Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo với công cuộc đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.62 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

 

NGUYỄN THỊ THẢO

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN
GIÁO VỚI CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

 

NGUYỄN THỊ THẢO

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN
GIÁO VỚI CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học:


PGS. TS. VŨ VĂN GẦU

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn này là cơng trình nghiên
cứu độc lập, trung thực của bản thân, chưa từng được công bố trên bất kỳ
một cơng trình nào khác. Nếu có gì khơng đúng, tơi xin hồn tồn chịu
trách nhiệm.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2009
Tác giả

NGUYỄN THỊ THẢO


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................ 1
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo .......................... 8
1.1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................. 8
.........Cơ sở thực tiễn............................................................................13
Vai trị của tơn giáo theo quan điểm Hồ Chí Minh .....................................15
1.3. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo..........20
1.3.1..Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo, hịa hợp dân tộc ....20
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân ............................................................................29
1.3.3. Về mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin và lòng yêu nước ....37


Chương 2. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN
GIÁO TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Một số đặc điểm và thực trạng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.............45
2.1.1. Một số đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam...................................45
2.1.2. Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay....................................54
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
trong công cuộc đổi mới hiện nay ................................................................63
2.2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo trong việc giải quyết
vấn đề đồn kết tơn giáo........................................................................63


2.2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo trong việc đảm bảo
quyền tự do, tín ngưỡng của nhân dân...................................................68
2.2.3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin và long yêu nước...........74
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và
phương pháp thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.............82
2.3.1: Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo .........82
2.3.2. .Phương pháp thực hiện chính sách tơn giáo ở Việt Nam hiện nay ......84
KẾT LUẬN ...................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................91


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo là một hiện tượng xã hội có sức sống lâu bền trong đời sống tinh
thần của con người. Ph.Ăngghen có dự đốn về sự tiêu vong của tơn giáo,
nhưng đó là trong một xã hội hoàn thiện ở một tương lai xa. Cho đến nay, dù ở
một quốc gia có chế độ chính trị như thế nào thì tơn giáo vẫn tồn tại. Tuy nhiên,
thái độ đối với tôn giáo ở mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và từng

con người không giống nhau. Việc nhận thức, thái độ, chính sách và cách giải
quyết vấn đề tôn giáo đúng hay sai đều ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định
chính trị và xã hội của mỗi nước.
Trong những năm gần đây, hàng loạt những xung đột tôn giáo diễn ra dẫn
tới các cuộc chiến tranh đẫm máu, gây tổn thất và đau thương cho hàng chục
ngàn người. Tôn giáo ở nhiều nước đã trở thành công cụ cho các nước đế quốc
nhằm phục vụ cho ý đồ chính trị. Do vậy, vấn đề tơn giáo và đồn kết tơn giáo
đang được đặt ra cho cả nhân loại hiện nay, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Lịch sử hình thành, du
nhập, số lượng các tín đồ, vai trị xã hội cũng như tác động chính trị của các tơn
giáo ở nước ta khác nhau. Có tơn giáo đã góp phần nâng cao ý thức dân tộc,
củng cố khối đại đồn kết tồn dân, nhưng cũng có tơn giáo trong quá trình du
nhập, hình thành và tồn tại đã bị các thế lực thù địch lợi dụng. Nhận thức được
thực tế đó, Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu và vận dụng những quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam; trên cơ sở đó, Người đã đề ra những nội dung và các chính sách giải quyết

1


vấn đề tơn giáo phù hợp, góp phần quan trọng vào sự nghiệp thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Hơn 70 năm qua, trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, tư tưởng
Hồ Chí Minh về tơn giáo đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong đường lối
chiến lược cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng ta đã kế thừa và phát
triển tư tưởng tôn giáo trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Người lên một
tầm cao mới. Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khố
IX về cơng tác tơn giáo đã chỉ rõ: “Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo…” [19, 49], và lấy

“mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh làm
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tơn giáo với sự nghiệp chung” [19,
49]. Với quan điểm chỉ đạo đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng
sản Việt Nam, trong những năm qua, đa số các đồng bào có đạo ở nước ta
khơng những đồng hành ủng hộ cơng cuộc đổi mới đất nước, mà cịn tích cực
góp sức cho sự vững mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm xây dựng nước
Việt Nam ngày càng giàu mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong những năm gần đây,
một số tôn giáo đang bị các thế lực thù địch lợi dụng để âm mưu phá hoại Đảng,
phá hoại chế độ ta từ bên trong bằng chiến lược “Diễn biến hồ bình”. Họ cổ vũ
cho đa nguyên, đa đảng; xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về vấn đề dân tộc, dân chủ, tơn giáo và nhân quyền; khuyến khích các phần tử
chống đối, móc nối gây dựng cơ sở tập hợp lực lượng chống phá ta…Những hành
động đó đã gây chia rẽ từ trong nội bộ gia đình, thơn bản, đặc biệt là giữa tôn giáo
này với tôn giáo khác, làm sứt mẻ khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất ổn định
2


trong đời sống xã hội và phương hại đến tình hình kinh tế - an ninh, trật tự của đất
nước.
Do đó, hơn bao giờ hết, địi hỏi chúng ta cần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về tơn giáo một cách sâu sắc và tồn diện hơn, từ đó đề ra các chủ trương,
chính sách phù hợp, xây dựng nên khối đoàn kết toàn dân trong toàn Đảng và
toàn dân. Vì đây là động lực tạo thành sức mạnh to lớn cho sự nghiệp đổi mới
của đất nước và nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống cho nhân
dân.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về tơn giáo với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay ” làm luận văn thạc sĩ
Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Sự nghiệp đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã
diễn ra gần một thập kỷ. Chúng ta đã và đang đạt được những thành tựu quan
trọng, đưa đất nước căn bản thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội,
tạo ra những tiền đề mới, tiến tới thực hiện thành cơng q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá đất nước. Một trong những yếu tố đảm bảo thắng lợi của cách
mạng nước ta là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng theo ngọn cờ Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”.
Với tầm quan trọng đó của Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những năm
qua, nhiều các nhà nghiên cứu, cơng trình nghiên cứu khoa học đã tập trung tìm

3


hiểu, nghiên cứu tư tưởng của Người trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
giáo dục… trong đó có tư tưởng về tơn giáo.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh
về tơn giáo nói riêng là vấn đề quan trọng và cấp bách, đặc biệt trong tiến trình
hội nhập và phát triển đất nước như hiện nay. Chính vì vậy, đã có nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm với những cơng trình nghiên cứu và những bài viết xung
quanh vấn đề này. Có thể kể ra một số cơng trình tiêu biểu: Tập bài giảng lý
luận về tơn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta của
Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tơn giáo, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội,
2004; Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo của GS.TS. Lê
Hữu Nghĩa và PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ (đồng chủ biên), Nxb. Tôn giáo, Hà
Nội, 2003; Chiến lược đại đồn kết Hồ Chí Minh của PGS.Phùng Hữu Phú (chủ
biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Hỏi đáp tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân tộc, tơn giáo của Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008; Tôn giáo trong
thế giới hiện đại của Viện nghiên cứu chiến lược và khoa học công an, trung

tâm thông tin khoa học công an, Hà Nội, Tháng 3/2003; Mối quan hệ thời đại
dân tộc tôn giáo của Bùi Thị Kim Quỳ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002;
Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam – lý luận và thực tiễn của Đỗ Quang
Hưng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Mác và Ănghen về vấn đề tôn
giáo của Nguyễn Đức Sự (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1999…Ngồi ra, phải kể đến hai cơng trình nghiên cứu về vấn đề tôn giáo cấp
Nhà nước và mang tính chuyên sâu: Đề cương bài giảng chuyên đề tiến sĩ khoa
học về tôn giáo của Viện nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội, 2003; Lý luận về tơn
giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam (là kết quả kế thừa từ đề tài khoa học cấp
nhà nước KHXH-04-06 “Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tôn
4


giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam. Chính sách của Đảng và Nhà nước” ) do GS.
Đặng Nghiêm Vạn làm chủ nghiệm đề tài, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005.
Ngồi ra, cũng có một số những bài viết của các tác giả về vấn đề tơn
giáo như: đồn kết dân tộc, đồn kết tơn giáo, mối quan hệ giữa tơn giáo và dân
tộc, về vai trị của đạo đức tôn giáo trong đời sống xã hội, bàn về tôn giáo, về sự
phát triển của tôn giáo hiện nay và ngun nhân của nó.v.v.được đăng trên các
tạp chí khoa học xã hội khác.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đóng góp một phần quan
trọng trong việc cung cấp cho chúng ta những hiểu biết cơ bản về tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung và về tơn giáo nói riêng. Tuy nhiên, các cơng trình trên,
hoặc là nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết dân tộc nói chung, hoặc
nghiên cứu một số khía cạnh như mối quan hệ giữa tơn giáo và dân tộc, về
chính sách đối với tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay.v.v.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả đạt được của các cơng trình đã được
cơng bố, trong khn khổ của một luận văn cao học, tác giả sẽ đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và chỉ ra sự vận

dụng tư tưởng này trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là trình bày nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về tơn giáo và sự vận dụng tư tưởng này trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
5


- Làm rõ những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
- Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
- Trình bày sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, để phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài được tốt hơn, trong q trình thực hiện tác giả cịn sử dụng
một số phương pháp: phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - đối chiếu,
phương pháp logic - lịch sử…
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn chỉ tập trung vào tìm
hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo. Sự vận dụng tư tưởng này của Người
trong công tác xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo; Tư tưởng
của Người là ngọn đuốc soi đường cho công tác xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở Việt Nam hiện nay. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy về Tư tưởng Hồ Chí Minh, về vấn đề tơn giáo,

làm cơ sở để nghiên cứu, vận dụng trong việc đề ra chính sách về đoàn kết dân
tộc.
7. Kết cấu của luận văn

6


Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ đã nêu, ngoài phần mở đầu, kết luận,
mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm có hai
chương và sáu tiết.
Chương 1: Cơ sở hình thành và nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
Chương 2: Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ TƠN GIÁO
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
1.1.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tín ngưỡng, tôn giáo
Những luận điểm về nguồn gốc, bản chất tơn giáo và đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, tơn giáo cho mọi công dân của Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở
hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong tư duy của Hồ Chí
Minh về tôn giáo. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, bản chất của tơn giáo
khơng chỉ là hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách
là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh “hoang đường” hiện thực
khách quan. Điều này được Ph. Ăngghen viết: “Tất cả các tôn giáo chẳng qua

chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong óc của con người - của những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”
[64, 439]; “các nhà nghiên cứu Mácxít về tơn giáo thường coi câu nói trên của
Ph. Ăngghen là định nghĩa của Chủ nghĩa Mác về tôn giáo” [71, 44]. Điều này
cắt nghĩa tại sao mọi vấn đề trong đời sống hiện thực ít nhiều được đề cập trong
các tơn giáo, song tôn giáo vẫn là hiện tượng xã hội đặc biệt vừa thực, vừa hư.
Mặt khác, các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác - Lênin cịn khẳng định: tơn giáo
có nguồn gốc từ kinh tế - xã hội, con người bị bất lực trước sự bần cùng về kinh
tế, nạn áp bức về chính trị, sự bất cơng trong xã hội có giai cấp. Chính sự áp

8


bức bóc lột của giai cấp thống trị đã đẩy số đơng quần chúng nhân dân khơng
chỉ bị bóc lột và lệ thuộc về kinh tế, chính trị, mà cịn bị mất quyền tự do về mặt
tinh thần. Cuộc sống cực khổ, nghèo đói, bị cưỡng bức lao động, bị o ép về tinh
thần đã buộc họ tìm lối thốt ảo tưởng ở thế giới hoang đường. Lênin đã chỉ ra
rằng: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột
tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng
giống y như sự bất lực của người nguyên thuỷ trong cuộc đấu tranh chống thiên
nhiên, đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, và những phép màu” [81, 169 170]. Mặt khác, đó là sự kém hiểu biết và hạn chế về nhận thức; do tâm lý, tình
cảm, sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, chính “sự sợ hãi đã sinh ra thần
linh”. Như Ph. Ăngghen viết: “Từ thời đại nguyên thuỷ, tôn giáo đã sinh ra từ
những biểu tượng hết sức ngu muội, tối tăm và nguyên thuỷ của con người về
bản chất của chính họ và về tự nhiên bên ngoài bao quanh họ” [63, 481]. Đồng
thời, Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ, tôn giáo là một phạm trù lịch sử mang
tính quần chúng rộng rãi, dễ bị giai cấp thống trị bóc lột, lợi dụng, nên nó phản
ánh tính chính trị sâu sắc. Do đó, tơn giáo còn tồn tại lâu dài dưới chủ nghĩa xã
hội và sẽ mất đi khi khơng cịn cơ sở tồn tại.

Đây là những luận điểm quan trọng và cần thiết, đồng thời nó quyết định
bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo. Bởi
chính Chủ nghĩa Mác - Lênin đã trang bị cho Người thế giới quan và phương
pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu, xem xét để đi đến nhận thức và giải
quyết vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo, phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam và
xu hướng chung đúng đắn nhất.
Sự kế thừa những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc và nhân
loại, trực tiếp là những tư tưởng tích cực, tiến bộ của các tôn giáo trên thế giới
9


Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách sâu sắc những giá trị tư
tưởng tốt đẹp của dân tộc. Đó là: truyền thống kiên cường, bất khuất trong đấu
tranh chống ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động; coi trọng đạo lý, u
chuộng hồ bình, đồn kết, gắn bó trong cộng đồng làng nước của dân tộc Việt
Nam. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là cơ sở quan trọng hàng đầu
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tơn giáo nói riêng. Chính sức mạnh của truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc
đã thúc đẩy Nguyễn Sinh Cung, sau này là Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước; đồng thời là cơ sở để Người nhận thức, đánh giá, giải quyết vấn đề
tôn giáo ở Việt Nam, nhằm mục đích đồn kết, tập hợp các lực lượng trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Với
Người, việc xem xét, đánh giá về tôn giáo luôn gắn liền với đặc điểm, điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của dân tộc, tìm ra những điểm tương đồng để hướng tới
sự giải phóng con người, từng bước hạn chế, khắc phục khác biệt nhằm thực
hiện đồn kết, tập hợp đơng đảo quần chúng nhân dân, khơng phân biệt tín
ngưỡng, tơn giáo, đứng lên làm cách mạng, giành “ Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc” thì đều là cần thiết và đúng đắn cả. Với quan niệm ấy, Người đã tìm thấy
những giá trị văn hố, đạo đức trong tín ngưỡng, tơn giáo, điểm “tương đồng”
giữa tín ngưỡng, tơn giáo và chủ nghĩa xã hội.

Mặt khác, sinh ra và lớn lên ở một đất nước chịu ảnh hưởng nhất định
những giá trị văn hố đạo đức của các tơn giáo nên Người càng có điều kiện am
hiểu một cách sâu sắc về đời sống thiếu thốn của người dân lao động. Đây là
một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn
giáo.

10


Cũng như những người Việt Nam khác, Hồ Chí Minh đã được biết đến
văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ từ rất sớm và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo, Phật giáo từ các nền văn hố đó, cũng như chịu sự tác động từ đời sống
sinh hoạt hàng ngày của gia đình và xã hội.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng tích cực, tiến bộ
như: ‘Đại từ, đại bi”, “ cứu khổ, cứu nạn”, “vô ngã, vị tha”, “triết lý nhân sinh”,
hướng con người đến cái thiện, thương người như thể thương thân, một tình u
bao la khơng chỉ đối với con người, mà đối với mn lồi trong tự nhiên; nếp
sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao việc nhân
nghĩa; tinh thần bình đẳng, chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp; coi trọng lao
động, chống lười biếng. Đặc biệt, Phật giáo chủ trương không xa đời, mà sống
gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh
của nhân dân; đề cao cái “thiện”, chống lại cái “tà”, chống sự bất cơng. Chính
những yếu tố tích cực của Phật giáo đã được quần chúng nhân dân lao động đón
nhận làm phong phú và sâu sắc thêm nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt
Nam. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn và nhận thức rõ vai trò, tác động to lớn của
Phật giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân lao động, Hồ Chí Minh đã tiếp
thu một cách có chọn lọc những giá trị tích cực, tiến bộ trong Kinh phật hướng
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, trước hết là người lao
động. Từ đó, Người chủ động định hướng đúng cho quần chúng nhân dân lao
động làm theo “ lòng đại từ, đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa

giống nịi ra khỏi khổ ải, nơ lệ” [44, 197]. Bởi theo Hồ Chí Minh, nước có độc
lập, thì đạo Phật mới dễ mở mang.
Về Nho giáo, mặc dù thuộc hệ tư tưởng phong kiến nhưng Nho giáo cũng
chứa đựng những yếu tố tích cực như: triết học hành động, tư tưởng nhập thế,
11


hành đạo giúp đời; đó là một xã hội bình trị, một “thế giới đại đồng”; triết lý
nhân sinh, tu thân dưỡng tính, chủ trương từ Thiên tử đến thứ dân, ai cũng phải
lấy tu thân làm gốc; đề cao văn hoá nhân văn, tạo ra truyền thống hiếu học với
châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”, đạo đức “trung, hiếu”,
“cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, đây là những yếu tố được Hồ Chí
Minh tiếp thu một cách có chọn lọc và đưa vào những nội dung mới.
Ngoài ra, đạo Thiên chúa cũng là một trong những cơ sở quan trọng trong
việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo. Hồ Chí Minh
đánh giá cao về giá trị nhân văn của Chúa Giêsu, “đó là lịng nhân ái cao cả”.
Người cịn rất am hiểu và tìm thấy cái tinh tuý nhất trong giáo lý của Thiên
chúa giáo là mục đích cao cả nhằm giải phóng chúng sinh, vì hạnh phúc của con
người. Trong “mười điều răn của Thiên chúa” và “sáu điều răn của giáo hội”
đều hướng con người đến cái thiện, tự hồn thiện nhân cách và giàu lịng bác ái
của con người. Chính từ những lời khuyên răn ấy đã giúp Hồ Chí Minh tìm thấy
nét tương đồng giữa mục đích của Chúa với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
đều hướng tới một xã hội tốt đẹp và vì con người. Đây là cơ sở để Người chủ
trương thực hiện đoàn kết giữa đồng bào Thiên Chúa giáo với đồng bào khơng
theo Thiên Chúa giáo, đồn kết giữa Thiên Chúa giáo với các tôn giáo khác.
Đồng thời, hạn chế những tác động tiêu cực của tôn giáo để giáo dục, vận động
đồng bào và linh mục Thiên Chúa giáo đi theo cách mạng.
Tiếp thu và vận dụng những yếu tố tích cực của các tơn giáo trên, đồng
thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những yếu tố hạn chế, tiêu cực của các tơn giáo
đó. Người dẫn lời của Lênin “chỉ có những người cách mạng chân chính mới

thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” [45, 46].

12


Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo là biểu hiện của sự kết tinh
tư tưởng nhân văn của nhân loại.
Cơ sở thực tiễn
Sự đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa
chọn là làm sao cho nước ta hồn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng là địi hỏi khách
quan của lịch sử, yêu cầu bức thiết của toàn dân tộc. Nhưng đây cũng là sự
nghiệp cách mạng vơ cùng khó khăn, gian khổ và ác liệt, phải coi đó là trách
nhiệm chung của tồn dân tộc, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Mặt khác, từ âm mưu, bản chất xâm lược và thống trị dân tộc ta của chủ
nghĩa Đế quốc, thực dân, chúng áp dụng chính sách “chia để trị”, “ngu dân dễ
trị” để chống phá cách mạng nước ta, chia rẽ đồng bào giữa các dân tộc, giữa
Lương và Giáo…Đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng và tìm mọi cách chia rẽ, gây
hiềm khích giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, giữa
đồng bào có các tơn giáo khác nhau để dễ bề thống trị nhân dân ta. Thậm chí,
chúng cịn lơi kéo, mua chuộc một bộ phận giáo sĩ và giáo dân làm tay sai, phục
vụ cho âm mưu phá hoại khối đồn kết tồn dân của chúng. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh đã vạch trần bộ mặt thật của chủ nghĩa thực dân, tố cáo âm mưu, thủ
đoạn nham hiểm của thực dân Pháp lợi dụng tôn giáo để xâm lược nước ta.
Đồng thời, kêu gọi đồng bào ta ra sức thực hiện đồn kết chặt chẽ giữa đồng
bào Cơng giáo và đồng bào không theo Công giáo nhằm chống lại âm mưu, thủ
đoạn chia rẽ giữa đồng bào công giáo và đồng bào không theo công giáo của kẻ
thù.
13



Có thể nói, thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
đặt ra yêu cầu: cần phải đoàn kết chặt chẽ giữa các tầng lớp nhân dân cả đồng
bào tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo thành một khối thống nhất và
kiên quyết đứng lên đấu tranh đòi độc lập cho dân tộc. Thực tế này là một trong
những cơ sở quan trọng cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Thực tiễn đặc điểm, tình hình về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đặt ra
yêu cầu phải giải quyết
Do đặc điểm tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, trong quá trình hình thành và
phát triển của dân tộc đã tác động, ảnh hưởng lớn đến tình hình tín ngưỡng, tơn
giáo ở Việt Nam. Có thể khái qt những đặc điểm đó là: Việt Nam là một quốc
gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau, bao gồm cả tôn giáo
ngoại nhập (Thiên Chúa giáo, Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo…) và tín ngưỡng,
tơn giáo nội sinh (Cao đài, Hồ hảo và các hình thức tín ngưỡng như thờ cúng
ơng bà, tổ tiên, thần thánh…); các tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam có tính đan
xen, hồ đồng, khoan dung; các tôn giáo du nhập luôn bị “khúc xạ” bởi văn
hố Việt Nam; tính trội của yếu tố “nữ” trong hệ thống tín ngưỡng, tơn giáo
Việt Nam; các tín đồ tơn giáo ở Việt Nam hầu hết là nhân dân lao
động…Những đặc điểm trên là cơ sở thực tiễn để hình thành những quan điểm
của Người về vấn đề tơn giáo, nhằm thực hiện đồn kết Lương – Giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, những vấn đề lý luận và thực tiễn trên là cơ sở khoa học hình
thành nên quan điểm của Hồ Chí Minh về tơn giáo. Đó là quan điểm nhất quán,
xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc nói chung và về
tơn giáo nói riêng.

14



Một nhà báo nước ngồi nhận xét về Hồ Chí Minh đã được cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng nhắc lại: “Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hồn chỉnh với sự kết
hợp đức khơn ngoan của Phật, lịng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài
cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả được bao
bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên” [23, 19]. Với nhận xét trên, giúp chúng ta
hiểu một cách khái quát, phong phú và giàu hình tượng nguồn gốc tư tưởng Hồ
Chí Minh về tơn giáo.
1.2. Vai trị của tơn giáo theo quan điểm Hồ Chí Minh
Tơn giáo là một giá trị tinh thần do con người phát minh và sáng tạo ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Tơn giáo là
một khía cạnh của văn hố, tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng nhu
cầu của một bộ phận nhân dân.
Là vị anh hùng của dân tộc và danh nhân văn hoá kiệt xuất của thời đại,
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trị của tôn giáo trong đời sống xã hội bao
hàm cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Người
ln tìm cách khai thác các giá trị văn hố, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo,
phát huy mặt tích cực của nó để phục vụ nhân dân, đồng thời tìm cách đấu tranh
khắc phục những tiêu cực của tơn giáo.
Hồ Chí Minh ghi nhận đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn; tơn
giáo Giêsu có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Những tơn giáo này có một điểm
chung với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là mưu cầu hạnh phúc cho loài người,
mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Như vậy, Hồ Chí Minh đã tìm thấy “những hạt
nhân hợp lý” trong các tôn giáo. Và theo Người, những người không theo đạo

15


hay theo một đạo nào đó cũng có thể tiếp thu một cách có chọn lọc trong kho
tàng tơn giáo những yếu tố tích cực cần thiết cho bản thân và xã hội.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác

– Lênin, với một vấn đề nhạy cảm và phức tạp như vấn đề tơn giáo, Hồ Chí
Minh đã có sự hiểu biết sâu sắc và am tường trong lời nói và hành động khi giải
quyết vấn đề tơn giáo. Ơng Sainteny đã có một nhận xét trong cuốn sách “đối
diện với Hồ Chí Minh”, Ơng viết: “về phần tơi, phải nói rằng, chưa bao giờ tơi
có cớ để nhận thấy nơi các chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù
rất nhỏ, của sự cơng kính, đa nghi hoặc chế giễu đối với một tôn giáo nào bất kỳ”
[78, 80].
Vượt qua sự đối lập về thế giới quan, không dừng lại ở cách hiểu sự đối
lập một cách siêu hình, Hồ Chí Minh đã nắm chắc phép biện chứng về mối
quan hệ giữa các mặt đối lập. Trong sự đối lập cịn tồn tại một khuynh hướng
mà ở đó các mặt đối lập nương tựa, xâm nhập lẫn nhau. Đó là cơ sở lý luận để
Hồ Chí Minh đề ra và thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, có thể thấy sự nhìn nhận
của Người về vai trị của tôn giáo được thể hiện:
Thừa nhận những lý tưởng chứa đựng các giá trị nhân đạo, nhân văn của
các tơn giáo.
Dịp Noen năm 1956, trong khơng khí hồ bình ở Miền bắc, Người đã nhắc
đến hình ảnh tươi đẹp trong bài thánh ca: “Sáng danh thiên Chúa trên các tầng
giời, hồ bình cho mọi người lành dưới thế” [47, 285]. Đối với Phật giáo,
Người cũng thừa nhận: Phật sinh ra cũng để nhằm “ lợi lạc quần sinh, vô ngã vị
tha” [50, 315]. Ngày 20/02/1927, trong một bài báo có tiêu đề Khổng Tử,
16


Người viết: “Với việc xoá bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử, chính phủ
Trung quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Cịn
những người An nam chúng ta hãy tự hồn thiện mình về mặt tinh thần bằng
cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì đọc các tác
phẩm của Lênin” [41, 452]. Những tư tưởng trên khi đánh giá về vai trị của các
tơn giáo là hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài

của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống
như nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần” [62, 570]; và “Sự
nghèo nàn của tôn giáo, vừa là sự biểu hiện nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản
kháng chống sự nghèo nàn, hiện thực ấy” [62, 570]. Trong bút ký triết học,
Lênin cũng cho rằng: “Trong tơn giáo, ngồi ảo tưởng ra…mặt thực tế, tìm tịi
cái tốt hơn, tìm tịi sự che chở, sự giúp đỡ là cực kỳ quan trọng” [82, 63].
Cùng với việc thừa nhận mặt tốt đẹp của lý tưởng tơn giáo, Hồ Chí Minh
đồng thời cũng ghi nhận những đóng góp của các vị sáng lập ra các tơn giáo,
Người cho rằng: “Đức chúa Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do, hạnh
phúc” [43, 50]. Với Đức Phật, Người cũng thừa nhận: “ Đức Phật là đại từ, đại
bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn người phải hy sinh,
tranh đấu, diệt lũ ác ma” [44, 197]; “Nếu đức Giêsu sinh ra vào thời đại chúng ta
và phải đặt mình trước nỗi khổ đau của người đương thời, chắc Ngài sẽ là một
người xã hội chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ cho lồi người” [78, 29].
Thừa nhận sự đóng góp của người sáng lập các tơn giáo chân chính nên
Hồ Chí Minh ln bày tỏ sự tơn trọng của mình trước các vị ấy. Theo Người,
các vị ấy là hiện thân của khát vọng tự do, bình đẳng, no ấm, hạnh phúc và lý
tưởng của các vị ấy cũng không có gì khác ngồi mục tiêu trên. Do vậy, trong
q trình lãnh đạo cách mạng, kể cả khi đã trở thành người cộng sản, Hồ Chí
17


Minh vẫn trước sau như một, tôn trọng những người sáng lập ra các tơn giáo,
thậm chí Người cịn nguyện phải cố gắng để trở thành “một học trò nhỏ của các
vị ấy”.
Theo Hồ Chí Minh, giành độc lập cho dân tộc, giành tự do và hạnh phúc
cho đồng bào là phù hợp với tơn chỉ, mục đích của các tôn giáo và các đấng
sáng lập ra các tôn giáo. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội và lý tưởng tơn giáo có nhiều
điểm tương đồng, bởi lẽ chủ nghĩa xã hội khơng có mục đích nào khác ngồi
việc giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, khỏi đói rét và khỏi khổ. Mục

tiêu mà cách mạng đang hướng cộng đồng dân tộc Việt Nam đi tới cũng chính
là mục tiêu mà người sáng lập ra các tôn giáo dấn thân. Mục tiêu đó, có thể là
cao cả, là thiêng liêng, là phù hợp với những giá trị phổ biến của chủ nghĩa
nhân đạo.
Thừa nhận đóng góp và tơn trọng lý tưởng của những người sáng lập ra các
tôn giáo, Hồ Chí Minh tự đáy lịng mình ln tin tưởng vào con đường cách mạng,
bởi con đường ấy cũng phù hợp với khát vọng của Thích Ca, Giêsu…
Có thể nói, những quan điểm trên của Hồ Chí Minh là thể hiện sự thừa
nhận những giá trị tốt đẹp về văn hố, đạo đức của các tơn giáo chân chính. Vì
thế, Hồ Chí Minh trong nhiều bài nói, bài viết và ngay cả trong nhân cách của
mình ln đề cao người sáng lập ra các tôn giáo, nêu gương tốt của họ và
khuyến khích người có đạo noi theo những tấm gương ấy. Trong lời cảm ơn
đồng bào Công giáo đề ngày 14/10/1945, Người viết: “Đức Giêsu hy sinh vì
muốn lồi người được tự do, hạnh phúc, đồng bào ta cả lương, cả giáo cũng vì
tự do hạnh phúc cho tồn dân mà hy sinh, phấn đấu” [43, 50]. hay: “Hiện nay
tồn quốc đồng bào ta, cơng giáo và ngoại cơng giáo, đều đoàn kết chặt chẽ,

18


nhất trí đồng tâm như con một nhà, ra sức tranh đấu để giữ gìn nền độc lập của
Tổ quốc”, “ tinh thần hy sinh, phấn đấu tức là noi theo tinh thần cao thượng của
đức Chúa Giêsu” [43, 121].
Trong ý thức tôn giáo, đức tin là bộ phận căn bản nhất, được hình thành
chủ yếu bằng con đường tự cảm xúc, tự cảm nhận, vì vậy nó khá bền vững.
Trong cuộc sống, đức tin là thiêng liêng và nếu bị xúc phạm thì người có đạo sẽ
phản kháng. Tuy nhiên, trong xã hội, mỗi người có một đức tin riêng, vì thế đều
phải được tơn trọng. Nhận thức rõ điều đó, Hồ Chí Minh đã nói: “Nước Phật
ngày xưa có những bốn đảng phái làm ly tán lịng dân và hại Tổ quốc. Nhưng
nước Việt Nam ngày nay chỉ có một đảng phái là tồn dân quyết tâm giành độc

lập. Tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Giatô tin ở đức Chúa Trời; cũng như
chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tơn nên chúng ta tin tưởng.
Nhưng đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”
[43, 148].
Việc thừa nhận tôn giáo là một thành tố của văn hố đã giúp Hồ Chí
Minh vượt qua các tư tưởng duy vật tầm thường, xem tôn giáo chỉ là “Tập đại
thành của những luận thuyết uỷ mị, chống lý tính, tử thù của khoa học…” để
đưa ra cách ứng xử đúng đắn với tôn giáo trong điều kiện Việt Nam. Cũng nhờ
vậy, Hồ Chí Minh đã có những phân biệt tinh tế giữa vai trò của giáo hội với tín
đồ chức sắc; giữa giáo lý tơn giáo chân chính với việc thực thi giáo lý ấy trong
thực tế của mỗi tín đồ; giữa tơn giáo trong điều kiện bị chính trị phản động lợi
dụng với tơn giáo trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là cơ sở
để Hồ Chí Minh khơng rập khn để tiến hành bằng cuộc đấu tranh về mặt tư
tưởng một cách trừu tượng với thế giới quan tôn giáo như thường thấy ở Châu
Âu. Ngược lại, cách làm chủ yếu của Hồ Chí Minh là phát hiện, khai thác, phát
19


huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức của các tôn giáo phục vụ mục tiêu
độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mà khơng có bất kỳ một sự
phân biệt, kỳ thị nào giữa Giáo với Lương và thực hành thành công khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
1.3. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
Tơn giáo có nhiều hướng phục hồi, phát triển và đặt ra nhiều vấn đề cần
được lý giải cả về lý luận cũng như thực tiễn. Do đó, việc tìm hiểu những luận
điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo có ý nghĩa quan trọng trong
cơng tác nghiên cứu lý luận, góp phần thực hiện tốt công tác tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta.
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo, hồ hợp dân tộc
Tư tưởng đồn kết tơn giáo, hồ hợp dân tộc là một bộ phận có vị trí

quan trọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo. Đồn kết lương giáo, hoà
hợp dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, bao trùm trong tư tưởng của Người đối với
vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tư tưởng đó đã được hình hành, phát triển ngày
càng hồn thiện cùng với tiến trình lịch sử cách mạng nước ta và trở thành nội
dung cơ bản của chính sách đối với tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo được hình thành, phát triển
trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc qua
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, hình thành từ nhận thức vai trị quần
chúng trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời xuất phát từ nhiệm vụ nặng nề của
dân tộc, Người đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin
và vận dụng một cách sáng tạo trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nước ta.

20


×