Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Thái độ của sinh viên năm nhất trường đại học khoa học xã hội và nhân văn với việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học cấp trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.43 KB, 68 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN VỚI VIỆC CHUYỂN ĐỔI SANG
HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Chủ nhiệm đề tài:
TRẦN VĂN THẢO

Người hướng dẫn khoa học:
ĐẶNG VIÊN NGỌC TRAI

Tp.Hồ Chí Minh – 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ


NHÂN VĂN VỚI VIỆC CHUYỂN ĐỔI
SANG HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Các thành viên:
TRẦN VĂN THẢO
Sv. Giáo dục học - K04
NGUYỄN THỊ THU QUẾ

Sv. Giáo dục học - K04
NGUYỄN THỊ THUÝ NGA

Sv. Giáo dục học - K04

Người hướng dẫn khoa hoc:
ĐẶNG VIÊN NGỌC TRAI

Tp.Hồ Chí Minh – Tháng 4 / 2007


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ................................................ 5
1.1 Lịch sử nghiên cứu đề tài ........................................................................5
1.2. Thái độ và đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên ......................................7
1.3. Khái niệm về học chế tín chỉ ................................................................. 12
CHƯƠNG 2 : THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC CHUYỂN ĐỔI
SANG HỌC CHẾ TÍN CHỈ ............................................................................ 18
2.1. Trường ĐH KHXH & NV với việc áp dụng học chế tín chỉ ................ 18
2.2
Thái độ của sinh viên với việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ ....... 20

2.3. Đánh giá chung ...................................................................................... 38
CHƯƠNG 3 : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................... 42
3.1 Kết luận .................................................................................................. 42
3.2 Khuyến nghị .......................................................................................... 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 48
PHỤ LỤC......................................................................................................... 49


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chiến lược giáo dục giai đoạn 2006-2020, năm 2005 lần đầu
tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức chỉ đạo các trường Đại học và Cao
đẳng áp dụng hình thức đào tạo theo tín chỉ - một hình thức đào tạo đang được
nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng vì những ưu việt của nó. Đào tạo theo học
chế tín chỉ là một trong bảy bước đi quan trọng trong lộ trình đổi mới giáo dục
đại học. Theo chủ trương của Bộ thì sẽ triển khai thí điểm tại 7 trường Đại học
và đến 2010, phải hoàn thành việc chuyển đổi sang mơ hình đào tạo tín chỉ cho
các Trường Đại học và Cao đẳng.
Đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho sinh viên. Sinh
viên sẽ không bị giới hạn về thời gian học tập, sinh viên chỉ việc tích luỹ khối
lượng kiến thức định sẵn, khi nào đủ số tín chỉ thì được ra trường. Đây chính
là một quy trình đào tạo mềm dẻo, lấy người học làm trung tâm mà trong chiến
lược nhằm thay đổi phương pháp nội dung dạy học mà Bộ Giáo dục và Đào
tạo đang hướng tới.
Thực hiện quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, dựa trên những ưu
điểm của tín chỉ và nhu cầu học ngày càng cao của sinh viên, ngày 10/8/2006,
Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Tp.Hồ Chí Minh đã
ban hành quyết định số: 105/QĐ-ĐT về thực hiện chuyển đổi từ đào tạo Niên

chế sang đào tạo theo hình thức tín chỉ. Việc triển khai thực hiện đến nay đã
được một học kì. Nhưng do việc đào tạo theo tín chỉ ở một số trường đại học ở
Việt Nam trong đó có trường Khoa học Xã hội & Nhân văn vẫn cịn mới mẻ
và hình thức đào tạo này cũng đòi hỏi yêu cầu rất cao như cơ sở vật chất, trình
độ cơng nghệ quản lý…..cho nên khi áp dụng vẫn cịn nhiều khó khăn, lúng
túng, bất cập từ đó dẫn đến những phản ứng, thái độ, quan điểm khác nhau
trước việc chuyển đổi này. Đứng trước những vấn đề trên, nhóm nghiên cứu
chứng tơi thực hiện đề tài: “Thái độ của sinh viên năm nhất trường Đại học
Khoa học xã hội &Nhân văn với việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ” nhằm


2

tìm hiểu rõ hơn thái độ của sinh viên để nhà trường có những điều chỉnh hợp
lý giúp cho việc học tập của sinh viên trong trường đạt hiệu quả cao và chất
lượng dạy học của trường ngày càng được nâng cao, và qua đó đóng góp vào
sự phát triển của đất nước trong thời kì hội nhập.
2. Tình hình nghiên cứu.
Cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều học giả trong và
ngoài nước nghiên cứu về thái độ của con người dưới các vấn đề khác nhau.
Tuy nhiên có ít người đi sâu nghiên cứu vấn đề này nhất là với việc hình thức
đào tạo tín chỉ mới được triển khai rộng rãi như hiện nay. Cụ thể có một số đề
tài nghiên cứu về thái độ như:
-

Đề tài: “Hiểu biết, thái độ và thực hành liên quan đến

HIV/AIDS trong thanh niên Hà Nội” của Phan Thục Anh vàDaniel
Goodkind.
-


Đề tài: “Khảo sát, đánh giá về kiến thức, thái độ và thực

hành của thanh thiếu niên Hải Phòng và các vấn đề có liên quan
đến sức khoẻ sinh sản” Trần Thị Trung Chiến và các cộng sự.
-

Đề tài: “Tìm hiểu hứng thú học tập mơn Giáo dục Thể chất

của sinh viên trường ĐKHXH&NV_ ĐHQG Hà Nội” Mai Văn Khải
lớp K47_ Khoa Tâm lý – ĐHKHXH&NV Hà Nội.
-

Đề tài: “Kiến thức, thái độ và hành vi của thanh thiếu niên

về dân số và kế hoạch hố gia đình, phịng chống AIDS và các mơ
hình câu lạc bộ thanh niên tại Nghệ An và Hà Nội” John Chalker
thực hiện vào tháng 5/1995.
-

Đề tài: “Nhận thức và hành vi của thanh thiếu niên nông

thôn kiếm sống theo thời vụ ở các đô thị về nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS”
- Đề tài: “Thái dộ của sinh viên Đại học KHXH&NV với việc gia
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam” Nguyễn Văn Lượt–Khoa Tâm lý–
ĐHKHXH&NV
- Đề tài: “Thái độ học tập môn anh văn không chuên của sinh viên
trường ĐHKHXH&NV” Phạm Văn Tuân; 2006



3

Ngồi ra cũng cịn một số đề tài liên quan đến thái độ ở một số lĩnh
vực khác..
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thái độ của sinh viên năm nhất đối
với việc chuyển sang học chế tín chỉ, qua đó giúp nhà trường, đặc biệt là
các phòng ban quản lý đào tạo hiểu rõ hơn thái độ, cũng như các phản ứng
khác nhau của sinh viên từ đó có những điều chỉnh kịp thời nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo. Và qua việc nghiên cứu, cũng giúp cho sinh viên
một số kiến thức về tín chỉ và có những thái độ đúng đắn, khách quan để
giúp cho việc học tập đạt được kết quả cao nhất.
Để đạt được những mục đích trên, đề tài cần thực hiện được những
nhiệm vụ sau:
 Khái quát vấn đề nghiên cứu:
- Tín chỉ và những đặc điểm của tín chỉ.
- Thái độ là gì?
- Sinh viên và đặc điểm Tâm sinh lý của sinh viên
 Tiến hành khảo sát thái độ của sinh viên đối với việc chuyển
đổi sang học chế tín chỉ.
 Đánh giá chung
 Đề xuất một vài khuyến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở của phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và tận
dụng các phương pháp như:
 Điều tra bảng hỏi,
 Phỏng vấn sâu,
 Xử lý số liệu
 Nghiên cứu tài liệu

Chúng tôi tiến hành chọn lọc, tổng hợp và phân tích dữ liệu để làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.


4

5. Khách thể nghiên cứu.
Do trường Đại học KHXH&NV lần đầu tiên áp dụng học chế tín
chỉ năm 2006 nên nhóm chúng tơi chỉ tiến hành khảo sát sinh viên năm nhất
khoá 2006 –2010 bằng phương pháp chọn ngẫu nhiên 216 sinh viên trong 15
khoa trên tổng số hơn 2000 sinh viên của trường.
6. Đối tượng nghiên cứu.
Là thái độ của sinh viên năm nhất trường Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
7. Đóng góp mới của đề tài.
Với kết quả nghiên cứu, đó chính là những dữ liệu, những thông tin
quan trọng giúp nhà trường thấy rõ vấn đề hơn, từ đó có những điều chỉnh kịp
thời và rút kinh nghiệm cho lần thực hiện sau. Đề tài còn là nguồn tài liệu quý
giá cho những sinh viên muốn có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn về tín chỉ, từ đó
có cái nhìn đúng đắn cũng như có động cơ hoc tập tốt nhất để đạt kết quả cao
trong học tập.
8. Ý nghĩa của đề tài.
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn. Qua nghiên cứu thái độ của sinh viên năm
nhất, đề tài sẽ trực tiếp giúp nhà trường có những điều chỉnh, phương thức
triển khai hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Qua đó rút ra bài học kinh nghiêm cho
việc triển khai lần sau và góp phần nâng cao sự hiểu biết của sinh viên.
9. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thái độ của sinh viên năm nhất đối với việc chuyển sang học chế

tín chỉ
Chương 3: Kết luận và khuyến nghị


5

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1 Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong cuộc sống đời thường hàng ngày, mỗi người chúng ta thường dùng
rất nhiều từ, nhiều câu… mà chúng ta không hiểu hết ý nghĩa của chúng. Chúng
ta hiểu từ đó là do kinh nghiệm thực tiễn mang lại nhưng chúng ta đâu có biết,
dưới góc độ khoa học thì đưa ra một khái niệm nào đó là cả q trình bàn luận,
tranh cãi, mỗi một nhà khoa học thì có một quan điểm, một khái niệm khác nhau.
Ví như từ “thái độ”, thường ngày chúng ta chỉ hiểu thái độ là cách ứng xử của ai
đó…Nhưng trên phương diện khoa học thì đến nay cũng đã có rất nhiều quan
điểm được đưa ra và riêng đối với ngành Tâm lý học thì Thái độ là một đối tượng
nghiên cứu.
Bắt đầu từ năm 1935 trong cuốn “sổ tay tâm lý học xã hội” GW All Port
cho rằng khái niệm thái độ là khái niệm phân biệt nhất và quan trọng nhất trong
tâm lý học xã hội Mỹ. 50 năm sau, năm 1985 cũng trong cuốn sổ tay tâm lý học
xã hội nhưng của William. Mcguire tổng kết rằng thái độ và sự thay đổi vẫn là
một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học xã hội. Tuy
nhiên phải thừa nhận rằng thái độ là một khái niệm rất khó thống nhất . Chính vì
vậy dù được nghiên cứu rất nhiều nhưng vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
1.1.1 Nghiên cứu thái độ ở Phương Tây
Khi nghiên cứu lịch sử thái độ trong tâm lý học, nhà tâm lý học người Nga
P.N.Shikhirev đã chia quá trình này thành 3 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: Từ khái niệm về thái độ được sử dụng đầu tiên vào năm
1918 cho đến trước chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là thời kỳ phát triển mạnh

mẽ với nhiều cơng trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào định nghĩa, cấu trúc,
chức năng của thái độ và mối quan hệ giữa thái độ và hành vi.
Thời kỳ thứ hai: Từ chiến tranh thế giới thứ hai cho đến cuối những năm
50. Vì lý do chiến tranh diễn ra trên toàn thế giới, cùng với sự bế tắc trong quá


6

trình lý giải các nghịch lý nảy sinh từ khi nghiên cứu thái độ, nên ở thời kỳ này
các công trình nghiên cứu về thái độ giảm sút kể cả về số lượng và chất lượng.
Thời kỳ thứ ba: Từ cuối những năm 50 trở lại đây các nước Phương Tây
phục hồi và phát triển trở lại sau chiến tranh. Cùng với sự phát triển đó các cơng
trình nghiên cứu về thái độ cũng được tiếp tục với nhiều ý tưởng, quan điểm
mới. Vào năm 1957 có một nghiên cứu đã lý giải tại sao “hành vi lại ảnh hưởng
đến thái độ của con người” là thuyết bất đồng nhận thức của Leon Festinger.
Ngoài ra các nhà tâm lý học Phương Tây cịn nghiên cứu, xem xét nhiều khía
cạnh khác của thái độ nhất là các vấn đề về vai trò, chức năng, cấu trúc như các
nghiên cứu của M.Rokeach (1968), T.M.Ostrom (1969), U.JMcguire (1969),
J.R.Rempell (1988). Như vậy có thể thấy rằng trong suốt thời kỳ từ đầu thế kỷ
XX cho đến nay ở Phương Tây đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về thái độ.
1.1.2 Nghiên cứu thái độ ở Liên Xơ
Trong q trình nghiên cứu thái độ ở Liên Xơ trước đây có hai học thuyết
được coi là có ảnh hưởng lớn tới tâm lý học Liên Xô hơn cả là thuyết Tâm Thế
của D.N.Uzaztze và thuyết định vị của V.N.Miaxisev. Thuyết thái độ nhân cách
cho rằng nhân cách là một hệ thống thái độ. Theo tác giả phản xạ có điều kiện
chính là cơ sở sinh lý học của thái độ có ý thức của con người với hiện thực.
Miaxisev chia thái độ ra 2 loại tiêu cực và tích cực. Cùng với các q trình, các
trạng thái, các thuộc tính tâm lý thái độ là một trong những hình thức thể hiện
tâm lý người. Khi nghiên cứu các vấn đề của thái độ các nhà tâm lý học Xô Viết
đã vận dụng cách tiếp cận hoạt động và nhân cách, gắn thái độ với nhu cầu, với

điều kiện hoạt động, với nhân cách, coi thái độ như một hệ thống, từ đó đưa ra
cách lý giải hợp lý và khoa học về sự hình thành thái độ, vị trí và chức năng của
thái độ trong quá trình điều chỉnh hành vi và hoạt động của cá nhân. Có thể kể
đến các tác giả tiêu biểu đã có các cơng trình nghiên cứu sinh viên như:

- I.L.Bogovic (1951) nghiên cứu động cơ, thái độ học tập của học sinh nhỏ.
- A.K.Marcova (1983) nghiên cứu hình thành động cơ học tập của học sinh.
- Machikhina và đồng tác giả nghiên cứu quan hệ giữa động cơ và thái độ
học tập của học sinh, sinh viên.


7

Ở Cộng Hịa Dân Chủ Đức trước đây cũng có một số cơng trình nghiên
cứu tiêu biểu về thái độ do một số nhà tâm lý học xã hội như V.ayze,
M.Phovec......tiến hành. Ngoài những vấn đề nghiên cứu một cách truyền thống
thì các nhà tâm lý học Đức cịn đề cập nhiều vấn đề khác như các cơ chế hình
thành thái độ, sự định hình thái độ do M.Worwery và đồng nghiệp thực hiện.
Trong lĩnh vực kinh tế một số cơng trình nghiên cứu đã xem thái độ như là thành
tố của năng suất tập thể.
1.1.3 Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu các thành tựu của tâm lý học thế giới và thực tiễn tâm lý
học nước nhà, các nhà tâm lý học Việt Nam đã xác định một số quan niệm cơ
bản về vị trí, vai trò của thái độ trong hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành ở người học có đủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
có văn hóa, có thái độ ứng xử hài hịa với mơi trường sống, trong q trình học
tập và với bản thân mình.
Ở Việt Nam các cơng trình nghiên cứu thái độ của học sinh, sinh viên còn
chưa được triển khai rộng, mới chỉ đạt dược một số kết quả bước đầu như xác
định vị trí, vai trị của thái độ. Nghiên cứu thái độ của sinh viên qua nghiên cứu

hứng thú học tập, định hướng giá trị.
1.2. Thái độ và đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên
1.2.1 Khái niệm về Thái độ.
Cũng đã có nhiều khái niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu, các nhà
Tâm lý.., mỗi một nhà nghiên cứu, đứng dưới góc độ, khía cạnh khác nhau thì có
các khái niệm về thái độ khác nhau. Khái niệm thái độ lần đầu tiên được đưa ra
vào năm 1918.
Hai nhà Tâm lý học người Mỹ là W.I.Thomas và F.Zaniecki cho rằng:
“Thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân có hành động hay khơng có hành
động khác mà được xã hội chấp nhận”, “Thái độ là trạng thái tinh thần của cá
nhân đối với một giá trị”.
Nhà Tâm lý học người Mỹ khác là G. W. Allport năm 1935 định nghĩa: “
Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh, được hình thành
thơng qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hay ảnh hưởng năng động đối


8

với phản ứng của cá nhân đến các tình huống và khách thể mà nó có thiết lập
mối quan hệ”.
Nhà Tâm lý học Newcom đã định nghĩa: “Thái độ chính là một thiên
hướng hành động, tư duy nhận thức, cảm nhận của cá nhân đến một đối tượng
hay sự việc có liên quan”.
H. Fillmore định nghĩa: “Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay
tiêu cực đối với một đối tượng hay biểu tượng trong môi trường”.
James.W.Kalat định nghĩa: “Thái độ là sự thích hay khơng thích một sự vật hoặc
một người nào đó, từ đó có ảnh hưởng tới hành vi của anh ta khi ứng xử với sự
vật hay con người”.
John Traven định nghĩa: “Thái độ là cảm xúc, tư duy và hành động tương
đối lâu dài đối với sự việc hay con người đó”.

Trong từ điển các thuật ngữ Tâm lý và Phân tâm học xuất bản năm 1996
tại New York cho rằng: “Thái độ là một trạng thái ổn định, bền vững do tiếp thu
được từ bên ngoài, hướng vào sự ứng xử một cách nhất quán đối với một nhóm
đối tượng nhất định. Không phải như bản thân chúng ra sao mà chúng được
nhận thức ra sao. Một thái độ được nhận thức ở sự nhất quán của những phản
ứng đối với một nhóm đối tượng, trạng thái sẵn sàng có ảnh hưởng trực tiếp lên
cảm xúc và hành động có liên quan đến đối tượng”.
Trong từ điển tiếng Việt, thái độ được định nghĩa: “Thái độ là cách thừa
nhận, hành động của cá nhân về một phương hướng nào đó trước một vấn đề,
một tình huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngồi của ý
nghĩ, tình cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào đó”.
Trong từ điển Xã Hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên cũng nhấn
mạnh “Tâm thế - thái độ xã hội đã được củng cố có cấu trúc phức tạp bao gồm
các thành phần nhận thức, xúc cảm, hành vi”.
Trong từ điển Tâm lý học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên định nghĩa:
“Thái độ là mặt biểu hiện bề ngồi của ý nghĩa, tình cảm đối với ai hay việc gì
thơng qua nét mặt, cử chỉ hành động hoặc thái độ là ý thức, cách nhìn nhận,
đánh giá và hành động theo một hướng nào trước sự việc, vấn đề gì, xác định
thái độ học tập đúng đắn”.


9

1.2.2 Khái niệm về sinh viên
Sinh viên là những người đang học, đang được đào tạo tại các trường
đại học, cao đẳng. Hiện nay ở nước ta, muốn trở thành sinh viên phải có đủ các
điều kiện quy định theo quy chế tuyển sinh đại học và cao đẳng do nhà nước ban
hành và phải trải qua một kì thi tuyển sinh quốc gia.
Về độ tuổi theo các nhà tâm lý học, phần lớn sinh viên ở lứa tuổi thanh
niên giai đoạn 2 (từ 18 đến 25 tuổi). Quá trình nhận thức, tư tưởng, hình thành

nhân cách, sự phát triển về tâm sinh lý, nhu cầu, sở thích, phong cách, lối sống
của họ lại có nhiều điểm khác với các thế hệ lớn tuổi.
1.2.3 Đặc điểm Tâm Sinh lý của sinh viên
 Đặc điểm sinh học (thể chất)
Theo các nhà sinh lý học, đến tuổi 25 thì sự phát triển của con người về
mặt thể chất cũng tương đối hoàn thiện. Việc phân chia giai đoạn với các tên gọi
chỉ có ý nghĩa tương đối.
Đây là giai đoạn mà về mặt thể chất con người dần dần hoàn thiện thể hiện
ở chỗ đến độ tuổi 25, trọng lượng của não đạt đến mức tối đa, số lượng nơron
thần kinh lên tới mức cao nhất (14-16 tỉ). Sự hoàn thiện dần này đã làm cho não
bộ của con người trở nên nhanh nhạy, chính xác đặc biệt so với lứa tuổi khác.
Với sự phát triển hoàn mỹ của hệ thần kinh làm cho việc chiếm lĩnh các tri thức
được dồi dào, có thể chiếm tới 2/3 lượng tri thức cả cuộc đời. Đây là giai đoạn
mà việc nhận thức, quan điểm,….phản ánh về thế giới quan hay về các sự vật
hiện tượng mang tính chất biến chứng và rõ ràng nhất vì các quan điểm, các nhận
thức này mang đậm nét tư duy năng động. Thực tế cho thấy đây là giai đoạn việc
học hành chiếm lĩnh tri thức của con người là tốt nhất và nhiều nhất. Nếu trước
của giai đoạn này (18 tuổi trở lại) thì cịn mang tính hạn chế, cịn nếu sau giai
đoạn này thì việc chiếm lĩnh hay tiếp thu có phần khó khăn hơn. Chính vì thế, tận
dụng ở lứa tuổi này biết bao sinh viên đã phát huy được tài năng, sự sáng taïo,
năng động của mình góp phần khơng nhỏ vào sự phát triển của đất nước.
Với sự phát triển các yếu tố về thể chất nói trên đã giúp sinh viên tham gia
vào các hoạt động học tập và nghiên cứu và vai trị xã hội của mình tốt hơn.


10

 Đặc điểm phát triển tâm lý của sinh viên
- Sự phát triển về nhận thức trí tuệ của sinh viên
Lứa tuổi thanh niên là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển các năng

lực trí tuệ. Nhà tâm lý học Xô viết N.X.Layxet đã dựa vào các số liệu liên quan
trực tiếp và thơng qua trị chuyện với các em đã đối chiếu các hoạt động trí tuệ
khi so sánh thanh niên với thiếu niên, ông nhận thấy thanh niên tư duy phát triển
hơn nhiều.
Ông cho rằng ở các học sinh lớn hơn (tức ở độ tuổi thanh niên sinh viên)
thường xuyên và đặt câu hỏi tại sao và thường tỏ ra nghi ngờ tính chất đầy đủ và
đúng đắn của các lời giải thích. Hoạt động tư duy mang tính tích cực và độc lập
hơn, họ thích khái qt, thích tìm hiểu những quy luật và ngun tắc chung đứng
đằng sau các hiện tuợng hằng ngày. Những điều nhận xét trên cho thấy, do đặc
trưng loại hình đào tạo ở bậc đại học và cao đẳng, bản chất của hoạt động nhận
thức của sinh viên là đi sâu tìm hiểu những mơn học, những ngành khoa học cụ
thể để nắm đối tượng, nhiệm vụ, phuơng pháp, quy luật của các khoa học đó với
mục đích trở thành các chuyên gia tương lai về các lĩnh vực nhất định. Hoạt động
học tập của họ khơng mang tính phổ thơng dàn trải mà nó mang tính chun sâu
và kĩ hơn.
Sự phát triển của các kĩ năng nhận thức và trí tuệ ở lứa tuổi thanh niên cũng
như ở bất kì lứa tuỏi khác nào đều có hai mặt: mặt chất lượng và mặt số lượng.
Những thay đổi số lượng thực chất là những thay đổi về mức độ, trình độ phát
triển. Thiếu niên giải quyết các bài tập trí tuệ, dễ dàng hơn, nhanh hơn và có hiệu
quả hơn trẻ em.. Những thay đổi về chất là những chuyển biến trong cấu trúc của
các quá trình tự duy.
Hoạt động học tập của sinh viên ln có sự căng thẳng về mặt trí tuệ, sự phối
hợp nhiều thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái
quát hóa.
Hoạt động nhận thức của họ gắn liền với hoạt động nghiên cứu khoa học và
không tách rời hoạt động nghề nghiệp của người chuyên gia.
Do ở thời kỳ này, hoạt động nhận thức của sinh viên mang tính độc lập, sáng
tạo, tự tìm tịi nghiên cứu để nâng cao trình độ của mình và cũng do khi vào đại



11

hoïc về cả phương pháp và nội dung khác xa so với ở phổ thơng, địi hỏi sinh
viên phải thích nghi nhanh và phải tìm ra phương pháp học phù hợp và phương
pháp đó phải phù hợp với những chuyên ngành khoa học mà họ theo đuổi.
Tóm lại hoạt động nhận thức của sinh viên là hoạt động trí tuệ đích thực,
căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt. Hoạt động trí tuệ này vẫn lấy
những sự kiện của quá trình nhận thức làm cơ sở. Song các thao tác trí tuệ của họ
đã phát triển ở trình độ cao và có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế, uyển chuyển,
linh động. Do vậy đa số sinh viên đều lĩnh hội kiến thức một cách nhanh nhạy sắc
bén và luôn muốn đào sâu, suy nghĩ vấn đề sâu hơn, rộng hơn.
- Đời sống xúc cảm, tình cảm của sinh viên.
Theo B.G.Ananhev và một số nhà tâm lý học khác, tuổi sinh viên là thời
kì phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình
cảm thẩm mỹ. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và
trong đời sống của sinh viên.
Đây là giai đoạn ở người sinh viên hình thành sự say mê của mình đối với
chuyên môn và nghề nghiệp đã chọn. Họ là người yêu vẻ đẹp và thể hiện vẻ đẹp
thẩm mỹ ở các sự vật hiện tượng của thiên nhiên hoặc con người tạo ra.
Tình bạn cùng giới, khác giới của sinh viên phát triển theo chiều sâu.
Nhưng tình bạn đã có từ hồi học phổ thông vẫn giữ phần bền vững sâu sắc.
Bên cạnh tình bạn, tình yêu nam nữ ở sinh viên là một lĩnh vực rất đặc
trưng. Họ bước vào tình u nam nữ với một phong thái hồn toàn khác với lứa
tuổi trước do địa vị xã hội, trình độ học lực và tuổi đời quy định. Tình yêu của họ
rất đẹp, lãng mạn, đầy thi vị….Song họ cũng gặp phải những mâu thuẫn nội tại
chẳng hạn mâu thuẫn giữa khối lượng tri thức nhiều, đa dạng với thời gian có hạn
trong học tập, trong khi u địi hỏi khơng ít thì giờ, vvv..
- Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới
Bước vào môi trường đại học là bước vào một môi trường học tập hồn
tồn mới địi hỏi sinh viên phải thích nghi nhanh chóng với mơi trường mới, từ

bỏ những thói quen xấu từ thời phổ thông, làm quen với phong cách cũng như
hoạt động mới nơi giảng đường đại học, những khó khăn ở mơi trường mới này


12

cũng là điều kiện để họ tạo lập cho họ tính tự lập, tính năng động, sáng tạo….và
tự thiết lập cho mình những mối quan hệ mới.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất đối với sinh viên vẫn là làm sao để thích nghi
được với nội dung và phương pháp học tập mới. Điều này luôn được sinh viên
trong năm đầu tiên quan tâm.
 Hoạt động chủ đạo của sinh viên.
Hoạt động cơ bản của sinh viên trong thời kì này chủ yếu là học tập và
nghiên cứu khoa học, Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của họ.
Hoạt động học tập của sinh viên thơng qua nhiều hình thức khác nhau
chẳng hạn như đến lớp nghe giảng, thảo luận chuyên đề (semina), đọc sách tham
dự các buổi thuyết trình, dự hội thảo, khảo sát thực tế……
Song song với những hoạt động học tập, sinh viên còn tham gia hoạt động
nghiên cứu khoa học. Đây là hoạt động đặc trưng và ngày càng chiếm vị trí quan
trọng, giúp sinh viên đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực chuyên môn của mình.
Tất cả những hoạt động trên chiếm một vị trí quan trọng và góp phần hình
thành nhân cách cùng với sự phát triển đời sống tâm lý của sinh viên.
1.3. Khái niệm về học chế tín chỉ
Tín chỉ học tập, gọi tắt là tín chỉ là một đơn vị dùng để xác định một khối
lượng kiến thức và qua đó đánh giá kết quả học tập của sinh viên dựa trên số
lượng tín chỉ học tập đã tích lũy được.
Một tín chỉ học tập được qui định bằng 15 tiết học lý thuyết hoặc qui đổi
thành 30 tiết thảo luận, làm bài tập, thực nghiệm trên lớp học hoặc thành 45-60
tiết thực tập kiến tập chuẩn bị khóa luận tốt nghiệp.
Học chế tín chỉ là hệ thống mà kiến thức đuợc cấu thành các học phần, lớp

học được tổ chức theo từng học phần. Đầu mỗi học kì sinh viên được đăng kí các
mơn học thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ, và phù hợp với qui định
chung nhằm đạt được kiến thức theo một ngành chuyên mơn chính nào đó.
Học chế tín chỉ là hình thức đào tạo được hầu hết các nước tiên tiến trên
thế giới áp dụng mà trước tiên là ở Hoa Kỳ. Xuất phát từ địi hỏi quy trình đào
tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên có thể tìm được cách học thích hợp nhất
cho mình, đồng thời trường đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng nhu


13

cầu của cuộc sống thực tieãn. Năm 1872, viện đại học Harvard đã quyết định
thay thế hệ thống chương trình đào tạo theo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống
mềm dẻo mà sinh viên có thể lựa chọn rộng rãi. Vì vậy mà học chế tín chỉ ra đời.
Đến đầu thế kỷ 20 học chế tín chỉ được áp dụng rộng rải ở hầu hết các
trường đại học ở Hoa Kỳ. Sau đó, các nước khác cũng lần lượt áp dụng học chế
tín chỉ trong chương trình đào tạo đại học cao đẳng như Nhật Bản, Philiphin, Đài
Loan, Hàn Quốc, Thái Lan…kể cả Việt Nam.
Trước năm 1975, một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại miền
Nam Việt Nam đã áp dụng học chế tín chỉ như Viện Đại Học Cần Thơ, Viện Đại
Học Thủ Đức…
Từ trước năm 1986, quá trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giáo dục đại học ở nước
ta đã có nhiều thay đổi. Hội nghị hiệu trưởng đại học tại Nha Trang mùa hè 1987
đã đưa ra nhiều chủ trương trong đó có chủ trương học theo học chế học phần và
đã được triển khai trong toàn bộ hệ thống trường đại học. Học chế học phần là sự
kết hợp giữa niên chế với tín chỉ được xây dựng trên tinh thần tích luỹ dần kiến
thức theo các modun trong quá trình học tập, học chế học phần chưa thực sự
mềm dẻo như học chế tín chỉ.
Năm 1993 khi những khó khăn chung của đất nước và các trường đại học

đã giảm bớt thì Bộ Giáo dục và đào tạo đã chủ trương thực hiện học chế học phần
triệt để hơn bằng cách áp dụng mơ hình học chế tín chỉ của Mỹ, và trường đại
học Bách Khoa TPHCM là nơi đầu tiên áp dụng học chế tín chỉ, lần lượt sau đó
các trường khác cũng áp dụng. Hiện nay có khoảng 10 trường trong cả nước áp
dụng học chế tín chỉ với sắc thái và mức độ khác nhau.
1.3.1 Đặc điểm của học chế tín chỉ.
Triết lý của hệ thống tín chỉ là tơn trọng người học, xem người học là
trung tâm của quá trình đào tạo. Chương trình đào tạo phải mềm dẻo để Giáo dục
đại học dễ dàng đáp ứng các nhu cầu luôn biến động của thị trường nhân lực.
Xét một cách tổng thể, học chế tín chỉ có các đặc điểm sau:


14

 Địi hỏi sinh viên phải tích lũy kiến thức theo từng học phần (đơn vị: tín
chỉ)
Học phần là mơn học có khối lượng kiến thức tương đối hồn chỉnh, độc lập,
thuận lợi cho người học tích lũy trong quá trình học tập.
Mỗi học phần thực hành có khối lượng từ 1-3 tín chỉ, mỗi học phần lý thuyết
hoặc có cả lý thuyết và thực hành có khối lượng từ 2-5 tín chỉ. Một học phần phải
được bố trí giảng dạy trải đều và gói gọn trong một học kì.
Khóa luận tốt nghiệp là học phần đặc biệt, có khối lượng kiến thức tương
đương 10 tín chỉ.
Mỗi học phần được kí hiệu bằng một mã số riêng do trường qui định và
được chia thành 6 loại học phần khác nhau:
Học phần bắt buộc: Là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức
chính yếu trong chương trình đào tạo của trường mà tất cả sinh viên của trường
phải tích lũy.
Học phần tự chọn: Là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần
thiết mà sinh viên có thể lựa chọn đăng kí theo nguyện vọng.

Học phần tự chọn định hướng: Là học phần mà sinh viên lựa chọn các học
phần qui định trong chương trình đào tạo của ngành học theo sự hướng dẫn của
nhà trường.
Học phần tiên quyết: Là học phần bắt buộc sinh viên phải học trước và thi
đạt yêu cầu mới được tiếp tục học sang học phần mới.
Học phần học trước: Là học phần mà sinh viên phải học trước khi học các
học phần khác mặc dù thi đạt hoặc không đạt yêu cầu.
Học phần tích lũy: Là học phần có kết quả thi kết thúc đạt từ 5 điểm trở
lên.
Khác với niên chế, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học
phần chứ khơng phải theo năm học. Do đó nếu sinh viên có bị hỏng một học phần
thì cũng khơng cản trở q trình học tiếp và khơng phải quay lại học từ đầu. Hơn
nữa, đào tạo tín chỉ khơng giới hạn thời gian học tập, sinh viên phải tích lũy xong
thì ra trường .


15

 Kiến thức cấu thành các môđun (học phần).
Học phần là môn học, khối lượng kiến thức mà sinh viên phải tích lũy
trong mỗi mơn học thì tương đối hồn chỉnh, độc lập.
Thông thường việc thiết kế môn học không giống nhau ở các trường đại
học, chẳng hạn trường ĐH KHTN một học phần được thiết kế từ 1-6 tín chỉ, ĐH
Bách Khoa từ 1-4 tín chỉ, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn qui định 3 tín chỉ đối
với học phần thực hành, 2-5 tín chỉ đối với học phần lý thuyết hoặc cả lý thuyết
cả thực hành.
Phần lớn các môđun được qui định tương đối nhỏ từ 3-4 tín chỉ, để trình
bày kiến thức có đầu có đi phải có thời gian. Vì vậy, nếu khối lượng kiến thức
nhiều hơn thì bắt buộc sinh viên phải cắt đầu cắt đuôi dẫn đến kiến thức bị cắt
vụn.

Để tránh hiện tượng này hầu hết các trường không thiết kế mơđun qua nhỏ
dưới 3 tín chỉ và cuối năm học thường tổ chức các kì thi có tính chất tổng hợp để
sinh viên có cơ hội tổng hợp lại kiến thức.
 Quy định khối lượng kiến thức phải tích lũy cho từng văn bằng, xếp
năm học của người học theo khối lượng tín chỉ tích lũy.
Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích lũy kiến thức và
khả năng của sinh viên để dẫn đến văn bằng.
Hơn nữa, học chế tín chỉ cịn cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả
năng tích lũy được ngồi trường để dẫn đến văn bằng, khuyến khích được nhiều
sinh viên từ nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học đại học hơn.
 Chương trình đào tạo mềm dẻo: cùng với các học phần tự chọn cho
phép sinh viên dễ dàng điều chỉnh ngành nghề đào tạo.
Với học chế tín chỉ sinh viên có thể chủ động ghi tên các học phần khác
nhau tùy theo những quy định chung, về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực
kiến thức. Nó cho phép sinh viên dễ dàng thay đổi ngành chun mơn trong q
trình học tập khi thấy cần thiết mà khơng phải học lại từ đầu.
Ngồi ra trường có thể mở thêm các ngành mới một cách dễ dàng khi nhận
được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình lựa chọn ngành
nghề của sinh viên.


16

 Đánh giá thường xuyên, thang điểm chữ
Với tinh thần tích lũy kiến thức, mỗi học phần được đánh giá bằng một
điểm (theo thang 10 bậc) là kết quả tổng hợp của các đánh giá bộ phận và của
một kỳ thi kết thúc. Có quy định điểm tối thiểu cần đạt được (thường là điểm 5).
Để xem học phần được tích lũy. Kết quả học tập chung của học kỳ, năm học hoặc
khóa học được đánh giá bằng điểm trung bình chung. Đó là điểm trung bình của
các học phần đã tích lũy với tổng số là đơn vị học trình của từng học phần.

 Dạy học lấy sinh viên làm trung tâm.
Học chế tín chỉ là một q trình đào tạo mềm dẻo lấy người học làm trung
tâm. Nó tạo cho sinh viên tính chủ động cao trong việc lựa chọn kiến thức để
trang bị cho bản thân và lựa chọn tiến trình học phù hợp với năng lực của mình.
Người học chủ động về mặt thời gian, nếu học tốt có thể rút ngắn 1/4 thời
gian học, cũng có thể vừa học vừa làm hoặc là nghỉ học vài năm sau đó quay lại
học tiếp. Vì vậy, học chế tín chỉ địi hỏi người học phải có tính chủ động cao, độc
lập sáng tạo phát huy tối đa khả năng học tập của sinh viên.
 Đơn vị học vụ là học kỳ.
Học kỳ là thời gian để sinh viên hồn thành một số học phần của chương
trình đào tạo. Trong mỗi học kỳ có quy định khối lượng kiến thức tối thiểu mà
sinh viên phải tích lũy. Một năm học có 2 học kỳ chính và một học kỳ hè.
Học kỳ chính là học kỳ có 15 tuần thực học, 2 đến 3 tuần thi. Mỗi học kỳ chính
được bố trí giảng dạy nhiều học phần trong chương trình đào tạo.
Ngồi ra cịn có học kỳ hè để cho sinh viên khơng thi đạt có cơ hội đăng
ký học lại và những sinh viên giỏi sớm kết thúc chương trình đào tạo.
 Ghi danh học vào đầu mỗi học kỳ, lớp học tổ chức theo mỗi học phần.
Đầu mỗi học kỳ sinh viên được đăng ký các môn học thích hợp với năng
lực và hồn cảnh của họ và phù hợp với quy định chung nhằm đạt được kiến thức
theo một chun mơn chính nào đó.
Sự lựa chọn mơn học rất rộng rãi, sinh viên có thể ghi tên học các mơn
liên ngành nếu họ thích. Sinh viên khơng những có thể học các mơn chun mơn
mà cịn được đăng ký học các môn khác lĩnh vực, chẳng hạn sinh viên học các


17

ngành khoa học tự nhiên vẫn có thể đăng ký học một số môn khoa học xã hội và
ngược lại.
Về phía nhà trường có nhiệm vụ xử lý sơ bộ kết quả đăng ký của sinh viên

và cho đăng ký lại một số môn nếu số môn học không đủ chỗ hoặc thiếu số sinh
viên tối thiểu được quy định. Đối với môn học cơ sở quy định tối thiểu là 80 sinh
viên, mơn học của nhóm ngành đào tạo tối thiểu là 40 sinh viên và môn học của
ngành đào tạo là 20 sinh viên.
Sinh viên học kỳ một năm nhất thường khơng tổ chức đăng ký vì chương
trình đào tạo bao gồm hầu hết các môn bắt buộc.
Việc đăng ký học phần cho một học kỳ sắp tới địi hỏi phải có kịp thời kết
quả đánh giá các học phần của học kỳ trước.
 Lớp học tổ chức theo mỗi học phần :
Lớp học là tổ chức tập hợp những sinh viên có cùng nhóm học phần giống
nhau hoặc những sinh viên cùng khóa, ngành học để trao đổi học tập, nghiên cứu
khoa học, sinh hoạt đoàn thể (Hội sinh viên, đồn thanh niên …)
Có hai loại lớp học :
Lớp học phần gồm các sinh viên cùng học một học phần
Lớp khóa học là lớp học cố định, được tổ chức theo chuyên ngành và theo
từng khóa đào tạo.
 Có hệ thống cố vấn học tập
Hệ thống cố vấn học tập được tổ chức ở trường gắn liền với các lớp khóa
học, đơi khi cố vấn học tập được gọi là chủ nhiệm lớp khóa học. Các phiếu đăng
ký học phần phải được thơng qua và có chữ ký của cố vấn học tập.
 Có thể tuyển sinh theo học kỳ.
 Không thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp đối với
các chương trình đại học và cao đẳng.
 Chỉ có một văn bằng chính quy với hai loại hình : tập trung và khơng
tập trung.
Qua phân tích những đặc điểm trên ta có thể khẳng định học chế tín chỉ là
học chế mềm dẻo hướng về sinh viên để tăng cường tính chủ động và khả năng
cơ động của sinh viên, để đảm bảo sự liên thơng dễ dàng trong q trình học tập



18

tạo ra những sản phẩm có tính thích ứng cao với thị trường sức lao động trong
nước. Tuy nhiên nhìn lại đội ngũ của giáo dục nước ta, khi cả thầy và trò đều
chưa thực sự sẵn sàng để áp dụng phương pháp đào tạo theo tín chỉ. Một đơn vị
tín chỉ được tính bằng 15 tiết lên lớp và 30 tiết chuẩn bị cá nhân. Trong khi đó cả
thầy và trò đều quen với việc giảng dạy và học tập một chiều thầy giảng trò ghi
tất cả ở trên trường.
Vì vậy việc chuyển đổi sang học chế tạo sự mềm dẻo của quy trình đào tạo
cần phải được kết hợp một cách logic với việc phát triển và hiện đại hóa chương
trình đào tạo, bao gồm việc đổi mới mục tiêu, nội dung đào tạo và đặc biệt là
phương pháp dạy và học phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên.

CHƯƠNG 2 : THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI
VIỆC CHUYỂN ĐỔI SANG HỌC CHẾ TÍN CHỈ

2.1. Trường ĐH KHXH & NV với việc áp dụng học chế tín chỉ


19

Trường ĐH KHXH & NV có lịch sử trên 50 năm với tiền thân là trường
Đại học Văn khoa thuộc viện Đại học Sài Gòn thành lập năm 1955. Sau ngày
thống nhất đất nước tháng 10 năm 1975, trường Đại học Văn khoa có nhiều thay
đổi về mục tiêu, chương trình và nội dung đào tạo. Tháng 4/1977 trường Đại học
Văn Khoa hợp nhất với trường Đại học Khoa Học thành trường Đại học Tổng
Hợp TpHCM, trung tâm đào tạo và nghiên cứu cơ bản lớn nhất ở các tỉnh phía
Nam, Ngày 30/3/1996, ĐH KHXH & NV được thành lập trên cơ sở tách ra từ
trường đại học Tổng Hợp TPHCM, và là một trong những thành viên của Đại học
Quốc gia TPHCM.

Trường ĐH KHXH & NV là một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa
học có chất lượng cao ở địa bàn các tỉnh phía Nam và đang phấn đấu vươn lên
ngang tầm với các trường đại học trong khu vực và thế giới. Hiện trường có 18
khoa trên 500 giảng viên, cán bộ công nhân viên trong đó có gần 250 giáo sư,
phó giáo sư, tiến sĩ khoa học, tiến sĩ, thạc sĩ. Cán bộ giáo dục của trường được
đào tạo trong nước và từ nhiều quốc gia khác trên thế giới như Nga, Ba Lan,
Đức, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc, Áo, Nhật Bản,…nhiều thầy cô giáo tu nghiệp và
thỉnh giảng tại nhiều trường đại học trên thế giới. Nhiều cán bộ của trường đã
được nhà nước phong chức danh nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, và tặng
thưởng nhiều huân chương, huy chương huy hiệu cao q. Qui mơ đào tạo là trên
20.000 sinh viên, học viên thuộc các loại hình đào tạo khác nhau, trong đó trên
12.000 sinh viên chính quy và 1300 học viên sau đại học.
Trường có nhiều mối quan hệ hợp tác với gần 150 trường đại học, viện
nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ….của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên
thế giới. Hàng năm hàng ngàn lượt giảng viên, nhà nghiên cứu và sinh viên, học
viên sau đại học đã đến đại học khoa học xã hội và Nhân Văn để nghiên cứu
giảng dạy và học tập, hàng trăm lượt sinh viên, giảng viên của trường sang các
nước bạn học tập nghiên cứu, giảng dạy.
Trong xu hướng hội nhập, ĐH KHXH & NV mong muốn có sự hợp tác
trong giảng dạy nghiên cứu với các trường đại học, viện nghiên cứu …trong và
ngoài nước.


20

Để thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục trong Chiến lược Giáo dục từ
đây đến năm 2010, các trường đại học trong nước sẽ thực hiện phương pháp học
tập theo học chế tín chỉ và cũng thấy được tính ưu việt của hình thức đào tạo theo
tín chỉ. Ngày 10/8/2006, Hiệu trưởng trường ĐH KHXH & NV đã ban hành theo
qui định số 105/QĐ-ĐT về tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ bậc đại học chính

quy.
Xét trong hệ thống các trường thuộc Đại học Quốc gia, trường ĐH KHXH
& NV Tp. HCM là trường sau tổ chức
Từ năm 1993 học chế tín chỉ đã được áp dụng ở trường Bách khoa
TPHCM, sau đó là trường ĐH KHTN Tp.HCM, trường ĐH Sư Phạm kĩ thuật
TPHCM trong những năm đầu công tác triển khai của các trường hầu hết đều gặp
khó khăn do phải thay đổi thói quen làm việc, nhất là đối với đội ngũ cán bộ quản
lý đào tạo. Đồng thời phải thay đổi phương thức quản lý sinh viên, xây dựng hệ
thống cố vấn học tập thay cho giáo viên chủ nhiệm vì thực chất cơ cấu lớp học
khơng ổn định theo năm học. Khó khăn lớn nhất vẫn là thay đổi cách dạy học thụ
động chuyển sang dạy học tích cực. Bên cạnh những khó khăn gặp phải thì hầu
hết các trường cũng đã phần nào quen với học chế tín chỉ, đáp ứng nhu cầu sinh
viên, hồn thiện cơng tác triển khai.
Qua kinh nghiệm của các trường đại học đi trước, trường ĐH KHXH &
NV năm học 2006-2007 đã bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi từ việc học theo
niên chế sang học chế tín chỉ, nhằm phát huy tối đa những ưu việt của học chế tín
chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội và của sinh viên.
2.2 Thái độ của sinh viên với việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ
2.2.1 Đối với học chế tín chỉ
Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007, trường ĐHKHXH&NV TPHCM chuyển
sang đào tạo tín chỉ thay cho hình thức đào tạo niên chế đã tồn tại từ mấy chục
năm qua. Đây là một bước ngoặt tích cực của trường, đánh dấu sự chuyển đổi
phù hợp yêu cầu thời đại trong xu thế chung, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
cho giảng viên, sinh viên nâng cao chất lượng dạy và học, tiếp tục khẳng định vị
trí của trường trong nhiều năm qua. Vì là đi sau nên chúng ta kế thừa được thành
tựu, kinh nghiệm của các trường đi tiên phong trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đây


21


là lần đầu tiên thực hiện mơ hình đào tạo mới nên còn lúng túng, hạn chế mà
nguyên nhân từ cả phía sinh viên và cơng tác triển khai của nhà trường.
Khi tổ chức đào tạo theo tín chỉ đỏi hỏi rất nhiều từ phía sinh viên và nhà
trường. Học chế tín chỉ địi hỏi sự nỗ lực, tự giác của người học rất cao. Đây là
hình thức đào tạo mà ở nước ta đối với nhiều sinh viên còn xa lạ mà muốn học
theo hình thức tín chỉ được tốt, tận dụng những ưu việt của tín chỉ thì sinh viên
phải có sự hiểu biết về cách thức đào tạo theo hình thức này từ đó có thái độ học
tập cho đúng đắn và phù hợp. Tín chỉ là hình thức đào tạo rất linh hoạt, mềm dẻo,
khơng cứng nhắc như hình thức niên chế. Trong quá trình học, lấy người học làm
trung tâm, trao quyền chủ động cho người học nên đòi hỏi người học phải năng
động, phải thích ứng nhanh và phải có phương pháp học thích hợp
Điều khó khăn nhất hiện nay khơng chỉ riêng trường ĐHKHXH&NV mà
các trường đại học khi áp dụng học chế tín chỉ là sự thụ động, sự ì lại do thói
quen từ thời phổ thơng của sinh viên. Vì vậy đã có câu hỏi đặt ra là nên chăng
chúng ta phải có sự chuẩn bị cho người học phong cách, tính tự chủ, năng động
từ những năm học phổ thơng. Những thói quen này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả khi đào tạo theo tín chỉ. Mặt khác do hình thức này cịn mới, lạ lẫm đối với
nhiều sinh viên đặc biệt đa số sinh viên của trường ĐHKHXH&NV và các
trường đại học khác đều từ nông thôn và miền núi….chính vì thế việc nghe nói
hay tiếp xúc với tín chỉ thì cịn nhiều hạn chế. Đa số sinh viên chỉ thực sự được
biết và học tín chỉ khi trường mà mình thi vào có áp dụng, cịn trước đó thì nhiều
sinh viên vẫn khơng biết trường mình đang áp dụng hình thức nào. Điều này dễ
gây ra cho sinh viên sự lúng túng, tâm lý lo lắng khi lần đầu tiên “chân ướt chân
ráo” bước vào trường đại học với việc học theo hình thức tín chỉ. Thực tế khi
chúng tôi đi phỏng vấn sâu sinh viên các khoa của trường thì có nhiều sinh viên
cịn rất mơ hồ, chỉ biết nhà trường “bắt học” thì học theo vậy, cá biệt có những
sinh viên có thái độ khơng cần biết. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn việc học tập
cũng như việc tự học của sinh viên.
Hầu hết sinh viên trường KHXH&NV được tiếp xúc với tín chỉ từ khi bắt
đầu vào đại học, được thể hiện qua bảng số liệu sau

Tiếp xúc với tín chỉ

Quê quán


22

Thành phố

Nông thôn

Số lượng

%

Số lượng

%

Vào đại học

48

81.4%

136

87.7%

Từ phổ thông


11

18.6%

19

12.3%

Bảng 1: Bạn tiếp xúc với tín chỉ khi nào?

Qua bảng trên ta thấy, việc tiếp xúc với tín chỉ từ khi vào Đại học tới 184
sinh viên chiếm 80.5%, trong khi đó việc tiếp xúc từ dưới phổ thơng thì chiếm ít.
Điều này cho thấy, khi mới bắt đầu nhập học phần đơng sinh viên chưa có sự
hiểu biết về tín chỉ nên khi vào học sẽ dễ gây tâm lý hoang mang lo sợ cho sinh
viên trong những vấn đề liên quan đến việc học tập nếu như không được hướng
dẫn cụ thể. Đây là một thách thức cho nhà trường trong công tác giáo dục để
trang bị cho sinh viên những kiến thức về tín chỉ cũng như trang bị cho sinh viên
tính tự chủ, tự giác, tự chịu trách nhiệm, tính năng động trong mơi trường tổ chức
đào tạo mới của học chế tín chỉ.
Nhìn chung, nhận thức của sinh viên đối với học chế tín chỉ cịn mơ hồ,
chưa hiểu rõ về cách thức cũng như những ưu việt của nó. Điều này là thực tế, vì
trong q trình khảo sát chúng tơi có hỏi, bạn có nhận được bản mô tả nội dung
học phần chuyên ngành khơng? Thì có điều đặc biệt là trong những sinh viên
cùng khoa thì có sinh viên trả lời có, sinh viên trả khơng, điển hình như khoa
Triết: trong 25 sinh viên trả lời thì có 10 trả lời là có chiếm 11.5%, và 15 sinh
viên trả lời là không chiếm 11.9%. Ở đây chúng tơi khơng nói đến lỗi từ phía nhà
trường mà muốn đề cập đến việc hiểu biết của sinh viên về bản mơ tả chương
trình khung cho môn chuyên ngành. Nhiều sinh viên cho đến bây giờ cịn chưa
hiểu bản mơ tả chương trình khung cho mơn học chun ngành là cái gì?, Có

những sinh viên cịn nhầm lẫn với bản danh sách các học phần đầu học kì. Điều
này cho thấy sinh rất là thụ động, thờ ơ trong việc tìm hiểu về tín chỉ mặc dù đầu
học kì đã nhận được cuốn học vụ tín chỉ tạm thời.
Đến nay trải qua hơn một học kì, việc áp dụng học chế tín chỉ tạm thời của
trường đã được triển khai tồn bộ ở các khoa. Nhìn chung bước đầu sinh viên đã


×