trong các nghi thức lễ tang
từ thời điểm người bệnh hấp hối đến khi lễ an táng nơi phần mộ hoàn tất.
Sau lễ tang, nội dung nghi thức cầu hồn được nhắc đến trong các dịp người
Công giáo tổ chức nghi thức 3 ngày, 50 ngày, 100 ngày và các ngày giỗ
cho người thân đã khuất; ngày mùng 3 tết và đặc biệt là trong tháng kính
nhớ tổ tiên của người Công giáo.
3.4. Tiểu kết chương 3
Tang thức của người Việt ở Bắc bộ khá đa dạng vì có sự khác nhau
trong cách thức tổ chức và nội dung tang lễ giữa các nhóm cộng đồng
người Việt theo tôn giáo và người Việt không theo tôn giáo. Thậm chí
trong cùng một cộng đồng nhưng những người sống ở khu vực thành thị sẽ
có cách tổ chức lễ tang khác với những người sống ở khu vực nông thôn.

Lễ tang hiện nay của người Việt không theo tôn giáo cơ bản áp dụng
theo cách thức tổ chức lễ tang truyền thống trước đây. Qui trình lễ tang
diễn ra qua ba giai đoạn: trước lễ tang, trong lễ tang và sau lễ tang. Các
nghi thức chính của lễ tang gồm có nghi thức chuẩn bị khi một người vừa
tắt thở (phạn hàm, phục hồn, khâm liệm, nhập quan), nghi thức phát tang
và viếng, nghi thức an táng (truy điệu, đưa tang và táng). Sau khi lễ an
táng hoàn tất, người Việt tổ chức tiếp các nghi thức khác cho người chết
như nghi thức cúng 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày và các ngày giỗ. Một trong
số phong tục khá phổ biến của người Việt dành cho người chết chính là
phong tục đốt vàng mã.
Lễ tang của người Việt đều xoay quanh quan niệm có sự tồn tại linh
hồn sau khi chết và quan niệm về việc tồn tại một thế giới sau khi chết
giống hệt trần gian. Các nghi thức trong lễ tang của người Việt không chỉ
15
đơn thuần thể hiện tình nghĩa, sự hiếu thảo mà còn thể hiện mong ước
người thân đã chết sẽ có đời sống tốt nhất ở thế giới sau khi chết.
Lễ tang của tín đồ Phật giáo và Công giáo người Việt ở Bắc bộ về cơ
bản dựa theo qui trình và nội dung lễ tang truyền thống của người Việt.
Tuy nhiên, xuất phát từ nhận thức riêng về cái chết và thế giới sau khi
chết, Phật giáo và Công giáo đã qui phạm hóa thành hệ thống nghi thức
khác biệt.
Lễ tang Phật giáo có các nghi thức đặc thù như hộ niệm, đội cầu bát
nhã, cầu siêu Các nghi thức trong lễ tang Phật giáo xoay quanh nội dung
muốn “thần thức” người chết sớm siêu thoát được “tái sinh” trong cảnh
giới cao của Lục đạo luân hồi hoặc vãng sinh về cõi Cực lạc.
Lễ tang Công giáo được giáo hội Công giáo quy định và hướng dẫn
cụ thể. Lễ tang Công giáo có các nghi thức đặc thù như xức dầu, làm phép
quan tài, làm phép xác, thánh lễ an táng tại nhà thờ. Các nghi thức trong lễ
tang Công giáo phản ánh niềm tin của người giáo dân vào Thiên Chúa và
sự bất tử của linh hồn Những người Kitô hữu khi cử hành các nghi thức

tang lễ không nằm ngoài mong ước muốn cho người thân trong gia đình và
cả những người Kitô hữu đã chết khác trong cộng đoàn nhận được tình
thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa để sớm vượt qua sự phán xét
trong ngày “Phục sinh” mà đón nhận một cuộc sống mới hạnh phúc trên
Thiên Đàng.
Tóm lại, tính đa dạng, phức tạp thể hiện rất rõ trong cách thức tổ
chức lễ tang của người Việt ở Bắc bộ hiện nay. Sự khác nhau đó thể hiện
rõ qua từng nghi thức từ giai đoạn lâm chung, giai đoạn đã chết đến các
hình thức táng, cúng giỗ sau khi chết. Xét dưới góc độ tôn giáo tín
ngưỡng, sự đa dạng đó có nguồn gốc từ hệ thống triết lý, thế giới quan
riêng của mỗi nhóm cộng đồng người Việt. Điều này tạo thành đặc điểm
đa dạng văn hóa ở Bắc bộ. Tuy nhiên, sự đa dạng đó cũng đặt ra không ít
vấn đề trong văn hóa tang lễ hiện nay của người Việt.
Chương 4
NHẬN ĐỊNH VÀ KHUYẾN NGHỊ RÚT RA TỪ TANG THỨC
CỦA TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO VÀ CÔNG GIÁO NGƯỜI VIỆT Ở
BẮC BỘ
4.1. Nhận định rút ra từ tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo
4.1.1 Vấn đề nhận thức về cái chết
4.1.1.1 Điểm giống và khác nhau trong quan niệm về sự tồn tại của
con người sau khi chết giữa Phật giáo và Công giáo
• Quan niệm về “chủng tử” của Phật giáo và “linh hồn” của Công
giáo
16
Phật giáo và Công giáo đều quan niệm chết không phải là hết. Cái chết
không thể khiến con người biến mất và bị tiêu diệt vĩnh viễn. Thế nhưng
bàn về “sự tồn tại của con người sau khi chết” dựa theo nhãn quan riêng
mà Phật giáo và Công giáo quan niệm khác nhau.
Linh hồn trong quan niệm của Công giáo giống như một thực thể tồn
tại vĩnh cửu và bất biến ngay cả khi con người đã chết. Phật giáo quan

niệm cái tồn tại sau khi con người chết đi chính là “thần thức” “chủng tử”.
Theo Phật giáo sẽ không có cá nhân vĩnh cửu, không có linh hồn bất biến.
Cá nhân hay cá tính theo Phật giáo không phải là một thực thể mà là tiến
trình của trỗi lên và mất đi và không tương ứng với một thực thể cố định
nào.
• Quan niệm về “tái sinh” của Phật giáo và “phục sinh” của Công
giáo
Phật giáo quan niệm “chủng tử” (thần thức) người chết do không
phải là một cá tính, cá thể độc lập mà nó chỉ như một mầm giống gieo lên
sự sống. Vì vậy, sau khi con người chết đi, “chủng tử” sẽ được tái sinh
(đầu thai) trở lại khi nó gieo mầm tạo nên một sự sống mới Công giáo
quan niệm “linh hồn” do Thiên Chúa tạo dựng. Sau khi con người chết,
linh hồn sẽ được Thiên Chúa cho “phục sinh”. Sự “phục sinh” này hàm ẩn
ý nghĩa linh hồn sẽ được Thiên Chúa làm cho biến đổi hoàn toàn trong
trạng thái thanh thoát và được đón nhận lên Thiên đàng. Như vậy, Công
giáo hoàn toàn không có ý niệm về sự trở lại cõi nhân sinh của con người
sau khi chết giống như kiểu “tái sinh” của Phật giáo.
4.1.1.2 Điểm giống và khác nhau trong quan niệm về sự tồn tại thế
giới sau khi chết giữa Phật giáo và Công giáo
Điểm giống và khác nhau trong quan niệm về sự tồn tại thế giới sau
khi chết giữa Phật giáo và Công giáo thể hiện cụ thể trong quan niệm về
“Thiên đàng” của Công giáo và quan niệm về “Tịnh thổ” (cõi Cực lạc) của
Phật giáo.
4.1.2. Về các nghi thức trong lễ tang của tín đồ Phật giáo và Công giáo
4.1.2.1 Điểm tương đồng giữa nghi thức“Hộ niệm”lúc lâm chung
của Phật giáo với nghi thức “Xức dầu” của Công giáo
Nội dung nghi thức Hộ niệm của Phật giáo cơ bản khác nội dung
nghi thức Xức dầu của Công giáo. Tuy nhiên, ý nghĩa của hai nghi thức
này tương tự giống nhau ở chỗ đều cầu mong cho người bệnh sau khi chết
có được một đời sống tốt nhất ở thế giới khác.

4.1.2.2 Điểm tương đồng giữa nghi thức“cầu siêu” của Phật giáo
với nghi thức “cầu hồn” của Công giáo
17
Nội dung nghi thức “cầu siêu” của Phật giáo và nghi thức “cầu hồn”
của Công giáo khác nhau nhưng vẫn có điểm tương đồng. Đối tượng trực
tiếp cử hành các nghi thức tôn giáo này thông thường là người có chức sắc
trong giáo hội như các sư của Phật giáo hoặc các linh mục của Công giáo.
Vị trí cử hành các nghi thức này thông thường là các cơ sở thờ tự như chùa
hoặc nhà thờ. Ý nghĩa của các nghi thức này đều xoay quanh nội dung câu
hỏi cốt lõi nhất của các tôn giáo là con người sau khi chết sẽ ở đâu và nên
ở đâu (bàn đến cái đích cuối cùng sau khi chết con người hướng đến là cái
gì).
4.1.3 Điểm giống và khác giữa tang thức của tín đồ Phật giáo, Công
giáo với tang thức truyền thống của người Việt
4.1.3.1 Sự tương đồng giữa tang thức Phật giáo và tang thức truyền
thống của người Việt
Sự tương đồng giữa tang thức Phật giáo và tang thức truyền thống
của người Việt thể hiện trong quan niệm về “tái sinh”của Phật giáo và
quan niệm “đầu thai” trong tín ngưỡng dân gian của người Việt. Đó còn là
sự tương đồng thể hiện trong quan niệm về các cõi không gian của thế giới
sau khi chết giữa Phật giáo và Công giáo.
4.1.3.2 Sự khác biệt giữa tang thức Công giáo với tang thức truyền
thống của người Việt
Sự khác biệt giữa tang thức Công giáo với tang thức truyền thống
của người Việt thể hiện trong quan niệm về “linh hồn”giữa người Việt và
Công giáo. Đó còn là sự khác biệt trong một số nghi thức lễ tang.
Lễ tang Công giáo về cơ bản không có các nghi thức giống nghi thức
trong lễ tang truyền thống của người Việt. Người Công giáo không cử
hành các nghi thức như “thiết hồn bạch” “phạn hàm”, “phục hồn”, “đốt
vàng mã”…Người Công giáo không tin “linh hồn” người chết có thể

hưởng thụ được các đồ cúng tế. Người Công giáo cầu nguyện trước bàn
thờ tổ tiên không phải để người quá cố phù hộ cho mình mà nhờ người đã
chết cầu xin Thiên Chúa ban tình thương cho người còn sống.
4.2 Một số khuyến nghị đối với tang thức hiện nay của tín đồ Phật giáo
và Công giáo
4.2.1 Việc cử hành các nghi thức lễ tang theo đúng tinh thần của
Công giáo và Phật giáo
4.2.1.1 Về nghi thức “hộ niệm” và nghi thức “cầu siêu” trong lễ
tang hiện nay của Phật giáo
• Về nghi thức “hộ niệm”
Nghi thức “hộ niệm” là nghi thức quan trọng được cử hành trong
suốt lễ tang Phật giáo. Đặc biệt, vào thời điểm người đó lâm chung, nếu là
18
đối tượng Phật tử, người nhà nên giúp người ấy tu trì bằng cách trợ niệm
(Ban hộ niệm, người thân niệm A Di Đà Phật hoặc cho nghe băng catset
niệm Phật); nhờ Sư thầy hoặc đồng môn tương đối thân thiết dùng lời Khai
thị để dẫn dắt quán tưởng hay thức tỉnh người đó tu trì theo nội dung pháp
môn mà người sắp chết nhất quán tuân theo và hiểu rõ; có thể đặt kinh
Phật (một số bộ kinh bàn đến vãng sanh của Tịnh độ tông như Kinh Diệu
pháp liên hoa, kinh Dược sư…) ở một bên đầu người sắp chết.
• Về nghi thức “cầu siêu”
Nghi thức cầu siêu là một nghi thức quan trọng trong lễ tang Phật
giáo. Tuy nhiên, thực trạng tổ chức nghi thức cầu siêu của người Việt hiện
nay (qua khảo sát tại vùng đồng bằng Bắc bộ) có nhiều điểm ngược với tinh
thần Phật giáo. Vì vậy, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như sau: Theo
đúng tinh thần Phật giáo, người Việt chỉ cần chuẩn bị một cách đơn giản
các đồ lễ nhưng cần đảm bảo tính chu đáo và trang nghiêm. Riêng đồ vàng
mã là thứ Phật giáo không dùng vì vậy tín đồ Phật tử cần phải tuân thủ
đúng quy định. Theo tinh thần Phật giáo Đại Thừa, người Việt nên tổ chức
cầu siêu vào thời điểm khi người chết trong giai đoạn Trung ấm 49 ngày sẽ

có lợi nhiều nhất cho việc « tái sinh » của thần thức.
Tóm lại, để nghi thức « cầu siêu » của người Việt hiện nay được cử
hành theo đúng tinh thần Phật giáo, chúng tôi cũng cho rằng phải có sự
chuyển biến trong nhận thức của cộng đồng người Việt. Đối tượng quan
trọng nhất có thể tác động đến sự chuyển biến trong nhận thức của cộng
đồng người Việt (đặc biệt là người Việt theo Phật giáo) chính là giới tăng,
ni trong giáo hội Phật giáo Việt Nam – đây là bộ phận trực tiếp giảng giải
giúp tín đồ Phật giáo hiểu rõ Phật pháp và thực hành đúng tinh thần Phật
pháp.
4.2.1.2 Về vấn đề dùng vàng mã hiện nay theo tinh thần Phật giáo
Theo đúng tinh thần Phật giáo, tín đồ Phật giáo người Việt ở Bắc bộ
nên quán triệt không dùng vàng mã. Một số biện pháp cụ thể: Giáo hội
Phật giáo Việt Nam phải có chủ trương yêu cầu toàn thể tăng, ni và tín đồ
thực hiện đúng tinh thần không dùng vàng mã của Phật giáo. Các cơ quan
chuyên trách của nhà nước quản lý lĩnh vực văn hóa và tôn giáo, tín
ngưỡng như Vụ Phật giáo, Cục văn hóa cở sở của Bộ văn hóa thể thao và
du lịch cần phối hợp với giáo hội Phật giáo. Trong giáo dục Phật giáo, tại
các cơ sở thờ tự, các Thiền viện, giới tăng ni cần giảng giải cho người Phật
tử hiểu rõ về việc đốt vàng mã cho người chết chỉ đem lại sự bất lợi đối
với quá trình “tái sinh” của người đó.
4.2.2 Chủ trương của nhà nước và chính quyền đối với tang thức
hiện nay của người Việt ở Bắc bộ
19
4.2.2.1 Về hình thức táng
- Đối với người Việt nói chung và tín đồ Phật giáo người Việt
Nhà nước, các cấp chính quyền nên có có chủ trương và chính sách
khuyến khích hỏa táng với hai đối tượng này. Bởi vì, đối chiếu vào nhận
thức luận về tang thức của tín đồ Phật giáo và người Việt không theo tôn
giáo, hình thức hỏa táng nếu được áp dụng sẽ không đụng chạm đến niềm
tin tôn giáo của hai đối tượng này. Hơn nữa, hình thức hỏa táng được nhìn

nhận là văn minh và sạch sẽ hơn địa táng nên giải quyết được vấn đề ô
nhiêm môi trường; bên cạnh đó giải quyết được vấn đề hạn chế quỹ đất
sinh hoạt và sản xuất ở khu vực Bắc Bộ hiện nay (nhất là vùng đô thị).
- Đối với tín đồ Công giáo
Trên tinh thần tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, các cấp chính
quyền và cộng đồng nên tôn trọng sự lựa chọn hình thức táng truyền thống
của người Công giáo là địa táng (đào sâu chôn chặt).
Việc giải quyết vấn đề quĩ đất chôn hiện nay ở các Vườn Thánh và
nghĩa trang địa phương đang ngày một hạn chế nên để Giáo hội và cộng
đoàn Công giáo tự điều chỉnh trước. Nhà nước và các cấp chính quyền địa
phương chỉ can thiệp trong trường hợp bất đắc dĩ cuối cùng.
Giáo hội Công giáo nên nhìn nhận thông suốt về vấn đề hỏa táng
trong xã hội hiện đại và mối quan hệ với niềm tin Công giáo. Luật Công
giáo nên được điều chỉnh trên tinh thần canh tân khi cho phép và khuyến
khích người giáo dân được lựa chọn hình thức hỏa táng nếu thực sự người
đó có nguyện vọng.
- Một số biện pháp khuyến khích hỏa táng
Trong xu hướng vận động của hoạt động tang lễ hiện nay, để đáp ứng
nhu cầu hỏa táng, các cấp chính quyền nên đầu tư vào việc xây thêm một
số đài hóa thân hoàn vũ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn Bắc Bộ. Các đài
hóa thân hoàn vũ cần được đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật công nghệ
hiện đại theo tiêu chuẩn thế giới. Đội ngũ nhân viên phải được đào tạo bài
bản và chuyên nghiệp. Nhà nước và chính quyền địa phương cần xây dựng
quỹ phúc lợi nhân đạo để hỗ trợ chi phí nhất định cho các gia đình đăng ký
hỏa táng.
4.2.2.2 Vấn đề lăng mộ
Xét dưới góc độ quản lý nhà nước, chúng tôi cho rằng về lâu dài nhà
nước phải quán triệt hơn nữa xuống các địa phương về việc xây dựng và
quản lý nghĩa trang. Xét theo tinh thần Phật giáo, người tín đồ Phật giáo và
người Việt nói chung cần phải thay đổi nhận thức về việc đầu tư chọn đất

và xây lăng mộ mà hướng đến hình thức táng văn minh phù hợp với thời
hiện đại là hỏa táng. Xét theo tinh thần Công giáo, người Công giáo phải
20
xóa bỏ hoàn toàn quan niệm và tập quán cũ của người Việt về việc chọn
hướng đất và đầu tư xây lăng mộ to cao. Người Công giáo cần quán triệt
hơn nữa qui định về xây lăng mộ mà Giáo hội các địa phương đề ra.
4.2.2.3 Vấn đền cúng giỗ hiện nay của người Việt
Từ thực trạng cúng giỗ hiện nay của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ,
chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau.
Theo đúng tinh thần Phật giáo, tín đồ Phật giáo hiện nay nên quán
triệt không dùng vàng mã khi cúng giỗ tổ tiên. Về qui mô tổ chức cúng giỗ,
theo đúng tinh thần Phật giáo và Công giáo, việc cúng giỗ chỉ mang ý
nghĩa tưởng niệm đối với người thân đã khuất. Vì vậy, trong cách thức tổ
chức cúng giỗ của người Việt hiện nay nên đơn giản hóa và hạn chế tổ
chức ăn uống linh đình. Việc ăn uống đơn giản và tiết kiệm trong tang lễ
cũng chính là thực hiện nếp sống văn hóa văn minh hiện nay của người
Việt. Đây cũng là chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước ta về các
hoạt động văn hóa. Tuy nhiên, để xu hướng tổ chức tang ma hiện nay của
người Việt ngày một văn minh nhưng vẫn không làm mất những phong tục
truyền thống tốt đẹp của dân tộc rất cần có sự tham gia của các cơ quan
quản lý hoạt động văn hóa xã hội. Cần tăng cường tuyên truyền giáo dục
kết hợp với công tác quản lý hành chính bằng việc tăng cường chất lượng
công tác của cán bộ văn hóa các cấp. Cán bộ văn hóa các cấp phải kết hợp
với các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, nhà trường đi sâu đến mỗi
gia đình dòng họ tuyên truyền và định hướng cho hoạt động văn hóa nói
chung, trong đó có việc tổ chức cúng giỗ của người dân.
4.3 Tiểu kết chương 4
Tang thức của tín đồ Phật giáo và tín đồ Công giáo vừa có sự khác
nhau, vừa có điểm tương đồng thể hiện qua quan niệm về cái chết, thế giới
sau khi chết và hệ thống các nghi thức trong lễ tang.

Quan niệm về cái chết, Phật giáo và Công giáo đều cho rằng con
người không hoàn toàn bị tiêu diệt bởi cái chết. Bàn về thế giới sau khi
chết, Công giáo và Phật giáo đều hướng con người đến cái đích tối hậu của
đời sống tâm linh là đạt được trạng thái viên mãn, hạnh phúc tuyệt đối sau
khi chết ở những nơi gọi là Thiên đàng hoặc cõi Cực lạc (Niết bàn).
Nội dung các nghi thức trong lễ tang Phật giáo cơ bản khác với nội
dung lễ tang Công giáo khác nhau. Tuy nhiên, giữa hai loại tang thức này
vẫn có một số cặp nghi thức tương đồng về ý nghĩa. Nghi thức « hộ niệm »
thời điểm lâm chung trong tang thức Phật giáo tương đồng với ý nghĩa
nghi thức « xức dầu » trong tang thức Công giáo; tương tự nghi thức « cầu
siêu » trong giai đoạn Trung ấm 49 ngày của Phật giáo giống ý nghĩa của
nghi thức Cầu hồn trong lễ tang Công giáo.
21
Tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo có sự tương đồng với
tang thức truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ. Điều này thể
hiện ở đặc điểm cả tang thức Phật giáo và tang thức Công giáo đều áp
dụng các phong tục lễ tang của người Việt nhưng vẫn lấy tinh thần tôn
giáo làm gốc. Tuy nhiên, giữa tang thức Phật giáo và tang thức Công giáo
thì tang thức Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với tang thức truyền
thống của người Việt hơn.
Thực trạng lễ tang hiện nay cho thấy việc cử hành các nghi thức
tang ma của tín đồ Phật giáo và Công giáo có xu hướng biến đổi và sai
lệch so với tinh thần của các tôn giáo. Sự sai lệch đó thể hiện rõ nét trong
lễ tang của tín đồ Phật giáo nhiều hơn lễ tang của tín đồ Công giáo. Sự
lệch chuẩn đó có thể thấy ở các nghi thức hộ niệm, cầu siêu, đặc biệt là
nghi thức đốt vàng mã.
Bên cạnh đó, trong các nội dung tang lễ khác như việc tổ chức ăn
uống trong cúng giỗ, cách thức xây lăng mộ, cách thức táng của người
Việt nói chung, trong đó có cả hai bộ phận tín đồ Phật giáo và Công giáo
vẫn còn không ít vấn đề bất cập.

Thực trạng đó cho thấy cần có vai trò định hướng cho hoạt động tang
ma tại vùng Bắc bộ của rất nhiều chủ thể khác nhau: tổ chức giáo hội Phật
giáo và Công giáo, giới chức sắc của hai tôn giáo, các cơ quan Nhà nước
và chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Quan
trọng hơn chính là sự chuyển biến nhận thức của người dân bao gồm nhiều
đối tượng khác nhau trong đó có cả bộ phận cán bộ, đảng viên. Để định
hướng tốt chắc chắn phải đưa ra những chủ trương tích cực để hoạt động
tang ma của người Việt Bắc bộ vận động theo xu hướng lưu giữ truyền
thống nhưng mang tính văn minh của xã hội hiện đại.
KẾT LUẬN
1. Xuất phát từ hệ qui chiếu riêng, các tôn giáo đã hình thành niềm
tin khác nhau vào bản thể con người và thế giới hiện tượng. Niềm tin đó
thể hiện qua hệ thống triết lý của các tôn giáo và được qui phạm hóa thành
các nghi thức, nghi lễ tôn giáo để tín đồ thực hành. Trong tang thức, mỗi
tôn giáo có niềm tin riêng về sự tồn tại của con người sau khi chết và thế
giới sau khi chết. Niềm tin đó cũng được qui phạm hóa thành các nghi
thức lễ tang. Nói cách khác nguồn gốc của các nghi thức tang lễ bắt nguồn
từ quan niệm của mỗi tôn giáo về cái chết và thế giới sau khi chết.
2. Bàn đến tang thức của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ, qua nội
dung các nghi thức tang lễ, chúng tôi nhận thấy rõ, các nghi thức tang ma
của người Việt nói chung cho đến nghi thức tang ma của tín đồ Phật giáo
22
hoặc Công giáo đều có nguồn gốc từ quan niệm về cái chết, thế giới sau
khi chết theo tín ngưỡng dân gian, hoặc theo Phật giáo và Công giáo. Xét
một cách khách quan sẽ không đo lường được mức độ đúng sai trong hệ
thống triết lý riêng của từng tín ngưỡng, tôn giáo. Nhưng chắc chắn một
điều hệ thống triết lý này sẽ chi phối sâu sắc đến nhận thức của cộng đồng
tín đồ từng tôn giáo. Trên hết, việc tín đồ tin vào hệ thống triết lý và thực
hiện theo đúng qui định tôn giáo về nghi thức tang lễ chính là kiểm chứng
niềm tin của tín đồ vào cái Thiêng của tôn giáo đó.

3. Qua thực trạng hiện nay, chúng tôi nhận thấy tang thức của người
Việt ở Bắc Bộ mang tính chất đa dạng và hỗn dung văn hóa. Tính chất đa
dạng thể hiện qua sự khác biệt về nội dung và hình thức tang ma của các
nhóm cộng đồng người Việt với ba kiểu tang thức truyền thống của người
Việt không theo tôn giáo, tang thức của tín đồ Phật giáo và tang thức của
tín đồ Công giáo.
Tính chất hỗn dung thể hiện trong sự tương đồng về một số nội dung
tang ma của ba nhóm đối tượng trên. Trong đó, nội dung tang thức truyền
thống của người Việt không theo tôn giáo giữ vai trò chính ảnh hưởng đến
nội dung tang thức của tín đồ Phật giáo và tang thức của tín đồ Công giáo.
Tuy nhiên so sánh giữa tang thức Phật giáo và Công giáo, nội dung tang
thức Phật giáo có sự tương đồng với tang thức truyền thống của người Việt
rõ nét hơn. Điều này cũng cho thấy, tín đồ Phật giáo sẽ phần nào bị chi
phối bởi hệ triết lý theo tín ngưỡng dân gian của người Việt.
Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng một nội dung nào đó từ tang thức
truyền thống của người Việt thì về cơ bản tang thức của người Việt theo
Phật giáo hoặc Công giáo vẫn mang màu sắc văn hóa riêng biệt. Nội dung
và hình thức tang ma của tín đồ Phật giáo và tín đồ Công giáo ảnh hưởng
từ hệ triết lý riêng về cái chết và thế giới sau khi chết của Phật giáo và
Công giáo đã tạo ra nhiều nghi thức khác biệt giữa hai loại tang thức Phật
giáo và Công giáo, đặc biệt khác biệt với tang thức truyền thống.
Tuy nhiên, dù nội dung và hình thức khác nhau nhưng hai loại tang
thức tôn giáo trên vẫn có sự tương đồng trong hệ triết lý và mục đích cử
hành các nghi thức tang ma giống như tang thức truyền thống của người
Việt. Đó chính là nội dung và ý nghĩa của các nghi thức tang ma này đều
hướng con người đạt được cái đích tối hậu cuối cùng của đời sống tâm linh
(linh hồn người chết có đời sống tốt nhất ở Âm phủ theo quan niệm truyền
thống của người Việt; thần thức người chết được lên cõi Cực lạc (Niết
bàn) theo triết lý Phật giáo hoặc linh hồn người chết được lên Thiên đàng
hưởng đời sống viên mãn, hạnh phúc đời đời theo quan niệm Công giáo.

23
4. Do đặc điểm hỗn dung văn hóa, các hình thức lễ tang của người
Việt Bắc Bộ hiện nay không hoàn toàn thuần nhất. Cách thức tổ chức lễ
tang của người Việt theo Phật giáo và Công giáo có ảnh hưởng về qui trình
và một số nội dung trong lễ tang của người Việt; Ngược lại, lễ tang theo
truyền thống của người Việt hiện nay có ảnh hưởng một số qui định thuộc
các lễ tang tôn giáo. Thêm nữa, từ thực trạng tổ chức tang ma của người
Việt ở Bắc bộ, chúng tôi cũng nhận thấy chưa có sự thống nhất trong việc
cử hành nhiều nội dung tang ma của các cộng đồng người Việt ở Bắc Bộ.
Vậy nên hay không nên thống nhất các nội dung tang lễ cho cả cộng
động ? Nên giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa quy định của Phật
giáo và Công giáo với hiện thực cuộc sống của người dân như thế nào?
Nên định hướng hoạt động tang ma của người Việt Bắc bộ vận động theo
xu hướng như thế nào ? Đây là những vấn đề không phải dễ trả lời. Tuy
nhiên, chúng tôi bước đầu đưa ra một số kết luận như sau.
* Mặc dù cần thiết có sự giao thoa văn hóa giữa Phật giáo, Công giáo
với tín ngưỡng bản địa của người Việt nhưng nếu xét dưới góc độ tôn giáo,
trong cách tổ chức lễ tang hiện nay, tín đồ Phật giáo và Công giáo cần cử
hành các nghi thức lễ tang theo đúng tinh thần của từng tôn giáo. Việc cử
hành đúng các nghi thức chính là cách hợp nhất niềm tin của tín đồ với
triết lý về thế giới hiện tượng của tôn giáo đó.
* Hội nhập văn hóa là xu hướng cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên,
nếu thống nhất một nội dung nào đó trong cách thức tổ chức lễ tang của
người Việt ở Bắc Bộ hiện nay thì nhất định phải quan tâm đến nhận thức
luận và niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau của các nhóm cộng đồng
trong xã hội.
* Bất kỳ hiện tượng văn hóa nào cũng cần đảm bảo yếu tố truyền
thống và hiện đại. Trong văn hóa lễ tang, cộng đồng người Việt tôn trọng
phong tục truyền thống là cần thiết nhưng nhận thức của người Việt (dù
theo tôn giáo hay không theo tôn giáo) về cách thức tổ chức lễ tang hiện

nay cũng cần hướng đến những yếu tố mới, hiện đại (có thể trái ngược
truyền thống văn hóa cũ của cộng đồng đó).
Tóm lại, nội dung lễ tang của người Việt hiện nay cần đảm bảo sự
phù hợp với xã hội hiện đại. Giải quyết thỏa đáng các vấn đề về tang ma
hiện nay cho cộng đồng người Việt nói chung, các nhóm đối tượng người
Việt khác nhau cần đảm bảo nguyên tắc không đụng chạm đến niềm tin
của tín đồ nhưng phù hợp với môi trường sống, hoàn cảnh kinh tế xã hội
của đất nước, sự kết hợp văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại./.
24

×