Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Một số biện pháp góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện vị xuyên tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.42 KB, 81 trang )

Phần mở đầu
Trong lịch sử phát triển của nền nông nghiệp trên thế
giới mô hình kinh tế trang trại đà xuất hiện từ lâu và tồn tại,
phát triển cho đến ngày nay. Nó vận động và phát triển
theo xu hớng phát triển chung của nền nông nghiệp trên thế
giới là nhân tố là động lực chính để đi đến một nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá, nền nông nghiệp hiện đại.
ở Việt Nam nói chung và ở Vị Xuyên, Hà Giang nói riêng
cũng đà có những trang trại kinh tế nông nghiệp. Song ở
từng giai đoạn lịch sử, từng thời kỳ nó có những đặc điểm
và quy mô phát triển khác nhau.
Những năm gần đây cùng với sự đổi mới phát triển của cả nớc, khu vực kinh tế nông thôn đà có những chuyển biến và
phát triển hết sức to lớn và tích cực. Mô hình kinh tế trang
trại đang đợc Đảng - nhà nớc và quần chúng nhân dân cả nớc
hết sức quan tâm khuyến khích phát triển.
Trên thực tế thì kinh tế trang trại đang phát triển hết
sức mạnh mẽ đa dạng trên khắp cả nớc với quy mô và loại
hình khác nhau điều này đợc thể hiƯn râ nÐt qua nhiỊu
cc héi th¶o vỊ kinh tÕ trang trại nhằm đánh giá đúng thực
trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong quá trình
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc. Hiện nay vấn đề
kinh tế trang trại ở nớc ta đợc xem là một chính sách phát
triển kinh tế là cơ sở để thực hiện chủ trơng phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần và là điều kiện để thực hiện
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên hiện nay, xung quanh vấn đề khái niệm về


kinh tế trang trại vẫn còn nhiều ý kiến, quan ®iĨm cha thèng
nhÊt. Do ®ã nh÷ng vÊn ®Ị lý ln cơ bản về kinh tế trang
trại vẫn còn tiếp tục đợc các nhà khoa học và các nhà nghiên


cứu trao đổi còn đang đặt ra nhiều câu hỏi lớn cần phải
đợc làm rõ hơn.
Cả từ cơ sở lẫn thực tiễn nhằm xây dựng một lý thuyết
về phát triển kinh tế trang trại và chứng minh làm sáng tỏ
một loại hình kinh tế đợc xem là có hiệu quả cao trong
chiến lợc phát triển kinh tế nông nghiệp hoá ở địa phơng.
Huyện Vị Xuyên đợc hình thành từ năm 1960, sau
hơn 40 năm thành lập nhất là từ khi tái thiết lại tỉnh Hà
Giang. Năm 1991 đến nay tình hình kinh tế xà hội của
huyện đà có những bớc phát triển quan trọng và tơng đối
toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế đà đạt đợc những thành quả
đáng khích lệ tạo tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh tốc
độ phát triển trong nông thôn tiếp theo hớng công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Trong 10 năm liên
tục, giá trị tổng sản lợng năm sau luôn cao hơn năm trớc,
tổng thu nhập nội bộ huyện (GDP) từ 9,3 tỷ đồng năm 1991,
tăng lên 89,7 tỷ đồng năm 2000 và năm 2001 ớc đạt 98 tỷ
đồng. Bình quân năm sau tăng trởng cao hơn năm trớc... thu
nhập bình quân của ngời dân trong toàn huyện một năm từ
1,24 triệu đồng năm 1991 tăng nên 2,1 triệu đồng năm
2000, đời sống nhân dân trong toàn huyện không ngừng đợc cải thiện trong sự phát triển chung đó kinh tế trang trại đÃ
góp một phần to lớn.
Kinh tế trang trại nói chung không còn là vấn đề mới,
song với một huyện miỊn nói cđa mét tØnh miỊn nói, cùc


Bắc của tổ quốc nơi mà phần lớn đồng bào các dân tộc
thiểu số từ bao đời nay sống trong nỊn s¶n xt tù cung tù
cÊp, nhËn thøc vỊ s¶n xuất hàng hoá còn hết sức hạn chế,
kinh tế phát triển không đồng đều, các yếu tố kinh tế chính trị - xà hội - văn hoá đang trong tiến trình chuẩn bị

cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và
kinh tế nông thôn nên việc phát triển kinh tế trang trại nói
chung và kinh tế trang trại hộ gia đình nông nghiệp nói
riêng còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu giải quyết và
đang đặt ra nhiều câu hỏi lớn cần phải đợc làm rõ cả từ cơ
sở lý luận đến thực tiễn với những nhân tố đặc thù của một
vùng đất cực Bắc của tổ quốc có thế mạnh phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá đa dạng nhiều nông sản có giá trị
xuất khẩu và tiêu dùng cao nh chè, cam quýt... thì loại hình
kinh tế trang trại sẽ là động lực khai thác thế mạnh này rất có
hiệu quả.
Để góp phần đánh giá đúng thực trạng cũng nh dự báo
về ảnh hởng phát triển của kinh tế trang trại trên địa bàn và
đề ra một số biện pháp cho loại hình kinh tế trang trại phát
triển. Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phơng và
những kiến thức về quản lý kinh tế đợc trang bị qua năm
năm học tập, nghiên cứu tại trờng đợc sự hớng dẫn giúp đỡ tận
tình của Giáo s, Tiến sĩ Đỗ Hoàng Toàn, Trởng bộ môn quản
lý kinh tế khoa học quản lý, Trờng Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội, ngời viết xây dựng đề tài "Một số biện pháp góp
phần hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nớc để phát triển kinh
tế trang trại trên địa bàn huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang",
phạm vi không gian nghiên cứu trên địa bàn huyện Vị Xuyên,


tỉnh Hà Giang.
Kinh tế trang trại đợc đề cập ở đề tài này chủ yếu là
kinh tế trang trại nông nghiệp, gia đình.
Đề tài đợc kết cấu thành 3 chơng:
Chơng I: Trang trại - một hình thức quan trọng để

phát triển kinh tế nông nghiệp
Chơng II: Thực trạng kinh tế trang trại ở Vị Xuyên và
xu hớng phát triển trong tơng lai
Chơng III: Quan điểm, phơng hớng và một số biện
pháp góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nớc để phát
triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Vị Xuyên, tỉnh
Hà Giang.


Chơng I
Trang trại - một hình thức quan trọng để phát triển kinh tế nông nghiệp

I. Cơ sở lý luận về vấn đề phát triển kinh tế
trang trại
1) Một số kinh nghiệm về trang trại
Trong tiến trình phát triển của nền sản xuất kinh tế
nông nghiệp đà trải qua nhiều phơng thức sản xuất từ nông
nghiệp nguyên thuỷ đến nông nghiệp hiện đại cũng trải qua
nhiều hình thức sản xuất khác nhau cho đến nay có thể nói
kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất nông
nghiệp rất có hiệu quả hiện đợc thế giới cho phép trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc và đa nền
nông nghiệp đi lên sản xuất lớn thì một bộ phận kinh tế
nông hộ sẽ phát triển theo hớng mô hình kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại hình thành và phát triển qua nhiều
phơng thức sản xuất; ở mỗi phơng thức sản xuất nó thể hiện
tính chất trình độ phát triển và có những mối quan hệ sản
xuất khác nhau. Song về bản chất thì kinh tế trang trại đều
thể hiện hai nội dung cơ bản đó là:
Về mục đích sản xuất: Sản xuất ra sản phẩm nông sản

lớn hơn so với hình thức sản xuất phân tán, và trong điều
kiện kinh tế thị trờng thì sản phẩm sản xuất ra nhằm thu
nhập và lợi nhuận.
Về sở hữu: cơ bản là dựa trên quyền sở hữu về t liệu
sản xuất của một ngời chủ độc lập.
Trong điều kiện kinh tế thị trờng, quy mô gia đình
ngày càng trở thành phổ biến và chiếm tuyệt đại bộ phận
số lợng các đơn vị sản xuất nông nghiệp mang tÝnh tËp


trung. Hiện nay kinh tế trang trại là một mô hình kinh tế,
trong thực tiễn đang phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nớc
trên thế giới, ngay cả ở những nớc có nền nông nghiệp phát
triển, kinh tế trang trại cũng đợc xem là động lực để phát
triển kinh tế nông nghiệp. ở nớc ta từ sau ngày Đảng và biện
pháp có chủ trơng đổi mới cơ chế lÃnh đạo quản lý nền kinh
tế đất nớc đặc biệt là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp thì mô hình kinh tế trang trại đà đợc khơi dậy và
phát triển khá nhanh trên phạm vi cả nớc.
Kinh tế trang trại ở nớc ta đang phát triển khá nhanh
đặc biệt là trong những năm gần đây, song về mặt quan
điểm và lý luận cơ bản về kinh tế trang trại còn nhiều ý
kiến, quan điểm khác nhau cha thống nhất.
Nh vậy khái niệm về kinh tế trang trại cần đợc làm rõ
phải hoạch định các cơ chế chính sách, tạo môi trờng pháp
lý cho loại hình kinh tế trang trại hoạt động và phát triển.
Trong nền nông nghiệp thơng phẩm thị là đối tợng để
nông dân căn cứ vào đó mà đề ra phơng hớng sản xuất
hàng hoá có giá trị và lợi nhuận. Dới tác động của các quy luật
của kinh tế thị trờng thì tất yếu sẽ xuất hiện xu hớng tập

trung ruộng đất vào những nông gia giái cã ngn vèn lín cã
kü tht canh t¸c tốt và do đó sẽ hình thành hộ nông trang
trại đa dạng. Các chủ trang trại trong huyện chủ yếu là các hộ
nông dân có một số chủ hộ là đảng viên, những trang trại
này sử dụng lao động gia đình là chính. Tuy có sản phẩm
hàng hoá bán ra với tỷ lệ tơng đối cao nhng giá trị còn nhỏ
nên thực chất chỉ là các nông trại gia đình.
Trớc thùc tÕ cđa kinh tÕ trang tr¹i hiƯn nay, tuy nhiªn


không ai phủ nhận sự tồn tại phát triển tất yếu của nó. Nhng
khi nói đến bản chất và định hớng phát triển của nó cũng
nh những chính sách khuyến khích đầu t phát triển và
những vấn đề cần giải quyết xử lý trong sự lÃnh đạo của
Đảng và nhà nớc đối với kinh tế trang trại thì cha phải là có sự
nhất trí hoàn toàn về quan điểm. Chẳng hạn là kinh tế
trang trại là kinh tế t nhân. Thậm trí là t bản t nhân có sai
lệch với kinh tế xà hội chủ nghĩa không và kinh tế trang trại
có liên quan đến việc thuê mớn lao động v.v... Theo Phó giáo
s Lê Thanh Hải thì vấn đề bản chất của kinh tế trang trại gia
đình chính là loại hình tổ chức sản xuất theo phơng thức
sản xuất bëi mét ngêi chđ cã t©m hut cã hiĨu biÕt nắm
bắt đợc những thông tin thị trờng về những mặt hàng dự
định tổ chức sản xuất tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất.
Theo đó ngời chủ trang trại phải là ngời có đầu óc quản lý và
tổ chức sản xuất giỏi luôn luôn mong muốn tìm kiếm cơ hội
làm ăn để thay đổi cuộc sống của mình và những ngời
dân xung quanh mình. Biết tìm kiếm và áp dụng những
tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi,
biết tích luỹ để phát triển, tăng cờng công tác thông tin và

mở rộng thị trờng.
Có quan điểm cho rằng: kinh tế trang trại là hình thức
tổ chức sản xuất có hiệu quả trong nông nghiệp. Với đặc trng cơ bản là sản xuất ra hàng hoá với tỷ suất là giá trị cao,
kinh tế trang trại có khả năng thích ứng với nhiều phơng pháp
quản lý, chế độ sở hữu, trình độ công nghệ khác nhau, các
hình thức trong nông nghiệp đều có thể sử dụng hình thức
sản xuất này. Do vậy, nó phát triển rất đa dạng về mức độ


và quy mô kinh tế trang trại gia đình với đặc trng cơ bản
của nó là chủ trang trại là ngời chủ sở hữu, trực tiếp quản lý,
trực tiếp sản xuất và sử dụng lao động chủ yếu là lao động
trong gia đình, có thuê mớn lao động nhng thờng xuyên theo
thời vụ. Trờng hợp có thuê mớn lao động không thờng xuyên
thì không phải là lao động quản lý và cũng không quá 5 lao
động. Nói chung quan hệ trong trang trại gia đình chủ yếu
là quan hệ huyết thống.
Có quan điểm nhận định một cách chung nhất rằng:
kinh tế hộ trang trại là hình thức phát triển cao hơn của kinh
tế sản xuất hàng hoá và cho đây là xu thế tất yếu của quá
trình phát triển kinh tế nông nghiệp là thành tố quan trọng
trong việc thực hiện chống lại sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn.
Từ thực tế của huyện chúng tôi thấy rằng: kinh tế trang
trại thực chất là kinh tế hộ gia đình đợc phát triển trên quy
mô lớn cả về đất đai, sức lao động vợt quá møc trung b×nh
cđa mét hé trong khu vùc, ý kiÕn này có cơ sở thực tiễn là
các trang trại đang đợc các hộ gia đình nông nghiệp canh
tác và quản lý một số vốn đầu t lớn và diện tích vợt nên cao
quá mức trung bình.
Nh vậy nếu coi trang trại là kinh tế hộ nông nghiệp thì

quy mô sản xuất đà vợt ngoài quy mô bình quân về đất đai
lao động về vốn. Nhng thực ra trang trại khác với hộ ở chỗ hộ
là tế bào kinh tế gồm những ngời trong cùng gia đình có
vốn chung và cùng canh tác trên một mảnh đất trong khi đó
cùng làm trên một trang trại nhiều khi lại là những ngời không
cùng gia đình, độc lập với nhau về kinh tế. VÝ dơ: chđ hé víi


công nhân nông nghiệp làm thuê cho chủ hộ.
Qua tham khảo nhiều khái niệm khác nhau về kinh tế
trang trại là từ tình hình thực tế của địa phơng, em xin
nêu một khái niệm: "Kinh tế trang trại là một kiểu tổ chức
sản xuất kinh doanh nông nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
có quy mô sản xuất lớn hơn tiểu nông (kinh tế hộ gia đình
truyền thống) sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hoá là chính với
mục đích sinh lời có thuê mớn nhân công thờng xuyên hoặc
thời vụ". Chủ trang trại là những ngời có ý chí và khát vọng
làm giàu không cam chịu đói nghèo ham học hỏi và tích cực
áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới
vào sản xuất. Và nh vậy kinh tế trang trại gia đình đà và sẽ
góp phần to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế xà hội, xoá
đói giảm nghèo ở huyện nhà.
2. Các địa điểm, đặc trng và tiêu chí để định
dạng kinh tế trang trại
Nh đà trình bày ở trên, việc khái niệm và định dạng
kinh tế trang trại vẫn đang còn nhiều tranh luận tìm tòi căn
cứ vào các tài liệu tham khảo và thực tế ở địa phơng em có
quan điểm tơng đồng với tiêu chí của Tổng cục Thống kê
khi xem xét định dạng một trang trại phải hội tụ đủ bốn
đặc trng sau:

Một là: có quy mô sản xuất tơng đối lớn so với mức
trung bình của kinh tế hộ tại địa phơng tơng ứng với từng
ngành nghề sản xuất cụ thể.
Đối với các trang trại trồng các loại cây hàng năm là chủ
yếu thì ở miền Bắc và miền Trung phải có diện tích canh
tác từ 2 ha trở nên. Đối với các tỉnh Nam Bộ phải có diÖn tÝch


từ 3 ha trở lên.
Đối với các trang trại trồng cây lâu năm và cây ăn quả
đối với các tỉnh miền Bắc và miền Trung phải có diện tích
từ 3 ha trở nên. Đối với trang trại chăn nuôi, trâu bò phải có từ
50 con trở lên (không kể bê nghé dới một năm tuổi) lên từ 100
con trở lên không kể lợn sữa, dới 2 tháng tuổi ra từ 2000 con
trở lên không tính con dới 7 ngày tuổi.
Hai là: có sử dụng lao động làm thuê thờng xuyên từ 2
lao động trở lên trong năm nếu thuê lao động mùa vụ thì
quy đổi thành lao động thờng xuyên.
Ba là: chủ trang trại phải là ngời có kiến thức, kinh
nghiệm về nông, lâm, ng nghiệp và trực tiếp điều hành
sản xuất trang trại. Đây cũng là yếu tố phân biệt kinh tế hộ
trang trại với loại hình xí nghiệp hơng trấn vì loại hình xí
nghiệp hơng trấn có quy mô lớn và do nhiều ngời quản lý.
Bốn là: lấy sản xuất hàng hoá làm hớng chính và có thu
nhập vợt trội so với trung bình của kinh tế hộ tại địa phơng.
Đặc điểm cơ bản của trang trại gia đình là tính sản xuất
hàng hoá, không phải là sản xuất tự túc trang trại gia đình là
sản phẩm của một nền kinh tế thị trờng cạnh tranh trong xu
thế xà hội đi lên công nghiệp hoá. Nh vậy điều kiện cần và
đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại trong một nớc là việc

hình thành kinh tế thị trờng trong quá trình công nghiệp
hoá. Công nghiệp phát triển thúc đẩy kinh tế trang trại gia
đình phát triển theo. Để đáp ứng nhu cầu nông sản hàng
hoá chính là đặc trng cơ bản nhất đánh dấu sự khác biệt
giữa kinh tế trang trại với kinh tế tiểu nông. Sự khác biệt ấy
thể hiện ở chỗ trong khi ngời chủ trang trại bán toàn bộ hoặc


gần nh toàn bộ sản phẩm do chính mình làm ra thì ngời
tiểu nông lại tiêu dùng trực tiếp đại bộ phận sản phẩm do
mình sản xuất ra.
Tuy nhiên những tiêu chuẩn ở 4 đặc trng đà nêu ở trên
cũng chỉ có ý nghĩa tơng đối để định dạng kinh tế trang
trại vì loại hình trang trại rất đa dạng lại phụ thuộc điều
kiện đất đai. Tính chất sản xuất của từng ngành nh vậy,
trang trại không bao gồm các hộ nông dân kinh doanh các
ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp, các hộ nông dân sản
xuất nhỏ và những ngời ở thành phố, thị xÃ, cán bộ nhà nớc
có đất nông lâm nghiệp quy mô lớn nhng không trực tiếp
điều hành sản xuất vì cha hội đủ bốn đặc trng nói trên,
mặc dù ở địa phơng vẫn gọi là trang trại.
Ngay nh đặc trng về quy mô đất đai của trang trại
cũng có nhiều tiêu chí khác nhau, nếu hiểu theo cách này
thì địa phơng A có từng này trang trại, nhng hiểu theo cách
khác thì số trang trại sẽ tăng hoặc giảm không ít ở địa phơng nếu lấy tiêu chí hàng đầu là diện tích đất đai thì số
trang trại gia đình chỉ có khoảng 80 trang trại (phải có từ 3
ha vốn cây công nghiệp và cây ăn quả) nhng nếu lấy việc
sản xuất hàng hoá làm tiêu chí thì số hộ có trang trại sản
xuất hàng hoá lên đến trên dới 250 trang trại. Do đó việc
phân loại định dạng kinh tế trang trại cũng vô cùng phức tạp,

các nớc và các vùng lÃnh thổ châu á có bình quân đất canh
tác thấp nhất thế giới và mật độ dân số cao cho nên bình
quân quy mô mỗi trang trại chỉ vào khoảng từ 1-4 ha (toàn
quốc 1,08 ha, mật độ 2 ha...) nên tiêu chuẩn để xếp hạng
trang trại là diện tích đất đai một số ít nớc phân loại trang


trại theo quy mô thu nhập hàng năm nh ở Mỹ trớc đây quy
định mỗi cơ sở nông nghiệp đợc gọi là trang trại khi có thu
nhập hàng năm trên 250 USD đến nay nâng lên mốc thu
nhập từ 1000 USD trở lên nh vậy khi nói về quy mô có thể
hiểu đó là quy mô tính theo diện tiến cũng có chỗ đó có
thể đó là quy mô sản xuất tính theo thu nhập.
ở những nớc kém phát triển nguồn sống chủ yếu dựa
vào nông nghiệp thì đơng nhiên cơ cấu thu nhập của các
trang trại dựa hoàn toàn hay phần lớn vào nông nghiệp ngời
ta gọi đó là những "trang trại thuần nông" theo đà phát
triển của công nghiệp số trang trại thuần nông sẽ mỗi ngày
một giảm ngợc lại số trang trại có thu nhập chủ yếu ngoài
nông nghiệp ngày càng tăng và ở một số nớc số trang trại này
nhiều hơn loại trang trại thuần nông "ở Nhật Bản hơn 1985 số
trang trại có thu nhập ngoài nông nghiệp lên tới 85% trong số
đó 66% số trang trại có thu nhập ngoài nông nghiệp lớn, thu
nhập từ nông nghiệp).
ở nớc ta trong những năm trớc mắt để nhận dạng kinh tế
trang trại khác với tiểu nông lâm dựa vào thu nhập trên cơ sở
nông sản hàng hoá "tuy cha đợc đầy đủ". Mặt khác để thấy
đợc quy mô và thị hiếu sự phát triển mà thêm diện tích đất
đai. Những trang trại có thu nhập chính từ nông nghiệp, thờng là những cơ sở nông nghiệp có quy mô vừa và lớn chỉ
tiêu từ thu nhập nông nghiệp đủ sức trang trải các nhu cầu

về đời sống và tái sản xuất.
3. Các loại hình trang trại trong nền kinh tế thị
trờng:
Khi xét đến kinh tế trang trại đang có những câu hỏi


lớn đặt ra, chẳng hạn nó thuộc phạm trù một thành phần kinh
tế hay một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp? Trong
nền kinh tế thị trờng hiện nay tồn tại bao nhiêu loại hình
kinh tế trang trại đó là những loại hình gì? Trong lĩnh vực
này đang còn nhiỊu ý kiÕn rÊt kh¸c nhau. Cã ý kiÕn cho rằng
kinh tế trang trại là một thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay ý kiến này xuất phát
từ quan niệm cho rằng mỗi thành phần kinh tế đợc đặc trng
bởi một kiểu sở hữu một loại hình và đối tợng sản xuất trang
trại cũng là một kiểu sở hữu và có sự bắt kịp độc lập giữa 3
yếu tố trên lên nó là một thành phần kinh tế. Tuy vậy thực tế
lại gặp rất nhiều loại trang trại thuộc các thành phần kinh tế,
quốc doanh, t bản t nhân, nh một số trang trại ở Tây Nguyên
hay miền đông nam bộ hiện nay, chủ trang trại là ngời không
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Nh vậy
nếu coi trang trại nh một thành phần kinh tế trong cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần sẽ kém chính sách là làm giảm đi
tính đa dạng phong phú trong các loại hình trang trại đang
phát triển hiện nay. Căn cứ vào thực tế của địa phơng và
qua tham khảo các tài liệu em nhận thấy trong nền kinh tế
thị trờng tồn tại các loại hình trang trại nh sau:
a) Trang trại gia đình: là loại hình tổ chức kinh doanh
nông nghiệp phổ biến nhất tồn tại lâu dài trong nền kinh tế
thị trờng khoảng thế kỷ XIX trang trại gia đình đà trở thành

mô hình sản xuất phổ biến nhất trong nỊn n«ng nghiƯp
thÕ giíi. Trong qun I "Bé t bản" mác đà nhận định rằng: ở
nớc Đức mà ngay cả nớc Anh với nền nông nghiệp phát triển,
hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là c¸c


nông trại t bản mà là các trang trại gia đình. Loại hình kinh
tế này gồm có ngời chủ cùng gia đình họ có một số lao
động làm thuê thờng xuyên hoặc thời vụ và với hình thức
sản xuất kinh doanh và cảnh thức quản lý, nh thế nó có khả
năng thích ứng với cơ chế thị trờng và chống đỡ một cách
linh hoạt với các cuộc khủng hoảng kinh tế.
- Đặc trng của trang trại gia đình là chủ yếu sử dụng
sức lao động và tiền vốn của gia đình, trang trại gia đình
vừa là một đơn vị kinh doanh vừa là một đơn vị xà hội,
trong đó các thành viên liên kết với nhau không chỉ bằng
quan hệ kinh tế mà sâu sắc hơn là quan hệ huyết thống
gia tộc. Chủ trang trại gia đình và các thành viên khác cùng
nhau qua sản xuất trong trang trại của mình đều là nông
thôn không kể trớc đó họ là ai làm nghề gì (công chức, thị
dân...) trang trại gia đình là lực lợng chủ yếu sản xuất nông
sản hàng hoá cho xà hội và tồn tại lâu dài trong nền kinh tế
thị trờng mà không bị các doanh nghiệp lớn trong quá trình
cạnh tranh đó là vì trang trại gia đình có 3 lợi thế mà các
loại hình doanh nghiệp khác không thể có đợc đó là:
Do đối tợng sản xuất là những sinh, động vật muốn
đạt năng suất cao cho nên con ngời phải chăm sóc cây trồng
vật nuôi tỷ mỉ, kỹ lỡng đúng lúc đúng cảnh (đúng kỹ thuật)
không kể sớm khuya trong suốt quá trình tái sản xuất tự
nhiên của chúng. Muốn vậy quy mô trang trại không quá lớn

để phù hợp với khả năng quản lý và kiểm soát của tất cả các
thành viên trong trang trại đồng thời lợi ích của mỗi ngời sản
xuất nông nghiệp phải gắn trực tiếp với kết quả cuối cùng
của cây trồng và vật nuôi. Chỉ có kinh tế gia đình mới có


khả năng và tạo ra cơ chế lợi ích nh vậy trong mỗi chu kỳ tái
sản xuất xà hội cũng nh tái sản xuất tự nhiên trong nông
nghiệp.
Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh nông nghiệp
nói riêng thờng gặp rủi ro khi thị trờng và môi trờng biến
động, không thuận lợi làm cho giá bán bằng hoặc thấp hơn
chút ít so với giá thành sản xuất nông phẩm. Trang trại gia
đình vốn có thu nhập theo cơ chế "lấy công làm lÃi" bởi vì
trang trại gia đình sử dụng chủ yếu sức lao động của mình
"tự thuê mớn sức lao động của mình" còn các loại mình
trang trại khác chủ yếu sử dụng sức lao động làm nh gặp
hoàn cảnh trên sẽ bị phá sản.
Trong nông nghiệp hiện đại sản xuất đòi hỏi tập trung
chuyên môn hoá trên cơ sở phát triển tổng hợp đa dạng vừa
để tận dụng tối đa các yếu tố sản xuất vừa bảo vệ môi trờng sinh thái các mô hình sản xuất tổng hợp VAC,
VAC R, VAC RR... trên thực tế đà tỏ rõ hiệu quả kinh tế - xÃ
hội và sinh thái của nó cao hơn so với các mô hình sản xuất
chuyên môn hoá độc canh một nền nông nghiệp tổng hợp
đa dạng phát triển bền vững chỉ có thể có đợc khi mọi quá
trình sản xuất - sinh học đều đợc kiểm soát tỷ mỷ chặt chẽ.
Điều này chỉ có thể thực hiện đợc khi quy mô sản xuất trong
một đơn vị không quá lớn và nhờ tinh thần trách nhiệm cao
của mỗi ngời lao động tham gia quá trình sản xuất sinh học
đó vì thế chỉ có trang trại gia đình mới có thể đáp ứng đợc cả hai yêu cầu nói trên.

Mục tiêu của trang trại gia đình là tối đa hoá lợi nhuận
khi có điều kiện trang trại gia đình mở rộng quy mô sản


xuất kinh doanh theo cả 2 cách mở rộng diện tích canh tác
và nâng cao doanh thu trên một đơn vị diện tích bằng cách
thâm canh đầu t chiều sâu phát triển các loại sản phẩm có
gia đình cao mà còn ít đất. Quy mô diện tích đất đai của
trang trại có thể đợc mở rộng thông qua sang nhợng hợp pháp
thuê đất đai của những nông hộ khác, hay của nhà nớc nhất
là những vùng đất hoang hoá cha đợc khai thác do nhiều cơ
sở hạ tầng. Luật pháp có thể không hạn chế đợc mở rộng quy
mô đất đai của trang trại gia đình, nhng chính tất yếu kinh
tế khách quan mới là giới hạn của việc mở rộng quy mô đất
đai và quy mô kinh doanh của trang trại gia đình. Quy mô
kinh doanh và quy mô đất đai của đờng sắt bị giới hạn bởi
khả năng hiệu suất các quá trình sản xuất - sinh học của
những ngời lao động trong gia đình mà trớc hết là ngời chủ
trang trại nếu vợt qua giới hạn này thì 3 u thế nêu trên của
trang trại không còn nữa. Do đó việc phát triển của trang trại
gia đình khó có thể dẫn đến tình trạng mất ruộng đất của
phần lớn nông dân nhất là ở những nớc đất hẹp ngời đông
nh ở nớc ta.
b) Doanh nghiệp t nhân kinh doanh trang trại
Trang trại kinh tế nông nghiệp t nhân là một loại hình tổ
chức kinh tế hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp hàng hoá
trên một diện tích nhất định dựa trên cơ sở lao động gia
đình và lao động đi thuê. Với quy mô vợt quy mô trung
bình của một hộ trong nớc tơng quan của khu vực hay ngành
sản xuất tơng ứng về đất đai, tiền vốn, sức lao động.

Điểm giống nhau giữa doanh nghiệp t nhân kinh doanh
nông nghiệp và trang trại gia đình là: chđ doanh nghiƯp t


nhân và chủ trang trại gia đình là một cá nhân thờng là chủ
hộ cả hai đầu chịu trách nhiệm vô hạn trớc các khoản công nợ
của trang trại.
Điểm khác nhau quan trọng nhất giữa hai loại này là: doanh
nghiệp t nhân chủ yếu sử dụng sức lao động làm chủ, cho
nên nó không có u thế nh trang trại gia đình trong trờng hợp
rủi ro, giá bán bằng giá thành sản xuất nông phẩm. Lúc đó đơng nhiên doanh nghiệp t nhân sẽ bị phá sản nếu không có
sự giúp đỡ của nguồn lực từ bên ngoài, mặt khác do chủ yếu
sử dụng sức lao động làm thuê, kể cả lao động kỹ thuật và
quản lý cho nên quy mô của doanh nghiệp t nhân có thể lớn
hơn trang trại gia đình. Mức độ tập trung sản xuất cao hơn
để áp dụng máy móc và công nghệ mới tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển công nghiệp, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Tuy vậy ở nớc ta hiện nay chủ doanh nghiệp t nhân thờng
trực tiếp quản lý, mặt khác do quy mô doanh nghiệp thuộc
loại nhỏ và vừa nên ngời chủ trực tiếp quản lý đến từng công
nhân làm thuê trong suốt quá trình sản xuất không cần
thiết lập cấp quản lý trung gian. Do vậy doanh nghiệp t
nhân kinh doanh nông nghiệp có đợc hai trong 3 u thế của
trang trại gia đình.
c) Doanh nghiệp nhà nớc trong nông nghiệp với các tên
nh nông trờng quốc doanh, công ty nông nghiệp nhà nớc
Nhìn chung của doanh nghiệp nhà nớc có quy mô rất lớn
phải thiết lập nhiều cấp trung gian. Do vậy để có hiệu quả
hiện nay trừ ngành cao su tất cả các ngành khác, chè, cà phê,
chăn nuôi, ruộng nớc... đều phải áp dụng phơng pháp (khoán

cho hộ, nông trờng viên) với nhiều dạng cụ thể khác nhau để


tái tạo hiện tợng trang trại gia đình trong lòng mỗi doanh
nghiệp nông nghiệp nhà nớc đó chính là hình thức công ty
dự phần hiện nay trên địa bàn huyện Vị Xuyên có công ty
chè, cà phê Việt Lâm đang áp dụng hình thức này.
d) Công ty dự phần trong nông nghiệp:
Trên vùng một quá trình kinh doanh hai chủ thể kinh tế
cùng đầu t vốn để cùng kiếm tìm và phân chia lợi nhuận
theo một tỷ lệ nào đó (cộng đồng và hộ nông trờng viên)
không làm phát sinh chủ thể pháp lý mới mà dựa vào một chủ
thể pháp lý đà có mỗi chủ thể kinh tế đều chịu trách nhiệm
vô hạn về hoạt động của mình. Hình thức tổ chức ấy đợc
gọi là công ty dự phần.
Nh vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh trên diện
tích đất giao khoán cho từng hộ công nhân thì chủ thể
pháp lý là nông trờng quốc doanh còn chủ thể kinh tế là hộ
công nhân nhận khoán và nông trờng.
Ngoài hình thức công ty dự phần kinh doanh nông
nghiệp thì các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển còn có
các loại hình: công ty hợp doanh kinh doanh n«ng nghiƯp,
c«ng ty cÊp vèn kinh doanh n«ng nghiƯp, c«ng ty hùn vốn
trách nhiệm hữu hạn kinh doanh nông nghiệp, công ty cổ
phần trách nhiệm hữu hạn kinh doanh nông nghiệp.
Các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp có quy mô
lớn vợt ra khỏi quy mô nông trại gia đình dù là doanh nghiệp
t nhân, công ty hợp doanh công ty cấp vốn, doanh nghiệp
nhà nớc muốn đạt hiệu quả cao đều phải áp dụng cơ chế
khoán hộ theo những hình thức khác nhau. Đó chính là tái

lập nông trại gia đình trong lòng các xí nghiệp kinh doanh


nông nghiệp. Để phát huy 3 lợi thế của nông trại gia đình nh
đà nói ở phần trên, nói một cách khác các doanh nghiệp nông
nghiệp quy mô lớn với các loại hình khác nhau cần thiết phải
liên kết với các hộ công nhân dới hình thức công ty dự phần
để tái lập nông trại gia đình trọng mọi quá trình sản xuất sinh học diễn ra trên đồng ruộng, vờn cây, chuồng trại...
e) Hợp tác xà nông nghiệp: đây là loại doanh nghiệp
đặc biệt tuy nhiều chủ chịu trách nhiệm hữu hạn nhng lại
khác về bản chất kinh tế - xà hội. So với công ty hùn vốn trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn.
Hợp tác xà nông nghiệp ra đời xuất phát từ nhu cầu
phát triển kinh tế nông hộ đặc biệt là các nông trại gia
đình, doanh nghiệp t nhân kinh doanh nông nghiệp. Để
giải quyết khâu chế biến tiêu thụ nông phẩm và cung cấp
các dịch vụ đầu vào cho các nông trại của các xà viên hợp tác
xÃ. Mục tiêu của hợp tác xà nông nghiệp là không phải mang lại
lợi nhuận tối đa cho các xà viên góp vốn vào hợp tác xà nh công
ty mà là phục vụ tốt nhất các dịch vụ đầu vào - đầu ra cho
kinh tế nông trại của xà viên. Do vậy mỗi xà viên hợp tác xà đều
bình đẳng khi biểu quyết các vấn đề của hợp tác xà nông
nghiệp.

Quyền lÃnh đạo hợp tác xà thuộc về ngời có uy

tín và năng lực không phải thuộc về ngời có nhiều vốn nh
công ty.
Sự phát triển của nông trại gia đình sản xuất hàng hoá
và doanh nghiệp t nhân kinh doanh nông nghiệp mới tạo ra

nhu cầu và nh vậy hình thành phát triển hợp tác xà nông
nghiệp đích thực, vững chắc có hiệu quả chỉ khi nào
chúng ta có những chủ nông trại kinh doanh giỏi thì mới có


chủ nhiệm hợp tác xà quản lý giỏi. Đến lợt mình các hợp tác xÃ
nông nghiệp ra đời trớc hết đáp ứng yêu cầu chế biến tiêu
thụ nông sản cho các nông trại của xà viên sẽ thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế nông trại gia đình. doanh nghiệp cá nhân
kinh doanh nông nghiệp chuyển kinh tế nông hộ tự cấp tự
túc (kinh tế tiểu nông) thành kinh tế trang trại gia đình sản
xuất hàng hoá. Do vậy hợp tác xà nông nghiệp phát triển vững
mạnh sẽ khắc phục những nhợc điểm của nông trại gia đình
và doanh nghiệp cá nhân kinh doanh nông nghiệp giúp nó
không bị các công ty lớn thôn tính tạo ra các vùng nông
nghiệp sản xuất tập trung chuyên môn hoá cao áp dụng cơ
giới và công nghiệp sản xuất hiện đại có thể nói nông trại gia
đình sản xuất hàng hoá doanh nghiệp cá nhân kinh doanh
nông nghiệp và hợp tác xà nông nghiệp do các chủ trang trại tự
nguyện lập ra và quản lý là những đứa con cộng sinh của
nền nông nghiệp thơng phẩm.
Trong nền kinh tế thị trờng phát triển cao nỊn n«ng
nghiƯp vÉn cã thĨ cã mét sè doanh nghiệp kinh doanh nông
nghiệp quy mô lớn dới những hình thức khác nhau nhng hai
mô hình kinh tế chủ yếu và điển hình trong nông nghiệp
hiện đại vẫn là trang trại gia đình sản xuất hàng hoá doanh
nghiệp t nhân kinh doanh nông nghiệp và các hợp tác xà nông
nghiệp do chủ trang trại này tự nguyện góp vốn lập ra và
quản lý để phục vụ sự phát triển bền vững của chính các
trang trại ấy.

II. Sơ lợc về lịch sử và xu hớng phát triển kinh tế trang trại
trên thế giới và ở Việt Nam

1) Sơ lợc hình thành và phát triển trang trại gia
đình:



×