Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Nghien cuu su anh huong cua loai thuoc bao quan 189962 khotrithucso com

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.87 KB, 69 trang )

đặt vấn đề
Gỗ là một loại nguyên liệu quý, nhng do ta thờng xuyên
tiếp xúc với nó nên cảm thấy bình thờng và từ đó đà thiếu
quan tâm sử dụng một cách hợp lý.
Gỗ đợc sử dụng với nhiều mục đích khác nhau nh: xây
dựng, giao thông vận tải, kiến trúc, thể thao, âm nhạc Từ
khi chào đời đà tiếp xúc với gỗ và đến khi từ già cõi trần
cũng mang nó theo. Cuộc sống không thể thiếu gỗ cũng nh
chất lợng cuộc sống sẽ không đảm bảo nếu thiếu rừng. Nhng
một thực tế đà và đang còn tiếp tục xẩy ra là sức sản xuất
của rừng tự nhiên không đáp ứng đợc nhu cầu sử dụng của
con ngời nên hiện tợng nghèo rừng, mất rừng xẩy ra ở nhiều
nơi.
Đà đến lúc xà hội phải đánh giá cho đúng vai trò của gỗ
và công nghiệp chế biến gỗ đặc biệt là vai trò của chuyên
nghành bảo quản lâm sản, phải tiết kiệm và hợp lý hoá việc
sử dụng nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này của rừng.
Chính vì vậy trong những năm gần đây đảng và chính
phủ đà có chủ trơng phủ xanh đất trống đồi trọc, phát triển
hơn nữa nghành chế biến lâm sản cụ thể là dự án trồng 5
triệu ha rừng và sản xuất một triệu mét khối ván nhân tạo
vào năm 2010.
Gạch đàn trắng là một trong những loài gỗ rừng trồng
tiêu biểu có năng st cao, thÝch nghi tèt víi ®iỊu kiƯn khÝ
hËu níc ta nhng nhợc điểm chung với gỗ rừng trồng là có độ
bền tự nhiên kém, rất dễ bị sâu nấm phá hoại. Vì vậy việc
nghiên cứu và bảo quản nhằm nâng cao khả năng chống
chịu với môi trờng cho gỗ rõng trång lµ hÕt søc quan träng vµ
cÊp thiÕt, nã mở ra cho gỗ rừng trồng phạm vi sử dụng rộng rÃi
và có độ bền tốt hơn.


1


Đợc sự giúp đỡ của cô giáo Th.S Đỗ Thị Ngọc Bích, các
thầy cô giáo trong khoa Chế Biến Lâm Sản trờng Đại Học
Lâm nghiệp tôi đợc phân công tiến hành đề tài:
Nghiên cứu sự ảnh hởng của loại thuốc bảo quản
và thời gian ủ đến độ sâu thấm thuốc đối với gỗ bạch
đàn trắng bằng phơng pháp băng đa

phần 1

tổng quan
1.1. sơ lợc về lịch sử bảo quản

1.1.1. Trên thế giới
Gỗ đợc sử lý bảo quản ngoài việc kéo dài thời gian sử
dụng nó còn đảm bảo an toàn cho các sản phẩm và công
trình có sử dụng gỗ. Đến năm 1747 Emmesson đà đề xuất
dùng thuốc dầu để bảo quản gỗ. Creozote là một loại thuốc
dầu đợc sử dụng rộng rÃi nhất và hiệu quả nhất đối với việc
bảo quản gỗ tà vẹt, gỗ cột điện. Ngời phát minh đầu tiên
dùng creozote để tẩm gỗ là John Bechell năm 1838. Cách
đây hơn 300 năm, các sản phẩm hoá công nghiệp đà đợc
ứng dụng trong việc bảo quản gỗ. Ngời ta đà sử dụng hỗn hợp
các loại muối nh sodium chloride và sodium sulphat. Đến giữa
thế kỷ 19 hàng loạt những hoá chất dùng cho bảo quản gỗ ra
đời. Năm 1970 nhà khoa học Johe Pringle đà đa ra một số
thuốc bảo quản dạng muối và hoàn thiện hơn


là Docter

Macbride đà liệt kê các loại thuốc này vào năm 1810. Đến năm
1882 có 5 công nghệ bảo quản mới ra đời cùng với việc sử
dụng những loại thuốc bảo quản nh

clorua thuỷ ngân

(1805), clorua kẽm (1815), sulphat đồng (1837). Một công
nghệ bảo quản gỗ nổi tiếng và có kết quả đầu tiên trong

2


việc trống vi sinh vật hà phá hại gỗ dới biĨn lrayaning ë anh
(1863).
ë thÕ kû thø 19, Kian ®· tẩm gỗ trong dung dịch 1%
HgCl2 trong thùng xây bằng gạch, còn Bunet (1838) thì tẩm
gỗ trong dung dịch 2% ZnCl2 trong thùng tẩm bằng gỗ, Bryan
(1830) đà miêu tả sự thấm thuốc creosote ở một số loạl gỗ
khác nhau. Bryan là ngời đầu tiên đợc cấp bằng sáng chế ra
phơng pháp tẩm chân không áp lực (1831). Phơng pháp này
gọi là phơng pháp tế bào đầy, nó mang lạl hiệu quả cao của
việc ngâm tẩm trong thời gian ngắn.
Thời kỳ này các tác giả đà nghiên cứu thực nghiệm những
vấn đề về sức thấm thuốc theo phơng pháp khuyếch tán,
đề tài mà chúng tôi đang nghiên cứu tiếp.
Nghiên cứu về tính thẩm thấu của 100 loại gỗ, Smith và
Lee (1958) so sánh, giữu hai laọi gỗ cây lá rộng và cây lá kim
, cây lá rộng với cây lá rộng, độ thẩm thấu có sự khác nhau.

Cũng Smith và Lee (1985), ®· chó ý ®Õn sù thay ®ỉi
thÈm thÊu của loài gỗ tếch, thấy sự chênh lệch giữa giá trị
lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của nó đạt tới 3000 lần. Đối với
thông đỏ châu âu, độ thẩm thấu của loài này chênh lệch
nhau chỉ có 39 lần[33].
Siau (1984), cũng nghiên cứu tính thẩm thấu trên cây
thông mỹ, mọc ở vùng núi, độ thẩm thấu là thấp nhất (chỉ
bằng 5,4.10-3darsi), còn cây mọc ở vùng ven biển Thái Bình
Dơng, độ thẩm thấu vào loại trung bình (khoảng10 -2 darsi).
Điều đó nói lên rằng gỗ cây cùng một loài có nguồn gốc xuất
xứ khác nhau cũng có độ thẩm thấu khác nhau
Vinden (1984), xác định hệ số khuyếch tán đồng
(CuSO4) đối với thông đỏ Châu Âu. ở thí nghiệm này tác giả
đà dùng miếng gỗ đà đợc ngâm nớc đến trạng thái bÃo hoà
(ruột tế bào đà chứa đầy nớc), lúc này hệ số khuyếch tán là
8,884 so với 0,599. Tác giả kết luận rằng, quá trình khuyếch
tán chủ yếu xẩy ra ở các mao mạch trong tế bào rỗng. Hàm lợng nớc trong gỗ cao thì tốc độ khuyếch tán tăng.
3


Tamblyn (1985), tại australia, tác giả dùng gỗ tẩm cây lá
rộng rừng nhiệt đới với nhiệt độ là 900C, ngâm trong dung
dịch 30% NaBO4.5H2O 16 giờ đạt đợc độ sâu thấm thuốc
cần thiết là 25 mm để phòng ngừa sinh vật hại gỗ

1.1.2. ở việt nam
Từ xa sa ông cha ta đà biết bảo quản gỗ một cách độc
đáo đó là ngâm gỗ xuống bùn ao, các dòng chảy nớc ngọt
hoặc hun khói, phủ hắc ín với các sản phẩm gỗ đà chế biến.
Các phơng pháp này đà đem lại hiệu quả nhất định cho các

công trình xây dựng hay đồ gỗ sử dụng trong gia đình và
nó còn ảnh hởng đến tận bây giờ ở các vùng nông thôn Việt
Nam. Tuy nhiên các phơng pháp bảo quản truyền thống này
cũng có một số nhợc điểm nh thời gian sử lý tơng đối lâu,
hiệu quả đối với một số côn trùng, nấm mốc cha triệt để.
Ngày nay do tiến bộ của các ngành khoa học kỹ thuật nh
là hoá học, sinh học đà phát triển nhanh chóng công nghệ
bảo quản lâm sản bằng hoá chất có những u thế rõ rệt. Rút
ngắn thời gian bảo quản, nâng cao khả năng chống chịu
môi trờng cho gỗ, đà đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn sản xuất.
Một số tài liệu đà nghiên cứu trong lĩnh vực bảo quản
lâm sản ở nớc ta nh:
Nguyễn Thế Viễn và các cộng tác viên, xác định sức
thấm thuốc của một số loại gỗ xẻ có kích thớc khác nhau dùng
trong xây dựng với thuốc donalit ULL bằng phơng pháp ngâm
thờng, báo cáo khoa học viện lâm nghiệp rừng 1996.
Nguyễn Xuân Khu - Đàm Bính, lợng thuốc thấm khi thay
đổi nồng độ dung dịch tẩm theo phơng pháp ngâm thờng
và việc xác lập phơng trình tơng quan, một số kết quả
nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật viện công nghiệp
rừng, nhà xuất bản lâm nghiệp 1985.

4


Ngun Xu©n Khu, Mét sè dÉn liƯu vỊ søc thÊm thuốc của
10 loại gỗ vùng thanh sơn vĩnh phú, báo cáo khoa học 19821993, viện công nghiệp rừng.
Nguyễn Văn Thống, Kiểm tra tác dụng chống nấm gây
mục


gỗ

của

các

loại

thuốc

celcure,

Ascuteto-U



pentacholorphenol, một số kết quả nghiên cứu ứng dụng khoa
học kỹ thuật viện công nghiệp rừng, nhà xuất bản nông
nghiệp 1985.
Lê Văn Lâm, Thành phần của xén tóc (ceram bycidae,
coleoptera) hại gỗ ở bắc thái, đặc điểm sinh học sinh thái
một số loài chủ yếu hại gỗ và biện pháp phòng trừ, luận án
PTS viện khoa học lâm nghiệp 1996.
Nguyễn Trí Thanh, Kết quả nghiên cứu một số loại thuốc
muối để bảo quản gỗ (1982-1983).
Những năm gần đây việc nghiên cứu bảo quản nói
chung và bảo quản các loại gỗ rừng trồng nói riêng đà đợc giáo
viên và sinh viên khoa chế biến lâm sản-Trờng Đại Học Lâm
Nghiệp tiến hành nghiên cứu nh:
Đỗ Thị Ngọc Bích (1999), thuốc bảo quản CCA và việc sử

dụng các loại thuốc này đối với gỗ nhiệt đới (dịch từ wood
preservation of tember in the tropies) [6}.
Vũ Hà Phơng (2001), nghiên cứu sự ảnh hởng của độ ẩm
đến độ sâu thấm thuốc XM5 của gỗ keo lá tràm (Acacia
auriculi formics cumn) bằng phơng pháp ngâm thờng.[3]
Hoàng Tùng Lâm (2001), xác định độ sâu thấm thuốc
XM5 của gỗ keo trắng bằng phơng pháp ngâm thờng.[4]
Ngô Minh Khang (2001), xác định hiệu lực một số loại
thuốc bảo quản ngăn mối xâm nhập công trình xây dựng
bằng nền móng.
Trần Thị Dơng (2002), nghiên cứu ảnh hởng của thời gian
ngâm tới độ sâu thấm thuốc XM-5B bằng phơng pháp ngâm
thờng.[5]

5


Lê Hồng Kiên (2002), nghiên cứu ảnh hởng của nồng độ
dung dịch XM-5B đến độ sâu thấm thuốc đối với gỗ Bạch
đàn trắng bằng phơng pháp khuyết tán.[6]
Hoàng Minh Huấn (2002), xác định ảnh hởng của độ ẩm
gỗ bạch đàn trắng đến chiều sâu thấm thuốc XM-5B bằng
phơng pháp băng đa.[7]
Đối với gỗ bạch đàn trắng có tác giả Nguyễn Quý Nam [8]
nghiên cu về đặc điểm cấu tạo tính chất cơ lý, định hớng
sử dụng chúng. Để mở rộng thêm phạm vi sử dụng của gỗ bạch
đàn trắng và nhằm phục vụ đồng bào các vùng nông thôn
miền núi trong các công trình công cộng, các đề tài bảo
quản gỗ lần lợt đợc ra đời đặc biệt với phơng pháp băng đa
rất đợc a chuộng.


1.2. mục tiêu đề tài.
Mục tiêu đề tài là bảo quản gỗ rừng trồng để phục vụ
các vùng nông thôn và miền núi. Đề tài trọng tâm nghiên cứu
giải quyết các vấn đề sau đây:
1- Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ sâu thấm thuốc với thời
gian ủ, của gỗ bạch đàn trắng khi dùng phơng pháp băng đa.
2- Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ sâu thấm thuốc của các
loại thuốc XM-5B; BB; BB-NaF với thời gian ủ của gỗ bạch đàn
trắng bằng phơng pháp băng đa.

1.3 Nội dung nghiên cứu
Để đạt đợc mục tiêu trên tôi tiến hành nghiên cứu
những nội dung cụ thể sau
1- Xác định đợc chiều sâu thấm thuốc của gỗ bạch đàn
trắng ở các cấp thời gian ủ.
2- Xác định đợc mối tơng quan giữa thời gian ủ với chiều
sâu thấm thuốc của gỗ bạch đàn trắng trong phơng pháp
băng đa.
3- Xác định đợc chiều sâu thấm thuốc của gỗ bạch trắng ở
mỗi loại thuốc.
6


4- Xác định đợc mối tơng quan giữa mỗi loại thuốc với mỗi
chiều sâu thấm thuốc của gỗ bạch đàn trắng bằng phơng
pháp băng đa.

1.4 Phạm vi nghiên cứu.
Chiều sâu thấm thuốc trong phơng pháp băng đa phụ

thuộc vào rất nhiều yếu tố nh: nguyên liệu, chế độ tẩm, độ
ẩm môi trờng, loại thuốc, nồng độ dung dịch và một số yếu
tố khác.
Các yếu tố thuộc về nguyên liệu:
Loại gỗ;
Độ ẩm gỗ;
Tuổi cây.
Các yếu tố thuộc về thuốc bảo quản:
Loại thuốc;
Nồng độ thuốc;
Điều kiện nhiệt độ của thuốc.
Các yếu tố thuộc về phơng pháp tẩm:
Thời gian ủ;
Hớng thấm thuốc.
Vấn đề cơ bản ảnh hởng đến chiều sâu thấm thuốc
của gỗ trong đề tài nghiên cứu đó là loại thuốc và thời gian ủ
cho thuốc tiếp tục khuếch tán vào sâu trong gỗ. Trên cơ sở
đó và để đạt đợc mục tiêu của đề tài thì những vấn đề
trong phạm vi giới hạn mà tôi tiến hành nghiên cứu là:
Loại gỗ: Bạch đàn trắng (Eucaliptus camaldulensis)
Độ ẩm gỗ: độ ẩm gỗ ngay sau khi chặt hạ.
Phơng pháp băng đa.
Tuổi cây 8-9 tuổi.
Thời gian ủ thay đổi từ 4-8-12 tuần ứng với 9 xeri thí
nghiệm.
Loại thuốc:
1.

Hỗn hợp muối Borax và axit Boric (BB).
7



2.

Thuốc muối XM-5B.

3.

Hỗn hợp thuốc muối BB và NaF.

Điều kiện thuốc nhiệt độ phòng (20 3)0C.
Thuốc ở dạng cao.

Phần 2

CƠ Sở Lý Luận
2.1 Cơ sở lý luận về nguyên liệu gỗ

2.1.1 Cơ sở lý luận về gỗ.
Gỗ là loại nguyên liệu đợc con ngời biết đến từ lâu đời
và đợc sử dụng rộng rÃi nhất. Chúng đợc sử dụng trong nhiỊu
lÜnh vùc nh: c«ng nghiƯp, n«ng nghiƯp, giao th«ng vËn tải
kiến trúc, xây dựngvv..
Cấu tạo gỗ
Cấu tạo gỗ là yếu tố quan trọng là cơ sở để giải thích
mọi hiện tợng trong quá trình gia công chế biến, cũng nh
trong bảo quản gỗ. Có rất nhiều thành phần cấu tạo gỗ, tuy
nhiên xét về mặt bảo quản thì có ba thành phần chủ yếu
và rất quan trọng đó là quản bào, mạch gỗ và tia gỗ. Ba
thành phần này là con đờng dẫn dung dịch từ ngoài vào

trong gỗ[2,9].
8


Thành phần hoá học gỗ.
Thành phần hoá học gỗ rất phức tạp, mô gỗ gồm nhiều
cấu tử hoá học phân bố không đều trong các bộ phận của
cây. Các thành phần này khác nhau giữa các loài [10]. Nó là
một thể hỗn hợp rất phức tạp của các chất phân tử Polysacarit
gồm có các nhóm cacbonin và nhân ben zen tạo thành
[2,10,11]. trong gỗ các tính chất chủ yếu gồm có hai nhóm:
Nhóm các chất hữu cơ: Chiếm 99-99.7% thể tích của
cây, bao gồm các chất nh xenlulo, hemixenlulo, linnhin. Đây
là ba thành phần chính cấu tạo nên vách tế bào. Ngoài ra còn
có một số chất nh: chất dầu, chất màu, chất chát, tinh bột, đờng, các chất này tồn tại trong ruột tế bào.
Nhóm các chất vô cơ: Chiếm 0,3 - 1% khi đốt cháy
hoàn toàn các chất này biến thành tro. Các chất vô cơ bao
gồm: K, Na, Ca, Mg
Để hạn chế sự gây hại của côn trùng, nấm, mốc cần loại
bỏ các chất lạ thức ăn của chúng bằng cách ngâm vào trong
nớc để các chất đờng bột tan vào trong nớc. Tuy nhiên, biện
pháp này khó thực hiện vì vậy mà ngời ta sử dụng các biện
pháp bảo quản hoá chất nhằm biến gỗ không phải là thức ăn
cho các sinh vật hại gỗ.
Tính chất của gỗ.
Gỗ có rất nhiều các tính chất, song trong công nghệ bảo
quản gỗ thì có hai tính chất rất đợc coi trọng.
Tính chất hút nớc của gỗ: Là năng lực hút lấy nớc vào
trong gỗ khi ngâm nó trong nớc. Độ hút nớc, thời gian hút nớc
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Khối lợng thể tích, vị trí, chiều

thớ, kích thớc, nhiệt độ nớc, độ ẩm ban đầu Trong đó yếu
tố ảnh hởng nhiều nhất là khối lợng thể tích, Khối lợng thể
tích càng lớn thì khả năng hút nớc càng chậm. Gỗ lõi hút nớc
chậm hơn gỗ giác, mặt cắt xuyên tâm mặt cắt tiếp tuyến
9


hút nơc rất chậm. Diện tích mặt cắt ngang càng lớn thì tốc
độ hút nớc càng nhanh, nhiệt độ cao gỗ hút nớc nhanh nhng
không nhiều [2,9].
Nghiên

cứu các yếu tố ảnh hởng đến sức hút của gỗ là

vấn đề cã ý nghÜa thùc tÕ trong kü thuËt ng©m tÈm gỗ
bằng hoá chất dới điều kiện áp xuất thờng.
Tính chất thấu nớc của gỗ: Tính chất hút nớc hay của
gỗ là sức thẩm thấu của nớc và các dịch thể khác nhau vào gỗ
nhờ áp lực bên ngoài. Ngời ta thờng dùng tính chất này trong
ngâm tẩm, quét sơn, nhuộm màu tráng keo, mức độ thấm
sâu của nớc và các dịch thể tuỳ theo áp lực mạnh hay yếu.
Thời gian dài hay ngắn, nhiệt độ cao hay thấp. Tính chất
của dịch thể, loại gỗ, gỗ giác hay gỗ lõi. Tia gỗ càng dày càng
lớn thì chiều xuyên tâm thấu nớc mạnh hơn chiều tiếp tuyến
[2,9].


Lợi dụng tính chất này của gỗ mà ngời ta tiến hành

bảo quản gỗ bằng phơng pháp tẩm áp lực làm cho thuốc bảo

quản thấm sâu vào trong gỗ nhằm hạn chế và tiêu diệt sự
xâm nhập của các loài sinh vật hại gỗ.

2.1.2. Cơ sở lý luận về gỗ bạch đàn trắng.
Theo W.Fblalel bạch đàn là một chi thực vật lớn. Trên thế
giới có khoảng 500 loài và 138 thứ đợc trồng trên 90 nớc víi
vïng ph©n bè réng, ph©n bè tËp trung ë Asutralia, Malayxia.
Bạch đàn đợc trồng ở nơi có khí hậu phổ biến ở nơi có khí
hậu nhiệt đới [30]. Đây là loại cây phù hợp với điều kiện nóng
ẩm, ma nhiều nhng lại có khả năng chịu hạn , chịu rét kém
có khả năng tăng trởng nhanh.
Theo thống kê năm 90 trên thế giới có hơn bốn triệu ha
rừng trồng bạch đàn với sản lợng khai thác hàng năm khoảng
3
60 triệu m gỗ [12][28][30]. Gỗ bạch đàn đà đợc nhiều nớc

trên thế giới sử dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau. ở các nớc
Austrralia, Braxin, và Nam Phi, bạch đàn là nguyªn liƯu cho
1
0


nghành công nghiệp sản xuất bột giấy, sợi viseo. ở nhiều nớc
sử dụng bạch đàn trong xây dựng [31].

2.1.2.1 Đặc điểm sinh thái của gỗ bạch đàn
trắng.
Gỗ bạch đàn trắng (Eucaliptus camaldulensis Denh)
thuộc họ sim, là loài cây bản địa ở Australia. Ngày nay nó
đợc trồng phổ biến ở các nới có khí hậu nhiệt đới [12],[31].

Nó du nhập vào việt nam từ những năm 70, đây là loài cây
thích nghi với điều kiện nóng ẩm, ma nhiều không có khả
năng chịu hạn, chịu rét có tốc độ tăng trởng nhanh. Chiều
cao tăng trởng hàng năm là 2,5 m, đờng kính tăng trởng
hàng năm là 2-3 cm, sản lợng tăng trởng trung bình hàng
3
năm là 18-20, m /năm. Bạch đàn sống trong điều kiện nhiệt

độ từ lạnh đến nóng:
Nhiệt độ tháng nóng nhất (27 - 40)0C;
Nhiệt độ tháng lạnh nhất từ (3 - 5)0C;
Lợng ma bình quân từ (250 - 600) mm.
Rất phù hợp với điều kiện khí hậu nớc ta.
Bạch đàn trắng dễ sinh trởng trong điều kiện đất đai
nghèo kiệt, nên đợc coi là cây gỗ rừng trồng mọc nhanh,
chống xói mòn, phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Bạch đàn trắng là loại cây gỗ lớn, thân thẳng, tán tha
phân cành cao. Có vỏ nhẵn màu tro sau bong ra thành từng
mảng, lớp vỏ mới lộ ra có màu xám xanh hoặc ánh bạc. Cành
non màu tím hồng mảnh và hơi rủ.

2.1.2.2 Đặc điểm cấu tạo của gỗ bạch đàn
trắng.
Bạch đàn trắng là loại cây có gỗ giác lõi phân biệt. Gỗ
lõi có màu nâu hồng, gỗ giác có màu trắng xám, ở phần gỗ
giác có chứa nhiều chÊt bét.
1
1



Bạch đàn trắng là loài cây mọc nhanh có vòng năm rộng
(0.9 -1.6) cm, trong mỗi vòng năm phần gỗ sớm gỗ muộn ít
phân biệt. Thớ gỗ tơng đối mịn, nghiêng và chéo thớ, lỗ
mạch trung bình xếp phân tán tụ hợp đơn với số lợng lớn. Tế
bào mô mềm xếp dọc nối tiếp nhau thành từng dây dọc
theo thân cây.
Hình thức phân bố theo mặt cắt ngang vây quanh
mạch hình tròn, không có cấu tạo lớp không có ống dẫn nhựa
chứa nhiều tinh dầu.
Đây là loài cây tỉa cành tự nhiên ở gốc và thân tỷ lệ
mắt ít nhng có nhiều mắt chìm, ở ngọn có nhiều mắt có
kích thíc lín [12,30].

2.1.2.3 TÝnh chÊt vËt lý chđ u.
Theo kÕt quả nghiên cứu về tính chất và cấu tạo của gỗ
bạch đàn trắng [8] ta thấy gỗ bạch đàn trắng 8 - 9 tuổi có:
Khối lợng thể tích;
Gỗ bạch đàn trắng có khối lợng thể tích tơng đối, khối lợng thể tích gỗ lõi lớn hơn gỗ giác.
Gỗ lõi khối lợng thể tích khô kiệt =0.81 (g/cm3);
Khối lợng thể tích cơ bản = 0.67 (g/cm3);
Gỗ giác khối lợng thể tích gỗ khô kiệt = 0.56 (g/cm3);
Khối lợng thể tích cơ bản = 0.52 (g/cm3).
Sức co dÃn của gỗ.
Tỷ lệ co rút và hệ số co rút chiều dài:
Chiều dọc thớ Y1 = 0.94%,

K1 = 0.016

Chiều xuyên t©m Yx=4.62%, Kx = 0.154
ChiỊu tiÕp tun Yt = 10.51%, Kt = 0.350

Tû lƯ gi·n në vµ hƯ sè gi·n në chiỊu dµi:
ChiỊu däc thí Y1 = 0.38% , K1 = 0.012
Chiều xuyên tâm Y x = 4.16%, K x = 0.138
1
2


ChiỊu tiÕp tun Yt = 10.27%, Kt = 0.342
Tû lƯ co rót thĨ tÝch vµ hƯ sè co giÉn thĨ tÝch
Y r = 16.81%

, Kv = 0.56

Tû lÖ gi·n në thĨ tÝch vµ hƯ sè gi·n në thĨ tÝch Ých :
Y v = 15.87% , Kv = 0.52

§é hót níc của gỗ.
Bạch đàn là loại có tỷ lệ nớc trong thân tơng đối lớn so
với các thân gỗ khác. Vì vậy tỷ lệ nớc đợc hút lớn, với 30 ngày
tỷ lƯ hót lµ 76.48% vµ mét ngµy tû lƯ hót là 45.60 %.

2.1.2.4 Tính chất hoá học
Xenlulo 46.8%, lignin 29.4%, pentozan 19.9%, tro 0.3%,
các chất hoà tan trong nớc nóng 4.6%, các chất hoà tan rong
kiềm (1%)13.5%, hàm lợng chát béo 1.7%
Gỗ không chứa silic, không mùi, không vị;
Gỗ có chứa tinh dầu, thành phần chủ yếu của nó là
cucalyptol, mùi giống bạc hà,vị thơm mát. Dầu này không tan
trong nớc, nhng tan trong cồn, ête, axetic băng (tinh khiết),
cloroform và các loại dầu khác.


2.1.2.5 ứng dụng của gỗ Bạch Đàn trắng [8]
Từ các tính chất trên gỗ bạch đàn trắng đợc sử
dụng vào các mục đích sau:
Với các kết quả về ứng suất ép dọc, kéo dọc, uốn tĩnh
trên thì gỗ bạch đàn trắng đợc xếp vào nhóm 2 trong bảng
phân loại 6 nhóm gỗ. Phù hợp khi sử dụng trong xây dựng,
giao thông vận tải, làm giàn giáo cét nhµ.
Víi hƯ sè co rót lín nh vËy lµ nguyên nhân dẫn đến gỗ
bạch đàn trắng bị cong vênh, biến dạng trong quá trình

1
3


sấy, hong phơi. Cho nên chúng ít đợc dùng trong đồ mộc cao
cấp mà chỉ nên sử dụng chúng trong đồ mộc thông dụng.
Với sức chịu tách thấp là nguyên nhân làm cho gỗ bạch
đàn dễ bị nứt nẻ vì thế nên sử dụng gỗ bạch đàn ở dạng gỗ
tròn. Trong các công trình xây dựng nh cầu cống trụ mỏ, cột
kèo nhà, và đặc biệt dùng sản suất bột giấy.
Không nên sử dụng gỗ bạch đàn trắng trong các sản
phẩm gỗ xẻ, ván ghép thanh gỗ bóc, làm ván lạng.

2.2 Cơ sở lý luận về sinh vật hại lâm sản.
Đất nớc ta nằm trong khu vực chịu ảnh hởng của nhiệt
đới gió mùa. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho các loài sinh
vật phá hoại sinh trởng và phát triển trong đó có các loại sinh
vật hại lâm sản tiêu biểu nh: nấm, côn trùng, hà biển [2,12].


2.2.1. Nấm hại lâm sản.
Trong hệ thực vật nấm là loại thực vật bậc thấp. Có trên
80 nghìn loài nấm khác nhau.
ở nớc ta theo điều tra sơ bộ của Nguyễn văn Thống
(1982) phát hiện ra 55 loài nấm thuộc 21 chi 11 họ, 7 bộ của
3 lớp
Đơn vị cơ bản của nấm là sợi nấm, sợi nấm có thể là đơn
bào hay đa bào, nấm sinh sản bằng bào tử, quá trình sinh dỡng của nấm rất đa dạng. Nấm sâm nhập vào gỗ bằng hai
phơng thức sau:
- Sợi nấm từ gỗ đang bị mục lây lan sang gỗ lành.
- Bào tử sợi trên mặt gỗ, mặt vật thể khác nẩy mầm
phát triển thành sợi, sợi này sâm nhập vào gỗ.
Nấm hại lâm sản có nhiều loại, tuy nhiên trong quá trình
bảo quản gỗ ta chủ yếu xét đến hai nhóm:
Nấm mốc: Nấm mốc là loại nấm hút chất dinh dỡng trong
ruột tế bào gỗ. Đặc biệt là tế bào gỗ giác, nó không có khả
năng tiết ra các chất men để phá hủy thành phần cấu tạo nên
1
4


vách tế bào, vì thế tính chất cơ học của gỗ ít bị thay đổi
nên tuổi thọ của gỗ giảm không đáng kể.
Nấm mục: Chúng có khả năng tiết ra các chất men phá
hủy thành phần cấu tạo nên vách tế bào làm thay đổi mạnh
tính chất cơ học của gỗ và làm giảm đáng kể tuổi thọ của
gỗ.

2.2.2 Côn trùng hại lâm sản.
Một trong những nguyên nhân làm cho gỗ bị phá hỏng.

Đó là sự phá hoại của các loài côn trùng [14]. Trong quá trình
hoạt động sống, ngoài việc phá hoại trực tiếp chúng còn tạo
ra hệ thống lỗ rỗng trong gỗ từ đó nấm và vi khuẩn dễ dàng
xâm nhập vào gỗ. Nhiều trờng hợp côn trùng còn mang vào
trong gỗ các loại nấm, sinh vật khác làm cho chúng sinh trởng
và phát triển trong gỗ.
Côn trùng hại gỗ và lâm sản rất đa dạng, nhiều chủng loại
[2]. Tuy nhiên cho dù là loại nào thì chúng vẫn chung một
đặc điểm cấu tạo, có thể

chia làm ba phần: Đầu, ngực,

bụng. Chúng hô hấp bằng hệ thống khí quản, sinh sản theo lỡng tính. Đại đa số côn trùng hại gỗ có biến thoái hoàn toàn
tức là phải trải qua 4 giai đoạn:
Trứng sâu

nhộng

sâu trởng thành.

Côn trùng phá hoại lâm sản rất phong phú nhng chủ

yếu chia làm ba loại: mối, mọt, xén tóc, các loài này đợc cho
là côn trùng phá hoại gỗ và lâm sản mạnh nhất. Mặt khác xét
về yếu tố độ ẩm thì côn trùng hại lâm sản đợc chia làm hai
loại chủ yếu đó là côn trùng hại gỗ tơi, ớt và côn trùng hại gỗ
khô. Vậy ở độ ẩm nào dù cao hay thấp gỗ (Lâm sản) cũng bị
côn trùng sâm nhập phá hoại. Để hạn chế điều đó, trớc khi
sử dụng gỗ phải dùng dung dịch thuốc bảo quản bằng hoá
chất. Kết quả bảo quản càng cao khi ngời thực nghiệm sử lý

kịp thời, đúng loại thuốc và phơng pháp bảo quản.
1
5


2.2.3 Hà hại lâm sản
Khi ngâm gỗ tre nứa trong nớc thì nấm mối mọt không
phá hoại đợc. Nếu ngâm trong nớc biển thì lại bị hà phá hại
nghiêm trọng. ở vùng biển nớc ta hà gỗ hoạt động quanh năm,
hầu hết các loại gỗ đều bị hà xâm nhập phá hoại.
Có loại phá gỗ mÃnh liệt nhng có loại chỉ sống dựa vào
gỗ.Trong nhân dân để trừ con hà hại gỗ thờng đốt đuôi,
dùng sơn, hắc ín để quét ra lớp ngoài vỏ tàu thuyền. Để
phòng trống hà biện pháp phổ biến nhất là tẩm cho gỗ tàu
thuyền các loại thuốc bảo quản thích hợp có đủ loại thuốc
thấm và độ sâu thấm thuốc cần thiết. Các loại thuốc có
thành phần gốc đồng có hiệu quả với hà hơn cả.

2.3. Cơ sở lý thuyết về thuốc bảo quản

2.3.1 Thuốc bảo quản
Thuốc bảo quản là những chế phẩm có nguồn gốc từ hoá
học, sinh học có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào lâm
sản nhằm tiêu diệt, ngăn ngừa, sự phá hoại của các tác nhân
sinh vật gây hại lâm sản nh: nấm, côn trùng, hà biển hoặc
các tác nhân vô sinh nh lửa, nớc chúng có khả năng
khuyếch tán và ổn định trong gỗ và lâm sản [15].
Hiện nay thuốc bảo quản lâm sản có nhiều tên nhiều loại
khác nhau nhng các chất cơ bản tạo nên chúng thì không
nhiều. Muốn đạt đợc hiệu quả cao thì thuốc bảo quản cần

có một số yêu cầu sau:[10]
Phải có độ độc cao đối với sinh vật hại lâm sản, nhng
không gây hại cho ngời và gia súc.
ít gây ô nhiễm môi trờng.
Dễ thấm vào gỗ và lâm sản, dễ sử dụng.
Có tính ổn định trong gỗ và lâm sản.
Không làm giảm tính chất cơ lý của lâm sản.
1
6


Không ăn mòn kim loại.
Rẻ tiền, phải có sẵn trong thị trờng đặc biệt là thị trờng trong nớc.
Dễ kiểm tra bằng chất chỉ thị màu hoặc có màu đặc
trng dễ áp dụng.
Không làm tăng tính chất cháy của vật liệu tẩm.
Không ảnh hởng đến màu sắc và trang sức bề mặt
của bề mặt tẩm.
Trong thực tế không có loại thuốc bảo quản lâm sản nào
(Kể cả thuốc đà đợc tiêu chuẩn hoá) có thể đáp ứng đợc yêu
cầu trên. Tuy nhiên vẫn có nhiều chế phẩm hoá học, sinh học
đợc dùng làm thuốc bảo quản là vì các chế phẩm ấy đà đạt
đợc một số yêu cầu quan trọng và phù hợp với môi trờng sử
dụng của lâm sản.
Muốn sử dụng thuốc sao cho có hiệu quả phải căn cứ vào
nhiều yếu tố. Ngoài tính năng sử dụng chính của mỗi loại
thuốc phải biết sử dụng chúng sao cho phù hợp với từng đối tợng phá hoại của môi trờng.
Để tiện lợi quá trình sử dụng ngời ta phân loại thuốc bảo
quản. Có thể phân loại thuốc bảo quản lâm sản theo hai
nhóm chính:

Nhóm thuốc dạng dầu và hoà tan trong dầu: Gọi là thuốc
dầu.
Nhóm thuốc hoà tan trong nớc: Gọi là thuốc muối

2.3.1.1 Các thuốc dạng dầu và hoà tan trong
dầu.
Thuốc dầu creosote đợc dùng để tẩm gỗ tà vẹt, gỗ làm
cầu cống, cột điện gỗ dùng ngoài trời nói chung phần gỗ
tiếp xúc với đất ở những công trình có mái che.
Ưu điểm của thuốc dầu: Độc với sinh vật hại gỗ và lâm
sản, không ăn mòn kim loại, không bị rửa trôi.

1
7


Nhợc điểm của thuốc dầu: Gỗ sau khi tẩm thuốc dầu
Có mùi hôi, dễ bắt cháy, phạm vi sử dụng hẹp, chỉ tẩm đợc
gỗ khô

2.3.1.2 Các chế phẩm hoà tan trong nớc.
Là thuốc có nguồn gốc từ vô cơ, khi sử dụng chúng thờng là dạng dung dịch hoà tan trong nớc. Chúng có thể tẩm
đợc gỗ có độ ẩm thấp, gỗ khô, gỗ tơi, khả năng thấm thuốc
lớn. Thuốc dễ bị rửa trôi, tuỳ vào mục đích sử dụng của lâm
sản, môi trờng sử dụng và đối tợng gây hại mà ta có thể lựa
chọn thuốc sao cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả bảo
quản [2].
Các chế phẩm dạng này thờng là hỗn hợp của hai hay nhiều
hợp chất là muối của các kim loại nh: kẽm đồng, crom,
asenic Sau khi ngâm tẩm các hoá chất này có thể phản

ứng với nhau tạo thành một hợp chất bền vững ổn định, có
hiêụ lực chống sinh vật hại gỗ tốt hơn nh: LN2, LN3, XM5, CCA,
BB, BB - NaF
Ưu điểm của thuốc bảo quản hoà tan trong nớc:
Có tác dụng đối với sinh vật hại gỗ và lâm sản, giá thành
rẻ dễ sử dụng. Khi tẩm thuốc màng thuốc đều liên tục, thấm
sâu. Có thể pha chế với cùng một loại thuốc khác để tăng khả
năng bảo quản trong công nghệ ván nhân tạo. Đặc biệt là dễ
sử dụng trong công nghệ sản suất ván nhân tạo.
Nhợc điểm:
Do là dạng thuốc hoà tan trong nớc thờng dễ bị rửa trôi.
Dễ bị các loại hoá chất khác tác dụng làm mất hiệu lực với
sinh vật hại gỗ và lâm sản. Có tính ăn mòn kim loại, ít nhiều
ảnh hởng đến môi trờng. Để khắc phục nhợc điểm, ngời ta
thờng phản ứng tạo phức thuốc bảo quản với một số hỗn hợp
khác để biến tính thuốc, không làm giảm hiệu lực với thuốc
và chống rửa trôi.
1
8


Xuất

phát tử u nhợc điểm nói trên, trong thực tế cần

căn cứ vào mục đích sử dụng gỗ mà dùng thuốc cho phù hợp.
Với những đặc điểm và cấu tạo của gỗ bạch đàn trắng dùng
trong đề tài và gỗ sau khi tẩm dùng cho đồ mộc cột kèo
Trên cơ sở nh vậy dùng trong đề tài tôi dùng hỗn hợp thuốc
boron, XM5, NaF-BB. Sau đây là một vài tính chất của các

loại thuốc:

Hỗn hợp thuốc Boron.
Thuốc bảo quản boron là hỗn hợp các thành phần hoá
học axit boric (H3 BO3 ) víi muèi borax (Na2 B4 O7 .10H2 O) loại
thuốc này đợc chế tạo đầu tiên ở Anh (Newzealand) vào năm
1950. Đặc điểm chính của Boron có độc đối với côn trùng và
nấm phá hại gỗ đặc biệt là chống mọt có hiệu quả. Boron đợc phân vào nhóm không cố định trong gỗ (Dễ bị rửa trôi)
sự thành công của boron là ở chỗ[6,18].
Có thể xử lý ngâm tẩm gỗ xẻ, gỗ dùng trong công trình
xây dựng và gỗ tàu thuyền.
Có thế áp dụng phơng pháp sử lý theo nhiều cách khác
nhau, phun, nhúng, quét, ngâm, áp lực. Đặc biệt hiệu
quả đối với phơng pháp xử lý kết hợp nhúng nhiều lần và
dự trữ khuyết tán.
Các phơng pháp áp dụng đơn giản.
ít độc đối với ngời và gia súc.
Giá cả thấp đợc nhiều ngời chấp nhận.
Đặc biệt có khả năng phòng cháy chứa cháy cho gỗ.
Năm 1960 Boron đợc truyền bá rộng rÃi cho đến tận ngày
nay [8]. Muối borax và axit boric là những chất vô cơ dễ
tìm, dễ hoà tan trong nớc. Khi sử dụng rất thuận lợi, việc đa
hỗn hợp thuốc bảo quản lên bề mặt gỗ, dung dịch có độ PH
(PH=7,2). Một số tÝnh chÊt vËt lý cđa chóng nh sau:
1
9


TÝnh chÊt vËt lý ho¸ häc cđa mi borax [14,16]:
Mi borax có công thức: Na2 B4 O7 .10H2 O.

Có phân tử lợng bằng 381.37.
ở điều kiện bình thờng tồn tại ở dạng tinh thể màu
trắng, là tinh thể ít tan trong nớc lạnh dễ tan trong nớc sôi,
không tan trong rợu.
Độ tan trong nớc của muối borax phụ thuộc vào nhiệt độ
nớc nh sau:
Nhiệt độ hoà
0
tan ( C)
Độ tan
a(g)/100gH2 0

0

10

20

30

60

80

10
0

1.2 1.5 2.5 3.7 16. 23. 34.
3
8

8
5
7
9
3

Nhiệt độ nóng chảy là 8780C, tỷ trọng d = 1.55.
Nhiệt độ phân huỷ Tph = 378oC, PH = 9.3.
Tû lƯ c¸c chÊt cđa borax do nhà máy hoá chất Quảng ChâuTrung Quốc sản xuất nh sau:
Hàm lợng, % = 99.5;
Chất không tan, % = 0.0050;
Clorua, % = 0.002;
Sắt, % = 0.003;
Asen, %= 0.0005;
Chì, % = 0.001;
Phèt ph¸t, % = 0.002;
TÝnh chÊt vËt lý ho¸ häc cđa axit boric [14,16]
Axit Boric cã c«ng thøc: H 3 BO3 , phân tử lợng bằng 61.38,
tỷ trọng
0

d =1.44, nhiệt độ nóng chảy Tnc=70 C, PH=4.0. ở điều kiện
bình thờng axit boric tồn tại ở dạng bột mịn trắng hoà tan
đợc trong nớc nóng, glyxerin, rợu etylic, axit axetic.
2
0




×