Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về quan hệ dân tộc và giai cấp với công cuộc đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.58 KB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====”====

DƯƠNG ĐỨC HƯNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====”====

DƯƠNG ĐỨC HƯNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60. 22. 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
Tiến só VŨ VĂN GẦU

TP. HỒ CHÍ MINH – 2005


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả của
quá trình nghiên cứu của mình. Nếu có sự gian
dối tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

DƯƠNG ĐỨC HÖNG


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP ..........7

1.1.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc và giai cấp .......7

1.2.

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc và giai cấp .................26

1.3.


Hồ Chí Minh giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam..............................................................................................38

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP VỚI
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................52

2.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghóa xã hội - Mục tiêu và con đường phát
triển tất yếu của giai cấp công nhân và dân tộc trong quá trình đổi mới ........53
2.2. Đường lối đổi mới của giai cấp công nhân là con đường phát triển của dân tộc ...58
2.3. Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình giải quyết mối quan hệ dân tộc và
giai cấp trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam ................................................84
2.4. Những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả trong giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp ở Việt Nam hiện nay...........................................94
KẾT LUẬN .............................................................................................................112
TÀI LIỆU THAM KHAÛO ........................................................................................116


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cách mạng xã hội chủ nghóa vấn đề quan hệ dân tộc và giai
cấp, cũng như việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ này là một nhiệm vụ
hết sức cần thiết và có vị trí đặc biệt quan trọng.
Thế giới ngày nay đang có những biến đổi nhanh chóng và phức tạp,
tác động rất mạnh đến xu hướng phát triển của nhân loại và con đường
phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc. Những biến đổi đó đã làm cho mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp vốn đã phức tạp lại càng trở nên phức tạp
hơn. Đây cũng là vấn đề thời sự cấp bách, đòi hỏi phải được nhận thức và

giải quyết đúng đắn trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay.
Ở nước ta, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh rèn luyện và sáng lập đã vận dụng
sáng tạo chủ nghóa Mác - Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc
và giai cấp, thực hiện nhất quán đường lối chiến lược, giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghóa xã hội . Đó chính là điều kiện tiên quyết đảm
bảo thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập và xây
dựng chủ nghóa xã hội đạt nhiều thắng lợi to lớn.
Hiện nay nước ta đang tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghóa, mở rộng quan
hệ quốc tế, hội nhập với khu vực và thế giới. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi
phải huy động sức mạnh to lớn của khối đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, các thế
lực thù địch đang thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của


2

giai cấp công nhân, phủ nhận chủ nghóa xã hội, gây chia rẽ, mất đoàn kết
giữa các dân tộc; cũng như việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp
chưa đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn. Đối với chúng ta
hiện nay hai nhiệm vụ chiến lược đặt ra cần phải được giải quyết đầy đủ
và đúng đắn, đó là xây dựng chủ nghóa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghóa, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc gắn liền với việc xây dựng
thành công chủ nghóa xã hội, đó cũng chính là việc giải quyết mối quan hệ
dân tộc và giai cấp đang đặt ra những thách thức mới hết sức cấp bách đối
với cách mạng nước ta hiện nay. Vì vậy việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan hệ dân tộc và giai cấp cũng như việc xử lý mối quan hệ này
của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam có ý nghóa hết sức to lớn cả

về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Với những yêu cầu mang tính thời sự cấp bách đó, chúng tôi chọn đề
tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc và giai cấp với công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay làm đề tài luận văn thạc só triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở trong nước những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về
tư tưởng Hồ Chí Minh được công bố. Đó là các cuốn sách: Tư tưởng Hồ Chí
Minh và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp
chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 1998, đã tái bản
lần thứ ba năm 2003. Đây là tác phẩm lớn đã khẳng định những điểm mới
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó đề cập khá sâu sắc những vấn đề về
quan hệ dân tộc và giai cấp với những nội dung cơ bản như: cách mạng
giải phóng dân tộc phải bằng con đường cách mạng vô sản; Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc; độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghóa xã hội … Đây thực sự là những định hướng rất cơ
bản cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về


3

quan hệ dân tộc và giai cấp. Một số tác phẩm khác như: Tư tưởng Hồ Chí
Minh một số nội dung cơ bản của Nguyễn Bá Linh,Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, xuất bản năm 1994; cuốn Những nhận thức cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh của Phạm Văn Đồng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất
bản năm 1998; cuốn Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
của Trịnh Nhu và Vũ Dương Ninh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất
bản năm 1996; cuốn Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đặng Xuân
Kỳ, Nhà xuất bản Chính tri quốc gia, xuất bản năm 1990; cuốn Tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh với thời đại của tập thể tác giả do Phạm Ngọc Liên chủ
biên , Nhà xuất bản Chính tri quốc gia, xuất bản năm 1993. Những tác

phẩm này đã đề cập đến vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng về dân tộc và giai cấp nói riêng đối với cách mạng Việt Nam: cách
mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghóa. Bên cạnh đó còn
thể hiện ý nghóa và ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và
giai cấp đối với thời đại, với lịch sử phát triển của nhân loại. Đồng thời các
tác phẩm trên còn đề cập đến sự vận dụng tư tưởng về quan hệ dân tộc và
giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay một cách khái quát
nhất.
Ngoài ra còn phải kể đến các bài viết trên các báo, tạp chí liên
quan đến nội dung mối quan hệ dân tộc và giai cấp trên quan điểm của
chủ nghóa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ï như: Lênin và vấn đề
quan hệ dân tộc và giai cấp của Trần Hữu Tiến (Lênin và thời đại chúng
ta, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1980); Phong trào công nhân và quan hệ giữa
giai cấp công nhân và dân tộc của Nguyễn Văn Khang (Tạp chí Triết học,
số 2, 1990); Những cống hiến lý luận của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh
vào học thuyết mác-xít về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp của Lê
Ngọc, (Tạp chí Thông tin lý luận, số 11-1993); Quan hệ giai cấp - dân tộc -


4

nhân loại trong thời đại ngày nay của Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Triết
học số 4-1994); Giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp theo tư tưởng Hồ
Chí Minh của Trần Xuân Trường (Tạp chí Cộng sản, số 5-1995). Lý luận
mác-xít về mối quan hệ giai cấp, dân tộc và thời đại của Trần Phúc Thăng
(Tạp chí Cộng sản, số 15-1985). Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân
tộc và giai cấp của Nguyễn Ngọc Long (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 41996); Sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp và lợi ích dân tộc trong sự
nghiệp đổi mới của Trần Hữu Tiến (Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3,
1996); Giai p công nhân và dân tộc của Trịnh Quốc Tuấn (Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 2-1998); Nét đặc sắc trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và

giai cấp ở Việt Nam của Nguyễn Chí Mỳ - Nguyễn Ngọc Long (Tạp chí
Cộng sản, số 3, 1999 …
Nhìn chung các bài viết trên đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể
như: Khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc; quan điểm của chủ nghóa
Mác - Lênin về dân tộc và giai cấp; tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và
giai cấp; một số chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta … Tuy nhiên
hầu hết các công trình đều mang tính khái quát hoặc mang tính phương
pháp luận chung nhất. Hơn nữa, trong các tài liệu mà chúng tôi tìm được
hầu như chưa có công trình nào trực tiếp làm rõ mối quan hệ dân tộc và
giai cấp theo tư tưởng Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới ở nước ta một
cách toàn diện.
Những công trình trên là một nguồn tài liệu rất quý để tác giả luận
văn tham khảo và kế thừa nhằm góp phần làm rõ thêm và xây dựng có hệ
thống một vấn đề mang tính thời sự sâu sắc, đó là “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về quan hệ dân tộc và giai cấp với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn


5

Mục đích: Từ sự phân tích mối quan hệ dân tộc và giai cấp trên quan
điểm của chủ nghóa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn đề
xuất một số phương hướng cơ bản nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ
dân tộc và giai cấp trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoa
đất nước hiện nay.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
Làm rõ quan điểm của chủ nghóa Mác - Lênin về mối quan hệ dân
tộc và giai cấp.
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc và giai cấp.

Phân tích mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xác định một số vấn đề đặt ra trong việc giải quyết mối quan hệ dân
tộc và giai cấp và đề xuất một số phương hướng cơ bản trong việc giải
quyết mối quan hệ này ở nước ta trong công cuộc đổi mới.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghóa Mác – Lênin, qua quan điểm của C. Mác, Ph. Ănghen,
V.I. Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp, dân tộc và mối quan hệ
dân tộc và giai cấp. Luận văn sử dụng các phương pháp logic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra.
5. Ý nghóa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc xây dựng các chính
sách về dân tộc và giai cấp trong giai đoạn cách mạng mới. Trên cơ sở đó
góp phần đi tới thống nhất về nhận thức và hoạt động thực tiễn trong quá
trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghóa ở nước ta.


6

Kết quả đạt được của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn triết học và chủ nghóa xã hội khoa
học.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 119 trang, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo nội dung của luận văn đïc kết cấu thành hai chương,
bảy tiết.



7

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
1.1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN
HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP

1.1.1. Quan điểm của chủ nghóa Mác - Lênin - Nguồn gốc lý luận
cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc và giai
cấp
Giai cấp được hình thành trong lịch sử là một hiện tượng khách quan,
lý giải về hiện tượng này ở mỗi thời kỳ có những quan niệm khác nhau. Do
hạn chế của lịch sử và giới hạn bởi quan điểm giai cấp nên các nhà tư
tưởng trước Mác đã chưa thể đưa ra những tiêu chí để phân biệt các giai
cấp khác nhau. Họ chưa thấy được giai cấp là một phạm trù lịch sử, không
thấy được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Do đó họ cũng không
thấy được con đường thực tế xóa bỏ sự phân chia giai cấp.
Với C. Mác và Ph. Ănghen, bằng quan niệm duy vật lịch sử, hai ông
đã chỉ rõ nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp, cũng như sự mất đi
của giai cấp, đó là nguyên nhân kinh tế chứ không phải nguyên nhân chính
trị hay tư tưởng. Trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất đến mức có
thể tạo ra khả năng và tiền đề phân hóa xã hội là nguyên nhân sâu xa của
sự hình thành giai cấp; chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp
của sự xuất hiện giai cấp. Trong bộ Tư bản, C. Mác đã phân tích rất kỹ về
quan hệ giai cấp. Ông cũng chỉ rõ các giai cấp khác nhau về sở hữu tư liệu
sản xuất đã dẫn đến thu nhập khác nhau như thu nhập từ lợi nhuận, từ địa
tô, bằng tiền công. Từ đó Mác - Ănghen khẳng định, thực chất của quan hệ
giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp là quan hệ bóc lột và bị bóc lột.



8

Đó là một hệ thống lý luận khoa học được C. Mác và Ph. Ănghen xây
dựng đã làm cơ sở cho việc phân tích sự vận động và phát triển của xã hội
loài người và mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp đối
kháng.
V.I. Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ănghen
về giai cấp, quan hệ giai cấp. Trong tác phẩm Sáng kiến vó đại Lênin đã
đưa ra một định nghóa nổi tiếng về giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường những quan hệ
này được pháp luật thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách
thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là một tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định [29, 17-18].
Từ định nghóa trên cho thấy, chủ nghóa Mác - Lênin xem cơ sở tồn
tại của các giai cấp là cơ sở kinh tế. Sự khác nhau giữa các giai cấp cơ bản
là do sự khác biệt về địa vị kinh tế trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định. Địa vị ấy được quy định bởi ba nhân tố. Đó là quan hệ đối với tư liệu
sản xuất; quan hệ trong tổ chức lao động và quan hệ phân phối hay quan
hệ đối với sản phẩm xã hội của các tập đoàn đó.
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giai cấp là quan hệ xã hội cơ bản
nhất vì nó biểu hiện quan hệ sản xuất, nó quyết định mọi mối quan hệ giữa
người với người trong đời sống xã hội. Cũng như giai cấp nào đại biểu cho
phương thức sản xuất tiến bộ mới có thể đại biểu cho lợi ích dân tộc.



9

Dân tộc là vấn đề được C. Mác và Ph. Ănghen đặc biệt chú ý trong
quá trình xây dựng học thuyết của mình. Một trong những mục đích nghiên
cứu vấn đề dân tộc của các ông là để trả lời câu hỏi: giai cấp công nhân
cần có thái độ như thế nào đối với dân tộc? Xử lý như thế nào trong mối
quan hệ dân tộc và giai cấp. Như thế, các nhà sáng lập chủ nghóa Mác đã
xem xét vấn đề dân tộc trong mối liên hệ chặt chẽ với triển vọng của cách
mạng vô sản ở châu Âu.
C. Mác và Ph. Ănghen cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò độc lập
dân tộc trong cuộc đấu tranh giai cấp. Hai ông đã chứng minh rằng, quá
trình ra đời và thay đổi của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử,
xét cho đến cùng đều có nguyên nhân kinh tế. Mỗi hình thức cộng đồng
người nói chung đều tương ứng với một phương thức sản xuất nhất định.
Trong hệ tư tưởng Đức C. Mác và Ph. Ănghen đã chỉ rõ: “Không phải chỉ
riêng những quan hệ dân tộc này với dân tộc khác mà toàn bộ kết cấu bên
trong của bản thân dân tộc đó đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của
sản xuất và sự giao tiếp bên trong và bên ngoài của dân tộc ấy” [34, 30].
Khi nghiên cứu về sự hình thành dân tộc tư sản, C. Mác và Ph. Ănghen đã
đi đến kết luận: “Dân tộc là một sản vật và hình thức tất nhiên của thời đại
tư sản trong quá trình phát triển xã hội” [36, 88].
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ănghen, khi nghiên cứu về dân
tộc và các quan hệ dân tộc, V.I. Lênin làm rõ thêm nội dung khái niệm
dân tộc và sự hình thành dân tộc. V.I. Lênin đấu tranh kiên quyết chống lại
các biến tướng của chủ nghóa dân tộc và các quan điểm duy tâm xem dân
tộc dường như phát sinh từ mảnh đất trống rỗng, không phải là kết quả của
quá trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, của sự phát triển các
hình thức tộc người. V.I. Lênin cũng đã nêu ra cương lónh về quyền bình



10

đẳng, quyền tự quyết dân tộc và đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình
đẳng và tự quyết đó trên cả hai phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Xtalin trong đấu tranh chống “chủ nghóa dân tộc” đã có một định
nghóa khẳng định tính ổn định, tính lịch sử của cộng đồng dân tộc, nêu bật
các đặc trưng cơ bản của dân tộc trong sự thống nhất biện chứng của nó.
Ông viết: “Dân tộc là một khối người cộng đồng ổn định, thành lập trong
lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt
kinh tế và về hình thức tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn hóa” [69,
43].
Như vậy, dân tộc và sự phát triển của dân tộc không chỉ chịu sự chi
phối của quy luật kinh tế – xã hội mà còn chịu sự chi phối của quy luật
phát triển tộc người. Bởi vì, quy luật kinh tế xã hội giữ vai trò quyết định
nhất, song nếu chưa có sự chín muồi của nhân tố tộc người thì dân tộc cũng
chưa thể xuất hiện. Vì vậy, có thể nói dân tộc là sự thống nhất biện chứng
giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tộc người.
Tóm lại, theo quan điểm macxít, khái niệm dân tộc có thể hiểu theo
hai nghóa cơ bản sau:
Thứ nhất, dân tộc là chỉ một cộng đồng người. Có mối liên hệ chặt
chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hóa
có những đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa và phát triển cao
hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và trở thành ý thức tự giác
tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, làm thành nhân
dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ
chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền
lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung
trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.



11

Đối với dân tộc Việt Nam, được hình thành sớm và phát triển bền
vững là do truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm, một đất nước phải
thường xuyên đương đầu với các thế lực ngoại xâm lớn mạnh, đòi hỏi các
tộc người trong cả nước phải đoàn kết lại, mọi sự chia rẽ đều trái với lợi
ích và truyền thống dân tộc. Vì vậy, ngoài ý thức là thành viên của một tộc
người, tất cả mọi người sống trên lãnh thổ Việt Nam đều thấy trong mình
có dòng máu chung, dòng máu dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết đã
trở thành sức mạnh to lớn giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn
thử thách để giành thắng lợi trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Đó là
một truyền thống tốt đẹp, là niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam, một
nhân tố tạo nên tính bền vững của cộng đồng người Việt Nam.
Về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, các nhà kinh điển của chủ
nghóa Mác - Lênin khẳng định: sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân,
đồng thời cũng là sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại khỏi mọi hình thức
áp bức bóc lột, trong đó có áp bức dân tộc. Trong quá trình cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức đòi hỏi
phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
Trước hết, phải thấy được vai trò của yếu tố giai cấp tác động vào sự
phát triển của dân tộc. Khi nói về vai trò của chủ nghóa tư bản và giai cấp
tư sản đối với sự hình thành các dân tộc phương Tây, trong Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản C. Mác và Ph. Ănghen đã chỉ rõ: “Giai cấp tư sản ngày
càng xóa bỏ sự phân tán về tư liệu sản xuất, và về cư dân. Nó tụ tập dân
cư, tập trung các tư liệu sản xuất, về tài sản và tích tụ tài sản vào trong tay
một số ít người. Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung về
chính trị, những địa phương độc lập, liên hệ với nhau hầu như bởi những
quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác

nhau thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc thống nhất, có một chính


12

phủ thống nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất
mang tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất” [35, 602-603].
Từ thực tiễn lịch sử, chủ nghóa Mác - Lênin khẳng định rằng, dân tộc
hình thành khi các giai cấp đã hình thành. Mỗi dân tộc có một giai cấp
đứng đầu. Giai cấp nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì giai cấp ấy sẽ
thống trị dân tộc và chính điều đó đã tạo nên mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc và giai cấp trong suốt quá trình vận động của xã hội có giai cấp.
Chủ nghóa Mác - Lênin cũng khẳng định, lịch sử xã hội loài người là
lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất vật chất. Xét
đến cùng, phương thức sản xuất vật chất quy định các quá trình chính trị,
tinh thần, xã hội của đời sống nói chung. Do đó “tính chất của dân tộc
được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị dân tộc, bởi kết cấu giai
cấp được sản sinh ra từ phương thức sản xuất đó” [54, 34].
Có thể hiểu, bản chất xã hội của dân tộc được quy định bởi phương
thức sản xuất thống trị trong dân tộc, bởi quan hệ giai cấp do phương thức
sản xuất ấy sản sinh ra. Sự thống trị của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghóa và của giai cấp tư sản đối với một dân tộc nào đó nói lên tính chất tư
bản chủ nghóa của dân tộc ấy. Tính chất này thể hiện ở vai trò thống trị
dân tộc, vai trò đại diện dân tộc của giai cấp tư sản; nó còn thể hiện ở mâu
thuẫn cơ bản trong dân tộc: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản thống trị và giai
cấp công nhân bị trị. Sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghóa, giai
cấp tư sản mất địa vị thống trị trong dân tộc, giai cấp công nhân trở thành
“giai cấp dân tộc”. Nó lãnh đạo dân tộc. Sự thay đổi quan hệ kinh tế - xã
hội, mà nội dung cơ bản là phương thức sản xuất xã hội chủ nghóa trở
thành phương thức sản xuất thống trị, sẽ làm cho dân tộc chuyển hóa thành

hình thức cộng đồng người không có đối kháng giai cấp, thành dân tộc xã
hội chủ nghóa.


13

Nguyên nhân sâu xa, căn bản của áp bức dân tộc là sự ra đời và tồn
tại của chế độ người bóc lột người. Vì vậy, nếu không giải quyết triệt để
vấn đề giai cấp thì vấn đề dân tộc cũng không giải quyết được. C. Mác và
Ph. Ănghen khi khẳng định vấn đề dân tộc là một bộ phận không thể tách
rời của sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng toàn thể
những người lao động khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột. Các ông đã nêu
lên nguyên lý cơ bản về mối liên hệ khăng khít giữa áp bức giai cấp với áp
bức dân tộc và chỉ rõ, chỉ có chủ nghóa xã hội và chủ nghóa cộng sản mới
hoàn toàn xóa bỏ được áp bức dân tộc, đem lại sự bình đẳng dân tộc: “Hãy
xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân
tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong
nội bộ dân tộc không còn nữa, thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng
thời mất theo” [35, 624]. Cho đến nay, tinh thần của nguyên lý đó vẫn
hoàn toàn chính xác và còn nguyên giá trị. Tự bản thân luận điểm trên cho
thấy nhiệm vụ của việc giải quyết vấn đề giai cấp tác động trực tiếp đến
giải quyết vấn đề dân tộc; cũng như cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa giải
quyết vấn đề dân tộc với thắng lợi của chủ nghóa xã hội và chủ nghóa cộng
sản. Xét về cơ bản lâu dài, cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp vô sản và tư
sản có ý nghóa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc. Mặt
khác, việc giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản lại
góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng của giai cấp công nhân.
Trong lịch sử, giai cấp tư sản đã từng là giai cấp cách mạng với vai
trò thúc đẩy sự phát triển của dân tộc và xã hội. Thời kỳ mà theo C. Mác –
Ph. Ănghen toàn bộ sự vận động lịch sử được tập trung vào tay giai cấp tư

sản, mọi thắng lợi đạt được trong những điều kiện ấy đều là thắng lợi của
giai cấp tư sản” [35, 60]. V.I. Lênin cũng từng khẳng định: “Thời kỳ thắng


14

lợi hoàn toàn của chủ nghóa tư bản đối với chế độ phong kiến đã được gắn
liền với các phong trào dân tộc” [26, 462].
Với việc giai cấp công nhân, giai cấp đại biểu cho phương thức sản
xuất mới tiến bộ giành được chính quyền, quan hệ giai cấp đã có sự thay
đổi căn bản dẫn đến thay đổi tính chất và xu hướng phát triển của dân tộc.
Giai cấp công nhân trở thành trung tâm của thời đại. Đó là giai cấp có thể
lãnh đạo xã hội, lãnh đạo dân tộc. Sự thay đổi quan hệ giai cấp đó tạo điều
kiện cho sự ra đời của một dân tộc mới, dân tộc xã hội chủ nghóa. Như vậy,
tính chất của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị
trong dân tộc, bởi kết cấu giai cấp được sản sinh ra từ phương thức sản
xuất đó và đặc biệt của giai cấp thống trị dân tộc đó.
Đối với giai cấp công nhân, sau khi giành được chính quyền là đại
biểu chính thức và chân chính của dân tộc, có trọng trách trước dân tộc.
Giai cấp công nhân đã thể hiện vai trò của mình trước yêu cầu phát triển
của dân tộc như thế nào?
Đó là, với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân phải
thống nhất lợi ích của mình với lợi ích dân tộc. Vai trò lãnh đạo và lợi ích
của giai cấp công nhân chỉ có thể bảo đảm khi nào giai cấp công nhân trở
thành trung tâm liên kết các giai cấp, các tầng lớp và đại diện cho lợi ích
của các giai cấp, tầng lớp đó và lợi ích của cả dân tộc. Do đó, đường lối
cách mạng của giai cấp công nhân phải thể hiện đầy đủ mục tiêu giải
phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột và nghèo nàn, lạc hậu.
Để làm được điều đó, trước hết giai cấp công nhân phải trở thành
giai cấp vững mạnh, vừa là đại biểu của lực lượng sản xuất tiên tiến nhất

của dân tộc, vừa là giai cấp lãnh đạo dân tộc.
Về kinh tế, phải xây dựng được một mô hình phát triển kinh tế phù
hợp, giải phóng lực lượng sản xuất dựa trên một nền công nghiệp hiện đại,


15

xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cơ sở những hình thức sở hữu thích
hợp. Đồng thời vận dụng phù hợp với đặc điểm, nhu cầu của dân tộc và
phát huy cao nhất các nhân tố dân tộc như: độc lập, tự chủ, tiềm năng, kinh
nghiệm, truyền thống văn hóa…
Về chính trị, phải xây dựng hệ thống chính trị thể hiện quyền lực của
nhân dân, nhưng đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Trong đó,
Đảng của giai cấp công nhân, là đại biểu cho lợi ích giai cấp, vừa đại biểu
cho lợi ích của cả dân tộc. Nhà nước đảm bảo sự thống nhất giữa tính giai
cấp của giai cấp công nhân với tính dân tộc. Các tổ chức chính trị xã hội
phải quy tụ được tất cả các lực lượng tiến bộ của toàn dân tộc.
Thứ hai, các nhà kinh điển đã khẳng định vai trò của yếu tố dân tộc
tác động vào quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp.
Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc không chỉ
có một chiều là đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc mà còn
có chiều ngược lại: đấu tranh dân tộc tác đôïng vào đấu tranh giai cấp. Nếu
dân tộc chưa có độc lập thống nhất thì giai cấp đại biểu cho phương thức
sản xuất mới muốn trở thành “giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, phải thực hiện nhiệm vụ trước tiên là giành lấy
độc lập và thống nhất dân tộc.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, các phong trào cách mạng không thể phát
triển được, thậm chí có thể thất bại nếu coi thường hoặc phạm sai lầm
nghiêm trọng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Vì vậy chủ nghóa Mác Lênin không bao giờ tuyệt đối hóa nhân tố giai cấp, coi nhẹ vai trò của
nhân tố dân tộc và luôn khẳng định vấn đề dân tộc có tầm quan trọng đặc

biệt trong tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân cũng như sự phát
triển của xã hội nói chung.


16

Khi dân tộc xuất hiện, thì cộng đồng dân tộc là địa bàn trực tiếp của
các quá trình kinh tế xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp, các biến cố chính
trị, các cuộc cách mạng xã hội. Dân tộc không chỉ là địa bàn hoạt động của
một giai cấp. Đứng trên quan điểm ấy, C. Mác và Ph. Ănghen đã chỉ rõ:
“Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về
phương diện quốùc tế không thể thực hiện được sự đoàn kết của giai cấp vô
sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới những
mục đích chung” [37, 544]. Ph. Ănghen còn cho rằng: Chừng nào chưa có
độc lập thì một dân tộc lớn về mặt lịch sử cũng không có khả năng, ngay
cả để bàn luận một cách ít nhiều, nghiêm túc những vấn đề nội bộ trong
nước. Ông xem sự cần thiết phải có độc lập dân tộc cũng như con người ta
trước tiên phải có đất dưới chân, không khí, ánh sáng và không gian rộng
rãi. Nếu không tất cả chỉ là chuyện ba hoa. Vì vậy, Ph. Ănghen khẳng
định: “Chỉ có thể có được sự hợp tác quốc tế thành thực giữa các dân tộc
châu Âu, khi nào mỗi dân tộc đó là người chủ tuyệt đối trong nhà mình”
[37, 415]
Xóa bỏ áp bức giai cấp là mục đích cuối cùng của giai cấp công
nhân, song như C. Mác và Ph. Ănghen đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành một giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” [35, 633-634]. Bởi vì, giai cấp
vô sản ở mỗi nước luôn luôn gắn với dân tộc, chịu trách nhiệm trước hết
đối với dân tộc mình, qua đó đóng góp vào sự nghiệp chung của giai cấp
vô sản thế giới và nhân loại. Chính vì vậy mà, “cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung không phải là đấu

tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc” [35,
611].


17

Nói cách khác, giai cấp vô sản và Đảng của nó phải có nhiệm vụ
phục vụ lợi ích dân tộc, phục vụ nhân dân. Lợi ích dân tộc chân chính của
họ là sự phát triển và tiến bộ xã hội, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa đạt tới đỉnh cao của sự phát triển chung của nhân loại, làm cho con
người hạnh phúc, dân tộc mình có địa vị xứng đáng trên trường quốc tế.
Không có cái lợi ích giai cấp chung chung, mà lợi ích giai cấp vô sản gắn
với sự tồn vong và hưng thịnh của dân tộc. Sức mạnh của giai cấp vô sản
bắt nguồn và được nâng lên từ sức mạnh của dân tộc. Giai cấp vô sản
muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình phải biết khai thác những tiềm
năng, phát huy được sức mạnh và mọi truyền thống của dân tộc.
Phát triển học thuyết C. Mác, V.I. Lênin đã phân tích một cách sâu
sắc, cụ thể mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, đặc biệt là vị trí của vấn
đề dân tộc trong cách mạng vô sản trong thời đại mới. Đó là thời đại đế
quốc chủ nghóa và cách mạng vô sản, là thời đại giai cấp vô sản bước vào
giai đoạn gấp rút chuẩn bị và thực sự giành lấy chính quyền trong tay giai
cấp tư sản, là thời đại mà phong trào giải phóng dân tộc không còn thuần
túy là một phong trào tư sản và chỉ gắn với cách mạng tư sản.
Đây là thời kỳ, vấn đề dân tộc trở thành vấn đề rộng lớn có ý nghóa
quốc tế. Đó là vấn đề dân tộc và thuộc địa. V.I. Lênin đã nêu những
nguyên lý quan trọng về sự kết hợp tất yếu giữa cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Lênin cho rằng, lực lượng của giai cấp vô sản trong quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, thông qua cách mạng vô sản sẽ tăng lên
gấp bội, sẽ trở thành vô địch nếu nó kết hợp chặt chẽ với cách mạng giải

phóng dân tộc. Chỉ có ủng hộ hết mình phong trào giải phóng dân tộc thì
giai cấp vô sản ở các nước tư bản mới thực sự làm tròn nhiệm vụ lịch sử
của mình. Ngược lại cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể đi đến thành


18

công nếu nó đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, hợp thành một dòng
với cách mạng vô sản và kết hợp làm một cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc với cuộc đấu tranh vì chủ nghóa xã hội.
Như vậy, vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp, như Lênin nói là mối
quan hệ “cực kỳ phức tạp” và rất nhạy cảm. Sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân ngay từ đầu đã gắn với dân tộc và luôn luôn gắn với dân
tộc. C. Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lênin luôn khẳng định rằng, giai cấp công
nhân không thể đánh đổ được giai cấp tư sản, không thể xây dựng thành
công chủ nghóa xã hội nếu không giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa dân tộc và giai cấp. Chỉ có phương pháp duy vật lịch sử, với
quan điểm giai cấp của giai cấp công nhân chúng ta mới nhận thức và giải
quyết đúng đắn mối quan hệ nói trên. Những sai lầm như tuyệt đối hóa
nhân tố giai cấp, xem thường nhân tố dân tộc hay ngược lại, cường điệu
nhân tố dân tộc, mơ hồ trong vấn đề giai cấp, đều là không quán triệt tinh
thần cơ bản của lý luận Mác - Lênin về quan hệ dân tộc và giai cấp.
Quan điểm đúng đắn của chủ nghóa Mác - Lênin về quan hệ dân tộc
và giai cấp trong thời đại ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị. Song, đời sống
xã hội luôn biến đổi phức tạp, đặc biệt là thực tiễn về vấn đề dân tộc, quan
hệ dân tộc và giai cấp, đòi hỏi những người cách mạng phải nắm lấy tinh
thần cơ bản của học thuyết, đồng thời phát triển, cụ thể hóa những nguyên
lý chung, nhận thức lại và điều chỉnh những luận điểm không còn phù hợp
với thực tiễn. Điều đó thể hiện bản chất cách mạng và sáng tạo của chủ
nghóa Mác - Lênin. Đây cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh luôn luôn

quan tâm trong quá trình vận dụng và phát triển chủ nghóa Mác - Lênin, là
nguồn gốc, là cơ sở lý luận cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ dân tộc và giai cấp, là kim chỉ nam cho việc xử lý mối quan hệ
dân tộc và giai cấp của cách mạng Vieät Nam.


19

1.1.2. Hoạt động thực tiễn và quá trình nhận thức của Hồ Chí
Minh về quan hệ dân tộc và giai cấp
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, việc sáng
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xác lập đường lối, mục tiêu, chiến lược,
sách lược cho cách mạng Việt Nam là một dấu mốc quan trọng trong quá
trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là quá trình nhận thức của Người
từ thấp đến cao, từ hành trang tư tưởng trước khi ra đi tìm đường cứu nước
đến nhận thức lý luận để vận dụng vào cách mạng Việt Nam, đến việc
sáng tạo tuyệt vời trong việc thiết kế con đường cách mạng Việt Nam.
Trong hệ thống tư tưởng đó có quá trình hình thành quan điểm vô sản về
quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh.
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghóa yêu nước, tinh thần nhân văn, nhân ái là
sự thấm nhuần truyền thống lịch sử dân tộc, nhưng trước hết được bắt
nguồn từ tấm gương gia đình và truyền thống quê hương. Nền quốc học
Việt Nam với những bài học về lịch sử dân tộc, về văn học - nghệ thuật
dân tộc … là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống các thế lực ngoại
xâm. Những bài học mà Hồ Chí Minh từng học thời trai trẻ đã vun đắp cho
Người lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. “Mỗi phạn bất vong duy
trúc bạch” (mỗi bữa không quên ghi sử sách) - lời của người xưa được cụ
Phan Bội Châu ngâm nga cũng là điều lúc trẻ Hồ Chí Minh thường tâm
niệm” [67, 28]. Nếu không có điều này thì làm sao có được sự kiện sau
hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, khi mới trở về Tổ quốc, Hồ Chí

Minh đã biên soạn tác phẩm Lịch sử nước ta bằng thơ lục bát nhằm giáo
dục truyền thống lịch sử, yêu nước cho cán bộ và nhân dân với lời mở đầu
tha thiết:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” [41, 211].


20

Ở tuổi hai mươi, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước. Động lực khiến Người ra đi - như Người đã nói với nhà văn Mỹ
Anna Luxtơrông: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi,
lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi sự thống trị
của Pháp. Người này nghó là Nhật, người khác nghó là Anh, có người lại
cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ
làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi” [67, 47-48]. Vào thời điểm
này ở Việt Nam, Hồ Chí Minh biết rất rõ có ba con đường và giải pháp của
các nhà yêu nước để giành độc lập cho dân tộc. Đó là giải pháp đánh đuổi
thực dân Pháp bằng quân sự của cụ Hoàng Hoa Thám, mà tư tưởng phong
kiến vẫn còn là chỗ dựa về tư tưởng tinh thần. Đó là giải pháp của cụ Phan
Bội Châu, muốn cầu viện nước ngoài để đánh đuổi Pháp, khôi phục độc
lập dân tộc. Đó là giải pháp “Ỷ pháp cầu tiến” của cụ Phan Chu Trinh,
muốn tiến hành cải cách kinh tế, văn hóa, chống chế độ quân chủ lạc hậu
nhằm tiến tới độc lập, tự chủ và bình đẳng với nước Pháp. Đối với các giải
pháp này Hồ Chí Minh nhận định, giải pháp của cụ Hoàng Hoa Thám
“mang nặng cốt cách phong kiến”, giải pháp của cụ Phan Bội Châu chẳng
khác gì “đuổi hùm rước sói”, còn giải pháp của cụ Phan Chu Trinh khác
chi “mong địch rủ lòng thương”.
Mặc dù rất kính trọng tinh thần nhiệt huyết của các cụ nhưng Hồ Chí
Minh đã không đi theo con đường các cụ đã đi, câu hỏi mà Hồ Chí Minh

đặt ra là: tại sao các cụ thất bại? Tại sao các nước phương tây giàu mạnh?
Cái gì ẩn chứa đằng sau câu châm ngôn tự do - bình đẳng - bác ái? Đó
chính là lý do khiến người ra đi tìm con đường khác, và Người chọn hướng
sang Pháp và các nước phương Tây. Đi để tìm con đường cứu nước. Đi để
tìm giải pháp giải phóng cho quê hương, giành độc lập cho dân tộc. “Đấy
là sự khước từ cái sai để đi tìm cái đúng. Đấy là sự từ bỏ cái lỗi thời ñeå ñi


21

tìm cái tiên tiến phù hợp với thời đại mới. Đấy chính là sự khẳng định một
bản lónh, một khả năng suy nghó độc lập và sáng tạo mà lịch sử đang đòi
hỏi” [24, 11].
Gia nhập đội ngũ những người lao động Pháp và nhiều nước khác,
gần mười năm lao động chân tay, vừa đi làm, vừa học, nhận thức của Hồ
Chí Minh về những người lao động - đặc biệt là nhân dân lao động các
nước thuộc địa - càng thêm phong phú. Từ lòng yêu nước, ý chí độc lập
cho dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng, những người lao
động bị áp bức ở các nước thuộc địa đều có nguyện vọng chung là độc lập
cho dân tộc mình, tự do cho nhân dân; họ đều rất căm thù chủ nghóa thực
dân và coi chủ nghóa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Hòa nhập với cuộc sống của giai cấp công nhân, nhất là với giai cấp
công nhân Pháp, tại Pari - trung tâm chính trị sôi động ở châu Âu thời ấy
Hồ Chí Minh đã có điều kiện giao tiếp với nhiều trí thức tiến bộ Pháp và
một số nước khác. Điều kiện đó đã giúp Người nâng cao nhận thức của
mình. Nếu như trước đó ở người mới chỉ là ý thức dân tộc, yêu nước thì nhờ
những điều kiện đó, mà ý thức giai cấp công nhân, tinh thần quốc tế của
Người đã nẩy sinh và dần dần phát triển.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước đế quốc thắng
trận họp nhau để phân chia lại thị trường thế giới. Họ hứa hẹn việc trao trả

độc lập chủ quyền cho các dân tộc thuộc địa và cổ động cho “Chương trình
14 điểm” của học thuyết Uyn Sơn. Hồ Chí Minh đã gửi “Yêu sách của
người dân An Nam” đến hội nghị này - Hội nghị Vecxây - đòi quyền tự
quyết dân tộc. Nhưng không được đáp ứng và Hồ Chí Minh hiểu ra rằng:
“Chủ nghóa Uyn Sơn” và những lời hứa hẹn về quyền tự quyết “chỉ là một
trò bịp”, và Người khẳng định: Các dân tộc phải tự mình tiến hành giải


×