Tải bản đầy đủ (.docx) (1 trang)

Sông bạch đằng và vị thế lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.88 KB, 1 trang )

Sông Bạch Đằng và vị thế lịch sử
Sông Bạch Đằng có vị trí quan trọng không chỉ trong giao thông mà còn mang dấu ấn sâu
đậm trong suốt chiều dài lịch sử, văn hoá ngàn năm qua của dân tộc Việt Nam. Việc Khu di
tích lịch sử Bạch Đằng vừa được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích quốc gia đặc
biệt, thêm một lần nữa tôn vinh dòng hùng giang này
Sông Bạch Đằng có nguồn chính chảy từ sông Lục Đầu, có các chi mạch từ Đông Triều về
gặp sông Giá và sông Đá Bạc, chảy xuống dưới rồi đổ ra biển bằng hai cửa: Dòng chính dài
khoảng 20km, đổ ra cửa Nam Triệu, xưa gọi là cửa Bạch Đằng. Hai chi lưu là sông Chanh dài
khoảng 18km, đổ ra ở cửa Lạch Huyện và chi lưu sông Rút (còn gọi là sông Nam) dài khoảng
16km, hợp với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu.
Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi từng mô tả: “Sông Vân Cừ (tức sông Bạch Đằng) rộng 2 dặm
linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây
cối lấp bờ, thật là nơi hiểm yếu”. Tên Vân Cừ được giải thích là bởi khi nước triều lên có gió
bắc thổi, hoặc nước triều xuống có gió nam thổi, dòng sông cuộn lên những con sóng lớn bạc
đầu như mây trắng (Vân Cừ). Ngoài ra, sông Bạch Đằng còn có tên gọi khác là sông Rừng,
ngày nay vẫn còn tên bến Rừng, phà Rừng trên đường sang Hải Phòng. Người Quảng Yên
trước đây từng lưu truyền câu “Con ơi, nhớ lấy lời cha/ Gió nồm, nước rặc chớ qua sông
Rừng” để nói lên sự hiểm yếu của sông là vậy.
Về lịch sử dòng sông, trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời (NXB Thuận Hoá, 1997),
tác giả, nhà sử học Đào Duy Anh, đã phân tích, chứng minh và đưa ra nhận định rằng, do hậu
quả của những thay đổi của sông Hồng phía trên sông Lục Đầu diễn ra âm thầm hàng trăm
năm, thế nước của sông Giá và sông Bạch Đằng đã suy yếu thì thế nước của sông Đá Bạc, tuy
cũng yếu đi nhưng nhờ có nhiều suối ở các núi huyện Yên Hưng (TX Quảng Yên ngày nay)
đổ vào nên lại tương đối mạnh hơn dòng sông Giá. Nước sông Đá Bạc mạnh hơn đã xô nước
sông Giá khi vào ngã tư xuống thẳng phía nam và làm cho dòng sông ra cửa Nam Triệu to lên
nhiều mà được người ta nhận lầm là dong chính của sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng cũ
theo dòng sông Chanh đã nhỏ dần đi như sông Giá, một phần lòng sông đã thành bãi sú, chỉ
còn dải nước nhỏ ở giữa. Dòng Bạch Đằng cũ trở thành lòng sông nước lớn của sông Chanh.
Chỗ đào được cọc lim (tức bãi cọc Yên Giang) chính là nằm trong lòng sông Bạch Đằng xưa.
Thế là sông Bạch Đằng, chỉ khúc sông từ ngã tư trở đi đã thay đổi mà tên sông đã được
chuyển âm thầm sang cho một khúc sông khác và tên cửa Bạch Đằng đã được đồng nhất với


tên cửa Nam Triệu có từ trước - nhà sử học Đào Duy Anh kết luận.
Với ba lần là chiến trường, chứng kiến những thắng lợi to lớn của quân dân Đại Việt chống
giặc phương Bắc vào các năm 938 - Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, năm 981 - Lê Hoàn
đánh thắng quân Tống và đặc biệt là năm 1288 - Trần Hưng Đạo lại áp dụng chiêu thức
“đóng cọc nhọn” đánh thắng oanh liệt quân Nguyên Mông, sông Bạch Đằng có lẽ là con sông
oai hùng được sử sách ghi chép, thi phú ngợi ca nhiều nhất Việt Nam. Nhiều tác phẩm thi ca,
tiêu biểu là phú Bạch Đằng Giang của Trương Hán Siêu thời Trần được ví như một áng thiên
cổ hùng văn trong lịch sử văn học yêu nước Việt Nam, một áng văn chứa chan niềm tự hào
dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ.
Năm 1835, vua Minh Mạng cho đúc Cửu đỉnh bằng đồng đặt ở Thế Miếu trong kinh thành
Huế. Nhà vua đã cho chạm 9 dòng sông tiêu biểu của Việt Nam lên Cửu đỉnh (gồm các sông:
Bến Nghé, sông Hương, sông Gianh, sông Mã, sông Lô, Bạch Đằng, Thạch Hãn, sông Lam,
sông Hồng), trong đó sông Bạch Đằng được chạm lên Nghị đỉnh. Năm Tự Đức thứ 3 (1850),
sông Bạch Đằng lại được triều đình nhà Nguyễn liệt vào hàng sông lớn, được chép trong điển
thờ, hàng năm sai quan sắm lễ vật đến tế thần sông, coi Bạch Đằng như dòng sông thần giữ
nước của dân tộc.

×