Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC TRANG TRẠI Ở THANH HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.04 KB, 28 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI VÀ SỬ
DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC TRANG TRẠI Ở THANH HOÁ
I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá
1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh.
1.1. Vị trí địa lý và khí hậu:
Thanh Hố là một tỉnh lớn, có vị trí địa lý quan trọng, nằm giữa Bắc Bộ và
Trung Bộ. Phía Bắc Thanh Hố giáp với ba tỉnh của Bắc Bộ là Sơn La, Hoà Bình
và Ninh Bình. Phía Nam và Tây Nam nằm liền kề với Nghệ An. Phía tây nối liền
sơng núi với tỉnh Hủa Phăn của Lào có đường biên giới kéo dài 192 km. Phía Đơng
là biển Đơng, đường biển dài 102km thuộc Vịnh Bắc Bộ là một thềm lục địa khá
rộng.
Thanh Hoá nằm ở 19018’ đến 200 vĩ độ Bắc và 105045’ đến 1070 kinh độ Tây.
Là cửa ngõ nối liền Trung Bộ với Nam Bộ và Bắc Bộ, đường quốc lộ chạy song
song với đường sắt suốt chiều dài của tỉnh.
Với vị trí địa lý như vậy nên về mặt khí hậu Thanh Hố mang những đặc điểm
của khí hậu Bắc Bộ có mùa đơng tuy ngắn nhưng lạnh và khô các ngày đầu xuân
ẩm ướt ,âm u, thiếu nắng do mưa phùn và xương mù kéo dài, đồng thời Thanh Hố
cũng mang những tính chất riêng biệt của khí hậu miền Trung Bộ.
Khí hậu Thanh Hố là vùng khí hậu chuyển tiếp của khí hậu nhiệt đới gió mùa
ảnh hưởng của gió Tây, mưa và bão lụt nhiều. tuy có sự thuận lợi cho phát triển các
loại cây trồng, vật nuôi song thường bị hạn hán và lũ lụt gây khó khăn lớn và làm
hạn chế đến phát triển kinh tế- xã hội và phát triển ngành trồng trọt, chăn nuôi.


1.2. Địa giới hành chính và điều kiện tự nhiên:
Từ đặc điểm về địa hình và tự nhiên, Thanh Hố hình thành ba vùng kinh tế
là: vùng đồng bằng và đô thị, vùng ven biển và hải đảo, vùng trung du- miền núi.
- Vùng đồng bằng và đô thị: gồm 10 đợn vị (Tp Thanh Hoá, thị xã Bỉm Sơn,
Hà Trung, Vĩnh Lộc, n Định, Thiệu Hố, Đơng Sơn, Nơng Cống, Thọ Xuân và
Triệu Sơn). Diện tích tự nhiên của tồn vùng là 1794,2 km 2 chiếm 16% diện tích tự
nhiên tồn tỉnh. địa hình tương đối bằng phẳng, gồm đất có độ phì nhiêu cao nhất,


được hình thành do sản phẩm lắng đọng phù sa của các hệ thống sông Mã, sông
Yênvà một số sông khác. Cây trồng chủ yếu là cây lương thực như lúa, rau, màu,
trồng cây ăn quả, cây cơng nghiệp hàng năm.
Ngồi ra vùng đồng bằng cịn có rất nhiều ao hồ, sơng ngịi, đồng ruộng trũng
là nơi thích nghi để các loại thuỷ sản nước ngọt sinh sống và phát triển.
- Vùng ven biển và hải đảo: gồm 6 đơn vị (thị xã Sầm Sơn, Nga Sơn, Hậu
Lộc, Hoằng Hố và Tĩnh Gia). Có diện tích tự nhiênlà 1186,4 km 2 chiếm 10,62%
diện tích tự nhiên toàn tỉnh, với bờ biển dài 102km, diện tích vùng lãnh hải 17000
km2. Dọc bờ biển có 7 cửa lạch lớn nhỏ. ở vùng của các cửa lạch là những bãi bùn ,
cát rộng hàng ngàn ha thuận lợi cho ni trồng thuỷ sản, trồng cói, cây chắn sóng
và sản xuất muối..
Bờ biển Thanh Hố lại có chế độ nhật triều với biên độ lớn, các dòng hải lưu
tác hợp với các dịng nươc từ các cửa sơng chảy ra mang theo một lượng phù sa
lớn, tạo thành những bãi triền trên 8000 ha nơi nhiều loại thuỷ hải sản sinh sống và
phát triển.
- Vùng trung du và miền núi: Tồn vùng có diện tích khoảng 8188km 2. chiếm
73,3% diện tích tự nhiên tồn tỉnh. Là vùng có diện tích lớn nhất nhưng cung là


vùng có địa hình phức tạp, chủ yếu là đồi núi và rừng, độ dốc lớn. Vùng này gồm
11 đơn vị (Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lạc, Quan Hoá, Bá thước, Mường Lát,
Lang Chánh, Như Thanh, Như Xuân và Thường Xuân.
Do vùng đất chủ yếu là đồi núi, có độ dốc lớn dễ bị rửa trơi, sói mịn nên
thành phần đất nghèo chất dinh dưỡng chủ yếu phát triển cây lâm nghiệp, cây công
nghiệp ngắn ngày, dài ngày (cao su, cà phê, chè), cây ăn quả (cam dứa, nhãn..), kết
hợp với cây trồng là điều kiện tốt để chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Tài nguyên thiên nhiên của tỉnh tương đối đa dạng:
+ Tài nguyên đất
Đất đồng bằng sông Mã là đồng bằng rộng thứ ba trong cả nước, mầu mỡ
thuận lợi cho việc trồng cây nông nghiệp.

Đất đồi và trung du thuộc nhóm thuận lợi cho việc trồng cây cơng nghiệp
như mía, chè, cao su, càfê, các loại cây ăn quả.
Cơ cấu đất đai của tỉnh gồm:
Đất nông nghiệp:
36.740 ha.
Đất lâm ngiệp:
375.440 ha.
Đất chưa sử dụng(1995): 429.084 ha.
Đất hải đảo:
810 ha .
+ Tài nguyên rừng
Độ phủ rừng còn 29,7% (cao hơn mức bình qn cả nước) với diện tích
375.440 ha trong đó rừng trồng chiếm 22%, rừng tự nhiên 78%. trữ lượng gỗ 15
triệu m3, tre luồng với hàng chục tỷ cây là nguyên liệu dồi dào cho các nhà máy
giấy.


+ Tài nguyên nước
Nước đạt 10 tỷ m3 song chênh lệch lớn theo thời vụ và khơng gian, nếu có đủ
các cơng trình điều hồ tốt thì đủ thoả mãn nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, hạn chế
thiên tai. Nước ngầm khoảng 400.000m2/ngày song chưa được nghiên cứu đầy
đủ.
+ Tài ngun khống sản
Khống sản trong tỉnh có khoảng trên 40 loại, 250 mỏ và điểm mỏ nhưng
phân bố không đều, khoáng sản chủ yếu là nguyê liệu cho sản xuất vật liệu xây
dựng, phân bón như đá vơi, đất sét, crôm, secpentin, đôlômit...
+ Tài nguyên biển
Nằm trong vùng bể trầm tích có chứa dầu khí, trữ lượng cá khoảng 100-120
ngàn tấn, mới khai thác khoảng 30% tuy nhiên đang giảm sút mạnh về sản lượng
nếu không đánh bắt xa bờ.

Vùng đất triều lợ khoảng 8000 ha, 1000 ha ngập mặn có khả năng ni trồng
thuỷ sản.
Như vậy Thanh Hố là một tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi, địa hình tuy phức
tạp nhưng điều kiện tự nhiên đa dạng, vùng đồi núi rộng lớn, vùng đồng bằng đất
đai màu mỡ, vùng ven biển kéo dài và trù phú. Hệ thống sơng khơng nhiều nhưng
có những con sơng lớn có nhiều nhánh rất thuận lợi cho phát triển nơng nghệp nhất
là sự hình thành và phát triển các trang trại về nông-lâm-thuỷ sản.
2. Những đặc điểm cơ bản về kinh tế.


Trong những năm qua, nhịp độ tăng trưởng bình quân GDP của Thanh Hố
khoảng 6,5%, thấp hơn mức trung bình của cả nước. Tốc độ tăng bình qn về
nơng nghiệp và cơng nghiệp của Thanh Hố đều ở dưới mức của cả nước.
Cơ cấu kinh tế của Thanh Hoá chưa theo kịp so với nền kinh tế cả nước nhất
là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm
Biểu 1:

Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản

Chỉ tiêu

ĐV

1995

1996

1997

1998


1999

2000

I-Cơ cấu ngành

%

100

100

100

100

100

100

Nông-lâm-ngư

%

46,0

44,0

42,0


40,5

39,8

40

Công nghiệp- xây dựng

%

21,1

21,9

24,1

25,1

25,4

26,4

Thương mại-dịch vụ

%

33,9

34,1


33,9

34,4

34,8

33,6

II-GDP/ người

$

212

218,7

236,1

250

269

291

(Nguồn: Cục thống kê-Niên giám thống kê)

Số liệu ở bảng trên phản ánh một cơ cấu kinh tế lạc hậu khi ngành nơng-lâmngư vẫn cịn chiếm tỷ trọng lớn, trong giai đoạn 1995-1999 cơ cấu kinh tế có
chuyển biến theo chiều hướng tích cực, tỷ trọng ngành nơng-lâm-ngư đã giảm dần,
tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng, thương mại-dịch vụ có tăng lên song

tốc độ tăng giảm của các ngành này còn rất chậm. Trong cơ cấu kinh tế ngành
nông-lâm-thuỷ sản chiếm tới 40%, công nghiệp và xây dựng chiếm 26,4%, dịch
vụ chiếm 33,6%. Ngành nông nghiệp ở Thanh Hố là có tỷ trọng lớn nhất (năm
1999 giá trị sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp tăng 6,4% (kế hoạch là 2%), sản lựng
quy ra thóc là 1.263.500 tấn đạt 105,3% kế hoạch). Các doanh nghiệp chủ chốt là :
Cơng ty mía đường Lam Sơn,Cơng ty xi măng,Cơng ty bia Thanh Hố, Cơng ty
giấy Lam Sơn, Mục Sơn.
Mức thu nhập của người dân tương đối thấp đến năm 2000 mới đạt 291 USD/
người. Mức tăng trưởng GDP cũng không cao, trong giai đoạn 1995-2000 mức


tăng trưởng trung bình chỉ đạt 6,5%, điều này có thể giải thích là do cơ cấu nơng
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP mà giá trị mà ngành nông nghiệp mang lại
không cao, sản phẩm của nông nghiệp chủ yếu là sản phẩm thô.
Hoạt động thương mại, dịch vụ có nhiều cố gắng đáp ứng yêu cầu cho sản
xuất và phục vụ đời sống nhân dân. Hàng hoá lưu thông thuận lợi, phong phú, đa
dạng; dịch vụ điện, bưu điện báo chí truyền hình có nhiều chuyển biến tiến bộ góp
phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
3. Những đặc điểm về xã hội.
Thanh Hoá hoá là một tỉnh đông dân, dân số đứng thứ hai cả nước. Tổng dân
số năm 2000 là 3.515.000 người. Lực lượng lao động ở Thanh Hoá rất lớn chiếm
51% dân số, năm 1999 số người đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường
xun(LLLĐ) đã có tới 1.793.396 gười.
Với trình độ văn hoá như sau:
+ Số người chưa biết chữ
: 30.792 người chiếm 0.87%.
+ Số người chưa tốt nghiệp cấp I : 160.550 người chiếm 4,56%.
+ Số người đã tốt nghiệp cấp I : 458.477 người chiếm 13,02%.
+ Số người đã tốt nghiệp cấp II : 777.435 người chiếm 22,09%.
+ Số người đã tốt nghiệp cấp III : 336.115 chiếm 10,4%.

Qua đó cho ta thấy số lao động có trình độ văn hoá cấp III chỉ chiếm 10,4%.
Năm 1999 số lao động đã qua đào tạo là 16,8%. Năm 2000 số lao động đã
qua đào tạo tăng lên 19% song vẫn cịn thấp phần đơng là lao động khơng có nghề.
Lao động trong ngành nông-lâm-thuỷ sản chiếm 83% trong tổng số lao động
đang làm việc.


Hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn năm 1998 là 72,6%, năm
1999 là 73%, năm 2000 là 74,3%.

II. Tình hình phát triển kinh tế trang trại trong những năm qua.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, kinh tế trang trại ở Thanh Hoá
được hình thành và phát triển một cách tự phát, bắt nguồn từ kinh tế hộ gia đình là
chủ yếu và đến nay đã lan rộng ra phạm vi toàn tỉnh.
Theo kết quả điều tra trực tiếp và toàn bộ đến ngày 1/8/1998 Thanh Hố có
1867 trang trại theo tiêu chuẩn của trung ương và số liệu công bố mới nhất của Cục
Thống kê Thanh Hoá, đến ngày 1/7/2000 Thanh Hoá có 1874 trang trại. Huyện có
nhiều trang trại nhất là Thị xã Bỉm Sơn (176), Thọ Xn (162), Hồng Hố (152),
Ngọc Lạc (157), Yên Định(132), Thạch Thành (101)...Các huyện khác có từ 15-65
trang trại .
1.Loại hình các trang trại.
Trang trại ở Thanh Hố có 6 loại hình kinh doanh chính:
- Trang trại trồng cây hàng năm là loại hình trang trại có nhiều nhất ở Thanh
Hố với 807 trang trại chiếm 43,2%. Loại trang trại này chủ yếu trồng các loại cây
như mía, lạc, đậu tương, cói, lúa kết hợp với chăn nuôi. Tập trung nhiều ở các
huyện Thọ Xuân, Thạch Thành, Bỉm sơn, Ngọc Lạc...Loại hinh trang trại này đang
phát triển mạnh và sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp.


- Trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả là loại mới được

hình thành tập trung ở các huyện trung du miền núi và một số huyện đồng bằng:
Như Thanh Hoá, Như Xuân, Bỉm Sơn. Cây trồng chính càfê, chè, cao su, dứa,
nhãn, vải ...
- Trang trại chăn ni loại trang trại này có rất ít (9 trang trại ) địi hỏi chủ
trang trại phải có kỹ thuật, vốn, kinh nghiệm, đồng cỏ...Như trang trại ông Lê Đình
Rỡ (Văn sơn-Triệu sơn) có 395 con bị.

Biểu 2 Số trang trại phân theo loại hình sản xuất năm 1998.
STT
1
2
3
4
5
6

Loại hinh sản xuất
Trồng cây hàng năm
Trồng cây CN lâu năm và cây ăn quả
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Nuôi trồng thuỷ sản
Nông-lâm-thuỷ sản kết hợp

Tổng số trang trại Tỷ lệ %
807
43,2
147
7,9
9

0,5
358
19,2
324
17,3
222
17,1

(Nguồn: Cục thống kê Thanh Hố )

- Trang trại ni trơng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở các huyện đồng bằng ven
biển như Tĩnh Gia, Sầm Sơn, Quảng Xương, Hậu Lộc. Hầu hết các trang trại được
thành lập từ năm 1993-1994 nhờ dự án 773 của nhà nước. Đã có những trang trại
có diện tích hơn 20 ha như trang trại của ơng Hồng văn Tân( Quảng Cư-Sầm Sơn)
có 31 ha ni trồng thuỷ sản. Loại hình này sử dụng nhiều lao động gia đình và lao
động làm thuê thường xuyên (lao động thường xun) có trình độ, có kinh nghiệm
cũng như kiến thức trong nuôi trồng thuỷ sản.
- Trang trại lâm nghiệp tập trung ở các huyện miền núi, đây là loại hình
thường gặp khó khăn ban đầu về cơ sở vật chất, đòi hỏi đàu tư nhiều, thời gian thu


hồi vốn lâu, đa số các trang trại được tiến hành theo kiểu nông-lâm kết hợp, lấy
ngắn nuôi dài.
2. Đất đai của các trang trại.
Tổng diện tích đất đai mà các trang trại sử dụng là 18.208 ha bằng 1,6% diện
tích tồn tỉnh và bằng 2,8% diện tích đất nơng nghiệp. Trong tồn tỉnh các trang
trại có diện tích 1-2ha chiếm phần lớn (506 trang trại). Các trang trại có diện tích
lớn khơng nhiều, trừ các trang trại lâm nghiệp thì chỉ có 23 trang trại có diện tích
hơn 10ha. Ngun nhân chủ yếu là do mơ hình trang trại mới xuất hiện, cịn có
nhiều bất cập trong việc quy hoạch, giao đất cho các hộ đầu tư mở rộng sản xuất.

Tính bình qn một trang trại sử dụng 9,75 ha, so với cả nước thì con số đó
chỉ ở mức trung bình nhưng so với các trang trại ở Tây ngun, Ngệ An thì vẫn cịn
thấp đó cũng là do diện tích đất chưa được giao vẫn cịn cao chiếm 53,6% nhất là
các huyện có tiềm năng đất đất chưa được sử dụng còn lớn như Tĩnh Gia, Bá
Thước, Vĩnh Lộc...
Biểu 3 Diện tích đất bình qn một trang trại theo loại hinh sản xuất
Đơn vị: ha
STT
1
2
3
4
5
6
7

Loại hình sản xuất
Trồng cây hàng năm
Trồng cây CN lâu năm và cây ăn quả
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Nuôi trồng thuỷ sản
Nông-lâm-thuỷ sản kết hợp
Loại khác
(Nguồn:

Cục Thống kê Thanh Hố )

Diện tích bq/trang trại
5,75

8,82
12,74
19,81
8,55
11,8
2,47


Các trang trại lâm nghiệp sử dụng nhiều đất nhất bình quân một trang trại là
19,81 ha, trồng các loại cây như: Luồng, Bạch đàn, Quế và các loại cây nguyên
liệu giấy. Loại hình này phần lớn tập trung ở các huyện miền núi phía Tây nơi có
diện tích đất đồi núi nhiêù
Các trang trại nông-lâm-thuỷ sản kết hợp sử dụng diện tích khá lớn, bình qn
11,8 ha/trang trại do các trang trại này tận dụng cả diện tích đất nông nghiệp, đất
lâm nghiệp và cả những ao, hồ, đồng trũng..
Các trang trại trồng cây hàng năm (trung bình 5,75ha/trang trại) và trang trại
nuôi trồng thuỷ sản (8,55ha/trang trại) sử dụng diện tích đất khơng lớn lắm nhưng
đang có xu hướng tăng lên.
3. Vốn đầu tư.
Tính theo mức bình qn thì vốn đầu tư cho mỗi trang trại là 40,5 triệu đồng
(1997) tăng lên 59,5 triệu đồng(2000). Nguồn vốn của trang trại chủ yếu là vốn tự
có chiếm 73,2% ,vốn vay chiếm 26,8%. Nguồn vốn vay ngân hàng cũng không
nhiều so với tổng số vốn vay( chỉ chiếm 29%).
Biểu 4

Số vốn hiện có bình qn một trang trại
Đơn vị: triệu đồng/ trang trại

Loại hình sản xuất
Trồng cây hàng năm

Trồng cây cn lâu năm, cây ăn quả
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Nuôi trồng thuỷ sản
Nơng-lâm-thuỷ sản kết hợp
Loại khác

Số vốn bình qn/trang trại
36,495
32,430
260
32,095
55,899
40,297
58,057

(Nguồn : Cục Thống kê Thanh Hoá)


Từ bảng số liệu ta thấy trang trại chăn nuôi có số vốn đầu tư lớn nhất khoảng
260 triệu đồng/ trang trại, gấp hơn 6 lần mức bình quân chung, trang trại chăn ni
tuy số lượng khơng nhiều nhưng có số vốn đầu tư lớn do chi phí về giống cho sản
xuất lớn, đồng thời nhà xưởng, chuồng trại đòi hỏi phải có sự đầu tư thoả đáng.
Các trang trại nuôi trồng thủ sản chủ yếu ở cac huyện đồng bằng ven biển
cũng đòi hỏi số vốn đầu tư khá lớn (55,899 triệu đồng/trang trại) và cũng là loại
trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao nếu điều kiện về thời tiết, chăm sóc, thị
trường tiêu thụ thuận lợi.
Các trang trại trồng cây đa số có số vốn đầu tư khơng lớn một phần do chi phí
về giống cây trồng không quá cao như giống vật nuôi đồng thời chi phí chăm sóc
nhỏ, chu kỳ sản xuất ngắn

Nhìn chung mức vốn đầu tư trong các trang trại ở Thanh Hố cịn rất hấp so
với lượng vốn bình qn chung một trang trại (tính đến thời điểm điều tra các
trang trại của 15 tỉnh thuộc các vùng trên cả nước) là 291,43 triệu đồng. Ta biết
rằng vốn là một yếu tố quan trọng, để phát triển kinh tế trang trại địi hỏi các chủ
trang trại cần phải tích tụ một lượng vốn tự có nhất định để có thể thuê, mua đất
đai, lao động...ở Thanh Hoá mức vốn đầu tư cho kinh tế trang trại đã thấp, nhưng
vốn được vay từ ngân hàng lại chiếm tỷ lệ thấp, nguồn hỗ trợ từ nhà nước ít, nhỏ
dọt điều này đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, chưa
tạo ra sự kích thích kinh tế trang trại phát triển.
III. Phân tích tình hình sử dụng lao động trong các trang trại
1. Số lượng và chất lượng lao động.
1.1. Số lượng:


Tính đến ngày 1/7/2000 số lao động đang làm việc trong 1874 trang trại (theo
tiêu chuẩn của trung ương) là 13210 người. Trong đó lao động tự có của trang trại
là 4514 người chiếm 34,17%
Số lao động thuê ngoài (bao gồm cả lao động thuê thường xuyên và lao động
thuê thời vụ) là 8696 người chiếm 65,83% so với tổng số lao động đang làm việc
trong các trang trại.
Trong số lao động th ngồi thì lao động th thường xun chỉ có 1958
người chiếm 22,52%. Cịn lao động th thời vụ là chủ yếu với 6035 người chiếm
77,48%.
Từ những con số ở trên cho ta thấy rằng tổng số lao động mà các trang trại thu
hút và sử dụng là chưa nhiều so với số lao động trong nông nghiệp (nơi mà lực
lượng lao động của Thanh Hố cịn chiếm tới hơn 80%, số lao động dôi dư nhiều
và hệ số sử dụng thời gian lao động mới chỉ đạt 74%).

Biểu 5 Số lượng lao động trong các trang trại
Đơn vị: người

Các đơn
vị

Tổng số
trang
trại

Tổng số
lao động

Chủ
hộ

Thuê ngoài
Thuê tx

Thuê tv

Đã qua
đào tạo


Tổng số:
I. Quốc doanh
II. Khối huyện
1.Thọ xuân
2. Nông cống
3. Triệu sơn
4. Quảng xương
5. Hà trung

6. Nga sơn
7. Bỉm sơn
8. Yên định
9. Hồng hố
10. Hậu lộc
11. Thạch thành
12. Ngọc lạc
13. Như xn
14. Tĩnh gia
..................

1874
321
1553
162
62
44
65
49
27
176
132
152
29
101
157
98
3
......


13210
1380
11830
1038
337
530
596
261
214
2004
1065
1866
172
525
814
701
13
......

4514
677
3837
409
185
92
258
114
41
400
307

400
73
260
362
260
9
....

2170
212
1958
235
55
160
165
0
130
304
127
225
16
60
127
147
3
.....

6526
491
6035

394
97
278
173
147
43
1300
622
1241
83
205
325
294
1
....

14
3
2

3
2
.....

(Nguồn : Báo cáo của Phạm Đình Đắc-Phó giám đốc Cục Thống kê
Thanh Hoá tháng 7 năm 2000)

Trong tổng số 1874 trang trại, trang trại quốc doanh (321 trang trại chiếm
17,1%số trang trại) thu hút được 1380 lao động chiếm 10,45% tổng số lao động
được thu hút, trong số đó lao động là chủ hộ với 677 người chiếm gần 50%, điều

đó cho thấy trang trại quốc doanh sử dụng ít lao động đồng thời cũng thuê ít lao
động hơn, nó chủ yếu sử dụng lao động của hộ (lao động gia đình).
Các trang trại khối huyện sử dụng 11830 lao động chiếm tới gần 90% tổng số
lao động, trong đó các trang trại ở Bỉm sơn thu hút nhiều lao động nhất với 2004
người chiếm gần 17% tổng số lao động ở các trang trại khối huyện. Ngồi ra các
trang trại ở Hồng hố, n định, Thọ xuân, Ngọc lạc cũng sử dụng nhiều lao
động, nhìn chung số lao động được sử dụng trong các trang trại ở các huyện cũng


không đồng đều do nhiều nguyên nhân khác nhau như điều kiện về đất đai, vốn,
loại hình sản xuất kinh doanh của trang trại ...
Tính chung, trung bình mỗi trang trại trên toàn tỉnh sử dụng trên 7 lao
động(7,1 người) trong đó 2,5 lao động là của trang trại và 4,6 lao động làm thuê.
Tuy nhiên các trang trại thuê từ một đến 2 lao động còn chiếm tỷ lệ lớn
(65%), thuê từ 3-5 lđ chiếm 25,6% thuê 6-10 lao động chiếm 5,9% và thuê từ 21
lao động trở lên chỉ chiếm 0,1%. Điều này cho thấy quy mô của các trang trại ở
Thanh Hố vẫn cịn nhỏ, sử dụng ít lao động.
Biểu: 6 Số lao động được thuê trong các trang trại Thanh Hoá
Chỉ tiêu

Số trang trại

Tỷ lệ%

Thuê từ 1-2 lao động

1227

66,5


Thuê từ 3-5 lao động

472

25,6

Thuê từ 6-10 lao động

110

5,9

Thuê từ 11-20 lao động

35

1,9

Thuê từ 21 lao động trở lên

1

0.1

(Nguồn: Sở NN-PTNT Thanh Hố-1998)

Nhưng so với cả nước thì số lao động sử dụng trong các trang trại ở Thanh
Hố cịn ít chưa tương xứng với tiềm năng về lao động của tỉnh.
1.2. Chất lượng lao động trong các trang trại:
Mặt này được thể hiện chủ yếu là trình độ, năng lực của thành viên trong

trang trại (trong đó có chủ trang trại và người lao động làm thuê).
1.2.1. Đối với chủ trang trại:


Đây là những người có trong tay tư liệu sản xuất, tự đứng ra tổ chức sản xuất
kinh doanh tạo ra nơng sản hàng hố phục vụ nhu cầu của thị trường.
Theo số liệu điều tra của Cục Thống kê Thanh Hoá:
- Thành phần của chủ trang trại:
+ Là Cán bộ-CNVC:
395 người, chiếm 21,2%.
+ Là nông dân:
1283 người, chiếm 68,7%.
+ Là thành phần khác: 189 người, chiếm 10,1%.
- Trình độ chính trị của chủ trang trại:
+ Là đảng viên:
580người, chiếm 31%.
+ Là quần chúng:
1287 người chiếm 69%.
- Trình độ văn hoá của chủ trang trại:
+ Cấp I:
275 người, chiếm 14,7%.
+ Cấp II:
1012 người, chiếm 54,2%.
+ Cấp III:
580 người, chiếm 31,1%.
Số liệu điều tra ở trên phản ánh một thực tế là trình đọ của các chủ trang trại ở
Thanh Hố vẫn còn thấp: số người tốt nghiệp cấp III còn ít, phần lớn chủ trang trại
là nông dân. Ta biết rằng kinh tế trang trại là nền kinh tế sản xuất nơng sản hàng
hố đáp ứng nhu cầu của thị trường, là tổng thể các quan hệ kinh tế của các tổ chức
hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp bao gồm các hoạt động trước, trong và

sau quá trình sản xuất nơng sản hàng hố, nó tiên tiến hơn các loại hình tổ chức sản
xuất trước đây. Vì vậy mà người chủ trang trại phải được trang bị những kiến thức
cần thiết về quản lý, về khoa học kỹ thuật... ngày càng cao hơn để có thể nắm bắt,
phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, phân tích nhu cầu thị trường, lựa chọn
thích hợp các yếu tố đầu vào, áp dụng những kỹ thuât mới, công nghệ mới vào q
trình sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều nơng sản hàng hố. Khơng những thế họ cịn
phải có kiến thức về luật pháp nhằm vận dụng trong quá trình ký kết các hợp đồng
về mua bán, cung ứng vật tư, hàng hoá; thuê mướn lao động (ký kết hợp đồng lao
động), kiến thức về pháp luật đất đai trong việc mua, chuyển quyền sử dụng


đất...Những kiến thức đo hiện nay các chủ trang trại ở Thanh Hố đang cịn thiếu
cần được trang bị bồi dưỡng.
1.2.2.Đối với người lao động làm thuê.
Mặc dù kinh tế trang trại ở Thanh Hố tuy cịn nhỏ bé và mới bước đầu hình
thành, phát triển. nhưng tuỳ theo quy mơ và q trình sản xuất kinh doanh phần lớn
kinh tế trang trại đều sử dụng lao động làm thuê (có đến 98% số trang trại là sử
dụng lao động làm thuê). Lao động làm thuê (thường xuyên, thời vụ) là những
người làm công, sản xuất thuê cho các chủ trang trại và được chủ trang trại trả cho
phần thù lao nhất định. Với 8696 lao động làm thuê trong các trang trại, một con số
quá ít trong số 2,9 triệu người lao động trong các ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Số
lao động này mang tính thời vụ cao nên số lao động dôi dư trong nông nghiệp
nhiều, chủ yếu là lao động phổ thơng, khơng có nghề. Cùng với sự hình thành và
phát triển của kinh tế trang trại thì một phần lao động dôi dư trong nông nghiệp sẽ
được các chue trang trại thuê mướn, sử dụng.
2. Sử dụng lao động trong các trang trại.
2.1. Sử dụng lao động theo loại hình sản xuất kinh doanh.
Theo điều tra số lao động trung bình trong mỗi trang trại là 7,1 lao động (2,5
lao động gia đình và 4,6 lao động là thuê). Nhưng số lao động được sử dụng trong
trang trại cịn biến động theo loại hình sản xuất kinh doanh.

Biểu 7

Số lao động được sử dụng bình quân một trang trại theo
loại hình sản xuất
Đơn vị: người/trang trại

Chỉ tiêu
Trồng cây hàng năm

Lao động
gia đình
2,52

Lao động
thuê t. xuyên
0,9

Lao động
thuê thời vụ
8

Tổng số lao
động đã quy
đổi
7,42


Trồng cây CNH-HĐH-cây
ăn quả
Chăn nuôi


Loại khác

5,98

2,4

1,7

1,2

4,7

0,8

7

6,65

1,8

6,6

8,7

2,75

1,6

5,8


7,25

2,2

Nông-lâm- thuỷ sản kết hợp

5

3,6

Nuôi trồng thuỷ sản

0,88

2,35

Lâm nghiệp

2,6

1,3

3,2

5,1

( Nguồn : Cục Thống kê - Sở NN-PTNT)

Từ bảng số liệu trên cho ta thấy các trang trại nuôi trồng thuỷ sản sử dụng

nhiều lao động nhất, trung bình 8,7 lao động (sử dụng 3,6 lao động gia đình và 1,8
lao động thuê thường xuyên - cao nhất trong các loại hình sản xuất) nhờ có lợi thế
là có bờ biển dài có nhiều vũng vịnh, hệ thống sông nhỏ dẫn nước mặn, đồng trũng
ao, hồ. Điều này có thể được giải thích là các trang trại nuôi trồng thuỷ sản được
đầu tư một lượng vốn tương đối lớn cộng với kỹ thuật chăn ni khó khăn hơn, chế
độ chăm sóc và ni ăn địi hỏi phải thường xun vì thế nó sẽ thích hợp với
những hộ gia đình đơng người, có nhiều vốn và đặc biệt là có kinh nghiệm trong
chọn giống, ni trồng, thu hoạch từ đó cũng địi hỏi chủ trang trại phải thuê lao
động thường xuyên để đảm bảo tính liên tục: từ nạo vét, khoanh bờ, diệt trừ mầm
bệnh tới chọn giống ni ăn và thu hoạch.
Vì là sử dụng nhiều lao động thường xuyên nên trong quá trình sử dụng lao
động chủ trang trại cũng cần ký kết hợp đồng lao động với người lao động làm
thuê trên cơ sở đó đề ra thời hạn làm việc, tiền cơng, cũng như kế hoạch bồi
dưỡng, đào tạo nghề cho người lao động.
Do tính chất như vậy nên các trang trại chăn ni cũng sử dụng nhiều lao
động gia đình và lao động th thường xun (trung bình có 4,7 lao động đã quy
đổi trong đó lao động gia đình và lao động thuê thường xuyên là 4,1 người, chỉ
thuê 0,6 lao động thời vụ đã quy đổi)


Bên cạnh đó các trang trại trồng cây hàng năm cũng sử dụng nhiều lao động
(7,2 lao động đã quy đổi, chủ yếu là lao động gia đình và lao động thuê thời vụ).
Số trang trại này lại chiếm đa số và có xu hướng phát triển mạnh, vịng quay vốn
ngắn, góp phần khơng nhỏ vào việc nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao động của
lao động nông thơn.
Các trang trại lâm nghiệp ở Thanh Hố có lợi thế là đất đai đồi núi nhiều cũng
đang ngày càng sử dụng nhiều lao động thuê thời vụ ( 3,5 lao động đã quy đổi
trong số 6,65 lao động của trang trại). Đây là mơ hình sản xuất thực hiên tốt
chương trình quốc gia về trồng mới 5 triệu ha rừng, ngồi ra nó cịn giúp nhân dân
vùng cao định canh, định định cư ổn định phát triển sản xuất. Đối với loại hình này

nhà nước và các chủ trang trại nên có kế hoạch tập huấn cho lao động trong việc
trồng và bảo vệ rừng trồng.
2.2. Sử dụng lao động theo thời gian.
Hiện nay hầu hết các trang trại ở Thanh Hố sử dụng lao động theo ngày cơng
lao động (được áp dụng cả đối với lao động thuê thường xuyên và lao động thuê
thời vụ).
Đối với lao động thuê thời vụ đánh giá thông qua số ngày công lao động, theo
điều tra chọn mẫu năm 1999 trong 268 hộ ta có:
Biểu 8 Sử dụng ngày cơng lao động của lao động thuê thời vụ
Chỉ tiêu

Số trang trại

Tỷ lệ(%)

Thuê dưới 500 công lao động

143

53.36

Thuê từ 500-900công lao động

75

29.78

Thuê hơn 1000 công lao động

46


18.66


(Nguồn : Báo cáo kết quả nghiên cứu kinh tế trang trại ở Thanh Hoá của trường ĐH Kinh
Tế Quốc Dân)

Ta thấy số trang trại thuê dưới 500 công lao động đã chiếm tới 53,36%(Tính
ra tồn tỉnh có khoảng 1000 trang trại). Thực tế này là một hạn chế cho việc nâng
cao hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, trong khi các trang trại thuê lao
động thời vụ với hơn 1000 ngày công lao động chưa bằng 1/3 so với các trang trại
thuê dưới 500 công lao động. Vì thế tỉnh cần có chính sách tăng số trang trại sử
dụng lao động thời vụ nhiều hơn, nhất là việc quy hoạch đất đai, khuyến khích
hình thành các trang trại trồng cây hàng năm ở vùng đồng bằng và ven biển.
Một vấn đề trong sử dụng lao động theo thời gian đó là hiện nay ở Thanh Hố
có một số trang trại đã sử dụng thời gian lao động kéo dài làm ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng thời gian lao động. Ngày công lao động dựa trên khối lượng cơng việc
nhưng phải tránh tình trạng kéo dài ngày cơng lao động. Nếu có làm thêm giờ thì
cũng phải có sự thoả thuận giữa chủ trang trại và người lao động làm thuê về số
giờ làm thêm và tiền công mà người lao động nhận được khi làm thêm giờ.
2.3. Sử dụng lao động theo trình độ, chuyên môn.
Một thực trạng hiện nay là lao động trong các trang trại ở Thanh Hoá phần
lớn là lao động phổ thơng khơng có trình độ, tay nghề, chun mơn. Qua biểu 5
cho ta thấy số lượng lao động được đào tạo là rất ít (14 người qua đào tạo nằm rải
rác ở một số huyện). Do số lao động của trang trại được thu hút trong nơng nghiệp
có trình độ thấp (trình độ văn hố, trình độ tay nghề), ảnh hưởng không nhỏ đến
năng suất của lao động trong trang trại.
Khi được sử dụng trong trang trại thì chỉ một bộ phận nhỏ lao động thường
xuyên là đạt được độ thành thạo, có kinh nghiệm được chủ trang trại thuê làm việc
thường xuyên.



Ví dụ: Các trang trại ni trồng thuỷ sản địi hỏi sử dụng nhiều lao động
thường xuyên thì người chủ thường thuê những người có kinh nghiệm, có kiến
thức chuyên về ni ăn, chăm sóc, thu hoạch sản phẩm cho trang trại.
Còn đối với các trang trại khác phần nhiều cũng khơng u cầu những lao
động có trình độ cao, mà chỉ cần có độ thành thạo nhất định. Điều này cũng có thể
giải thích được là do kinh tế trang trại ở Thanh Hố nói chung và nước ta nói riêng
mới chỉ phát triển trong giai đoạn đầu (quy mơ, trình độ trang bị kỹ thuật, cơ giới
hố ...cịn thấp) nên địi hỏi về trình độ của người làm thuê là chưa cao. Không như
trang trại ở các nước đã CNH được đầu tư về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, trang bị sản
xuất tiên tiến nên lao động trong các trang trại của họ cần phải có một trình độ nhất
định, phải qua đào tạo thì mới làm được.
Có thể chúng ta khuyến khích phát triển kinh tế trang trại để thu hút nhiều lao
động trong nông nghiệp nhưng kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường vẫn
phải tạo ra nhiều nơng sản hàng hố đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường
đồng thời cũng phải tăng sức cạnh tranh cho nông sản hàng hố bởi hiện nay có rất
nhiều các loại nơng sản hàng hoá của các nước trong khu vực tràn ngập thị trường
Việt nam như mía đường, dầu ăn, hoa quả v.v.. Điều này buộc chúng ta phải xem
xét lại đó là cần có sự đầu tư lớn cho phát triển kinh tế trang trại (đầu tư về vốn, cơ
sở hạ tầng, KHCN và đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng lao động trong trang trại) có
như vậy mới nâng cao được năng lực sản xuất của kinh tế trang trại đáp ứng yêu
cầu CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn.
3. Hiệu quả sử dụng lao động trong các trang trại.
Hiệu quả sử dụng lao động trong các trang trại thể hiện ở các chỉ tiêu:
- Kết quả sản xuất kinh doanh của các trang trại (Tổng doanh thu, tổng lợi
nhuận, tiền công bình quân người lao động nhận được)


- Số lao động mà kinh tế trang trại thu hút và sử dụng trong kinh tế trang trại

- Sự thay đổi hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn.
3.1. Kết quả sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại Thanh Hoá.
Tuy mới ra đời và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã đem lại hiệu quả cao
về mặt kinh tế. Năm 1997 bình quân một trang trại có doanh thu là 46,898 triệu
đồng tăng 34,5% so với năm 1995. Lợi nhuận của mỗi trang trại đạt 22,4 triệu
đồng/năm tăng 41% so với năm 1995. Biểu hiện rõ nhất ở các trang trại trồng mía,
cói, dứa gai có thị trường tiêu thụ ổn định.
Trong các loại hình sản xuất thì các trang trại chăn ni và trang trại nuôi
trồng thuỷ sản là các trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.


Biểu 9 Thu nhập của trang trại theo loại hình sản xuất
Đơn vị: 1000 đồng
Loại hình sản xuất

Tính chung
Trong đó:
- Cây hàng năm
- Cây CN, cây ăn quả
- Chăn nuôi
- Lâm nghiệp
- Nuôi trồng thuỷ sản
- N-T-S kết hợp
- Loại khác

Tổng thu Thu nhập Thu nhập bq
bq
trang bq trang nhân khẩu/năm
trại/năm
trại/năm


Thu nhập bq
lao động chủ
trang trại/năm

46.896

22.381

4.010

9.840

49.823
29.081
74.411
28.719
66.755
47.623
49.024

23.092
16.321
39.254
17.434
28.846
21.377
24.164

4.319

2.836
6.1938
2.938
5.212
3.608
4.946

9.517
6.739
13.888
6.424
12.494
8.314
10.648

(Nguồn: Tài liệu điều tra của Cục thống kê Thanh Hoá năm 1998)

Trang trại chăn nuôi đạt 74,411 triệu đồng/năm. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
đạt giá trị tổng thu 66,775 triệu đồng/năm, tiếp theo là các trang trại Cây hàng năm,
Nông-lâm-thuỷ sản kết hợp và trang trại Lâm nghiệp có mức tổng thu thấp nhất đạt
28,719 triệu đồng/năm. Theo đó lợi nhuận, thu nhập bình quân nhân khẩu và thu
nhập bình quân của lao động là chủ trang trại của hai loại hình sản xuất này(Chăn
nuôi và Nuôi trồng thuỷ sản) cũng đạt mức cao nhất, thu nhập bình quân một lao
động của chủ trang trại chăn nuôi đạt gần 14 triệu đồng/năm và thu nhập bình qn
của nhân khẩu trang trại chăn ni đạt 6,194triệu đồng/năm, thu nhâp bình quân
của lao động là chủ trang trại nuôi trồng thuỷ sản đạt gần 12,5 triệu và của nhân
khẩu trong trang trại này là 5,212 triệu. Trong khi trang trại trồng cây hàng năm
cũng đạt mức tương đối cao với thu nhập bình quân đạt 49,823 triệu, thu nhập bình
quân của lao động là chủ trang trại và của nhân khẩu đạt 9,517 và 4,319 triệu
đồng/năm. Nếu so sánh thu nhập bình quân giữa các loại hình trang trại ta thấy: thu

nhập bình quân một nhân khẩu của hộ trong trang trại trồng cây hàng năm gấp 1,03
lần mức bình quân chung, trang trại chăn nuôi gấp 1,55 lần, trang trại nuôi trồng


thuỷ sản gấp 1,3 lần mức thu hập bình quân chung một nhân khẩu của hộ. Trong
khi thu nhập bình quân lao động của chủ hộ ở các trang trại chăn nuôi và nuôi
trồng thuỷ sản gấp 1,4 và 1,3 lần so với mức bình quân chung. So với thu nhập
bình quân chung của xã hội thì những lao động này có mức thu nhập cao hơn nhiều
các ngành nghề trong xã hội chưa kể đến so với lao động nơng thơn.
Để so sánh thu nhập bình qn lao động, và nhân khẩu của các trang trại
Thanh Hoá với trang trại ở các tỉnh khác thông qua Biểu 10.
Biểu 10 Mức thu nhập bình quân lao động trong độ tuổi và nhân khẩu của các
trang trại điều tra
Đơn vị : 1000 đồng
Chỉ tiêu
Bình qn chung
Trong đó:
n Bái
Hà Nội
Thanh Hố
Nghệ An
Gia Lai
Đắk Lắk
Khánh Hoà
Đồng Nai
Long An
Cà Mau

TN của một nhân khẩu


bq 1 năm

Trại các tỉnh

TN của một lao động

bq 1 năm

bq 1 tháng

bq 1 tháng

16.120

1.343

7.920

660

7.762
14.315
21.113
7.230
15.233
26.073
30.220
22.004
13.978
12.737


647
1.193
1.759
602
1.269
2.173
2.518
1.834
1.165
1.061

4.012
7.817
9.974
3.347
7.185
11.055
15.434
11.099
7.818
7.672

334
651
831
279
599
921
1.286

925
652
639

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 257, tháng 10/1999

Ta thấy cả thu nhập của lao động (bq 21.113 triệu/năm) và thu nhập (9,974
triệu/năm) của một nhân khẩu trong các trang trại của Thanh Hoá đều cao hơn thu
nhập của lao động và nhân khẩu trong các trang trại ở các tỉnh phía bắc kể cả Hà
Nội. Thu nhập của lao động và nhân khẩu trong các trang trại ở Thanh Hoá đạt gần
bằng với các trang trại ở Tây Nguyên. Điều này cho thấy các trang trại ở Thanh
Hố có quy mơ nhỏ hơn, vốn đầu tư ít hơn nhưng lại có mức thu nhập tương đối


cao chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng lao động của các
trang trại Thanh Hoá là tương đối cao.
3.2. Về mặt xã hội (số lao động mà kinh tế trang trại thu hút và sử dụng).
Từ khi loại hình kinh tế trang trại xuất hiện và phát triển đến nay nó đã thu
hút và sử dụng hơn 20.000 lao động góp phần khơng nhỏ vào tạo việc làm và xố
đói giảm nghèo cho gần 5000 hộ. Một số nơng dân đã giàu lên nhanh chóng, mức
sống của người dân được nâng cao hơn trước
Biểu 11 Kết quả giải quyết việc làm
Đơn vị: người
Năm
Chỉ tiêu
Sốlaođộng được giải
quyết việc làm
Trong đó:
nơng-lâm nghiệp
Ngư nghiệp

Cơng nghiệp- xây
dựng- giao thơng
Thương mại- du
lịch- dịch vụ
Quản lý nhà nướcĐảng, đoàn thể
Kinh tế trang trại

1996

1997

1998

1999

2000

Tổng số

26702

32731

32963

33000

35000

160396


21940

24101

19455

19850

20011

105357

3009
-375

631
2633

2053
4145

2100
4500

2681
5788

10474
16691


137

948

2536

2750

3520

9891

1991

4418

4774

3800

3000

17983

3725

1800

(Nguồn: Báo cáo chương trình giải quyết việc làm từ 1996-2000

của Sở LĐ-TBXH Thanh Hố)

Nhìn trên bảng số liệu ở trên ta thấy số lao động mà kinh tế trang trại thu hút
và sử dụng trong năm 1998 đã nhiều hơn số lao động được thu hút vào các ngành
thương mại - du lịch - dịch vụ, ngư nghiệp và gần bằng số lao động mà ngành công
nghiệp - xây dựng và giao thông tạo ra. Điều này cho thấy được hiệu quả của việc
sử dụng lao động trong các trang trại là thu hút và tạo ra chỗ làm việc mơí cho


người lao động. Tuy đến năm 2000 số lao động được kinh tế trang trại thu hút có
giảm đi do sự phát triển của kinh tế trang trại bị chậm lại (số trang trại tăng lên
không nhiều từ năm 1999-2000 số trang trại chỉ tăng từ 1867 lên 1874 trang trại
mặt khác do quy mô của trang trại không được mở rộng nhiều do cịn có những
vướng mắc, bất cập trong việc giao đất cho nông dân, cơ chế cho vay vốn của ngân
hàng, thị trường tiêu thụ nông sản phẩm khơng ổn định...).Vì thế mà số lao động
được thu hút và sử dụng trong kinh tế trang trại giảm đi cịn 1800 lao động (năm
2000). Nhưng nhìn chung việc sử dụng lao động trong kinh tế trang trại vẫn mang
lại hiệu quả cao không chỉ về kinh tế mà cịn giải quyết được việc làm cho một bộ
phận khơng nhỏ người lao động và nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao động
trong nông nghiệp. Từ năm 1996 - 2000 hệ số sử dụng thời gian lao động ở khu
vực nông thôn không ngừng tăng lên Năm 1996 (66,7%), năm 1997(69,4%), năm
1998 (72,6%), năm 1999(73%), năm 2000 (74,3%).(Theo báo cáo kết quả giải
quyết việc làm 1996-2000 của Sở LĐ-TBXH Thanh Hoá ). Trong khi tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động ở nông thôn chung cho cả nước là 72,11% (1996), 72,9%
(1997), 70,88% (1998), 73,28% (1999)(điều tra của Bộ LĐ-TBXH) . Ta thấy tỷ lệ
sử dụng thời gian lao động nơng thơn ở Thanh Hố Tăng liên tục qua các năm
nhưng đến năm 1999 mới đat mức bình qn chung của cả nước Cịn giai đoạn
trước thì tỷ lệ đó thấp hơn.
IV. Một số nhân tố hạn chế sự phát triển kinh tế trang trại ở Thanh Hoá.
Ta biết rằng tình hình sử dụng lao động ở các trang trại phụ thuộc vào sự phát

triển của các trang trại. Một khi kinh tế trang trại đã phát triển nó sẽ thu hút và sử
dụng một lượng lớn lao động trong nông nghiệp. Thế nhưng kinh tế trang trại phát
triển lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chính sách phát triển kinh tế trang trại,
đất đai, vốn, hạ tầng cơ sở vật chất, thị trường tiêu thụ sản phẩm...
1. Chính sách phát triển kinh tế trang trại.

 Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam qua các năm 1996,1997,1998,1999.


×