Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

Luận án tiễn sĩ kinh tế cấu trúc sở hữu, hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động trường hợp các ngân hàng thương mại cổ phần tại việt nam 13 210

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 198 trang )

5

CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
1.1 Bối cảnh thực tiễn và lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia có thị trường tài chính sơi nổi và phát triển
nhanh nhất thế giới với các chính sách đổi mới nổi bật cả về chính trị lẫn kinh tế kể từ
năm 1986. Nền kinh tế thị trường định hướng theo chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam
được đánh giá là trường hợp nghiên cứu đặc biệt, thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả
(Doan, Lin & Doong, 2018). Khi nghiên cứu bất kỳ hệ thống kinh tế nào, lĩnh vực ngân
hàng luôn là một trong những chủ đề quan trọng được quan tâm nhiều nhất. Tại Việt
Nam, hệ thống tài chính dựa trên nền tảng ngân hàng, do đó, ngành ngân hàng được
xem là mạch máu của cả nền kinh tế. Các NHTMCP đóng vai trò quan trọng trong phân
phối vốn từ các chủ thể thừa vốn tới chủ thể thiếu vốn. Đây là nguồn cung cấp tài chính
ngắn hạn và dài hạn chủ yếu của hầu hết các đối tượng trong nền kinh tế, đặc biệt là khu
vực tư nhân (Tran, Hassan & Houston, 2018). Khác với các quốc gia khác trên thế giới,
phần lớn hệ thống ngân hàng Việt Nam do các NHTMCP Nhà nước chi phối, trong đó
cổ đơng lớn nhất là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với hơn 70% tổng vốn chủ sở hữu.
Các NHTMCP Nhà nước chiếm xấp xỉ 50% thị phần (SBV, 2017), sở hữu lượng khách
hàng lớn nên thường ít có động lực cải thiện khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động.
Từ năm 2005 đến nay, hệ thống Ngân hàng Việt Nam chứng kiến ba giai đoạn thay
đổi và phát triển: giai đoạn hội nhập (2005 – 2010), giai đoạn khủng hoảng (2011-2014)
và giai đoạn tái cơ cấu và phục hồi (từ 2014). Từ năm 2005, Việt Nam là một trong
những quốc gia tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện rõ nét qua việc tham gia vào
hàng loạt các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế (WTO, AFTA) và ký kết các Hiệp
định song phương, đa phương theo hướng toàn cầu hóa (TPP, EVFTA). Theo lộ trình
cam kết, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải mở cửa hội nhập. Đặc biệt năm 2007,
sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngành ngân hàng
chứng kiến sự bùng nổ về số lượng các ngân hàng. Sự xuất hiện của 10 ngân hàng tư
nhân mới và sự thâm nhập của 5 ngân hàng nước ngoài khiến cho mức độ cạnh tranh
của ngành trở nên khốc liệt hơn. Mặt khác, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào




6
cơ cấu quản trị của các ngân hàng ngày càng gia tăng, góp phần đa dạng hóa cơ cấu vốn
chủ sở hữu hiện có của các ngân hàng (cổ đơng trước giai đoạn này chỉ bao gồm nhà
nước, tư nhân và tổ chức), từ đó, hiệu quả hoạt động cũng như rủi ro của ngân hàng
cũng bị ảnh hưởng (SBV, 2020).
Sau khi bong bóng bất động sản tại Hoa Kỳ vỡ vào năm 2007, nền kinh tế Thế giới
chứng kiến liên tiếp cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn (Chen, Wei, Zhang
& Shi, 2013; Demyanyk & Van Hemert, 2011). Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại
trong khi áp lực lạm phát vẫn gia tăng đáng kể, thách thức chính sách tiền tệ của các
ngân hàng trung ương. Mức độ tác động của khủng hoảng khác nhau tùy thuộc vào mức
độ hội nhập của nền kinh tế. Nhiều nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế lớn như Mỹ,
châu Âu, Nhật Bản, phải gánh chịu những hậu quả nặng nề như tăng trưởng kinh tế âm,
thu hồi sản xuất kinh doanh, hàng loạt doanh nghiệp phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Trong bối cảnh đó, thị trường tài chính liên tục có những tín hiệu tiêu cực, tạo tâm lý bi
quan cho toàn bộ nền kinh tế. Nguyên nhân cơ bản của thảm họa kinh tế này xuất phát
từ khủng hoảng tín dụng và sự tập trung rủi ro trong danh mục tín dụng của ngân hàng.
Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó. Tất cả các chỉ số kinh tế của Việt
Nam suy giảm đáng kể từ năm 2009 và ngày càng tệ hơn trong giai đoạn 2011-2014.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế Việt Nam không hề nhỏ: hoạt
động sản xuất kinh doanh bị hạn chế, giá trị sản xuất công nghiệp giảm, tỷ lệ thất nghiệp
gia tăng, quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng trở nên xấu đi (do các doanh
nghiệp sản xuất gặp nhiều khó khăn). Trên thực tế, tăng trưởng GDP năm 2011 giảm
xuống 4,8% - mức thấp nhất kể từ năm 1999, trong khi tỷ lệ lạm phát liên tục tăng vọt
ngồi tầm kiểm sốt với hai con số kể từ cuối năm 2010. Bên cạnh đó, tổng đầu tư (chủ
yếu của khu vực nhà nước) bị giảm khoảng 40% GDP đến khoảng 30% GDP trong giai
đoạn 2009 - 2015 (Bezemer & Schuster, 2014). Nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với
tình trạng nhập siêu cao, thâm hụt ngân sách và nợ công cận ngưỡng.
Ngành ngân hàng Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng này.

Xu hướng tăng trưởng tín dụng chậm lại và nợ xấu gia tăng là hai dấu hiệu rõ ràng tác
động lớn đến hoạt động của các NHTMCP. Nợ xấu, tình trạng thiếu thanh khoản và


7
hoạt động kém hiệu quả là những mối lo ngại lớn đối với tồn ngành vào thời điểm đó.
Các ngân hàng Việt Nam bộc lộ một số yếu điểm, điển hình như thiếu nguồn vốn đệm,
kỹ năng quản lý kém và thiếu một chiến lược quản lý rủi ro hiệu quả. Bắt nguồn từ các
biện pháp kích thích kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008-2009,
tình trạng mở rộng tín dụng nhanh chóng mà khơng kiểm sốt hiệu quả rủi ro tín dụng
và rủi ro đạo đức đã gây ra nhiều vấn đề tiêu cực về chất lượng tài sản tại hầu hết các
NHTMCP Việt Nam. Đây là nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng ngân hàng Việt
Nam từ năm 2011 đến năm 2014. Kết quả là, tỷ lệ nợ xấu bình quân trên tổng vốn của
toàn hệ thống tăng vọt từ mức thấp (3.5% năm 2008) đến mức cao (13% năm 2012 và
khoảng 15% năm 2014), theo ước tính của Fitch Ratings và Moody's Investor service
(Bezemer & Schuster, 2014). Số lượng ngân hàng giảm từ 52 ngân hàng năm 2011
xuống còn 43 ngân hàng năm 2015 (Bảng 1.1) do nhiều trường hợp phá sản và hoạt
động mua bán sáp nhập. Các ngân hàng yếu kém bị loại bỏ khỏi thị trường trong giai
đoạn này.

Bảng 1.1: Số lượng ngân hàng tại Việt Nam từ 2007-2019

Ngân hàng sở hữu Nhà nước
NHTMCP
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Ngân hàng liên doanh
Tổng

2007
5

37
5
5
52

2011
5
37
5
5
52

2013
5
33
5
4
47

2015
7
28
5
3
43

2017
4
31
8

2
45

2019
5
31
9
4
49

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2020
Trong bối cảnh đó, nhằm ổn định tồn hệ thống ngân hàng, Chính phủ Việt Nam đã
phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015”, theo
đó tái cơ cấu tồn diện ngành ngân hàng (Quyết định 254/QĐ-TTg, ký ngày 1/3/2012)
(Nguyen, Ho & Vo, 2018). Định hướng của đề án là củng cố và nâng cao vai trò của
các NHTMCP nhà nước, trở thành lực lượng chủ lực của hệ thống các tổ chức tín dụng
Việt Nam. Đề án khuyến khích đẩy mạnh cổ phần hóa các NHTM nhà nước, nhưng vẫn
đảm bảo Nhà nước vẫn giữ lượng cổ phần chi phối trong các ngân hàng này. Đồng thời,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng bắt đầu thí điểm áp dụng các quy định Basel II tại


8
một vài NHTMCP từ năm 2016 và yêu cầu tất cả các ngân hàng phải tuân thủ nghiêm
ngặt quy định của Hiệp ước kể từ năm 2018. Bên cạnh đó, để đặc biệt xử lý vấn đề nợ
xấu và làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, Quyết định 843/QĐ-TTg được ban hành
năm 2013 với nội dung phê duyệt đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín
dụng” và đề án “Thành lập cơng ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam”,
làm tiền đề giải quyết những khó khăn về vốn cho các chủ thể kinh tế và góp phần tăng
trưởng kinh tế.
Từ sau Quyết định 254/QĐ-TTg và Quyết định 843/QĐ-TTg, theo sự hướng dẫn

của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hệ thống ngân hàng Việt Nam chứng kiến những
thay đổi đáng kể trong cơ cấu sở hữu tại nhiều đơn vị. Các ngân hàng yếu kém bị loại
bỏ chủ yếu thông qua việc hợp nhất và sáp nhập trên cơ sở tự nguyện, vốn điều lệ gia
tăng đáng kể. Hệ thống quản trị điều hành tại các ngân hàng được tái cơ cấu, cổ phần
hóa các NHTM nhà nước được đẩy mạnh. Mặc dù vậy, Nhà nước vẫn giữ vai trị chi
phối thơng qua việc sở hữu cổ phần tại các NHTMCP lớn. Bên cạnh đó, vấn đề sở hữu
chéo giữa các NHTMCP, trong bối cảnh hoạt động thanh tra, giám sát còn chưa phát
triển, đặt ra những nguy cơ tiềm ẩn làm giảm hiệu quả của nền kinh tế nói chung và
ngành tài chính ngân hàng nói riêng (SBV, 2017).
Năm 2019, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt đề án “Cơ cấu lại thị trường
chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”
(Quyết định 242/QĐ-TTg). Theo đó, các NHTMCP buộc phải có kế hoạch niêm yết cổ
phiếu trên sàn chứng khốn và minh bạch báo cáo tài chính đến hết năm 2020.
Để tiếp tục phát triển trong bối cảnh mới với những thay đổi mạnh mẽ trong định
hướng và chính sách Nhà nước, các NHTMCP Việt Nam ý thức được tầm quan trọng
của việc quản trị rủi ro, củng cố và cải thiện hiệu quả hoạt động, đảm bảo an toàn và
phát triển bền vững. Những thay đổi về cấu trúc sở hữu sau khủng hoảng đặt ra cho các
nhà quản trị ngân hàng cũng như các nhà hoạch định chính sách nhiều câu hỏi: Việc tái
cơ cấu sở hữu ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động và hành vi chấp nhận rủi
ro của ngân hàng? Sự thay đổi cấu trúc sở hữu trong thời gian qua như thế nào? Cấu
trúc sở hữu tập trung vào một vài nhóm cổ đơng có giúp các ngân hàng tăng trưởng hiệu


9
quả và an tồn khơng? Việc sở hữu nhà nước có tác động tiêu cực hay tích cực đến hiệu
quả hoạt động và hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng? Niêm yết cổ phiếu có thực
sự giảm thiểu rủi ro và giúp các ngân hàng tăng trưởng không?
Bối cảnh trên là động lực để tác giả đặt ra vấn đề nghiên cứu cho luận án này:
Kể từ sau cuộc khủng hoảng ngân hàng, dưới sự chỉ đạo của Nhà nước, các
NHTMCP Việt Nam đã tiến hành nhiều hoạt động tái cơ cấu trong cấu trúc sở hữu.

Tuy nhiên, tính chất đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam đặt ra câu hỏi về sự
tác động của các cấu trúc sở hữu khác nhau đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu
quả hoạt động của các NHTMCP. Do đó, tác giả thực hiện luận án nhằm thảo luận,
nghiên cứu chuyên sâu vấn đề này và đóng góp hàm ý chính sách vào q trình đổi
mới, cải tiến của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1.2 Bối cảnh nghiên cứu
Lược khảo các lý thuyết kinh tế, tác giả nhận thấy nhiều quan điểm khác nhau về
ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến rủi ro và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói
chung và ngân hàng nói riêng.
Theo lý thuyết đại diện (Agency theory), đa dạng hóa trong cấu trúc sở hữu có thể
gây ra các vấn đề đại diện, tăng chi phí đại diện và chi phí cơ hội tiềm ẩn cho doanh
nghiệp. Ngược lại, cấu trúc sở hữu tập trung có thể giúp doanh nghiệp giảm thiểu những
vấn đề nảy sinh do tách biệt quyền sở hữu và kiểm sốt, nhờ đó giảm rủi ro và cải thiện
hiệu quả hoạt động (Balsmeier & Czarnitzki, 2017; Jensen & Meckling, 1976; Shleifer
& Vishny, 1997). Các cổ đông lớn có quyền hạn chi phối, có thể chủ động điều chỉnh
và quản lý doanh nghiệp, giúp giảm thiểu vấn đề đại diện và cải thiện hiệu quả hoạt
động (Jensen & Meckling, 1976).
Tuy nhiên, giả thuyết thâu tóm (Expropriation hypothesis) lại chỉ ra các hạn chế tiềm
tàng của cấu trúc sở hữu tập trung. Lý thuyết cho rằng vấn đề đại diện vẫn sẽ tồn tại
ngay cả khi quyền sở hữu được tập trung (La Porta et al., 1999). Vấn đề người đại diện
– chủ sở hữu có thể được thay thế bằng mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và chủ sở hữu
(Bebchuk & Weisbach, 2010). Các cổ đông đa số nắm quyền chi phối thường có xu


10
hướng thực hiện những hoạt động đầu tư rủi ro hơn (Laeven & Levine, 2009; Shleifer
& Vishny, 1986). Bên cạnh đó, khi các cổ đơng đa số hoặc các nhà quản trị trong cấu
trúc tập trung quá tự tin, họ có thể đưa ra những quyết định sai lầm, ảnh hưởng xấu đến
rủi ro và hoạt động của doanh nghiệp (Jensen & Meckling, 1976).
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp sở hữu nhà nước thuộc các ngành đóng vai trị

quan trọng trong nền kinh tế (điển hình như ngành ngân hàng), Nhà nước có thể đóng
vai trị chi phối và can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp thông qua các chính sách
phát triển hoặc kiểm sốt rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển (lý
thuyết sự can thiệp giúp đỡ - Helping hand theory). Tuy nhiên, nếu quá lệ thuộc, chính
sự can thiệp này cũng có thể gây cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp (lý thuyết sự
can thiệp gây cản trở - Grabbing hand theory).
Lý thuyết rủi ro đạo đức (Moral hazard theory) cho rằng sự hỗ trợ của Chính phủ,
đặc biệt về mặt tài chính, có thể thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước nói chung và các
NHTMCP thuộc sở hữu nhà nước nói riêng chấp nhận nhiều rủi ro hơn vì họ tin rằng
họ không phải chịu trách nhiệm trên kết quả của các hành vi chấp nhận rủi ro này
(Krugman, 2009). Bên cạnh đó, quan điểm cho rằng doanh nghiệp lớn sẽ không thể thất
bại (“too big to fail”) cũng dẫn đến niềm tin rằng Chính phủ sẽ khơng để các doanh
nghiệp lớn phá sản, nên nhiều khả năng sẽ được hỗ trợ trong các tình huống xấu.
Ngồi ra, các NHTMCP sở hữu Nhà nước thường là kênh tài trợ cho các dự án án
sinh xã hội, phục vụ các mục tiêu xã hội của Chính phủ nên thường phải chấp nhận
thêm những rủi ro cho vay dưới chuẩn (Lý thuyết cho vay xã hội – Social lending
theory); (Berger et al., 2005; Stiglitz, 1993). Không những thế, nhờ những lợi thế sẵn
có về mối quan hệ và pháp lý, các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng thuộc sở
hữu nhà nước dường như trở nên quá phụ thuộc, thiếu động lực sáng tạo và tìm kiếm
những cơ hội phát triển mới, dẫn đến khả năng cạnh tranh trên thị trường ngày càng sụt
giảm (lý thuyết Cuộc sống tĩnh lặng – Quiet life).
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, ngân hàng là một chủ thế kinh tế duy nhất, khác
biệt với các hình thức doanh nghiệp khác, những kết luận lý thuyết trong quản trị doanh
nghiệp nói chung có thể khơng chính xác khi áp dụng cho ngành ngân hàng.


11
Bên cạnh các lý thuyết kinh tế nền tảng, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng quan
tâm đến chủ đề này. Trong khi tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động
ngân hàng được khá nhiều tác giả nghiên cứu, trên nhiều đối tượng và bối cảnh khác

nhau, thì số lượng nghiên cứu về ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến rủi ro hoặc hành
vi chấp nhận rủi ro lại khá khiêm tốn, chủ yếu tiếp cận vấn đề từ phía các doanh nghiệp
phi tài chính, đặc biệt ít trong bối cảnh ngân hàng tại các quốc gia mới nổi. Tuy nhiên,
các kết luận vẫn chưa nhất quán do sự khác nhau về định hướng nghiên cứu và đặc điểm
trong cấu trúc sở hữu nội bộ ở các thị trường nghiên cứu đặc thù khác nhau.
Xét về khía cạnh quản trị rủi ro, các ngân hàng có cấu trúc sở hữu có khả năng kiểm
sốt chặt chẽ sẽ có khuynh hướng ít rủi ro hơn các ngân hàng kiểm sốt kém (Tarraf &
Majeske, 2013). Ngồi ra, việc gia tăng mức độ sở hữu của nhà quản lý có thể làm tăng
rủi ro cho ngân hàng nhưng khơng mang lại lợi nhuận (Chun, Nagano, & Lee, 2011).
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng khơng tìm ra mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi
ro của ngân hàng (Chen, Yu, Chang, & Managi, 2014), hoặc mối quan hệ này vừa đồng
biến vừa nghịch biến, hoặc phi tuyến (Demsetz & Lehn, 1985; Gilchrist & Himmelberg,
1998) (Holderness, Kroszner, & Sheehan, 1999).
Tại Việt Nam, số lượng các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của cấu trúc sở hữu
đến rủi ro và hiệu quả hoạt động còn khá khiêm tốn và kết luận chưa nhất quán. Một số
nghiên cứu cho rằng doanh nghiệp có sở hữu nhà nước thường được hưởng các lợi ích
về chính trị và tài chính nên khơng có động cơ mạnh mẽ trong việc chấp nhận thêm rủi
ro trong chiến lược hoạt động (Vo, 2018). Tuy nhiên, một số tác giả khác lại tìm ra bằng
chứng thực nghiệm cho rằng sở hữu nhà nước có thể khiến doanh nghiệp chấp nhận rủi
ro nhiều hơn vì bản thân người đại diện phần vốn nhà nước này không phải gánh chịu
hậu quả từ các quyết định rủi ro của họ (Nguyen, 2017). Riêng trong lĩnh vực ngân
hàng, một vài tác giả nhận định rằng quy mô ban quản trị càng lớn thì khả năng quản
trị rủi ro của các NHTMCP càng kém (Trinh, Duyen, & Thao, 2015) và hiệu quả hoạt
động càng giảm (Ngo, 2012). Số khác lại tìm ra bằng chứng về tác động tích cực của
việc mở rộng quy mô ban quản trị đến kết quả hoạt động của ngân hàng (Tran &
Nguyen, 2016). Trong khi Pham & Nguyen (2020), Pham & Bui (2019) cho rằng sở
hữu nhà nước và sở hữu tư nhân thường đi kèm với rủi ro tín dụng cao và hệ số nguy


12

cơ phá sản Zscore cao, thì Nguyen (2017) lại kết luận rằng NHTMCP nhà nước sử dụng
các nguồn lực hiệu quả hơn các NHTMCP tư nhân, kết quả này tương đồng với nghiên
cứu của Kubo & Phan (2019) khi xem xét tác động của cấu trúc sở hữu nhà nước đến
hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam niêm yết trong giai đoạn 2006-2010.
Nhìn chung, những kết luận trái chiều trên đặt ra nhiều nghi vấn về mơ hình cấu trúc
sở hữu tối ưu cho trường hợp các NHTMCP Việt Nam trong bối cảnh mới. Mặt khác,
do sự khác biệt về thể chế chính trị và tính đặc thù của ngành ngân hàng Việt Nam, việc
kế thừa các kết quả nghiên cứu tại các quốc gia khác dường như chưa thực sự phù hợp
với bối cảnh Việt Nam. Đặc biệt, qua lược khảo các nghiên cứu trước đây, tác giả nhận
thấy chưa có tác giả nào xem xét một cách có hệ thống tác động của cấu trúc sở hữu,
đặc biệt là cấu trúc sở hữu nhà nước đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động
của ngân hàng. Đồng thời, chưa có nghiên cứu nào cân nhắc đặc điểm niêm yết và đặc
điểm sở hữu nhà nước trong cùng một nghiên cứu để thấy được sự khác biệt trong ảnh
hưởng của các đặc điểm này đến quan hệ sở hữu, hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả
hoạt động. Ngoài ra, đa số các nghiên cứu tại Việt Nam đều được thực hiện khá lâu
trước đây, với khoảng thời gian nghiên cứu hẹp nên khả năng ứng dụng thực tế thấp.
Trong bối cảnh nghiên cứu và thực tiễn đó, luận án này góp phần lấp đầy khe hở
nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu (đặc biệt là đặc điểm sở hữu nhà nước và
đặc điểm niêm yết) đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các
NHTMCP Việt Nam.
Luận án sử dụng số liệu của 20 NHTMCP Việt Nam tiêu biểu trong khoảng thời
gian từ 2008 đến 2019 dựa trên nguyên tắc lựa chọn các ngân hàng có thời gian hoạt
động tính đến nay lâu nhất và chiếm 80% tổng thị phần của toàn ngành. Thời gian
nghiên cứu là 12 năm (2008-2019), đủ hiệu quả cho hầu hết các mơ hình kinh tế lượng.
Giai đoạn này cũng chứng kiến nhiều trạng thái thay đổi của hệ thống ngân hàng Việt
Nam, từ hội nhập, khủng hoảng đến hồi phục và phát triển. Do đó, tác giả kỳ vọng các
kết quả nghiên cứu trong thời gian này sẽ mang lại ý nghĩa thống kê và phù hợp để áp
dụng cho nhiều trạng thái khác nhau của nền kinh tế.



13
1.3 Khe hở nghiên cứu
Từ việc tổng quan thực nghiệm ở trên, có thể thấy, tác động của cấu trúc sở hữu,
hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả đã được quan tâm nhiều do tầm quan trọng của
cơ chế quản trị nội bộ có tác động đến hiệu quả và rủi ro của ngân hàng. Theo đó, hiệu
quả và hành vi chấp nhận rủi ro bị ảnh hưởng bởi cơ chế quản trị nội bộ (trong đó, cấu
trúc sở hữu là một cách để ngân hàng kiểm soát được hoạt động và gia tăng giá trị cho
cổ đông). Chủ đề này chưa được nghiên cứu nhiều trong bối cảnh ngân hàng và cần
thêm nhiều bài nghiên cứu thực nghiệm hơn nữa để kiểm tra kết quả của mối quan hệ
sở hữu, hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả trong các bối cảnh thị trường khác nhau,
không chỉ ở các thị trường phát triển mà còn là các thị trường cận biên đang trong quá
trình quá độ đến thị trường đang phát triển một cách rõ rệt.
Mỗi một quốc gia có mơi trường kinh tế cũng như những thể chế chính trị khác nhau,
vì thế mà hệ thống NHTMCP sẽ có những điểm riêng biệt ở mỗi nước. Do đó, việc kế
thừa các nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, hành vi chấp nhận rủi ro và
hiệu quả hoạt động ngân hàng ở các quốc gia khác để áp dụng rập khuôn tại Việt Nam
là chưa phù hợp. Vì vậy, cần phải có nghiên cứu chuyên sâu về các góc độ khác nhau
của cấu trúc sở hữu (đặc điểm sở hữu nhà nước, đặc điểm niêm yết, mức độ sở hữu tập
trung) và tác động của nó đến các biến số đại diện cho hành vi chấp nhận rủi ro và các
góc độ đo lường khác nhau của hiệu quả hoạt động.
Số lượng các bài nghiên cứu tác động của sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro ít
hơn một cách tương đối so với các nghiên cứu tác động sở hữu đến hiệu quả, và đặc
biệt ít trong bối cảnh ngân hàng tại các quốc gia mới nổi. Các nghiên cứu về tác động
của quản trị nội bộ đến hành vi chấp nhận rủi ro nở rộ trong thập kỷ gần đây. Ngành
ngân hàng ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước phát triển lớn. Các
cơng tác xác định rủi ro để đưa ra những quyết định đúng đắn cho các NHTMCP đã
được chú trọng hơn, tuy nhiên các yếu tố nội sinh như cấu trúc sở hữu vẫn chưa được
quan tâm. Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào xem xét đặc điểm sở hữu nhà nước, đặc
điểm niêm yết và mức độ sở hữu tập trung trong cùng một nghiên cứu để thấy được sự



14
khác biệt trong ảnh hưởng của các đặc điểm này đến quan hệ sở hữu, hành vi chấp nhận
rủi ro và hiệu quả hoạt động.
Luận án còn tập trung nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu tập trung, cũng như
xem xét tác động tương tác giữa mức độ sở hữu tập trung với đặc điểm sở hữu nhà
nước/đặc điểm niêm yết đối với hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các
NHTMCP tại Việt Nam. Lợi thế của nghiên cứu này là đưa ra các kết luận tổng quan
về hệ thống ngân hàng Việt Nam, vốn có nhiều đặc trưng về mặt tổ chức và thể chế,
khác biệt với các quốc gia khác trong khi chưa có nhiều nghiên cứu trong nước về vấn
đề này.
Bên cạnh đó, đa số các nghiên cứu về hoạt động NHTMCP tại Việt Nam đều được
thực hiện khá lâu trước đây và khoảng thời gian nghiên cứu hẹp, nên khơng cịn tính áp
dụng thực tiễn hiện nay. Bài nghiên cứu này mang tính cấp thiết và có ý nghĩa bổ sung
các bằng chứng thực nghiệm đồng thời tổng hợp tương đối đầy đủ cơ sở lý thuyết làm
bằng chứng lập luận về tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và
hiệu quả hoạt động ở các NHTMCP Việt Nam từ năm 2008 - 2019, giai đoạn thể hiện
được nhiều biến chuyển trong nền kinh tế Việt Nam, cũng như góp phần đánh giá hiệu
quả các chính sách của nhà nước đã ban hành như Quyết định 254/QĐ-TTg tái cơ cấu
toàn diện các tổ chức tín dụng hay Quyết định 242/QĐ-TTg tái cơ cấu lại thị trường
chứng khoán và thị trường bảo hiểm.
1.4 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi
chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động ở các NHTMCP Việt Nam. Từ kết quả thực
nghiệm tìm được, các kết luận có thể giúp đưa ra cái nhìn tổng quát về thực trạng hoạt
động ngân hàng thông qua việc xem xét tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp
nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động, cũng như đưa ra các hàm ý chính sách nhằm giảm
thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động cho các NHTMCP Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu chính trên, luận án sẽ lần lượt giải quyết năm mục tiêu cụ thể
như sau:



15
Thứ nhất, luận án kiểm tra đặc điểm sở hữu nhà nước tác động như thế nào đến hành
vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam. Theo đó, luận
án phân loại các ngân hàng theo đặc điểm sở hữu và đánh giá tác động của các đặc điểm
sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động các NHTMCP Việt Nam.
Thứ hai, luận án tiếp tục kiểm tra đặc điểm niêm yết tác động như thế nào đến hành
vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam. Theo đó, luận
án phân loại các ngân hàng theo đặc điểm niêm yết và đánh giá tác động của các đặc
điểm niêm yết này đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động các NHTMCP
Việt Nam.
Thứ ba, luận án xem xét tác động của mức độ sở hữu tập trung đến hành vi chấp
nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam. Theo đó, luận án đánh
giá tác động của mức độ sở hữu tập trung này đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả
hoạt động các NHTMCP Việt Nam.
Thứ tư, luận án xem xét tác động của mức độ sở hữu tập trung và đặc điểm sở hữu
nhà nước đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt
Nam. Theo đó, luận án đánh giá tác động của mức độ sở hữu tập trung đến hành vi chấp
nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động trong các ngân hàng sở hữu nhà nước so với các các
ngân hàng không thuộc sở hữu nhà nước.
Thứ năm, luận án xem xét tác động của mức độ sở hữu tập trung và đặc điểm niêm
yết đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam.
Theo đó, luận án đánh giá tác động của mức độ sở hữu tập trung đến hành vi chấp nhận
rủi ro và hiệu quả hoạt động trong các ngân hàng niêm yết so với các các ngân hàng
không niêm yết.
1.5 Câu hỏi nghiên cứu
Sử dụng dữ liệu bảng (panel data) của 20 NHTMCP tại Việt Nam từ năm 2008 đến
2019 với phương pháp kinh tế lượng, luận án phân tích sự tác động của các cấu trúc sở
hữu khác nhau bao gồm đặc điểm sở hữu nhà nước, đặc điểm niêm yết và mức độ sở



16
hữu tập trung đến hiệu quả hoạt động và hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Luận
án sẽ trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu.
Câu hỏi nghiên cứu 1: Đặc điểm sở hữu nhà nước và đặc điểm niêm yết tác động
như thế nào đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các NHTMCP VN?
Câu 1.1: Đặc điểm sở hữu nhà nước và đặc điểm niêm yết tác động như thế nào đến
hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng?
Câu 1.2: Đặc điểm sở hữu nhà nước và đặc điểm niêm yết tác động như thế nào
đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng?
Câu hỏi nghiên cứu 2: Mức độ sở hữu tập trung tác động như thế nào đến hành vi
chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của các NHTMCP VN?
Câu 2.1: Mức độ sở hữu tập trung tác động như thế nào đến hành vi chấp nhận rủi
ro của ngân hàng?
Câu 2.2: Mức độ sở hữu tập trung tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động của
ngân hàng?
Câu hỏi nghiên cứu 3: Mức độ sở hữu tập trung tác động đến hành vi chấp nhận
rủi ro và hiệu quả của các NHTMCP VN như thế nào khi xem xét đến đặc điểm sở hữu
nhà nước và đặc điểm niêm yết?
Câu 3.1: Mức độ sở hữu tập trung tác tại các ngân hàng sở hữu nhà nước tác động
như thế nào đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động?
Câu 3.2: Mức độ sở hữu tập trung tác tại ngân hàng niêm yết tác động như thế nào
đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động?
1.6 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: bao gồm cấu trúc sở hữu, hành vi chấp nhận rủi ro, hiệu
quả hoạt động và tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả
hoạt động của NHTMCP.



17
- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2019.
- Phạm vi nghiên cứu: 20 NHTMCP tại Việt Nam, bao gồm 3 NHTMCP sở hữu Nhà
nước và 17 NHTMCP trong nước. Các NHTMCP này đại diện hơn 80% thị phần tại
Việt Nam và có đủ 12 năm dữ liệu trên Bankscope/Orbis Bank Focus, cũng như có đầy
đủ báo cáo tài chính đã kiểm tốn, để luận án có một bảng dữ liệu cân bằng với 240
quan sát.
1.7 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phân tích định lượng dựa trên kế thừa và phát triển mơ hình hồi
quy đa biến chính của các tác giả Boateng, A., Huang, W., & Kufuor, N. K. (2015),
Hanafi, M. M., & Santi, F. (2013) – đây là các bài nghiên cứu đề cập trực tiếp đến tác
động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động. Bên cạnh
đó, để nhằm mục đích đa dạng các biến đại diện cho hiệu quả khác nhau của ngân hàng,
bài nghiên cứu có bổ sung vào mơ hình hồi quy các biến mới đại diện cho hiệu quả hoạt
động (biến hiệu quả kỹ thuật) theo nghiên cứu của Nguyen, T. H. T., & Le, H. V. (2018)
và nghiên cứu của Vo, X. V., & Nguyen, H. H. (2018). Cụ thể các phương pháp nghiên
cứu được sử dụng như sau:
- Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm có liên quan đến việc giải thích cho
tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động được
tổng hợp tương đối đầy đủ từ các nghiên cứu trước, để tìm ra các khe hở nghiên cứu, đề
xuất phương pháp nghiên cứu và mơ hình nghiên cứu thích hợp.
- Luận án sử dụng phương pháp hồi quy các tác động ngẫu nhiên có các biến tương
tác và các kiểm định để lựa chọn mơ hình, dựa trên kết quả từ phần mềm Stata. Cụ thể,
tác giả sử dụng kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mơ hình REM (mơ hình tác động
ngẫu nhiên) và mơ hình FEM (mơ hình tác động cố định) với giả thuyết H0 là mơ hình
REM phù hợp và giả thuyết H1 là mơ hình FEM phù hợp. Theo đó, giá trị p-value của
kiểm định nhỏ hơn 10% thì có cơ sở bác bỏ H0, chấp nhận H1 và ngược lại. Sau đó, tác
giả sử dụng kiểm định LM để lựa chọn giữa mơ hình REM và OLS (mơ hình ước lượng
bình phương nhỏ nhất). Nếu giá trị p-value từ kiểm định này lớn hơn mức ý nghĩa 10%,



18
có cơ sở thống kê để chấp nhận giả thuyết H0: mơ hình OLS là phù hợp với mẫu đang
nghiên cứu và ngược lại nếu giá trị p-value nhỏ hơn 10% hàm ý bác bỏ H0: mơ hình
REM là phù hợp với mẫu đang nghiên cứu.
- Dữ liệu nghiên cứu được khai thác từ Bankscope/Orbis Bank Focus, có kiểm tra
và đối chiếu với các báo cáo tài chính đã kiểm toán của từng ngân hàng trong giai đoạn
từ năm 2008-2019.
1.8 Những điểm mới của luận án:
Luận án đánh giá sự tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và
hiệu quả hoạt động của 20 NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn 2008-2019. Một số
điểm mới của luận án bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm như sau:
Thứ nhất, phương pháp đo lường mức độ sở hữu tập trung của nhóm 01, 02, 05 cổ
đơng có tỷ lệ sở hữu lớn nhất, tác giả chưa tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây tại
Việt Nam. Lợi ích của phương pháp đo lường này giúp nhận diện các mức độ sở hữu
tập trung khác nhau (tập trung nhất, tập trung vừa và tập trung ít nhất/phân tán) để từ
đó có thể kiểm tra tính đúng đắn của kết quả nghiên cứu khi hồi quy riêng rẽ cho từng
mức độ sở hữu tập trung.
Thứ hai, phương pháp sử dụng biến tương tác giữa mức độ sở hữu tập trung-đặc
điểm sở hữu nhà nước và mức độ sở hữu tập trung-đặc điểm niêm yết đem lại hiểu biết
sâu hơn, tổng quát hơn về tác động của cấu trúc sở hữu tập trung ở từng nhóm các ngân
hàng nhà nước-tư nhân, niêm yết-không niêm yết lên hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu
quả hoạt động; Tuy nhiên, cách làm này lại bị bỏ qua trong các nghiên cứu thực nghiệm
về NH TMCP tại Việt Nam.
Thứ ba, luận án đã sử dụng mơ hình nghiên cứu chính của tác giả Boateng, A.,
Huang, W., & Kufuor, N. K. (2015) áp dụng cho các ngân hàng tại Trung Quốc, đây là
nền kinh tế có nhiều nét tương đồng với nền kinh tế theo định hướng XHCN của Việt
Nam, để nghiên cứu thực nghiệm tại 20 NHTMCP Việt Nam từ năm 2008 - 2019, giai
đoạn thể hiện được nhiều biến chuyển trong nền kinh tế. Mơ hình nghiên cứu này chưa



19
được tìm thấy trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đây tại Việt Nam hoặc các nghiên
cứu thực nghiệm trên thế giới tại thị trường Việt Nam trong giai đoạn nêu trên.
Thứ năm, có nhiều nghiên cứu tại Việt Nam về lĩnh vực rủi ro của các NHTMCP,
tuy nhiên phương pháp tiếp cận của các nghiên cứu trước được tìm thấy là rủi ro trong
quá khứ, thông thường được đo lường trong nghiên cứu định lượng là tỷ lệ nợ quá hạn,
nợ xấu, với hàm ý tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng do trong quá khứ nhà quản trị đã có
những hoạt động mang lại rủi ro cho ngân hàng. Tại luận án này, tác giả đã áp dụng
cách tiếp cận mới là hành vi chấp nhận rủi ro. Thơng qua mức trích lập dự phịng, tỷ lệ
trích lập dự phịng, hệ số ổn định/phá sản, luận án đã đánh giá trực tiếp hoạt động xử lý
rủi ro chủ động của nhà quản trị hay còn gọi là đánh giá rủi ro tương lai.
Thứ năm, có nhiều nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam về tác động của cấu trúc
sở hữu lên hiệu quả hoạt động hoặc tác động của cấu trúc sở hữu lên hành vi chấp nhận
rủi ro. Nhưng một nghiên cứu tổng thể về cả hai vấn đề này chưa được tìm thấy. Bằng
cách bổ sung các biến nghiên cứu như hiệu quả kỹ thuật, mức độ sở hữu tập trung và
biến đo lường mức độ ổn định của ngân hàng, luận án đã đưa ra các bằng chứng thực
nghiệm cụ thể về tác động của các thành phần sở hữu khác nhau lên nhiều khía cạnh
của hiệu quả hoạt động và hành vi chấp nhận rủi ro. Từ kết quả đạt được, luận án đã
đóng góp những ý kiến thiết thực cho nhà quản trị NH TMCP Việt Nam cũng như các
cơ quan quản lý nhà nước.
1.9 Cấu trúc luận án
Kết cấu của luận án gồm có 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về nghiên cứu. Trong đó, trình bày tổng quan bối
cảnh thực tiễn và lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng
và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp mới của luận án và kết cấu
của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm về sự tác động của cấu trúc sở
hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động NHTMCP Việt Nam. Đưa ra



20
các lý thuyết và lược khảo các nghiên cứu liên quan đã được thực hiện để hình thành
mơ hình nghiên cứu và phát triển các giả thiết nghiên cứu.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu – trình bày phương pháp
nghiên cứu và mơ tả dữ liệu nghiên cứu.
Chương 4: Phân tích thực nghiệm về tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp
nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động tại các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn 2008 2019 đồng thời trình bày các kết quả chính yếu.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.


21

CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ XÂY DỰNG GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý thuyết về cấu trúc sở hữu của ngân hàng
2.1.1 Khái niệm cấu trúc sở hữu
Trong cuốn sách “Công ty hiện đại và tài sản tư nhân” (The Modern Corporation
and private property), Berle & Means (1932) là một trong những nhà nghiên cứu đầu
tiên đặt nền tảng cho khái niệm “cấu trúc sở hữu”. Theo đó, cùng với sự tăng trưởng về
quy mô, yêu cầu áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhu cầu về vốn của doanh
nghiệp tăng mạnh vượt qua khỏi khả năng tài chính của một cá nhân dẫn đến sự xuất
hiện của nhiều chủ sở hữu (còn gọi là cổ đông) trong một doanh nghiệp. Cấu trúc sở
hữu là cơ cấu phản ánh tổng thể quan hệ chiếm hữu của các cổ đông đối với các phần
của vốn sở hữu, từ đó quyết định đến các mối quan hệ khác trong sản xuất, quản lý cũng
như những lợi ích kinh tế mà việc sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn sở hữu đó đem lại.
Tỷ lệ cổ phần càng cao thì cổ đơng hay nhóm cổ đơng càng có trách nhiệm và quyền
giám sát các hoạt động điều hành và quản lý doanh nghiệp.
Cấu trúc sở hữu đóng vai trị quan trọng trong doanh nghiệp (đặc biệt là trong các
ngân hàng), ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động điều hành doanh nghiệp thông qua tác

động đến việc ra quyết định của nhà quản lý. Do vậy, khái niệm cấu trúc sở hữu phải
được xem xét qua cách tiếp cận các nhà quản lý – người đại diện cho quyền sở hữu tại
doanh nghiệp (Altunbas, Carbo, Gardener & Molyneux, 2007). Cấu trúc sở hữu cũng là
một trong những phương thức thực hiện cơ chế quản trị nội bộ (internal governance
mechanisms) trong doanh nghiệp, có tác động trực tiếp đến rủi ro và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp (Amor & Accounting, 2017).
2.1.2 Phân loại cấu trúc sở hữu
2.1.2.1 Phân loại cấu trúc sở hữu theo tính chất của cổ đơng
Cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp được phân thành nhiều loại, cụ thể: sở hữu tư
nhân, sở hữu bởi Nhà nước, sở hữu nước ngoài, sở hữu hỗn hợp (Berle & Means, 1932;


22
La Porta et al., 1999; Larner, 1966). Trong đó, cấu trúc sở hữu hỗn hợp là sự kết hợp
giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, tuy nhiên, để đảm bảo tính rõ ràng, nhất quán
của các loại cấu trúc sở hữu, tác giả khơng đưa loại hình này vào phân tích.
Nhiều nghiên cứu xếp loại các doanh nghiệp (ngân hàng) có tỷ lệ sở hữu nhà nước
chiếm đa số hay lớn hơn so với các thành phần sở hữu còn lại là doanh nghiệp sở hữu
nhà nước (Morck, Shleifer, & Vishny, 1988). Theo đó, nhà nước nắm giữ tỷ lệ lớn cổ
phiếu đồng nghĩa với quyền kiểm soát và chi phối lớn đối với doanh nghiệp, từ đó có
thể điều khiển mục đích doanh nghiệp theo định hướng nhất định. Định nghĩa này cũng
áp dụng được trong lĩnh vực ngân hàng.
Để thấy rõ vai trị tích cực hay tiêu cực của cấu trúc sở hữu nhà nước, nhiều nghiên
cứu trước đây so sánh vai trò của sở hữu nhà nước với sở hữu tư nhân, từ đó làm nổi
bật lên vai trò của sở hữu nhà nước. Laffont & Tirole (1993); Sappington & Stiglitz
(1987) lập luận rằng các doanh nghiệp tư nhân có thể khơng hiệu quả vì họ chỉ tập trung
vào lợi nhuận, và ngược lại doanh nghiệp có vốn nhà nước có thể kiểm sốt các quyết
định của mình hiệu quả hơn với quan điểm chính trị cởi mở. Nhiều nghiên cứu khác
cũng thể hiện sự ủng hộ đối với cấu trúc sở hữu nhà nước (Grossman & Hart, 1980).
Tuy nhiên, Shleifer (1998) chỉ ra rằng sở hữu tư nhân nên được ưu tiên hơn sở hữu

nhà nước vì cấu trúc sở hữu tư nhân đem lại các động lực đổi mới và cải tiến hiệu quả
hơn về chi phí. Một số nghiên cứu trước đây phát hiện ra rằng các doanh nghiệp nhà
nước không phục vụ tốt hơn cho lợi ích cơng cộng (Grossman & Krueger, 1991) và
thường cực kỳ kém hiệu quả (Boycko, Shleifer & Vishny, 1996; Dewenter & Malatesta,
1997). Các quan chức nhà nước thường bị các lợi ích chính trị chi phối nên mục tiêu
của họ có thể mâu thuẫn với mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội. Dewenter & Malatesta
(1997) nhận thấy cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước được chào bán ra công chúng
với mức giá thấp hơn đáng kể so với cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân tương đồng,
điều đó dường như để phục vụ cho các mục tiêu chính trị khác nhau của các quan chức
chính phủ hơn là tối đa hóa phúc lợi xã hội.
Doanh nghiệp sở hữu Nhà nước nói chung và ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước nói
riêng, được xem là nhóm riêng biệt do đặc trưng theo đuổi các mục tiêu chính trị, xã


23
hội và thường được nhà nước bù lỗ (Shleifer & Vishny, 1997). Việc nghiên cứu cấu
trúc sở hữu tại các quốc gia khác nhau đưa lại những kết quả khác nhau, đặc biệt là tại
các quốc gia đang phát triển có sự tham gia của sở hữu nhà nước như Đông Âu, Trung
Quốc, Việt Nam với những đặc thù riêng. Sở hữu nhà nước tại những quốc gia này
thường chiếm tỷ lệ cao sau khi chuyển đổi kinh tế từ nền kinh tế tập trung (Hue & Lam,
2017).
Doanh nghiệp có cấu trúc sở hữu tư nhân được sở hữu bởi các cá nhân hoặc các tổ
chức tư nhân (không phải nhà nước hoặc các tổ chức thuộc nhà nước). Sự xuất hiện của
các doanh nghiệp này ở các quốc gia mới nổi gắn liền với hoạt động tư nhân hóa các
doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sau các cuộc khủng hoảng. Tư nhân hóa là cách
thức để giảm tỷ lệ sở hữu vốn của nhà nước, thường xảy ra ở một số lĩnh vực trọng yếu
của nền kinh tế như dịch vụ, viễn thông và ngân hàng. Hoạt động này ngầm chứng minh
sự yếu kém và bất ổn tài chính của các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các ngân
hàng nhà nước nói riêng (Andrews, 2005). Sự thành cơng của q trình tư nhân hóa phụ
thuộc vào các vấn đề quản trị nội tại của ngân hàng có được giải quyết sau tư nhân hóa

hay khơng. Việc tư nhân hóa làm giảm đi sự cản trở của chính phủ vốn tồn tại trong các
ngân hàng có vốn nhà nước chiếm đại đa số. Điều đáng lưu ý rằng nếu chính phủ cịn
giữ lại một phần vốn sau tư nhân hóa, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng sẽ xấu đi
(Bonin & Wachtel, 1999). Nhiều nghiên cứu đưa ra quan điểm rằng các doanh nghiệp
có cấu trúc sở hữu tư nhân hoạt động hiệu quả hơn doanh nghiệp có cấu trúc sở hữu nhà
nước nhờ giải quyết được vấn đề chủ sở hữu - người đại diện thông qua một hệ thống
quản lý tốt hơn. Cấu trúc sở hữu tư nhân thắt chặt các ràng buộc về ngân sách nên người
quản lý chịu áp lực cải thiện hiệu quả hoạt động nhằm làm hài lịng các cổ đơng hiện
tại và thu hút thêm các nhà đầu tư tiềm năng. Đồng thời, các cổ đông được kỳ vọng sẽ
thực hiện việc kiểm soát hoạt động quản trị chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo hiệu quả của
lượng vốn đầu tư mà họ bỏ ra (Clarke, Cull & Shirley (2005).
Ở một khía cạnh khác, một doanh nghiệp (ngân hàng) được xem là thuộc sở hữu
nước ngồi thường khi có 100% vốn chủ sở hữu từ các tổ chức nước ngoài, hoặc các
doanh nghiệp nước ngồi. Khi các cơng ty đa quốc gia đầu tư vốn thành lập các công ty
con hoặc chi nhánh (100% vốn hoặc liên doanh) tại một quốc gia khác ngoài quốc gia


24
sở tại (nơi đặt trụ sở chính) thì các cơng ty con hoặc chi nhánh này được xem là một
doanh nghiệp có cấu trúc sở hữu nước ngồi (Weill, 2003). Các ngân hàng nước ngoài
tương đối giống các ngân hàng trong nước về các ưu đãi dòng tiền và quy định khác
nhau về cơ cấu tổ chức. Ngân hàng nước ngồi thường có cấu trúc đa cấp hơn, với quản
lý cấp cao từ các quốc gia khác. Các ngân hàng nước ngoài tồn tại song song với các
ngân hàng trong nước giúp cho hệ thống ngân hàng lành mạnh và phát triển hơn thông
qua cơ chế cạnh tranh các sản phẩm và dịch vụ trong hoạt động của ngân hàng.
Do hạn chế về mặt dữ liệu và kết quả hoạt động của các ngân hàng nước ngồi tại
Việt Nam khơng nổi bật nên Luận án chỉ tập trung nghiên cứu cấu trúc sở hữu nhà nước
và cấu trúc sở hữu tư nhân.
2.1.2.2 Phân loại cấu trúc sở hữu theo mức độ tập trung
Trong nhiều nghiên cứu về cấu trúc sở hữu trước đây, các tác giả thường quan tâm

đến mức độ phân tán về sở hữu vốn của các cổ đông và quyền lực của nhà quản lý trong
doanh nghiệp. Theo đó, cấu trúc sở hữu có thể được chia thành cấu trúc sở hữu tập trung
và cấu trúc sở hữu phân tán (Fazlzadeh, Hendi & Mahboubi, 2011).
Cấu trúc sở hữu tập trung có nghĩa là cả quyền sở hữu và kiểm sốt cơng ty tập trung
vào một hoặc một số cá nhân, gia đình, ban quản lý. Cấu trúc phân tán là nhiều cổ đông,
mỗi cổ đông sở hữu một số cổ phần doanh nghiệp, quyền kiểm soát hoạt động công ty
do ban giám đốc nắm giữ (Hanafi, M. M., & Santi, F., 2013; Pham & Bui, 2019).
Cấu trúc sở hữu được cho là tập trung khi tỷ lệ cổ phiếu trên 10% hoặc 20% nằm
trong tay một cá nhân hay một nhóm cổ đơng (Berle & Means, 1932; Larner, 1966).
Ngưỡng 10% hoặc 20% là đủ để đảm bảo quyền kiểm sốt doanh nghiệp của cổ đơng
(Berle & Means, 1932; Gadhoum, Noiseux & Zeghal, 2005; La Porta et al., 1999;
Larner, 1966). Trên thực tế, các cổ đơng có quyền biểu quyết trên ngưỡng này thường
cũng tham gia điều hành v qun lý doanh nghip (Claessens, Demirgỹỗ-Kunt &
Huizinga, 2001; Faccio & Lang, 2002; La Porta et al., 1999). Nhóm này có quyền lực
cao nhất trong quy trình ra quyết định và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nhà quản
lý. Họ có động lực để kiểm sốt doanh nghiệp chặt chẽ, tăng cường giám sát vì vậy


25
giảm thiểu được các sai phạm hay gian dối trong quản trị và điều hành (Aghion & Tirole,
1995; Shleifer & Vishny, 1986). Tuy nhiên, hình thức này thể hiện hạn chế nếu nhà
quản lý bị kìm hãm bởi việc giám sát q mức. Bên cạnh đó, hình thức sở hữu này cũng
tồn tại nguy cơ những cổ đông chi phối dùng chính quyền lực của mình để trục lợi cho
bản thân hơn là tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp, nghiêm trọng hơn có thể là các giao
dịch nội gián (Burkart, Gromb & Panunzi, 1997; Laeven & Levine, 2009; Shleifer &
Vishny, 1986).
Ngược lại, các doanh nghiệp khơng có cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng nào nắm quyền
biểu quyết từ ngưỡng 10% hoặc 20% trở lên thì được xếp vào cấu trúc sở hữu phân tán
hoặc cấu trúc sở hữu rải rác. Đối với các doanh nghiệp này, sự thao túng doanh nghiệp
hầu như không xảy ra do quyền sở hữu và kiểm sốt doanh nghiệp tách rời nhau. Điều

này có nghĩa là những người điều hành doanh nghiệp có chuyên mơn quản lý, nên có
khả năng làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, việc quản lý tốt
doanh nghiệp còn phụ thuộc vào chế độ phúc lợi, lương thưởng cao vì họ khơng có sở
hữu vốn cổ phần nào, hay nói cách khác là khơng có động lực thúc đẩy cống hiến cho
doanh nghiệp đó (Shleifer & Vishny, 1986).
Có hai trường phái chính đo lường mức độ sở hữu tập trung của các NHTMCP.
Trường phái thứ nhất (i) là sử dụng biến lưỡng phân, được tính theo tỷ lệ sở hữu của cổ
đông lớn nhất, nắm giữ quyền kiểm soát cao nhất, đại diện cho việc sở hữu tập trung
của ngân hàng đó. Mặt khác, nhiều nghiên cứu cho rằng các biến lưỡng phân thể hiện
tỷ lệ cổ phần của cổ đông đa số chưa thể hiện đầy đủ cấu trúc sở hữu, đặc biệt là mối
quan hệ quyền lực giữa cổ đông đa số và cổ đông thiểu số (Cubbin & Leech, 1983).
Trường phái thứ hai (ii) sử dụng các chỉ số, chẳng hạn như chỉ số Hirshmann-Herfindahl
(HHI) là biến thế hiện sự sở hữu tập trung, với tính khả thi cao hơn. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực ngân hàng, chưa có nhiều nghiên cứu sử dụng chỉ số HHI để đo lường mức độ
tập trung hay phân tán của cấu trúc sở hữu (Bruton, Filatotchev, Chahine, & Wright,
2010; Leech & Leahy, 1991). Các nghiên cứu trong lĩnh vực này thường sử dụng các
biến tính tỉ lệ sở hữu của các cổ đông lớn nhất hoặc sử dụng biến giả để phân biệt các
loại cấu trúc sở hữu (Bertay & Huizinga, 2015; Micco, Panizza, & Yanez, 2007).


26
Luận án này đo lường mức độ sở hữu tập trung theo trường phái thứ nhất (i) bằng
biến tính tỷ lệ sở hữu của nhóm cổ đơng lớn nhất, nhóm hai cổ đơng lớn nhất và nhóm
năm cổ đơng lớn nhất.
2.1.2.3 Phân loại cấu trúc sở hữu theo đặc điểm niêm yết
Ở một góc độ phân loại khác, dựa trên yếu tố về các nguyên tắc thị trường chi phối
doanh nghiệp niêm yết, có thể chia các ngân hàng ra thành 02 loại: ngân hàng niêm yết
và ngân hàng không niêm yết. Việc lựa chọn niêm yết công khai hay sở hữu nội bộ cũng
bao hàm sự khác biệt về kỷ luật thị trường và khả năng tiếp cận thị trường vốn của các
ngân hàng.

Theo đó, các ngân hàng niêm yết cơng khai trên sàn chứng khốn sẽ phải tn theo
kỷ luật thị trường nghiêm ngặt hơn do sự giám sát chặt chẽ từ nhiều phía như cơ quan
quản lý, nhà đầu tư và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Bù lại, các ngân hàng này sẽ có
khả năng huy động vốn cao hơn từ thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm
yết, các bên có liên quan từ thị trường chứng khốn có thể gây tác động lên nhà quản lý
và khuyến khích họ chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Thị trường cũng sẽ theo dõi sát sao và
ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng, vì vậy, khi nghiên cứu tác động
của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro, cần xem xét nó trong thị trường tài
chính có kỷ luật như thị trường chứng khốn (niêm yết) (Bliss & Flannery, 2002).
Trong hiệp ước Basel II, kỷ luật thị trường là một trong ba trụ cột, cùng với điều tiết
vốn (trụ cột thứ nhất) và giám sát ngân hàng (trụ cột thứ hai). Ý tưởng của kỷ luật thị
trường là dựa vào các lực lượng thị trường để tăng cường giám sát ngân hàng hoặc giảm
thiểu rủi ro (Powell, 2004). Mặt khác, các ngân hàng được niêm yết cơng khai có thể có
mục tiêu linh hoạt hơn về tăng trưởng và chiến lược đối phó với rủi ro. Vốn cổ phần của
các ngân hàng được niêm yết trên sàn chứng khốn có tính thanh khoản cao hơn vốn cổ
phần của các ngân hàng chưa niêm yết. Nhờ vậy, các ngân hàng niêm yết có thể huy
động được vốn với chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, nếu mục đích tiếp cận thị trường vốn
của các ngân hàng là để tài trợ cho các cơ hội tăng trưởng nhanh hơn thì các ngân hàng
này có thể phải chịu nhiều rủi ro tiềm tàng hơn (Barry, Lepetit, & Tarazi, 2011). Bên
cạnh đó, trong các ngân hàng được niêm yết cơng khai, quyền sở hữu thường bị phân


27
tán cho một số lượng lớn cổ đông, trong khi quyền lực điều hành tại các ngân hàng
không niêm yết thường tập trung trong tay một số chủ sở hữu lớn của ngân hàng. Sự
tách biệt hơn giữa cổ đông và nhà quản lý trong các ngân hàng niêm yết có thể làm tăng
sự bất cân xứng thơng tin và do đó tạo ra sự khác biệt trong các động lực tạo ra lợi ích,
hay nói cách khác là làm gia tăng vấn đề chủ sở hữu – người đại diện (Jensen &
Meckling, 1976).
Từ cơ sở lý luận về cấu trúc sở hữu và phân loại cấu trúc sở hữu của ngân hàng,

tác giả giả định đặc điểm sở hữu theo tính chất cổ đơng, sở hữu tập trung và đặc điểm
niêm yết có tác động khác nhau đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng. Giả định này làm tiền đề phân tích cho các câu hỏi nghiên cứu
trong luận án.
2.2 Cơ sở lý thuyết về rủi ro và hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng
2.2.1 Cơ sở lý thuyết về rủi ro
2.2.1.1 Khái niệm rủi ro
Rủi ro được hiểu là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với
lợi nhuận dự kiến, cũng có thể là những bất trắc ngồi ý muốn xảy ra trong quá trình
kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của
một doanh nghiệp (Rothschild & Stiglitz, 1970). Tuy nhiên, nếu tích cực nghiên cứu rủi
ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phịng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực,
đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai (Kaplan & Garrick, 1981).
Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro là một nhân tố quan trọng để ước tính hiệu quả về lợi
nhuận và chi phí của ngân hàng. Loại bỏ rủi ro ra khỏi mơ hình ước lượng hiệu quả dễ
dẫn tới ước lượng bị sai lệch, không thể đưa ra chính sách đúng đắn để điều chỉnh hoạt
động hay cấu trúc vốn của một ngân hàng.
2.2.1.2 Phân loại rủi ro
Theo Ủy ban Basel, có ba loại rủi ro được tính tốn theo ba yếu tố chính mà ngân
hàng phải đối mặt: (i) rủi ro tín dụng, (ii) rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và (iii)
rủi ro thị trường.


28
(i) Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng do khách hàng khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện các nghĩa
vụ của mình theo cam kết. Hay nói cách khác, rủi ro tín dụng phát sinh do khách hàng
vay không thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng tín dụng (chậm trả nợ, trả nợ
không đủ hoặc không trả nợ) khi đến hạn, gây ra những tổn thất về tài chính và khó
khăn trong hoạt động kinh doanh của NHTMCP (Nguyen & Le, 2017). Rủi ro tín dụng

cũng được định nghĩa tương tự trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN.
(ii) Rủi ro hoạt động là rủi ro gây ra tổn thất do các nguyên nhân như con người, sự
không đầy đủ hoặc vận hành không tốt các quy trình, hệ thống; các sự kiện khách quan
bên ngồi. Cụ thể, Basel đưa ra bảy (07) loại rủi ro hoạt động mà các ngân hàng nói
riêng và các tổ chức tài chính nói chung cần quan tâm, bao gồm: rủi ro gian lận nội bộ;
Rủi ro gian lận bên ngoài; Rủi ro liên quan đến an toàn nơi làm việc và các nguyên tắc
lao động; Rủi ro liên quan đến khách hàng, sản phẩm và các nguyên tắc kinh doanh;
Rủi ro thiệt hại tài sản; Rủi ro gián đoạn hoạt động kinh doanh và hệ thống. Rủi ro hoạt
động cũng được định nghĩa tương tự tại Điều 3, Thông tư 20/2018/TT-NHNN. Các rủi
ro trong nhóm này có thể kể đến như rủi ro do quy chế, quy trình nghiệp vụ, rủi ro do
cán bộ ngân hàng, rủi ro do tác động bên ngồi, rủi ro từ hệ thống cơng nghệ thông tin
và rủi ro do các nguyên nhân khác. Rủi ro hoạt động liên quan đến toàn bộ các bộ phận
trong ngân hàng và có thể được giảm thiểu một cách hiệu quả nếu các nhân viên ngân
hàng tìm hiểu các lỗ hổng hoạt động cốt lõi của ngân hàng và thiết lập các chỉ số rủi ro
phù hợp. Cách giải quyết đúng đắn nhất là hướng dẫn đội ngũ nhân viên phân tích và
quản trị rủi ro trong tác nghiệp hàng ngày. Việc quản lý rủi ro hoạt động khơng tốt có
thể gây tổn hại đến uy tín, danh tiếng và tài chính của một ngân hàng.
(iii) Rủi ro thị trường là những biến cố có thể ảnh hưởng đến thu nhập của tổ chức
tài chính, xuất phát từ những biến động của thị trường, có thể kể đến như rủi ro biến
động tỷ giá, rủi ro biến động giá vàng, rủi ro biến động lãi suất, rủi ro chính trị, rủi ro
suy thối…Rủi ro thị trường là một trong những nội dung trọng tâm và được định nghĩa
tương tự tại Khoản 2, Điều 8, Thông tư 08/2017/TT-NHNN.


29
Ngoài cách phân loại theo Basel, nhiều nhà nghiên cứu cũng phân loại rủi ro theo
nhiều cách khác. Srivastav & Hagendorff (2016) cho rằng hoạt động của ngân hàng gắn
liền với nhiều loại rủi ro chính bao gồm: rủi ro thanh khoản, rủi ro danh tiếng, rủi ro
chiến lược, rủi ro tuân thủ.
Bên cạnh đó, Khan, Scheule & Wu (2017) phân chia rủi ro của ngân hàng thành 3

loại: (i) Rủi ro tài sản: được tính tốn bằng tỷ số tài sản có rủi ro trên tổng tài sản. Rủi
ro này là thước đo chính cho rủi ro tín dụng trong hiệp ước Basel. Tài sản có rủi ro được
tính toán theo quy định về vốn của hiệp ước và đo lường cho chất lượng tài sản và rủi
ro của ngân hàng. Ngồi ra, rủi ro tài sản cịn được đại diện bởi tỷ lệ trích lập dự phịng.
Ngân hàng sẽ tăng trích lập dự phịng nếu khả năng các khoản nợ khơng thu hồi có khả
năng xảy ra cao. Tỷ lệ trích lập dự phịng cho thấy các ngân hàng chấp nhận rủi ro cao
với những khoản cho vay của mình; (ii) Rủi ro ngân hàng tổng quát: Được đo lường bởi
hệ số nguy cơ phá sản Zscore. Hệ số này cho thấy khoảng cách tới mức phá sản là bao
nhiêu. Zscore được tính tốn bằng tỷ lệ của tổng ROA (lợi nhuận trên tổng tài sản) và
EA (vốn cổ phần trên tổng tài sản) chia cho độ lệch chuẩn của ROA; (iii) Rủi ro thanh
khoản: đo lường khả năng tài sản không thanh khoản trong tương quan với các khoản
nợ có khả năng thanh khoản cao. Luận án này giới hạn hành vi chấp nhận rủi ro ở cách
đo lường (i) và (ii).
2.2.2 Cơ sở lý thuyết về hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng
2.2.2.1 Khái niệm hành vi chấp nhận rủi ro
Hành vi chấp nhận rủi ro là thái độ, mức phản ứng, và cách xử lý của các doanh
nghiệp đối với một mức rủi ro nhất định là hành vi liên quan đến rủi ro của doanh nghiệp
đó (Boyd & De Nicolo, 2005). Dưới góc nhìn quản lý, rủi ro khơng chỉ hàm ý tiêu cực
mà tồn tại khả năng tác động tích cực (như việc chấp nhận một mức rủi ro như nghiên
cứu phát triển cơng nghệ đem lại lợi ích lớn). Hay nói cách khác, rủi ro tồn tại khi có
sự khơng chắc chắn xảy ra phụ thuộc vào cách nhìn nhận, thái độ và cách xác định lợi
ích kỳ vọng đạt được (expected value - EV) đối với rủi ro, điều này hình thành nên các
hành vi chấp nhận rủi ro.


×