Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.21 KB, 12 trang )

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Nguyễn Minh Châu

Là một trong số những nhà
văn “mở đường tinh anh và
tài năng nhất” (Nguyên
Ngọc).

I.TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
- Được coi là một trong những cây bút tiên phong của VHVN thời kì đổi mới.
- Trước 1975, sáng tác mang đậm khuynh hướng sử thi anh hùng, lãng mạn.
Sau 1975, ông trực tiếp quan tâm tới đời sống ở góc độ thế sự, ngịi bút tự sự
mang chất triết lí.
- Tác phẩm: Cửa sơng, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng, Những
vùng trời khác nhau…
2. Tác phẩm:
a/ Xuất xứ
Viết năm 1983, in đậm phong cách tự sự triết lý của Nguyễn Minh Châu.
Truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm
nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
b/ Chủ đề
Qua tác phẩm, tác giả thể hiện tình yêu tha thiết đối với cảnh đời, với
thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình
về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc đời, vì cuộc đời.
Người nghệ sĩ khơng thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn cuộc sống
và con người một cách đa diện, nhiều chiều.
c/ Ý nghĩa nhan đề
“Chiếc thuyền ngoài xa” biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật
và đời sống. Con thuyền nghệ thuật mang vẻ đẹp tuyệt đỉnh nhưng nó quá xa


rời cuộc sống đời thực con nhiều ngang trái, nghịch lý. Nghệ thuật cần phải
gắn bó với đời sống, phản ánh trung thực bản chất cuộc sống, cần phải quan
tâm đến số phận con người. Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” như một gợi ý
về khoảng cách, cự ly ngắm nhìn cuộc sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng.
D/ Tình huống truyện
* Đây là tình huống truyện độc đáo, là tình huống nhận thức, có ý nhĩa
khám phá, phát hiện về chân lý đời sống, chân lý nghệ thuật:
- Trên bãi biển, Phùng chụp được bức ảnh cảnh biển đẹp. Nhưng khi
con thuyền lại gần, một cảnh tượng tàn baọ diễn ra: Người chồng đánh vợ,
con đánh ba… Nghệ sĩ Phùng phát hiện đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là
những điều ngang trái và nghịch lý của đời thường. Từ đó, Phùng chiêm
nghiệm ra một điều: Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc đời và vì cuộc
đời.
- Ở tịa án, người vợ bị đánh lại không chịu li dị chồng. Sau khi đối
diện và nghe lời giãi bày của người đàn bà hàng chài, nghệ sĩ Phùng và chánh
án Đẩu đã hiểu ra: Không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần nhìn cuộc sống
đa diện, nhiều chiều.
- Tình huống ấy được nhìn qua điểm nhìn nghệ thuật của nghệ sĩ
Phùng, một nhân vật trong truyện. Nhờ hình thức này, câu truyện trở nên gần
gũi, khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục.
II./ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1/ Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
a> Phát hiện thứ nhất: bức ảnh thiên nhiên
- Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng
phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, đã “phục
kích” cả tuần để chộp được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt
nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra “một cảnh đắt trời cho” trên mặt
biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc gặp
được có một lần  một tuyệt tác thiên nhiên “bức tranh mực tàu của danh



họa thời cổ... Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng
trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ…từ ánh sáng đến đường
nét đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích”
- Tâm trạng người nghệ sĩ: trước tuyệt tác của hóa cơng, anh “trở nên bối
rối, trong trái tim có cái gì bóp thắt vào” người nghệ sĩ rung động trước cái
đẹp.
- Trong giây lát người nghệ sĩ cịn “khám phá thấy cái chân lí của sự
hồn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. “Bản
thân cái đẹp chính là đạo đức”
Cái đẹp = đạo đức (tốt/xấu)

Thiện
 Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám
phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Trong hình ảnh của chiếc
thuyền mờ sương, anh cảm nhận được cái chân, cái thiện, cái mĩ của cuộc đời,
anh thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khơi.
Cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người, cảm hóa hướng thiện con
người, khơi dậy những tình cảm tốt đẹp…. Với tác dụng ấy, cái đẹp là đạo
đức.
Một người lính đã từng lăn lộn trên các chiến trường, hàng ngày hàng giờ
phải đối diện với cái dữ dội tàn khốc của chiến tranh mà tâm hồn vẫn trong
veo thánh thiện. Anh thực sự biết quan sát lựa chọn cái đẹp của thiên nhiên,
cảnh vật, con người. Người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp
đến cho cuộc đời.
Cái đẹp / Mĩ = đạo đức / thiện Đó là cái đẹp phải kết hợp với cái tâm,
cái tài- cái thiện.
b> Phát hiện thứ hai: bức tranh cuộc đời nghiệt ngã
- Ngay khi tâm hồn bay bổng trong những xúc cảm thẩm mĩ, đang tận
hưởng hạnh phúc thì người nghệ sĩ đã kinh ngạc, choáng váng phát hiện một

Cảnh thiên nhiên tươi đẹp, sự thật phũ phàng.
đạo đức >< cuộc sống con
+ Bước ra từ chiếc thuyền trong cảnh biển đẹp như mơ là một người đàn
người đau khổ, phi đạo đức
bà xấu xí mệt mỏi, một người đàn ông to lớn dữ dằn. “một người đàn bà cao
lớn với đường nét thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, tấm lưng áo bạc
phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Chỉ bằng vài nét phác thảo, NMC
đã làm hiện lên trước mắt chúng ta hình ảnh nghèo khổ, tội nghiệp của người
phụ nữ hàng chài lam lũ, khó nhọc. Đó cũng là người đàn bà bình thường như
bao người phụ nữ dân chài khác. Nhưng điều khác biệt ở đây là người đàn bà
ấy lại bước ra từ con thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ, điều ấy dự báo một
nỗi éo le, nghịch cảnh nào đó sắp xảy ra.
+ Cịn người đàn ông với “hai con mắt đầy vẻ độc dữ” cùng tiếng quát tàn
độc “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ” hé mở tâm
hồn bị tha hóa, biến chất do gánh nặng cuộc đời. Tiếng quát ấy đã phá vỡ
khung cảnh tuyệt mĩ, đưa anh Phùng trở lại với hiện thực cuộc đời nghiệt ngã.
+ Một cảnh tượng tàn bạo sắp diễn ra: ông chồng đánh đập người vợ một
cách thô bạo “lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay…. chẳng nói
chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng
quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm
răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái
giọng rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ!”
Người đàn ông được trời ban cho sức mạnh để bảo vệ vơ con những người
yếu thế hơn mình. Nhưng giờ đây, người chồng vũ phu đang dùng hết sức
bình sinh để hành hạ người vợ đầu ấp tay gối. Cuộc sống mưu sinh nghèo khổ
khiến người chồng hiền lành trở nên cục tính. Lão đánh vợ như một sự trút
giận, giải tỏa nỗi khổ bế tắc của bản thân. Lão vừa đánh vợ vừa nguyền rủa



trong tâm trạng đau khổ.
+ “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một
tiếng, khơng chống trả, cùng khơng tìm cách chạy trốn”  người phụ nữ vẫn
lặng im, nhẫn nhục chịu địn. Khơng né tránh, không kêu la, không chống trả,
không chạy trốn, chị đã chấp nhận nó như một phần cuộc sống của mình. Chỉ
khi biết hành động vũ phu của chồng bị Phác và người khách lạ chứng kiến,
bấy giờ chị mới “đau đớn- vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.”. Giọt
nước mắt đau khổ của người đàn bà lúc bấy giờ mới trào ra, giọt nước mắt xót
xa, ân hận, nước mắt của nỗi nhọc nhằn và sức chịu đựng. Chị không muốn ai
chứng kiến và thương xót mình, kể cả thằng Phác, đứa con trai u quí của
chị và nhất là một người lạ như nghệ sĩ Phùng. Dù thân thể bị chà đạp, nhân
phẩm bị xúc phạm, nhưng người đàn bà ấy không để ý, không bận tâm. Chị
chỉ bận tâm khi để người khác phải bận tâm về chị. Ta hãy nhớ lại những cử
chỉ của chị lúc thằng Phác “vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực
trần vạm vỡ cháy nắng” của cha mình. Tiếng gọi “Phác, con ơi!” cất lên như
xé lịng. Người đàn bà khốn khổ ngồi xệp xuống, “ơm chầm lấy nó rồi lại
bng ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy” khiến bạn đọc vơ cùng
xúc động và thương xót. Bà khơng khóc khi bị chồng hành hạ, nhưng đã khóc
khi ơm con vào lịng. Bà đã khơng thể nào che chắn được cho con khỏi bị tổn
thương. Bà thương con, xót chồng, muốn tạ tội với con, muốn nó hiểu được
những góc khuất trong cuộc đời và đừng căm thù bố, cũng đừng trở nên độc
ác như bố nó. Người mẹ ấy đã phải tuôn rơi những giọt nước mắt tột cùng đau
đớn, bất lực vì khơng thể bảo vệ, che chở và cũng khơng thể cho con một
cuộc sống bình n. Trong cuộc mưu sinh này, người đàn bà quá khốn khổ vì
phải che chắn cả trăm chiều giơng bão và cũng thật đẹp, một vẻ đẹp ánh lên từ
muôn vàn nỗi cơ cực đắng cay. Đó là phẩm chất của con người có lịng tự
trọng.
+ đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái tát của bố
ngã dúi xuống cát. Phác hiếu thảo với mẹ nhưng lại có hành động lỗi đạo với
cha.

 cảnh tượng đau đớn, dã man, tàn bạo, phi đạo đức. đối lập hoàn toàn
với cảnh thiên nhiên và con thuyền tuyệt mĩ, với cái đẹp và đạo đức mà Phùng
mới cảm nhận.
- Phùng “kinh ngạc đến mức …cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”
vì khơng tin những gì đang diễn ra. Không thể ngờ rằng đằng sau cái đẹp diệu
kì của tạo hố kia lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể tin được, chẳng
phải là đạo đức, là chân lí của sự tồn thiện.
- Khơng thể chịu được khi thấy cảnh ấy, Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh
xuống đất, chạy nhào tới” Bản chất của người lính khiến anh khơng thể
làm ngơ trước sự bạo hành. Hành động đó khơng chỉ cho ta thấy Phùng sẵn
sàng làm tất cả vì điều thiện và sự cơng bằng của cuộc đời, mà dường như nhà
văn còn muốn gửi đến một thông điệp: trước khi là một nghệ sĩ yêu cái đẹp,
hãy là một con người biết yêu thương và chia sẻ nỗi đau nhân thế.
- Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch của gia đình
thuyền chài kia là thuốc rửa quái đản làm bức ảnh huyền diệu bỗng trở nên
khủng khiếp, ghê rợn.
(Say mê với cái đẹp nhưng anh cũng tỉnh táo để nhìn thấy những nghịch lý của
cuộc đời. Như trị đùa quái ác của cuộc sống, đúng vào lúc Phùng có khoảnh khắc
hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại và
anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hố ra đằng
sau cái đẹp “tồn bích” mà anh vừa gặp trên biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”,
cũng chẳng phải là “chân lí của sự hồn thiện”. Mà anh ngộ ra rằng cuộc đời ln tồn
tại cả thiện ác, tốt xấu. Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe dị phá mìn của
Mĩ trên bãi cát. Phải chăng cuộc chiến đấu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được


trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hồn tồn giải
phóng cịn biết bao vấn đề đặt ra: Đói kém, lạc hậu, bạo lực gia đình …Từ sự thật
phũ phàng trên bãi biển về cảnh biển và chiếc thuyền đánh cá đẹp như mơ, nghệ sĩ
Phùng đã dần dần vỡ ra bao điều về cuộc sống của những người dân chài lưới .)


c> Ý nghĩa:
- Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều mâu thuẫn,
nghịch lí, phức tạp: đẹp - xấu, thiện – ác đan xen. Hình ảnh chiếc thuyền
ngồi xa đẹp chỉ là cái vỏ bọc, che giấu cái bản chất thật của đời sống bên
trong. Cái hiện tượng và bản chất, hình thức và nội dung khơng thống nhất.
Cuộc đời và nghệ thuật không như nhau: nghệ thuật là cái đẹp của cuộc đời,
nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.
- Người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời trong mối quan hệ đa chiều, phải
tiếp cận đi sâu vào bên trong và phải sống với cuộc đời.
2. Những nhân vật:

a) Người đàn bà:

Người đàn bà:
Vẻ ngoài cùng thái độ cam
chịu khi bị chồng đánh đạp
tàn bạo nhưng cương quyết
không chịu li hôn, ra sức
bảo vệ ông lão  dễ khiến
cho Phùng, Đẩu và cả người
đọc khó hiểu, khó chấp
nhận. Phải chăng người đàn
bà nhu nhược, yếu đuối, ít
học thiếu hiểu biết nên cam
chịu một cách vơ lí, hèn
nhát.
>< ẩn sâu trong tâm hồn
là vẻ đẹp của tình mẹ
thương con, giàu đức hi

sinh, bao dung, vị tha,
nhân hậu, sự sâu sắc từng
trải thấu hiểu lẽ đời

* Khơng có tên tuổi cụ thể, tác giả gọi là “người đàn bà”, đại diện cho
những người phụ nữ làng chài nghèo khổ, cam chịu nhưng ẩn chứa vẻ đẹp
tâm hồn cao quí. (chi tiết cuối truyện: “Mụ bước những bước chậm rãi, bàn
chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hồ lẫn trong đám đơng” càng nhấn mạnh
điều đó)
* Ngoại hình: ngồi 40 tuổi, “mặt đầy vết rỗ, tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, cặp mắt đầy mệt mỏi…”  Dường như biển đã sinh ra bà. Bà mang
dáng vẻ đặc trưng của người vùng biển. Sự nghèo khó, cơ cực, lam lũ, nhọc
nhằn đã hằn in trên chân dung người đàn bà hàng chài với nước da tái ngắt vì
mệt mỏi, đói ăn, thiếu ngủ. Chỉ vài nét, nhà văn miêu tả chân thật từng chi tiết
vẻ ngoài lam lũ, nghèo khổ, cam chịu.
* Số phận bất hạnh:
- Thuở nhỏ: là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Bà
lỡ có mang với anh con trai một nhà hàng chài cục tính nhưng hiền lành
khơng bao giờ đánh đập bà. Vì khơng có nhan sắc nên khơng thể nào lấy
được người chồng ưng ý nhưng đó khơng phải là ngun nhân của cuộc sống
bất hạnh sau này của người phụ nữ ấy.
- Hiên tại:
+ Sống nghèo khổ bên cạnh người chồng vũ phu độc ác và một đàn con
trên chiếc thuyền chật hẹp, tù túng.
+ Thường xuyên bị chồng đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một
trận nặng”. Lí do bị chồng đánh rất vơ lí “Bất kể lúc nào thấy khổ q là lão
xách tơi ra đánh”
* Tính cách:
- Cam chịu, nhẫn nhục:
+ Trước khi bị đánh “đưa cặp mắt nhìn xuống chân”  thái độ cam chịu.

+ Bị chồng đánh đập, người đàn bà “không hề kêu la một tiếng, khơng
chống trả, cũng khơng tìm cách chạy trốn” người phụ nữ nhiều thiệt thòi,
bất hạnh. Khi con trai can thiệp, chị xấu hổ, van xin nó “vừa ôm chầm vừa
chấp tay vái lấy vái để nó …rồi đuổi theo người chồng”.
Bà nhẫn nhục chịu đựng sự thô bạo của người chồng vũ phu như một cách
giải tỏa uất ức, tức tối, buồn phiền cho chồng vậy. Không né tránh, không kêu
la, không chống trả, không chạy trốn, chị đã chấp nhận nó như một phần cuộc
sống của mình. Như cuộc đời người đi biển cần phải đương đầu với sóng to
gió lớn, muốn tồn tại phải chấp nhận. Sự im lặng của bà khiến chúng ta đau
lòng biết mấy. Khơng biết, chị chịu địn như thế đã bao năm rồi? “Ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, cuộc đời bà là chuỗi ngày đắng cay
tủi cực chỉ để chịu địn thơi ư? Thịt da ai cũng là người, chẳng lẽ bà không
biết đau? Cảnh tượng quá đỗi lạ lùng khiến Phùng kinh ngạc. Và mỗi người,


Trên thuyền cần có người
đàn ơng … dù người đàn
ơng đó tàn bạo và man rợ
 nghịch lí, éo le, góc
khuất của cuộc đời mà con
người phải chịu đựng.
Nguồn gốc bi kịch của gia
đình hàng chài: nghèo khổ
+ lạc hậu  hậu quả của
chiến tranh.
Rất cần phải thay đổi, có
giải pháp khả thi, thiết
thực.
Đẩu đi răn dạy ông chồng,
không bắt bà vợ li hôn

nữa.
 Báo hiệu sự thay
đổi của cả đất
nước vào năm
1986

khi đọc đến những dịng này khơng khỏi thắc mắc hoặc bức xúc thay cho bà.
Chắc chắn phải có lí do nào thật đặc biệt khiến người đàn bà này có thể trở
nên lì địn đến như vậy? Bên bờ biển, bí ẩn về cuộc đời bà mới chỉ bắt đầu hé
lộ, để đến hôm sau, hôm sau nữa, tại Tịa án Huyện, nơi cơng đường, ta cịn
ngạc nhiên hơn nữa về cuộc đời người phụ nữ vô danh muốn lấy sự nhẫn nhịn
để cứu cả gia đình và coi đó là phép màu của Hạnh phúc, thứ Hạnh phúc hiếm
hoi muộn mằn như mạch nước ngầm rỉ thấm vào mảnh đất khơ cằn vì nắng
hạn...
- Vẻ đẹp của lịng vị tha, tình u thương và đức hi sinh, sâu sắc, thấu hiểu lẽ
đời:
Đằng sau sự nhẫn nhục, cam chịu là một bản năng sinh tồn mãnh liệt và
một tấm lịng hi sinh, tình thương vơ bờ của chị đối với những đứa con.
+Khi ở toà án: lúc đầu sợ sệt, lúng túng, xưng hô lễ phép “con – q tồ”,
sau thay đổi cách xưng hơ “chị - các chú”, thái độ mạnh dạn, chủ động kể
chuyện.  Hiểu được thiện ý của Đẩu, Phùng nhưng cũng thông cảm cho sự
ngây thơ của họ. Câu chuyện của người đàn bà giúp Đẩu và Phùng hiểu hơn
về cuộc đời, con người.
+ Nhẫn nhục, chịu đựng, không chịu từ bỏ, vẫn gắn bó với người chồng
vũ phu “q tồ bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó” bởi “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tơi cần phải có người đàn
ơng để chèo chống khi phong ba / để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp
con / phải sống cho con chứ khơng thể sống cho mình” do người chồng là
chỗ dựa quan trọng của gia đình làng chài khi biển động, người phụ nữ cần
người chồng phụ nuôi con. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn như một lẽ

đương nhiên vì cuộc sống khó khăn cần có người đàn ơng khỏe mạnh, biết
nghề, để có một chỗ dựa cho những đứa con được sống và lớn lên. Người mẹ
hết lòng yêu thương con, hi sinh bản thân, xem đó là số phận của người đàn
bà vùng biển. Chính tình thương vô bờ của bà đối với những đứa con giúp bà
chịu đựng nỗi đau bị hành hạ qua nhiều năm tháng.
Thật đáng thương thay cho chị, người phụ nữ xấu xí có thân phận thấp
hèn. Ngày xưa, nàng Kiều cũng thân lươn bao quản lấm đầu để giữ lấy sự
trinh bạch, cịn chị thì im lặng chịu địn để giữ lấy nhiều thứ quan trọng hơn,
mà trước hết là nhân cách, lòng tự trọng. Chị lĩnh những trận đòn như một lẽ
đương nhiên, vì khơng muốn ai biết chuyện này, vì khơng muốn những đứa
con thơ ngây phải chứng kiến cảnh cha đánh mẹ. Chị im như tượng đá nhận
về mình mọi nỗi đau đớn để chồng được hả cơn giận, để gia đình cịn có
người chèo chống lúc phong ba và cùng nhau nuôi đàn con “nhà nào cũng
trên dưới chục đứa”. Khi đã ý thức được việc mình làm, chị khơng cịn thấy
đau nữa.
“Đàn bà trên thuyền chúng tơi phải sống cho con chứ chứ khơng sống
cho mình như trên mặt đất được”. Có lẽ đó là câu nói gợi nhiều suy nghĩ nhất
trong lịng bạn đọc, thể hiện nhiều nhất vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ. Phải
rồi, chính vì tình thương u vơ bờ bến với những đứa con mà chị chấp nhận
hi sinh. Thấp thoáng sau hình ảnh chị là bóng dáng cuộc đời bao người vợ,
người mẹ, người phụ nữ Việt Nam nhẫn nại cay đắng mà vẫn trong trẻo lắm
một tấm lòng vị tha, nhân hậu.
+ Luôn lo sợ làm tổn thương các con “sau này con cái lớn, tôi mới xin
được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh” không muốn con cái chứng kiến cảnh
cha mẹ bất hoà. Chỉ khi biết hành động vũ phu của chồng bị Phác và người
khách lạ chứng kiến, bấy giờ chị mới “đau đớn- vừa đau đớn vừa vô cùng xấu
hổ, nhục nhã.”. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà lúc bấy giờ mới trào
ra, giọt nước mắt xót xa, ân hận, nước mắt của nỗi nhọc nhằn và sức chịu
đựng. Chị không muốn ai chứng kiến và thương xót mình, kể cả thằng Phác,
đứa con trai yêu quí của chị và nhất là một người lạ như nghệ sĩ Phùng. Dù

thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm, nhưng người đàn bà ấy không để


ý, không bận tâm. Chị chỉ bận tâm khi để người khác phải bận tâm về chị. Ta
hãy nhớ lại những cử chỉ của chị lúc thằng Phác “vung chiếc khóa sắt quật
vào giữa khn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha mình. Tiếng gọi “Phác,
con ơi!” cất lên như xé lòng. Người đàn bà khốn khổ ngồi xệp xuống, “ơm
chầm lấy nó rồi lại bng ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”
khiến bạn đọc vơ cùng xúc động và thương xót. Bà khơng khóc khi bị chồng
hành hạ, nhưng đã khóc khi ơm con vào lịng. Bà đã khơng thể nào che chắn
được cho con khỏi bị tổn thương. Bà thương con, xót chồng, muốn tạ tội với
con, muốn nó hiểu được những góc khuất trong cuộc đời và đừng căm thù bố,
cũng đừng trở nên độc ác như bố nó. Người mẹ ấy đã phải tuôn rơi những giọt
nước mắt tột cùng đau đớn, bất lực vì khơng thể bảo vệ, che chở và cũng
khơng thể cho con một cuộc sống bình yên. Trong cuộc mưu sinh này, người
đàn bà quá khốn khổ vì phải che chắn cả trăm chiều giơng bão và cũng thật
đẹp, một vẻ đẹp ánh lên từ muôn vàn nỗi cơ cực đắng cay. Đó là phẩm chất
của con người có lịng tự trọng.
+ Gửi thằng Phác lên sống với ơng ngoại vì muốn gìn giữ, bảo vệ cho
con, để tránh mối bất hoà giữa cha – con.
+ Xót xa và đau đớn khi làm tổn thương tâm hồn thơ dại của con:
người đàn bà cảm thấy “vừa đau đớn vừa xấu hổ và vô cùng nhục nhã” khi để
con trông thấy cảnh cha đánh mẹ. Bà “ôm chầm lấy nó rồi lại bng ra, chắp
tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”.  sống chỉ vì con, vì gia đình,
+ Niềm hạnh phúc của người đàn bà là “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn
con tơi chúng nó được ăn no” và “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
sống hồ thuận vui vẻ”. Cuộc đời nhọc nhằn lam lũ nhưng biết chắt chiu hạnh
phúc đời thường. niềm vui của người mẹ nghèo khổ đơn giản đến không ngờ.
+ Bao dung, vị tha: Người đàn bà nhận hết lỗi về phía mình, khơng
trách móc hay căm giận người chồng “giá tơi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được

một chiếc thuyền rộng hơn”. Bà thấu hiểu được nguyên nhân sâu sa hành
động vũ phu của chồng vì những lẽ riêng, rất đời thường: nghèo khổ, lạc hậu,
con cái nheo nhóc, khơng gian tù túng khiến “một anh con trai cục tính nhưng
hiền lành” thành kẻ thơ bạo, dã man (so sánh cách nhìn của Đẩu- PhùngPhác)  người đàn ông là nạn nhân của hồn cảnh khắc nghiệt cần được cảm
thơng, chia sẻ.
 Lời giãi bày của người mẹ đáng thương cho thấy nguyên nhân của
mọi sự chịu đựng, chị không cam chịu một cách vơ lí, ngờ nghệch. Người phụ
nữ nghèo khổ trở nên sắc sảo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời (nhưng kín đáo, khơng
để lộ điều đó ra bên ngồi). “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái
sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ
rõ rệt ra bề ngoài”
=> Qua câu chuyện đời của người đàn bà ở tòa án, ta thấy chị là người
giàu tình thương và đức hi sinh, nhân hậu và vị tha, luôn khao khát có được
cuộc sống no đủ, bình n. Chị hầu như khơng mảy may nghĩ đến mình, chỉ lo
cho tương lai của đàn con đông đúc kia. Như vậy sự cam chịu, nhẫn nhục của
chị không phải do mù quáng mà thấu hiểu và thương xót.
- Người đàn bà có sự sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời
Đọc CTNX, người đọc không chỉ ngạc nhiên trước thái độ nhẫn nhục của
người đàn bà hàng chài khi bị chồng hành hạ, nhục mạ một cách phi lí mà cịn
ngạc nhiên hơn nữa trước thái độ của bà tại tòa án Huyện.
Từ chỗ “chắp tay vái lạy lia lịa”, “q tịa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” đến lúc đột nhiên “mất hết cái vẻ ngoài
khúm núm, sợ sệt khi mới xuất hiện ở tòa án”, người đàn bà hàng chài như đã
trở thành một con người khác.
Sau cái vẻ khúm núm, sợ sệt, dáng ngồi rụt rè mớm ở mép ghế là một con
người thâm trầm sắc sảo đang ở thế đứng trên hai nhà trí thức mà trút ra
những lời lẽ được chiêm nghiệm trong cả cuộc đời đầy lo toan vất vả: “Các


chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc

của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc” ..., “các chú khơng phải là người
đàn bà chưa bao giờ các chú biết...”. Người đàn bà đã kể câu chuyện cuộc đời
mình, qua đó gián tiếp đưa ra các lí do vì sao nhất quyết không bỏ người
chồng vũ phu: “ông trời sinh ra người đàn bà đẻ con và nuôi con khôn lớn”.
Nhưng cuộc sống chài lưới đầy những bất trắc, họ cần những người đàn ông
làm chỗ dựa, nếu bỏ chồng, chị sẽ phải đối mặt với bi kịch khác khủng khiếp
hơn: bi kịch của những đứa con phải chịu cảnh đói khát. Mặt khác, trong đau
khổ triền miên, họ vẫn có những lúc “vợ chồng con cái chúng tơi sống hịa
thuận vui vẻ... vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no”.
 Nhân vật người đàn bà là hiện thân cho tính cách của một người lao
động chất phác, lam lũ, sống nhẫn nhục nhưng giàu tình thương và đức hi sinh
nhân hậu và vị tha. Bà là hiện thân cho cái đẹp khiêm nhường, thầm lặng, cái
bí ẩn sâu xa của tâm hồn con người. Người đàn bà có vẻ đẹp khuất lấp.

Bằng nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện đặc sắc và sử dụng ngôn
ngữ trần thuật linh hoạt, ngôn ngữ đối thoại và những nét phác họa về ngoại
hình sinh động, tác giả đã xây dựng thành công chân dung người đàn bà hàng
chài với vẻ đẹp độc đáo, khuất lấp. Đằng sau vẻ bề ngồi xấu xí, thơ kệch là
tâm hồn sáng trong như ngọc; sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì, vơ cảm là sự
kiên cường; sau bộ dạng chịu xúc phạm đến nhẫn nhục là đức hi sinh lớn lao
của tình mẫu tử; sau vẻ ù lì cam chịu đến vơ lí bởi đói nghèo, thất học là việc
hiểu thấu lẽ đời. Khi mà xã hội chưa có những giải pháp thực sự hiệu quả và
kịp thời để giúp họ ổn đinh hơn trong nghề chài lưới đầy bất trắc, chị chỉ còn
một cách: chấp nhận!
Qua nhân vật người đàn bà, tác giả lên án bạo lực, bày tỏ tình thương yêu
đối với những con ngừơi nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ; đồng thời đặt vấn đề phải
giải phóng con người ra khỏi đói nghèo tăm tối, đem lại cuộc sống hạnh phúc
cho con người.
• Từ câu chuyện ở tòa án giúp Đẩu nhận ra nhiều điều, giúp Phùng hiểu
hơn về tấm lòng và sự hi sinh của người mẹ, nhận ra mối quan hệ giữa nghệ

thuật và cuộc đời. Khơng thể nhìn đời một cách đơn giản, cần nhìn cuộc sống
đa diện, nhiều chiều….

b) Người đàn ơng:

- Ngoại hình: “Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ,
chân đi chữ bát, hàng lịng mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc
dữ”  cuộc sống đói nghèo lam lũ đã hằn in lên dáng vẻ khắc khổ
- Tính cách:
+ Trước đây là một anh con trai làng chài nghèo, “cục tính nhưng hiền
lành”, do “nghèo khổ, túng quẫn” trở thành người vũ phu, tàn bạo, hay đánh
vợ con.
+ Khi nào thấy khổ là lão đánh vợ: “lão đàn ông trở nên hùng hổ…
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lủă cháy bằng cách dung chiếc
thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng
cái giọng rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ.” gánh nặng mưu sinh đè nặng khiến người chồng tha hoá
thành một kẻ vũ phu, độc ác, ích kỉ, tự cho phép mình đánh vợ như một sự
giải toả nỗi uất ức, bế tắc trong lòng, để trút sạch nỗi buồn phiền.
- Thái độ của mọi người trước hành động đánh vợ của ông:
+ Người vợ: cảm thông, thấu hiểu
+ Phác, Phùng, Đẩu: kịch liệt lên án, phản đối
 người đàn ông là nạn nhân của hoàn cảnh khắc nghiệt đồng thời là
thủ phạm gây nên nỗi đau khổ cho vợ con.


c) Những đứa con:

* Đáng thương khi sống trong gia đình khơng hạnh phúc. Chúng bị đẩy vào

tình thế khó xử: không biết làm thế nào cho đúng đạo làm con?
* Chị của Phác:
- Cô bé can đảm, đã hành động đúng khi vật lộn với em để tước con dao,
không cho em làm việc dại dột, trái với luân thường đạo lí
- Chỗ dựa vững chắc của người mẹ, chăm sóc lo toan khi mẹ lên tồ án.
* Phác: thương mẹ theo cách 1 đứa con trai vùng biển chưa chín chắn, căm
ghét bố
- “Tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền khi nào nó cịn có mặt ở
dưới biển thì mẹ nó khơng bị đánh”. Thấy bố hành hạ mẹ, nó “nhảy xổ vào
người đàn ơng, giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc
khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ”, “con dao giấu trong cạp
quần” để chống lại bố.
- Thấy mẹ khóc, “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ,
như muốn lau đi những giọt nước mắt”
 hành động khó chấp nhận, nhưng tình thương đối với mẹ khiến người đọc
cảm động.
Cách giải quyết vấn đề khi  Cái nhìn lo âu, đầy trách nhiệm của tác giả: những đứa trẻ sẽ trở thành
khuyên người đàn bà li hôn người như thế nào nếu môi trường sống không thay đổi, lên tiếng bảo vệ khát
không sai, nhưng mang tính vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em.
lí thuyết sách vở. khơng thể
áp dụng cho hồn cảnh gia
đình người đàn bà. Đó là
giải pháp thiếu thực tế.
Đẩu là chánh án nhưng lại
chưa hiểu rõ cuộc sống của
dân vùng biển, nỗi lam lũ
khó nhọc của họ. Đẩu xa rời
nhân dân, chỉ làm việc theo
sách vở, lí thuyết, có cái
nhìn phiến diện


d) Chánh án Đẩu:

* Đồng hương, bạn chiến đấu trong những năm chống Mĩ của Phùng. Sau hồ
bình, làm chánh án ở 1 huyện vùng biển
* Tính cách:
- “Nổi tiếng hay đùa tếu” nhưng khi làm việc rất nghiêm túc
- Người có lịng tốt, đầy trách nhiệm, giàu lòng yêu thương con người. Am
hiểu luật pháp, sẵn sàng bảo vệ cơng lí, bênh vực người phụ nữ bị áp bức,
khuyên chị li hôn với người chồng vũ phu.
- Đẩu chỉ hiểu biết trên sách vở, trong khi cuộc đời phức tạp, không đơn giản,
anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Trước câu chuyện của người
đàn bà “có một cái gì vừa vỡ ra trong đầu vị bao công của cái phố huyện
vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ” Đằng sau
sự nhẫn nhục của người vợ, sự vũ phu của người chồng là những vấn đề phức
tạp tồn đọng trong cuộc sống gia đình người dân nghèo miền biển. Đằng sau
cái vơ lí là cái có lí (việc người đàn bà bị hành hạ là vơ lí, nhưng người đàn bà
ấy khơng muốn rời bỏ chồng lại có lí riêng); đằng sau cái tưởng chừng đơn
giản lại chứa chất nhiều phức tạp (ban đầu, Đẩu tưởng li hôn là cách giải
quyết dứt điểm được sự việc, sau anh nhận ra quan hệ của họ có nhiều ràng
buộc phức tạp hơn nhiều). Đời sống có những nghịch lí khó lí giải nhưng con
người buộc phải chấp nhận nó. “Trên thuyền cần có người đàn ơng….tàn bạo,
man rợ”
+ Muốn giải quyết những vấn đề của cuộc sống, không chỉ dựa vào thiện chí,
pháp luật hoặc lí thuyết sách vở, mà phải thấu hiểu cuộc sống và cần có giải
pháp thiết thực.  Lịng tốt là đáng q nhưng chưa đủ, luật pháp cần đi vào
đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể,
không thể áp dụng cứng nhắc cho mọi đối tượng. Muốn con người thoát khỏi
tối tăm đau khổ, cần có những giải pháp thiết thực, chứ khơng phải chỉ có
thiện chí hay lí thuyết đẹp đẽ.


e) Nhân vật Phùng: nhân vật thể hiện tư tưởng, quan niệm của tác giả

về nghệ thuật, con người, cuộc đời.
* Câu chuyện được kể cảm nhận cả Phùng - kiểu nhân vật tự nhận thức
* Tính cách:


1. Người nghệ sĩ tài hoa, say mê công việc, có ý thức trách nhiệm với
nghề nghiệp của mình. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cái đẹp. (phân tích Phát hiện
1)
- Phùng là một nghệ sĩ tài hoa, say mê cái đẹp. Niềm đam mê ấy khiến anh
phục kích hàng tuần liền trên bờ và thu được những tấm ảnh đẹp. Nhạy bén
với cái đẹp trời cho hết sức thơ mộng, mải mê thưởng lãm, háo hức ghi vào
ống kính điêu luyện của mình. Một người lính đã từng lăn lộn trên các chiến
trường, hàng ngày hàng giờ phải đối diện với cái dữ dội tàn khốc của chiến
tranh mà tâm hồn vẫn trong veo thánh thiện. Anh thực sự biết quan sát lựa
chọn cái đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người. Cái đẹp tự nhiên “đắt giá”,
“trời cho” mới thực sự làm rung động lòng người.
- Niềm hân hoan khám phá sáng tạo tràn ngập tâm hồn khi chìm đắm
trong những suy tưởng về sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện, về sự tận
thiện tận mĩ của nghệ thuật và cuộc sống. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ
chân chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái
đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngồi xa trong biển
sương mờ, anh đã bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ, thấy tâm hồn như được gột
rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khơi bởi cái đẹp hài hồ, lãng mạn của cuộc
đời.
2. Vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lịng đầy trăn trở, lo
âu về thân phận con người- Phẩm chất sâu xa nhất của nghệ sĩ.
- Khi thấy người đàn bà bị đánh, anh “kinh ngạc, há mồm ra nhìn” rồi

“vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới” như một phản xạ tự nhiên. Lần
thứ 2 nhìn thấy, anh đã đánh nhau với lão đàn ơng và bị thương nhẹ. Người
lính từng vào sinh ra tử, căm ghét sự áp bức bất cơng, sẵn sàng chiến đấu vì
điều thiện lẽ cơng bằng. (phân tích Phát hiện 2)
- Khi nghe câu chuyện đời của người đàn bà ở tòa án:
+ Trong buổi triệu tập người đàn bà của toà, khi nghe người đàn fbaf
không chịu li dị chồng, Phùng phẫn nộ trước thái độ cam chịu của người đàn
bà “tôi cảm thấy gian phịng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút
hết khơng khí, trở nên ngột ngạt q”,
+ Bực bội khi người đàn bà thay đổi thái độ và cách xưng hơ nói chuyện
“Chị cảm ơn các chú. Lịng các chú tốt…”
+ Sau khi lắng nghe câu chuyện của người đàn bà, Phùng đồng cảm,
thương xót cho người đàn bà; lo âu cho tương lai của người trong cuộc.
“cả đời chị có một lúc nào thật vui khơng?”.
Phùng cũng như Đẩu cao thượng, tốt bụng nhưng thiếu thực tế, bị định kiến
chi phối (cho rằng ông chồng tàn bạo chắc từng là lính ngụy), khơng hiểu
được sự cam chịu của người đàn bà. Chỉ thấy hiện tượng chứ chưa hiểu bản
chất của vấn đề, đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người.
- Thay đổi nhận thức sau câu chuyện của người đàn bà ở tòa án:
+Về sau hiểu ra, Phùng có cái nhìn đời khác hẳn, hiểu mọi người (người
dân nghèo vùng biển, Đẩu) và hiểu chính mình. (ý nghĩa 2 phát hiện, quan
niệm về nghệ thuật - con người…)
Từ câu chuyện đời của người đàn bà, Phùng ngộ ra được nhiều điều về
nhân tình thế thái. Hóa ra lão chồng vũ phu ln mồm nguyền rủa vợ con lại
là người đứng mũi chịu sào, vắt kiệt sức lực để nn nấng vợ con. Hóa ra bên
trong ngoại hình xấu xí của người đàn bà hàng chài là một tâm hồn đẹp, một
tấm lòng vị tha, một tình mẫu tử thiêng liêng. Hóa ra cái lẽ đời cay cực kia
chưa thể giải quyết bằng lòng tốt, bằng ý chí chủ quan. Hóa ra trong cuộc đời
có những nghịch lí con người bắt buộc phải chấp nhận, như kiểu “Trên thuyền
phải có một người đàn ơng…dù hắn man rợ tàn bạo”. Quan tâm, đồng cảm

sâu sắc với nỗi đau của người đàn bà và trân trọng, khâm phục nghị lực, vẻ
đẹp tâm hồn của người đàn bà. Anh Phùng lo lắng cho gia đình hàng chài khi


bão đến, lo lắng cho số phận những đứa bé trong gia đình đó….
Và anh cũng ngộ ra sâu sắc một điều: Trong cuộc chiến chống đói nghèo,
đau khổ tối tăm, cần phải có những giải pháp thiết thực chứ khơng phải là
những thiện chí hoặc những lí thuyết đẹp đẽ xa rời thực tế. Và đó là cuộc
chiến cịn gian nan hơn cả cuộc chiến chống ngoại xâm. Chừng nào chưa
thốt đói nghèo con người cịn phải sống chung với cái xấu và cái ác. Đây
cũng là sự vỡ ra của người nghệ sĩ nhiếp ảnh về “độ chênh” giữa cái đẹp nghệ
thuật và thực tế cuộc sống. Phùng nhận ra Chính khát vọng tìm đến cái đẹp
tồn bích nhiều khi đưa con người đến chỗ đơn giản hoá, khơng nhìn ra thực
tế khắc nghiệt. Chính “độ chênh” giữa nghệ thuật và cuộc đời đã đem đến
những thay đổi trong quan niệm của người nghệ sĩ.
Qua nhân vật Phùng, nhà văn cịn muốn gửi đến một thơng điệp: trước
khi là một nghệ sĩ yêu cái đẹp, hãy là một con người biết yêu thương và chia
sẻ nỗi đau nhân thế. Trước khi rời vùng biển trung du đầy nắng gió, Phùng đã
đi suốt một đêm ngồi bờ phá. Chắc hẳn anh sẽ không thể quên cảnh đẹp nơi
đây, và càng thể quên hình ảnh chiếc thuyền chống chịu cơn sóng gió. Rồi cả
những ngày biển động là những ngày đói, cả tháng trời ăn xương rồng luộc
chám muối. Lịng người nghệ sĩ nặng trĩu bao điều trăn trở: Bao giờ cuộc đời
của những người hàng chài mới hết khổ? Tương lai con cái họ sẽ ra sao?
Chính những suy nghĩ và tình cảm của anh khơng chỉ làm nên vẻ đẹp tâm hồn
của người nghệ sĩ mà còn thức tỉnh tình người trong lịng người đọc. Quả thực
đối với một người nghệ sĩ, tài năng là quan trọng, nhưng quan trọng hơn cả là
cái tâm đối với cuộc đời.

“Chao ôi! Nghệ thuật không
cần phải là ánh trăng lừa

dối, không nên là ánh trăng
lừa dối, nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng đau khổ kia,
thoát ra từ những kiếp lầm
than…”.
Và một tác phẩm có giá trị
phải “chứa đựng được một
cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa
đau đớn, lại vừa phấn khởi.
Nó ca tụng lịng thương,
tình bác ái, sự cơng bình…
Nó làm cho người gần
người hơn” (Nam Cao)
“Nhà văn tồn tại ở trên đời
có lẽ trước hết là vì thế: để
làm cơng việc giống như kẻ
nâng giấc cho những người
cùng đường, tuyệt lộ, bị cái
ác hoặc số phận đen đủi dồn
con người ta đến chân
tường, những con người cả
tâm hồn và thể xác bị hắt
hủi và đọa đày đến ê chề,
hoàn toàn mất hết lòng tin
vào con người và cuộc đời,
để bênh vực cho những con
người khơng cịn ai để bênh
vực” Nguyễn Minh Châu.
Nhanh nhạy và mới mẻ,


3. Sau chuyến đi, Phùng thay đổi hẳn nhận thức Nhận thức về mối quan hệ
giữa nghệ thuật và cuộc đời.
- Trở về từ bãi biển miền Trung, Phùng mang theo nhiều tấm ảnh, trong đó có
tấm ảnh “chiếc thuyền ngồi xa”. Đó là một bức ảnh tĩnh, đen trắng, nhưng
lần nào nhìn sâu vào bức tranh, Phùng lại như thấy một người đàn bà hàng
chài bước ra từ chiếc thuyền đó.
- Ấn tượng về tấm hình ở cuối tác phẩm là sự ám ảnh sâu sắc của người nghệ
sĩ. Anh nhìn tấm ảnh qua sự ám ảnh đó chứ khơng bằng con mắt khách quan.
+ Nhớ niềm hạnh phúc, thăng hoa trước vẻ đẹp của nghệ thuật
+ Ám ảnh cả nỗi đau bi kịch của gia đình hàng chài. Khâm phục vẻ đẹp nghị
lực tình thương, tâm hồn của người đàn bà.
+ Từ phát hiện vẻ đẹp thiên nhiên chuyển sang khám phá vẻ đẹp con người.

3. Quan niệm nghệ thuật – con người - cuộc đời của tác giả:

- Khơng nhìn đời, nhìn người một cách dễ dãi, một phía. Phải tìm hiểu
những nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi của con người trước khi kết luận,
phán xét. Phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều.
- Hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nghệ thuật
không chấp nhận sự giả dối, nghệ thuật phải gắn liền với cái thật và đạo đức.
Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính ln gắn
với cuộc đời và vì con người. Vì thế người nghệ sĩ nhìn nhận cuộc sống
không thể đơn giản và sơ lược mà phải đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản
chất sâu bên trong của hiện tượng. Người nghệ sĩ ngoài biết rung động trước
cái đẹp, cần là người biết yêu ghét, vui buồn trước lẽ đời thường tình, dũng
cảm nhìn thẳng vào hiện thực và số phận con người, biết hành động để có một
cuộc sống xứng đáng với con người.
(Nghệ thuật vị nghệ thuật – nghệ thuật vị nhân sinh
Vũ Như Tô - trong kịch “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” // Phùng)


4. Giá trị nhân đạo

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”, qua những phát hiện của Phùng về vẻ


NMC đã nhận ra độ chênh
lệch giữa hai bình diện này
(văn học – cuộc sống) trong
thực tiễn. ông phê phán lối
viết “tráng lên một lớp men
trữ tình” làm nhịe đi sự thật
cuộc đời.
cuộc tranh luận từng được
mệnh danh là giữa phái
“nghệ thuật vị nhân sinh”
do Hải Triều làm chủ soái
và phái “nghệ thuật thuật vị
nghệ thuật” do Hoài Thanh
cầm đầu trong các năm từ
1935 đến 1939

đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ của những
con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của
nhà văn về nhân cách, đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn,
trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động.
Từ bi kịch của gia đình hàng chài, tác giả muốn nói đến một cuộc chiến
mới, khơng kém phần khó khăn gian khổ so với cuộc chiến chống kẻ thù xâm
lược vừa qua, đó là cuộc chiến chống giặc đói, giặc dốt, để bảo vệ nhân tính,
thiên lương và vẻ đẹp tâm hồn con người.
Truyện thể hiện tấm lịng tình u tha thiết của NMC đối với con người.

Tình yêu ấy bao hàm cả khát vọng kiếm tìm, phát hiện, tơn vinh những vẻ đẹp
người cịn tiềm ẩn, cả những khắc khoải lo âu trước cái xấu và cái ác…

5. Giá trị nghệ thuật: Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
a) Xây dựng tình huống độc đáo:
- Phùng đi săn ảnh và chụp được bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” tuyệt
đẹp.
- Trong giây phút say sưa trước cái đẹp, Phùng tình cờ chứng kiến một
cảnh tượng thơ bạo: người chồng vũ phu tàn nhẫn đánh đập người vợ cam
chịu, nhẫn nhục.
- Trong buổi xét xử của tòa án, Phùng hiểu tấn bi kịch chua xót của gia
đình ngư dân. Từ đó, Phùng có cách nhìn đời khác đi. Anh thấy rõ cái ngang
trái, hiểu thêm về người đàn bà, chị em Phác, hiểu sâu thêm bản chất của
người bạn Đẩu và hiểu chính mình
 Tình huống truyện độc đáo, được đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy
sâu, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, số phận con người. Qua đó
nhà văn thể hiện tinh thần nhân đạo và suy tư về cuộc đời, nghệ thuật và con
người.
b) Ngôn ngữ- cách trần thuật:
- Chọn người kể chuyện là nhân vật Phùng (hoá thân của tác giả)  tạo ra
điểm nhìn trần thuật sắc sảo, có khả năng khám phá đời sống, tăng tính khách
quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. (Nhà văn có thể nhìn cuộc đời và con
người ở các góc độ, cự li khác nhau, lúc đối thoại, lúc độc thoại, …)
- Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách
+ Giọng điệu người đàn ông: thô bỉ, tàn nhẫn, tục tằn, hung bạo
+ Những lời của người đàn bà: dịu dàng, xót xa khi nói với con, đớn đau
và thấu trải lẽ đời khi nói về mình
+ Lời của Đẩu: giọng điệu của người tốt bụng, nhiệt thành.
+ Phùng: giọng chiêm nghiệm, suy tư

 Góp phần khắc sâu thêm chủ đề - tư tưởng của truyện
III. GHI NHỚ
Chủ đề:
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau
bức ảnh, truyện ngắn mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc
sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất
thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

1930 – 1945
1945 – 1975
1975 – 2000
Chí Phèo, Hai đứa Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt… Chiếc thuyền ngoài xa
trẻ, Tắt đèn…


Tinh thần nhân đạo
- Thương xót số phận bất hạnh
- Ca ngợi những phẩm chất tốt
- Đấu tranh đòi quyền sống, hạnh phúc cho con người
- Tố cáo lên án thế lực xấu, chà đạp hành hạ
Kết thúc trong bế tắc, Kết thúc có lối thốt, hi
tuyệt vọng, bi kịch
vọng thay đổi cuộc sống.
nhờ có Đảng, cách mạng.
Cái nhìn cịn xi chiều,
đơn giản hóa cuộc sống

Kết thúc mở, chưa có cách giải quyết
vấn đề triệt để, thể hiện bản chất cuộc
sống vốn phức tạp, đa chiều

Báo hiệu sự thay đổi theo chiều hướng
tích cực, chứ khơng bế tắc tuyệt vọng
(anh Đẩu và Phùng thay đổi nhận
thức,
Người đọc sau câu chuyện cũng trăn
trở suy tư tìm cách giải quyết giúp đỡ
gia đình…
Chính những điều này báo hiệu sự
thay đổi theo chiều hướng tích cực,
chứ khơng bế tắc.)
Câu chuyện dự báo sự thay đổi của cả
đất nước vào năm 1986.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×