Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.11 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ 222 NĂM HỌC 2022-2023

Giảng viên phụ trách: TS. Phan Duy Anh
Nhóm 27 – Lớp L01

Thành phố Hồ Chí Minh, 2023


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN

MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀO GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU
NƯỚC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA –
ĐHQC.HCM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Họ và Tên

MSSV


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1


PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN
TỘC ....................................................................................................................................... 3
1.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản ....................................................................................................................... 3
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo..................................................................................... 6
1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn dân tộc,
lấy liên minh công – nông làm nền tảng ......................................................................... 9
1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc .......................................................... 11
1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường bạo lực
cách mạng ........................................................................................................................ 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TINH THẦN YÊU NƯỚC VÀ GIÁO DỤC TINH
THẦN YÊU NƯỚC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG
HCM .................................................................................................................................... 15
2.1. Về tinh thần yêu nước của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG
HCM ................................................................................................................................ 15
2.1.1. Những mặt tích cực ........................................................................................... 15
2.1.2. Những mặt hạn chế ........................................................................................... 17
2.1.3. Nguyên nhân ...................................................................................................... 18
2.2. Về công tác giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Trường Đại học Bách
khoa – ĐHQG. HCM ...................................................................................................... 21
2.2.1. Những mặt tích cực ........................................................................................... 22
2.2.2. Những mặt hạn chế ........................................................................................... 24
2.2.3. Nguyên nhân ...................................................................................................... 25
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH
MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀO GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG.HCM ............................... 29
3.1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc................. 29

3.2. Một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc vào giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa –
ĐHQG.HCM ................................................................................................................... 35
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 41


PHẦN MỞ ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người cũng đã xác định được mâu thuẫn gay gắt nhất ở các nước thuộc
địa là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Và để giải quyết mâu
thuẫn ấy thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc thực chất là đánh đổ ách thống trị, áp bức, bóc
lột của đế quốc thực dân; giành độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và
hình thành nhà nước của dân, do dân, vì dân, có thể tự do lựa chọn con đường phát
triển của dân tộc phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, tiến bộ xã hội. Chính vì
vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết
hàng đầu, trên hết, trước hết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo tư tưởng ấy vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam và đem lại thắng lợi to lớn của cách mạng tháng Tám năm 1945
cũng như thắng lợi năm 1975, từ đó khẳng định được đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc của nước ta là đúng đắn và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc có ý nghĩa vơ cùng to lớn với nước Việt Nam ta. Tư tưởng ấy khơng chỉ có ý

nghĩa đối với Việt Nam mà còn ý nghĩa với cả thế giới, Người đã khẳng định rằng:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Có thể thấy Hồ Chí Minh đã nâng quyền
tự nhiên của con người lên thành quyền dân tộc, gắn chặt quyền con người với quyền
dân tộc và “đó là lẽ phải không ai chối cãi được”.

1


Hiện nay, Đảng ta đã và đang tiếp tục vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; đặc biệt là
công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước trong thời đại hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó,
Đảng cũng chú trọng việc tiếp tục hồn thiện và nâng cao nhận thức về cách mạng
giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh cho nhân dân là rất cần thiết, đặc biệt
là thế hệ trẻ của Việt Nam. Chính vì thế, nhóm chúng em đã chọn đề tài “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc” để tìm hiểu và từ đó trang bị cho bản
thân những kiến thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG
DÂN TỘC
1.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Trong thời kỳ đất nước bị thực dân xâm lược, nhân dân bị hai tầng áp bức nặng
nề, hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng không thành công kèm theo
sự thất bại của những phong trào yêu nước trong thời kỳ này thể hiện sự khủng hoảng,
bế tắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cách mạng. Chứng kiến hồn cảnh đó, ngay

từ sớm Nguyễn Tất Thành đã sớm bộc lộ tinh thần yêu nước và học hỏi những kinh
nghiệm của những người đi trước, Hồ Chí Minh đã vượt qua tầm nhìn của các bậc
tiền bối lúc bấy giờ, đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã chọn hướng đi sang một
nền văn minh mới khác đó là lựa chọn đi sang phương Tây. Việc lựa chọn con đường
đi sang phương Tây của Hồ Chí Minh lúc này khơng phải là hành động, tự phát, ngẫu
nhiên, mà đó là sự thay đổi, vượt lên trên cả tư duy “lối mòn” còn nhiều hạn chế của
các bậc tiền bối đi trước. Trong suốt quãng thời gian lênh đênh trên biển, đến với
nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn
Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản
phát triển Anh, Mỹ, Pháp. Người đã đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và tìm
hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ, đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền
của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Qua đó, Người nhận thấy:
"Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa"1. Hồ Chí Minh cịn đi qua nhiều nước thuộc địa bị thực
dân áp bức cực kỳ gay gắt, đồng cảnh khổ như xã hội Việt Nam. Chính từ thực tiễn
đó mà khơng phải Hồ Chí Minh khơng thấy được khả năng giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng dân chủ tư sản, mà chính là Người đã nhìn thấy tính khơng
1

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội,, t.2, tr.296.

3


triệt để của các cuộc cách mạng đó. Và đây cũng là điểm nổi bật của tư tưởng giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh so với các nhà tư tưởng trên thế giới cũng như trong
nước, trước và cùng thời với Hồ Chí Minh.
Hành trang mà Người mang theo khi ra đi tìm đường cứu nước là thực tiễn bế
tắc của cả dân tộc trong “đêm trường nô lệ”, cùng với hành trình mà Người đã khảo

sát, tất yếu đưa Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Rõ ràng, Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giúp Hồ Chí Minh từ một người yêu nước
trở thành người cộng sản, giúp cho Hồ Chí Minh góc nhìn, quan điểm mới, hiểu được
con đường giải phóng dân tộc thuộc địa ở Việt Nam. Người đã khẳng định: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng
vơ sản”2. Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo
con đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: “Trong thế giới bây
giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành cơng, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng
được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả
dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”3. Con đường giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và
toàn diện. Cuộc cách mạng đó khơng chỉ giải phóng giai cấp, mà cịn gắn liền với nó
là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Con đường mà sứ mệnh lịch sử của cả dân
tộc đặt lên giai cấp công nhân – giai cấp cơ bản trong xã hội, giai cấp mà sinh ra và
lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, bị ba tầng lớp áp bức, bóc lột – đế quốc,
địa chủ, tư sản, nỗi uất hận của người nô lệ bị mất nước cùng với nỗi nhục của người
lao động bị bóc lột đã sớm dẫn giai cấp cơng nhân Việt Nam đến sự giác ngộ về dân
tộc và giai cấp, tạo nên ở giai cấp này sự nhạy cảm trong nhận thức về mối quan hệ
giữa cuộc đấu tranh giải phóng tồn dân tộc với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp.
Trong suốt q trình vận dụng lý luận cách mạng vơ sản vào Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, khẳng định
một chiều đấu tranh giai cấp trong giai đoạn nửa sau những năm 20 và nửa đầu những

2
3

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.12, tr.30.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.304.

4



năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng vơ sản có sức sống mạnh mẽ, tác động lớn trong đơng đảo quần chúng nhân
dân. Đi theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh đã sớm xác định rõ phương
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm cách mạng tư sản dân quyền và
cách mạng thổ địa để tiến tới xã hội cộng sản. Sau khi giành độc lập, phải đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên
những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
từ một nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề, xác định những đặc
trưng bản chất, mục tiêu và bước đi để đạt tới chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình
cải biến cách mạng dài lâu, gian khổ, phải vượt qua nhiều chặng đường khác nhau,
tất cả là vì sự nghiệp giải phóng con người, giúp cho con người phát triển tồn diện,
có cuộc sống ấm no, đầy đủ, tự do và hạnh phúc.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc được nâng lên trình độ một cuộc cách mạng xã hội. Cuộc cách mạng này kết hợp
trong bản thân nó tiến trình của sự nghiệp: giải phóng dân tộc bị áp bức, giải phóng
giai cấp những người lao động bị áp bức bóc lột và giải phóng bản thân mỗi con
người. Đây là cơ sở, là động lực, là sức mạnh đưa tới sự phục hồi và phát triển của
cách mạng Việt Nam, bởi trên con đường đó, mục tiêu dân tộc không thể tách rời mục
tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bằng con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
không chỉ thể hiện sự khác nhau về chất giữa con đường, giải phóng dân tộc của Hồ
Chí Minh với con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của các bậc tiền bối theo lập
trường phong kiến hay tư sản, đó cịn là sự thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng
tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng,
đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các


5


nước thuộc địa và phụ thuộc”4. Con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn
chặt với chủ nghĩa xã hội đã trở thành lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của cách mạng
Việt Nam. Đó là sự sàng lọc và kiểm nghiệm trong thực tiễn đấu tranh cách mạng mà
Hồ Chí Minh lựa chọn và nhân dân thực hiện. Dựa theo con đường cách mạng vô
sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở
đất”, dẫn tới sự thành lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Với Tun ngơn
độc lập, Hồ Chí Minh đã tun bố với tồn thế giới rõ ràng về quyền độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt
Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là tiền đề,
điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng
lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Dựa trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và vận dụng sáng tạo luận điểm chủ nghĩa MácLênin: “Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.”5. Ngay từ rất sớm, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã khẳng định vai
trị to lớn, có ý nghĩa quyết định của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Đây là một
trong những nội dung cơ bản, trọng tâm, xuyên suốt hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung, tư tưởng về xây dựng Đảng nói riêng; thể hiện sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy
bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thơng qua đó, góp phần hình thành nền tảng tư tưởng,
cơ sở khoa học để Đảng ta, vận dụng thấu đáo trong công tác lãnh đạo cách mạng và
xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng ta luôn xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo
tồn xã hội, có ý nghĩa quyết định để cách mạng dân tộc thắng lợi.
Người đã nhấn mạnh: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động
và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công.”6. Vấn đề này được Người tiếp
tục khẳng định rõ thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo. Đảng phải chỉ
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.7.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, tr.83.
6
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.289.
4
5

6


ra cho quần chúng giác ngộ do đâu mà họ bị áp bức bóc lột, quần chúng phải hiểu rõ
các quy luật phát triển của xã hội, giúp họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh, xác
định con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động mạnh mẽ cho quần chúng kiên
quyết cách mạng, làm cho quần chúng nhân dạn tin chắc cách mạng nhất định sẽ
thắng lợi. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất phức tạp, đầy khó khăn. Muốn có một kim
chỉ nam để khỏi đi lạc phương hướng, nhân dân phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ
tình hình, đường lối và định phương châm đúng đắn. Thực tế, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là kết quả tất yếu của quá trình chuẩn bị đầy đủ của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào cơng nhân và phong trào u nước để hình
thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa phù
hợp với quy luật phát triển của thời đại, vừa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất, ngay từ đầu nắm giữ vai trò đảm
đương sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và có đường lối cách mạng đúng đắn,
là chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo tiên phong của
giai cấp công nhân, vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân, tính
dân tộc sâu sắc, có khả năng tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu
tranh tiến hành cách mạng, hợp thành nhân tố quyết định đến thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt

vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp
vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”7. Kể từ đó, cách mạng Việt
Nam trải qua nhiều thăng trầm, vượt qua bao nhiêu sóng gió, khó khăn và ngày càng
chứng tỏ là lực lượng lãnh đạo tiên phong của cả dân tộc Việt Nam. Thực tế qua công
cuộc lãnh đạo các phong trào cách mạng, Đảng càng khẳng định vị trí, năng lực, phẩm
chất, uy tín cầm quyền. Đó cũng là minh chứng rõ ràng cho luận điểm vĩ đại của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo”8.

7
8

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.12, tr.406.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.8, tr.273.

7


Cũng như Người đã nhấn mạnh: “Đảng ta có cơ sở khắp cả nước, Đảng đã thu hút
những người cách mạng nhất, ưu tú nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của dân tộc. Đảng có chính cương, đường lối đúng. Đảng lãnh đạo toàn dân đoàn
kết kháng chiến, tranh được nhiều thắng lợi”9.
Dựa vào đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, Đảng ta đã vận động, tổ
chức và dẫn dắt quần chúng nhân dân tiến hành các phong trào cách mạng rộng lớn,
chuẩn bị, nắm bắt đúng thời cơ, lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
thành cơng, giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Đây là kết quả rực rỡ đầu tiên
của cách mạng Việt Nam, dưới vai trò dẫn dắt của Đảng, Nhân dân ta đã lật đổ thành
công ách thống trị của thực dân đế quốc cấu kết với giai cấp địa chủ phong kiến, xây
dựng chế độ cộng hịa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam Á, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân
tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành

công, đã nắm chính quyền tồn quốc”10. Theo sau thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 là thắng lợi vẻ vang của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc,
qua đó vai trị lãnh đạo của Đảng ta tiếp tục được khẳng định rõ hơn: “Đảng lãnh đạo
toàn dân kháng chiến suốt chín năm và đã thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ năm 1954
công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”11.
Khi bước vào công cuộc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và
tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước trong hoàn cảnh quốc tế phức tạp, tình hình
kinh tế, xã hội trong nước cịn rất nhiều khó khăn. Đi cùng với sự trung thành và vận
dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đổi
mới sáng tạo, đúng đắn, nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng và
khắc phục được hậu quả chiến tranh đã để lại, kinh tế - xã hội đất nước, đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện, quan hệ quốc tế khơng ngừng được mở rộng, an ninh,
quốc phịng được tăng cường, củng cố, sức mạnh tổng hợp của đất nước tiếp tục được
giữ vững và phát triển, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua
9

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.395.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.25.
11
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.14, tr.246.
10

8


đó, càng khẳng định một cách rõ ràng, đầy tính thuyết phục hơn sự đúng đắn trong
thực tiễn vận dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị dẫn dắt của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đồn kết tồn dân
tộc, lấy liên minh cơng – nông làm nền tảng

Theo các nhà lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, sự nghiệp của
quần chúng nhân dân quần chúng nhân dân cách mạng, quần chúng nhân dân là chủ
thể sáng tạo ra lịch sử. Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, tìm ra con đường cách mạng cho dân tộc cũng đồng thời đã thức tỉnh
và đồn kết tồn dân đứng lên tự giải phóng. Điều đầu tiên Hồ Chí Minh địi hỏi và
cần thiết trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là phải ln ln phát huy tư tưởng độc
lập, tự chủ và phát huy được nội lực chính dân tộc mình, vì tồn tại độc lập tự chủ thì
mới có sáng tạo và tranh thủ được ngày càng rộng rãi sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè.
Theo Hồ Chí Minh, việc giải phóng dân tộc không nên ỷ lại vào ai hết, không phải là
cơng việc của một cá nhân, của một nhóm người, mà là sự nghiệp của nhân dân đông
đảo, của tồn dân.
Kế thừa tư tưởng trên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra quan niệm quần chúng nhân dân
có vai trị rất cao trong khởi nghĩa vũ trang, sức mạnh của quần chúng là nhân tố then
chốt để đảm bảo thắng lợi. Bác khẳng định: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng
chứ khơng phải việc một hai người”12. Hồ Chí Minh phân tích, “dân tộc cách mệnh
thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền”13. Vậy nên muốn cách mạng thành công, trước hết ta phải tập hợp và đoàn kết
toàn dân. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người nhấn mạnh cái cốt của nó là cơng –
nơng, “cơng nơng là người chủ cách mệnh... là gốc cách mệnh”14.
Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định rõ lực lượng cách
mạng bao gồm cả dân tộc: “Đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập

12

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.233.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.287.
14
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.288.
13


9


hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên
lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng… để lơi kéo họ về phía vơ sản giai cấp; cịn
đối với phú, nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập”15.
Trong quá trình xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Bác cũng lưu ý rằng:
“Cơng nơng là gốc cách mệnh; cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp
bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của
công nông thơi”16. Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, Bác giải thích lý do chọn liên
minh công – nông làm nền tảng là vì giai cấp cơng nhân và nơng dân là hai giai cấp
có số lượng đơng đảo và cách mạng nhất nhưng bị bóc lột nặng nề nhất, dựa vào đó
“lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…cơng nơng là tay khơng chân
rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ
gan góc”17. Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trị xứng đáng của nơng dân đối với sự
nghiệp cách mạng dân tộc. Thể hiện qua chỗ, Người không đặt nông dân đối lập với
giai cấp công nhân mà coi nông dân là lực lượng hùng hậu, cùng với giai cấp cơng
nhân hợp thành động lực chính của cách mạng giải phóng dân tộc.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân
tộc. Người tiến hành chủ trương, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân
Việt Nam đang mất nước, đang bị áp bức làm nô lệ nhằm huy động sức mạnh của
toàn dân tộc, đoàn kết đấu tranh giành độc lập, tự do. “Không phân biệt thợ thuyền,
dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lịng u nước thương nịi sẽ cùng
nhau thống nhất mặt trận, thu góp tồn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do
cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta”18.
Có thể nói rằng, Hồ Chí Minh là người chủ trương đưa quần chúng ra khỏi những
ảnh hưởng tiêu cực của “tư sản quốc gia”, bên cạnh đó chủ trương tập hợp hoặc lôi
kéo phú nông, tư sản hoặc tư sản bậc trung, ít nhất là trung lập họ, khơng để họ chạy


15

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.3, tr.3.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.266.
17
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.288.
18
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.122.
16

10


sang hàng ngũ phản cách mạng. Luôn giữ vững nguyên tắc cách mạng khi liên lạc
với các giai cấp, không đi vào con đường thoả hiệp, hy sinh quyền lợi của cơng nơng
cho một giai cấp nào khác. Tóm lại, để có thể tập hợp lực lượng thì phải đồn kết tất
cả những người Việt Nam yêu nước để cùng đánh đổ kẻ thù chung của cả dân tộc,
trong đó bộ phận trung tâm là công nhân và nông dân.
1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
Do cịn hạn chế về khả năng và tiềm lực của các nước thuộc địa khi làm cách
mạng mà Quốc Tế Cộng sản đã đánh giá sai vai trò cách mạng ở các nước này, họ
cho rằng cách mạng ở thuộc địa muốn thành công phải phụ thuộc vào cách mạng ở
chính quốc. Quan điểm này vơ tình đã làm giảm tính sáng tạo, chủ động và tinh thần
của các phong trào cách mạng tại những nước thuộc địa trong việc giành lại được độc
lập.
Quán triệt tư tưởng của Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng vơ sản ở chính
quốc và phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, từ rất sớm Hồ chí Minh đã chỉ rõ
mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít giữa hai phong trào đấu tranh là mối quan hệ bình
đẳng, không phụ thuộc vào nhau nhưng giữa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc

ở thuộc địa và phong trào cách mạng ở chính quốc vẫn có sự tác động qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau. Điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong cách suy nghĩ so với các
tiền bối đi trước, Mác và Ăngghen chỉ ra cách mạng ở chính quốc cần thực hiện trước,
theo Lênin cách mạng ở thuộc địa phụ thuộc cách mạng ở chính quốc, cịn theo Người
cho rằng cách mạng ở thuộc địa khơng những những khơng phụ thuộc cách mạng ở
chính quốc mà cịn phải chủ động sáng tạo và có khả năng dành chiến thắng trước
cách mạng ở chính quốc. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Người
cũng có viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ
sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn
giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi, Nếu người ta chỉ cắt một cái
vịi thơi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật kia

11


vẫn tiếp tục sống và cái vòi đứt cũng sẽ mọc ra”19. Thuộc địa có vị trí quan trọng và
vai trò đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là nơi duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa đế
quốc.
Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai
cấp vơ sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”20, “nọc
độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn
là ở chính quốc”21, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là muốn “đánh chết
rắn đằng đi”22. Vì vậy, cách mạng của nhân dân nước thuộc địa có vai trị quan
trọng và đồng hành cùng với cách mạng vơ sản ở chính quốc trong việc giành chiến
thắng và lật đổ chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức
quyết liệt của thuộc địa mà theo Người, nó sẽ bùng nổ một cách rất mạnh mẽ, hình
thành nên một lực lượng khổng lồ khi được tập hợp và giác ngộ cách mạng. Khẳng
định vị trí cũng như vai trị của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan hệ
với cách mạng chính quốc, Người cho rằng: “Trong khi thủ tiêu một trong những điều

kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người
anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”23.
Những luận điểm trên đây là cơ sở cho sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Có giá trị lý luận và thực
tiễn rất to lớn và đã được sự thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp. Người nói: "Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực
cánh sinh. Trơng vào sức mình. Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng,
nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không
tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc

19

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.2, tr.130.
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, t.2, tr.287.
21
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, t.1, tr.295.
22
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, t.1, tr.296.
23
Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, t.1, tr.4.
20

12


lập"24. Thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945 của Việt Nam cũng như nhiều
cuộc thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới thập niên 50, 60 của
thế kỷ XX đã công nhận cho điều đó, trong khi đó cách mạng vơ sản ở chính quốc
vẫn chưa dành được thành tựu đáng kể nào.

1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường bạo
lực cách mạng
“Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới”25.
Theo C.Mác bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền cách mạng, bới vì giai cấp thống
trị bóc lột khơng bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách mạng. Dựa theo cơ
sở quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng bản chất cực kì phản động của bọn
đế quốc và tay sai, vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng như: Sự thống trị của
thực dân đế quốc ở thuộc địa vơ cùng hà khắc, khơng hề có một chút quyền dân chủ
tự do nào, khơng có bất kì cơ sở nào cho thực hành đấu tranh không bạo lực. “Chế độ
thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu
rồi”26, vì thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách
mạng bạo lực. Mục tiêu cách mạng giải phóng dân tộc là lật đổ chế độ thực dân phong
kiến, giành chính quyền về tay cách mạng và phải được thực hiện bằng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang. Như vậy, khởi nghĩa ở Việt Nam tiến hành từng phần rồi tiến lên tổng
khởi nghĩa.
Trong quá trình xâm chiếm và cai trị thuộc địa, bọn thực dân và đế quốc đã thực
hiện những hành vi tàn bạo và vô cùng độc ác với nhân dân thuộc địa. Như là sử dụng
bạo lực đàn áp một cách dã man với các phong trào đấu tranh chống xâm lược, đấu
tranh dân chủ, các phong trào yêu nước, bóc lột tàn bạo và đẩy người dân đến bước
đường cùng. Vì chúng đã tàn bạo và máu lạnh như vậy thì khơng cịn cách nào khác
ngồi bạo lực cách mạng để đấu tranh, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực
phản cách mạng của đế quốc thực dân.

24

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, t.7, tr.455.
C.Mác và Ph. Ăngghen (2004), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.23, tr.1043
26
Hồ Chí Minhm (2000), Tồn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.144.
25


13


Về nguyên tắc bạo lực cách mạng, xuất phát từ tình yêu thương con người, quý
trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh ln tranh thủ mọi khả năng giành và giữ
chính quyền ít đổ máu. Người ln tìm phương pháp ngăn chặn xung đột vũ trang,
tận dụng mọi khả năng để giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, chủ động
đàm phán, thương lượng và chấp nhận nhượng bộ có ngun tắc.
Về hình thức bạo lực cách mạng, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực quần chúng,
được thực hiện bởi hai lực lượng, một là chính trị với hình thức đấu tranh là đấu tranh
chính trị, đấu tranh ngoại giao và lực lượng thứ hai là lực lược quân sự với phương
thức đấu tranh là vũ trang. Đấu tranh vũ trang có vai trị quyết định trong việc tiêu
diệt lực lượng quân sự và làm thất bại các âm mưu thơn tính cũng như qn sự khác
của chúng. Cịn việc đấu tranh chính trị là nền tảng xây dựng chiến lực và lực lượng
của đấu tranh quân sự. Hồ Chí Minh đã linh hoạt trong việc sử dụng, kết hợp các
phương thức đấu tranh dựa vào tình hình thực tế sao cho có lợi và ít gây tổn thất nhất
cho cả hai bên. Trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với hình thức đấu tranh
chính trị là chủ yếu kết hợp với hình thức quân sự, đấu tranh vũ trang mà nhân dân ta
đã giành được chính quyền, giành được độc lập.

14


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TINH THẦN YÊU NƯỚC VÀ GIÁO DỤC TINH
THẦN YÊU NƯỚC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA –
ĐHQG HCM
2.1. Về tinh thần yêu nước của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG
HCM
2.1.1. Những mặt tích cực

Sinh viên có vai trị quan trọng đối với sự phát triển xã hội, là lực lượng lao động
nòng cốt xây dựng đất nước trong thời đại khoa học cơng nghệ, thời đại tồn cầu hố
và hội nhập quốc tế.
Khi học tập trên giảng đường đại học là quãng thời gian giúp sinh viên tích lũy
kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tư duy, rèn luyện phẩm chất đạo đức và bản
lĩnh chính trị. Từ điểm xuất phát này, sinh viên Bách Khoa đã trưởng thành và chuẩn
bị đầy đủ nền tảng vững chắc cho hành trình thích nghi với đời sống xã hội sau khi
ra trường. Được lớn lên trong bối cảnh đất nước đang đổi mới, được Đảng, Nhà nước,
nhà trường, xã hội và gia đình quan tâm ni dạy, được thừa hưởng một truyền thống
văn hố dân tộc lâu đời, truyền thống cách mạng oanh liệt, đa phần sinh viên Trường
Đại học Bách Khoa ln có ý thức được sự may mắn, cơ hội và trách nhiệm, hăng
hái học tập phấn đấu trở thành những người lao động có trí tuệ, sáng tạo để có được
cuộc sống tốt đẹp cho bản thân, gia đình, xã hội và đồng thời góp một phần sức lực
của mình dựng xây đất nước vươn lên hùng mạnh.
Có thể nói nhận thức về lòng yêu nước của sinh viên Bách Khoa là rất cao. Một
cách cụ thể với một cuộc khảo sát ngẫu nhiên với khoảng 15 bạn sinh viên với câu
hỏi: “Theo bạn lòng yêu nước hiện nay đối với sinh viên nói riêng và thế hệ trẻ nói
chung theo ba mức độ: rất quan trọng, quan trọng và không quan trọng”. Thì cả 15
sinh viên tham gia cuộc khảo sát đều có câu trả lời là “rất quan trọng”. Trong thời đại
mới hiện nay, với nhiều thông tin không chính thống và thiếu kiểm duyệt tràn lan trên
mạng xã hội cùng với các tệ nạn và các vấn đề xã hội trong đời sống cá nhân cùng
từng sinh viên nhưng như trên khảo sát, tất cả các sinh viên đều có nhận thức đúng

15


đắn về lòng yêu nước và sự quan trọng của lòng yêu nước hiện nay. Nhất là trong
thời gian thế giới có nhiều biến động, cùng với những thế lực bên ngồi nhịm ngó.
Cụ thể như việc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc của 2 quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa từ những cuối năm 2014, phong trào đấu tranh tiếp sức trên mạng xã

hội được sinh viên Bách Khoa hưởng ứng như việc đổi hình ảnh đại diện, chia sẻ các
bài đăng kêu gọi đấu tranh với phương thức hồ bình qua các nền tảng,…
Tinh thần u nước của sinh viên Bách Khoa còn được thể hiện qua việc học tập
trau dồi kiến thức, góp phần xây dựng phát triển đất nước. Với chương trình đào tạo
của trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG.HCM hằng năm đào tạo ra hàng trăm cử
nhân, kỹ sư chất lượng góp phần dựng xây, phát triển đất nước. Sinh viên trường Đại
học Bách Khoa cịn thể hiện lịng u nước thơng qua các cuộc thi về giải pháp mới
để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong đất nước về kỹ thuật lẫn hành vi xã hội đạt
được những giải thưởng cao và được ứng dụng thiết thực trong xã hội. Hằng năm,
sinh viên Bách Khoa còn tham gia các cuộc thi về pháp luật do nhà trường và thành
phố tổ chức, cụ thể cuộc thi “Tìm hiểu về Pháp Luật” hay “Hội thi trực tuyến Pháp
Luật Việt Nam” được đơng đảo sinh viên trong tồn trường tham gia tích cực. Có thể
nhận thấy từ đây, sinh viên Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc Gia thành phố Hồ
Chí Minh khơng chỉ là những thanh niên có ý thức về lịng u nước mà cịn có những
tích cực trong việc tìm hiểu, học tập pháp luật của nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, không chỉ dừng lại ở việc nhận biết mà còn ngày càng tiếp thu những điều mới,
những sửa đổi và tham gia tìm hiểu một cách tích cực.
Khơng dừng lại ở đó, lịng u nước ngày nay cịn thể hiện qua những hoạt động
tình nguyện, công tác xã hội của thế hệ trẻ. Không ngoại trừ sinh viên Đại học Bách
Khoa – Đại học Quốc Gia TP. HCM. Với tinh thần sức trẻ đầy nhiệt huyết, các hoạt
động xã hội luôn được sinh viên Bách Khoa hưởng ứng và tình nguyện tham gia một
cách hăng hái. Ý nghĩa và có thể kể đến nhất là hoạt động quét dọn Nghĩa trang liệt
sĩ thành phố Hồ Chí Minh ở quận Thủ Đức được diễn ra hằng tháng được đồn trường
tổ chức có rất nhiều sinh viên đăng ký tình nguyện tham gia mỗi đợt. Những đóng
góp xã hội của sinh viên Bách Khoa còn thể hiện ở hằng trăm ngàn hoạt động tình
16


nguyện mỗi năm như hoạt động “ Quán cơm 2000 đồng” phục vụ mỗi tuần được sinh
viên hỗ trợ tổ chức cho các người lao động, hay hoạt động quyên góp đồ cũ từ quần

áo đến sách vở được chính tay sinh viên trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG.HCM
vận động thu gom, đóng gói và vận chuyển trao tận tay cho các trẻ em vùng cao,
“Mùa hè xanh” hay “Xuân tình nguyện” cũng là những hoạt động ý nghĩa được diễn
ra hằng năm được đông đảo sinh viên đăng kí tham gia với các hoạt động ý nghĩa như
làm đường cho địa phương miền Tây, hay trao quà Tết cho vùng cao và hằng trăm
ngàn hoạt động có ý nghĩa khác nữa,… Những hoạt động đó khơng chỉ dừng lại ở
việc thể hiện tính chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà còn là những lý tưởng, lòng
yêu quê hương, đất nước, cưu mang chính những đồng bào trên khắp cả nước của
sinh viên Bách Khoa TP.HCM. Sinh viên trường Đại học Bách Khoa –ĐHQG. HCM
còn thể hiện lịng u nước qua tình u thiên nhiên, u mơi trường, với các hoạt
động bảo vệ thiên nhiên cũng chính là một các mà sinh viên Bách Khoa thể hiện lòng
yêu quê hương, yêu đất nước. Các hoạt động “Thứ bảy xanh” với việc vệ sinh tình
nguyện tại trường và các cơng trình cơng cộng, cũng với việc làm sạch các cảnh quan
đơ thị tại thành phố Hồ Chí Minh thể hiện được việc sinh viên trường Đại học Bách
Khoa –ĐHQG.HCM tích cực tham gia và nêu lên giá trị tinh thần từ bên trong muốn
dựng xây đất nước trong mọi hoạt động từ nhỏ đến lớn.
2.1.2. Những mặt hạn chế
Tuy nhiên, tồn tại song song với những mặt tích cực trên luôn tồn tại những mặt
trái tồn đọng trong cộng đồng sinh viên, hiện nay cho thấy còn một bộ phận sinh viên
của trường còn sống thiếu niềm tin, phai nhạt lí tưởng, chạy theo lối sống cá nhân,
thực dụng, đua đòi, sa vào tệ nạn xã hội, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống từ bên
ngoài… những biểu hiện trên đã và đang tác động tiêu cực đến việc đào tạo, sử dụng
nguồn nhân lực trẻ và đầy sức mạnh này.
Một số sinh viên còn rất thiếu sự tỉnh táo trước những thông tin sai lệch, tin giả
trên mạng xã hội. Việc chưa tìm hiểu kĩ càng và tư duy nhận thức chưa đủ tốt để ý
thức được những thông tin trên mạng xã hội mà chia sẻ rầm rộ những thông tin ấy

17



làm phát tán rộng rãi thêm những tiêu cực bịa đặt xấu về con người, nhà nước Việt
Nam hay chế độ Xã hội Chủ nghĩa như tiếp tay cho các thành phần phản động, chống
phá nhà nước, chống phá Đảng cộng sản. Như việc chia sẻ thông tin về vụ việc quân
khu 7 về nữ sinh trường Đại học H trong những tháng trước mà khơng biết rằng thơng
tin đó là hoàn toàn cắt ghép bịa đặt do thành phần phản động chống phá tạo ra. Việc
đó vơ tình tạo ra sự hoang mang tột độ cho toàn bộ người dân trên khắp tồn đất nước.
Khơng ít bộ phận sinh viên trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG.HCM tham gia chia
sẻ mà khơng kiểm chứng tìm hiểu, truyền tai nhau vơ tội vạ làm ảnh hưởng sâu sắc
tới hình ảnh của quân đội nhân dân Việt Nam.
Một tiêu cực hạn chế khác có thể nói đến của sinh viên trường Đại học Bách
Khoa – ĐHQG.HCM đó là thái độ thờ ơ về việc trau dồi lòng yêu nước trong đời
sống hằng ngày, một số bộ phận sinh viên chưa coi trọng việc tiếp thu và rèn luyện
đạo đức, tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc. Điều đó biểu hiện qua một số
bộ phận nhỏ còn chưa tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục về trách nhiệm bản
thân trong thời kì đổi mới và xây dựng đất nước theo thời gian thông qua việc tổ chức
giảng dạy của nhà trường và các Đoàn hội tổ chức. Bộ phận sinh viên nhỏ này cho
rằng lòng yêu nước chưa cần thiết với họ trong khoảng thời gian này và chưa sẵn sàng
để tiếp thu vận dụng lòng yêu nước trong hồn cảnh của họ. Khá xem nhẹ giáo dục
lịng yêu nước theo thời đại là những tiêu cực cần loại bỏ kịp thời cùng những tư
tưởng lệch lạc chống phá chế độ là những tư tưởng cần phát hiện sớm và cải thiện gắt
gao trong cộng đồng sinh viên trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG.HCM bởi lẽ bản
thân những sinh viên là những người trực tiếp quyết định vận mệnh đất nước trong
tương lai nếu không loại bỏ những sai lệch ấy có thể sẽ dẫn tới những hậu quả khó
lường cho đất nước Việt Nam mà ơng cha đã dày cơng đánh đơi xương máu mới có
được như ngày hôm nay.
2.1.3. Nguyên nhân
Thứ nhất, nguyên nhân của những mặt tích cực:

18



Trường đại học Bách Khoa đã cho sinh viên học giáo dục quốc phịng và an ninh.
Khơng chỉ đơn thuần là biết các động tác quân sự, chiến đấu, mà sâu xa hơn đó chính
là phải nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc. Có thể thấy rõ trong thời gian qua, cơng tác giáo dục lịng u nước cho
sinh viên Trường đại học Bách Khoa đã được đẩy mạnh và triển khai đa dạng cả về
nội dung, phương pháp, hình thức thơng qua việc lồng ghép vào chương trình học tập
các mơn chính trị, hoạt động Đồn Hội. Nhờ đó, đã đem lại động thái tích cực trong
việc giáo dục, nâng cao tinh thần yêu nước cho SV. Ngoài ra trường đã tổ chức các
chiến du lịch về nguồn ở địa đạo Củ Chi vào đầu khóa học đầu tiên.
Ngồi việc nâng cao chất lượng giáo dục lòng yêu nước trong mỗi tiết dạy của
GV, Nhà trường luôn chú trọng tới q trình giáo dục lịng u nước cho SV bằng
việc tổ chức thường niên các hội thi như Olympic các môn khoa học Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh với những chủ đề đa dạng và mang tính thời sự, gắn với những
sự kiện quan trọng của đất nước và nhà trường, khuyến khích SV tham gia vào các
cuộc thi như “Ánh sáng soi đường” do Trung ương đoàn thanh niên tổ chức, các cuộc
thi về kể chuyện về tấm gương đạo đức Bác Hồ, nghiệp vụ sư phạm hàng năm, phần
đông các em SV tham gia nhiệt tình và đạt kết quả cao qua mỗi kỳ thi.
Nhằm khơi dậy tính tích cực, chủ động của SV trong các hoạt động ngoại khóa,
giúp các em sống có mục đích, lý tưởng và quan tâm tới các vấn đề chính trị - xã hội
của đất nước cũng như các hoạt động giúp ích cho cộng đồng, thể hiện tình cảm sẻ
chia giữa con người với con người, Nhà trường ln tạo điều kiện cho SV tìm hiểu
về lịng yêu nước thông qua các buổi tham quan thực tế vào các bảo tàng, di tích lịch
sử, các địa danh gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc để nhằm
truyền tải kiến thức thực tế, giúp các em có cái nhìn khách quan hơn về các kiến thức
đã học trên giảng đường, từ đó tăng thêm tình yêu quê hương đất nước, nâng cao bản
lĩnh chính trị vững vàng và trau dồi kiến thức cho bản thân, hiểu rõ bản chất của quá
trình giáo dục lịng u nước cho SV và có ý thức tham gia vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.


19


Đồn thanh niên cũng đóng một vai trị hết sức quan trọng trong q trình giáo
dục lịng u nước cho SV, chính vì vậy, hiện nay tổ chức đồn phối hợp với nhà
trường tổ chức các buổi tọa đàm về các vấn đề chính trị - xã hội, giúp SV có hiểu biết
và nhận định đúng đắn trước các thơng tin sai lệch hiện nay, giúp cho các em biết và
phòng tránh trước nhũng âm mưu của các thế lực thù địch. Đoàn thanh niên cũng đưa
ra các hoạt động với nhiều hình thức và nội dung phong phú, thu hút SV tham gia
như tình nguyện vùng, tiếp sức mùa thi, hiến máu nhân đạo cứu người hay thành lập
các câu lạc bộ như SOS, Câu lạc bộ chung sức trong Nhà trường để tạo ra một môi
trường lành mạnh giúp SV thể hiện mình, thơng qua đó các em thêm tự tin, năng
động, có ý thức vươn lên trong học tập và cuộc sống, tránh xa các tệ nạn xã hội và
biết sẻ chia vì cộng đồng.
Thứ hai, nguyên nhân của mặt hạn chế,
Cơng tác giáo dục lịng u nước cho sinh viên thông qua hoạt động dạy học mơn
Giáo dục quốc phịng – an ninh chưa được chú trọng đúng mức, từ đó chưa mang lại
hiệu quả thiết thực. Thực tế này đã dẫn đến một bộ phận SV khơng nhận thức rõ được
lịng tự hào, tự tơn dân tộc; mơ hồ về ý thức, trách nhiệm bản thân đối với việc tăng
cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; hoặc không hiểu đầy đủ nội hàm nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc; nhận thức sai lệch về vai trò lãnh đạo của Đảng dẫn đến sự suy giảm
nhận thức về giá trị truyền thống của tinh thần yêu nước, yêu dân tộc.
Như đã đề cập ở phần trên những tiêu cực hạn chế trong sinh viên trường Đại
học Bách Khoa – ĐHQG.HCM về lịng u nước có thể do những lay động của thành
phần phản động chống phá nhà nước đội lốt người dùng mạng xã hội làm nơi tụ tập
để đưa tin tức phản động, nói xấu truyền bá tư tưởng sai lệch về chế độ, về con người
cầm quyền trong bộ máy nhà nước làm cho sinh viên – những con người trẻ chưa đủ
những kinh nghiệm sống có thể nhận biết và hiểu dễ dàng tin theo và dần dần sai lệch
trong tư tưởng.
Bên cạnh đó cũng phải nhắc tới những vấn đề còn tồn đọng trong xã hội Việt

Nam lúc bấy giờ. Đó là những “con sâu” trong hệ thống nhà nước làm xấu đi hình

20


ảnh và đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước làm mất đi lòng tin của người dân
mà trong đó có khơng ít sinh viên. Đây là trường hợp có thể nói là cốt lõi ngun
nhân, vì những tồn tại chưa tốt mà những thế lực chống phá lợi dụng để bơi nhọ chính
quyền, làm xấu hình ảnh chế độ, hủy hoại sự phát triển đất nước. Rồi từ đó, sinh viên
thấy vậy cũng bị ảnh hưởng từ chính những thành phần phản động kia rồi cộng với
thực tế mà sinh viên thấy trong đời sống xã hội làm hình thành nên rào cản cho sự
giáo dục đúng đắn từ thầy cơ, bạn bè, trường lớp về lịng u nước. Điều đó làm ảnh
hưởng nghiêm trọng cho nhận thức đúng đắn và ý thức yêu quê hương đất nước và
không thể phát huy để xây dựng đất nước vững mạnh, lâu dài.
2.2. Về công tác giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Trường Đại học
Bách khoa – ĐHQG. HCM
Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ ngày nay, cùng những
tác động của văn hoá mới và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, vấn đề giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông, kết hợp
học hỏi những tinh hoa văn hóa nhân loại cần được đặc biệt chú trọng. Quá trình hội
nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư duy, lối
sống của sinh trường Đại học Bách Khoa –ĐHQG.HCM theo hướng hiện đại và tích
cực, chủ động hơn. Thế hệ trẻ đặc biệt là sinh viên nước ta biết thêm nhiều hơn về
phong tục, tập quán, văn hóa và con người của các quốc gia trên thế giới. Có điều
kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện đại,
tri thức mới...
Mặt khác, các thế lực thù địch luôn dùng âm mưu, thủ đoạn nhằm xóa bỏ chế độ
xã hộị chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa khủng bố và
các thế lực phản động vẫn đang tìm mọi cách, triển khai hang loạt hoạt động chống
lại nền hịa bình khu vực và thế giới, chống lại chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh giữ gìn

hịa bình của đất nước, khu vực và thế giới là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Vì vậy, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, góp phần bảo vệ hịa bình ở khu vực và trên thế giới theo như Hiến pháp quy

21


định là đúng thực tiễn và quy luật khách quan. Trong điều kiện xã hội phát triển ngày
nay, sinh viên có đủ điều kiện để bộc lộ hết khả năng vốn có của mình, đồng thời đây
cũng là một thách thức lớn đối với sinh viên và thế hệ trẻ hiện nay, xã hội không
giống như trong nhà trường, mà nó là sự cạnh tranh khốc liệt có khi là sự thất bại và
đầy rẫy tệ nạn xã hội
Từ những vấn đề trên, việc giáo dục đạo đức, giáo dục các truyền thống của dân
tộc cho sinh viên nói chung, giáo dục lòng yêu nước cho sinh viên Trường Đại học
Bách Khoa – ĐHQG.HCM nói riêng trong giai đoạn hiện nay, là một việc làm cần
thiết và hết sức cấp bách. Có như vậy, mới góp phần giữ vững được định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo tồn được bản sắc văn hóa và các giá trị đạo đức, truyền thống của
dân tộc ta. Mặt khác, tính tất yếu và sự cần thiết phải giáo dục giá trị đạo đức, giáo
dục truyền thống yêu nước, yêu dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay, cũng là
một đảm bảo cho thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.2.1. Những mặt tích cực
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà trường về chất lượng giáo dục lòng
yêu nước của dân tộc cho học sinh, sinh viên. Trường Đại học Bách khoa – ĐHQG.
HCM là một ngôi trường nằm ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Là khu vực trung
tâm, đời sống kinh tế, xã hội của người dân có nhiều thuận lợi, sự quan tâm của phụ
huynh đến giáo dục cũng ngày càng cao. Do vị trí của trường nằm ngay khu vực tập
trung rất nhiều trường Cao đẳng, Đại học của tỉnh nhà nên nhu cầu tuyển sinh cũng
như môi trường học tập rộng mở vì thế nên chất lượng dạy và học trong những năm
qua ngày càng được nhà trường quan tâm chú ý nâng cao hơn. Nhà trường tập trung

giáo dục sinh viên theo hướng tồn diện, khơng chỉ dạy theo ngành nghề mà còn chú
trọng dạy nhân cách đạo đức cho sinh viên. Chính vì thế, tỷ lệ sinh viên có những
nhận thức tốt về lịng u nước cũng như ý thức được tầm quan trọng của việc duy
trì tình yêu quê hương đất nước ngày càng tăng, chất lượng dạy và học được cải thiện.

22


×