Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luan van thac si nhu van hung 20230331015007 e 4675

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.2 KB, 80 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

NHỮ VĂN HÙNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM SẢN XUẤT, BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2022


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

NHỮ VĂN HÙNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Bùi Thị Hạnh


Hà Nội - 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Kết
quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nhữ Văn Hùng


LỜI CẢM ƠN

Sau quá trình học tập, thực tập và nghiên cứu nghiêm túc của bản thân,
dưới sự hướng dẫn của quý thầy cô và sự hỗ trợ giúp đỡ của các cơ quan, bạn
bè; Luận Văn thạc sỹ luật học “Thực hành quyền công tố “Thực hành quyền
công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán
hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam” đã được thực hiện đúng tiến độ và theo
đúng thời gian quy định.
Để có được kết quả nghiên cứu khoa học trên em xin cảm ơn Ban giám
hiệu, Quý thầy cô trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, đặc biệt là Ts. Bùi Thị
Hạnh đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian
nghiên cứu.
Em xin cảm ơn Lãnh đạo và tập thể cấn bộ, công chức Viện KSND tỉnh
Hà Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho em tìm hiểu, nghiên cứu, cung cấp các
số liệu, ý kiến chuyên môn trong suốt thời gian em hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nam, ngày


tháng

năm 2022


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

ĐTV

:


Điều tra viên

KSV

:

Kiểm sát viên

THQCT

:

Thực hành quyền công tố

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

QLTT

:


Quản lý thị trường

ANĐT

:

An ninh điều tra


MỤC LỤC

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan ........................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................... 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu ............................... 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................ 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ....................................... 5
5.1. Phương pháp luận ................................. 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài ............................ 5
6.1. Ý nghĩa lý luận ...................................5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn .................................. 6
7. Kết cấu của luận văn.................................................................................... 6
Chương 1 .......................................................................................................... 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM 7
SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ ............................................................ 7

1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả .............. 7
1.1.1. Khái niệm ......................................7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả .......... 12
1.2.1. Khái niệm ..................................... 13
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả .. 15
1.2.3. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động thực hành quyền công tố trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả 16
1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả. .................................................... 19


1.4. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả............................ 27
Chương 2 ........................................................................................................ 30
THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM SẢN XUẤT, BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM ............................................ 30
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn
tỉnh Hà Nam. .................................................................................................. 30
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Nam ........... 30
2.1.2. Tổ chức bộ máy của VKSND tỉnh Hà Nam .............. 31
2.1.3. Tình hình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn
bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam .....................32
2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động thực hành quyền công tố
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả ở
tỉnh Hà Nam. .................................................................................................. 36
2.3. Tồn tại, hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công tố trong giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả ở tỉnh Hà
Nam và nguyên nhân ..................................................................................... 41
2.3.1. Tồn tại, hạn chế................................. 41
2.3.2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế .................... 43
Chương 3 ........................................................................................................ 52
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO ... 52
VỀ TỘI PHẠM SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ ............................... 52
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM ................................................................. 52
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả.................. 52
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn
tỉnh Hà Nam. .................................................................................................. 53
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến thực hành
quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất,
buôn bán hàng giả ...................................53


3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, kiểm
tra, hướng dẫn, tập huấn của ngành KSND đối với công tác THQCT
trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất,
buôn bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam. ................ 58
3.2.3. Nâng cao năng lực KSV làm công tác thực hành quyền công tố
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng
giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam. ...........................60
3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT, CQ
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và các cơ quan
quản lý Nhà nước chuyên ngành ......................... 63
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất và chế độ chính sách đối với cán bộ

ngành kiểm sát tỉnh Hà Nam ............................ 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 67


1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, hàng giả đang có mặt tại rất nhiều phân khúc của thị
trường, từ các cửa hàng tạp hóa trên các phiên chợ vùng sâu, vùng xa đến hè phố đơ
thị, thậm chí len lỏi vào cả những siêu thị cao cấp ở những thành phố lớn. Vấn nạn
này làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, tài chính, làm suy giảm niềm tin của
người tiêu dùng, tạo ra sự cạnh tranh khơng bình đẳng với các cơ sở sản xuất, kinh
doanh được pháp luật bảo hộ… Thực tiễn đó đặt ra cho các cơ quan Nhà nước nói
chung, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng những nhiệm vụ hết sức
nặng nề trong đấu tranh phịng chống tội phạm về sản xuất, bn bán hàng giả để
làm trong sạch, lành mạnh thị trường hàng hóa cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
sản xuất, buôn bán hàng giả là một trong những hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trên cơ sở
đề ra các yêu cầu kiểm tra, xác minh và nhiều hoạt động khác thuộc nội dung thực
hành quyền công tố, VKS đảm bảo kết quả kiểm tra, xác minh, cơ quan tiến hành tố
tụng là có căn cứ và hợp pháp, thể hiện bằng các quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự về tội sản xuất, bn bán hàng giả, từ đó cơ quan tiến
hành tố tụng mới có thể điều tra, truy tố, xét xử và kết án đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội. Vì thế, thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả đóng vai trị quan trọng thứ yếu trong
hoạt động của VKS để đấu tranh chống loại tội phạm này, là tiền đề để vận hành
tồn bộ q trình tố tụng tiếp theo.
Hà Nam nằm trên trục giao thông Bắc – Nam, trên địa bàn tỉnh các khu công

nghiệp, cụm cơng nghiệp đang phát triển mạnh mẽ, trình độ dân trí cịn hạn chế, tâm
lý thích sử dụng hàng giá rẻ nên là thị trường hấp dẫn đối với các đối tượng sản
xuất, bn bán hàng giả. Để góp phần làm trong sạch thị trường hàng hóa trên địa
bàn tỉnh Hà Nam, hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm sản xuất, buôn bán hàng giả phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa. Mặc


2

dù đã đạt được những kết quả nhất định, công tác này vẫn còn một số hạn chế
vướng mắc như việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT còn chưa kịp
thời; việc trưng cầu giám định còn nhiều bất cập; việc định tội trong nhiều trường
hợp cịn nhầm lẫn, sai sót (ví dụ là sản xuất hàng giả thuần túy hay là lương thực,
thực phẩm, phụ gia thực phẩm giả; thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả,…; là
sản xuất hàng giả hay sản xuất hàng xâm phạm quyền sở hữu cơng nghiệp,… Từ đó
làm ảnh hưởng tới hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm về sản xuất, bn bán
hàng giả nói chung. Trong bối cảnh đó, hiện chưa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về hoạt động của VKS trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam,
khiến cho việc đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động này còn thiếu
các luận cứ, luận chứng về lý luận và thực tiễn.
Từ những đòi hỏi nêu trên, học viên lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền
công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng
giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình để giải quyết
các vấn đề mà lý luận và thực tiễn đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã nghiên cứu
các cơng trình khoa học sau đây:
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu là các luận văn, luận án:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Bùi Thị Hạnh, Thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2017.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Tôn Thiện Phương: Thực hành quyền công tố trong
tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, Học viện khoa học xã hội, năm 2017.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Khoát: Thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ người khác ở Việt Nam, tại Học viện khoa học xã hội, năm 2018.
- Luận văn tiến sỹ luật học của tác giả Phạm Tài Tuệ “Các tội phạm về hàng giả
theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Học viện khoa học xã hội Việt Nam, năm 2018.


3

- Luận văn thạc sỹ của tác giả Vũ Minh Hải “Chống sản xuất, buôn bán hàng giả
tại chi cục quản lý thị trường tỉnh Hải Dương”, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2015.
* Nhóm các cơng trình là các đề tài khoa học, sách chuyên khảo:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Đổi mới công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của
VKSND theo quy định của BLTTHS năm 2015”, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học
VKSND tối cao, năm 2018.
- Sách chuyên khảo của tác giả Lê Hữu Thể (chủ biên): Thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư pháp 2005.
* Nhóm các cơng trình là các bài viết khoa học:
- Bài “Một số vấn đề về thực hành quyền cơng tố trong Tố tụng hình sự Việt
Nam”, Vũ Đức Hạnh, Tạp chí Kiểm sát số 5/2018;
- Bài “Cơng tố và thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự”, Trần Đình
Nhã, (2014), Tạp chí nghiên cứu luật pháp;
Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu trên đã nêu được quan điểm của các tác
giả về các khái niệm như quyền công tố; thực hành quyền công tố; thực hành quyền
cơng tố trong các giai đoạn tố tụng hình sự; đặc biệt, cơng trình nghiên cứu của Vụ
Pháp chế và Quản lý khoa học VKSND tối cao đã nghiên cứu sâu về đổi mới công tác

thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố của VKSND theo quy định của BLTTHS năm 2015, từ đó đưa
ra được những giải pháp, kiến nghị phù hợp với tình hình cơng tác ở giai đoạn nghiên
cứu. Ngồi ra, cũng có các cơng trình nghiên cứu về cơng tác đấu tranh phịng, chống
tội phạm sản xuất, bn bán hàng giả theo quy định của pháp luật hình sự và cơng tác
đấu tranh phòng chống loại tội phạm này ở các địa bàn cụ thể. Tuy nhiên, hiện nay
chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về thực hành quyền
công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đối với tội sản xuất, buôn bán
hàng giả trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Hà Nam. Do đó, đề tài “Thực hành quyền công
tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên
địa bàn tỉnh Hà Nam” là đề tài nghiên cứu mới, không trùng hợp với bất kỳ đề tài,


4

chuyên đề nghiên cứu nào trước đó. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trước đó
cũng là cơ sở khoa học, cung cấp nhiều luận điểm phong phú để tác giả tham khảo khi
thực hiện cơng trình của bản thân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý
luận và thực tiễn về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản
xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam để đưa ra một số giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
sản xuất, buôn bán hàng giả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề chung về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin
báo đối với tội phạm về sản xuất, buôn bán hàng giả.

- Nghiên cứu thực trạng THQCT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam, làm rõ
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động THQCT
trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo đối với tội phạm sản xuất, buôn bán
hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT của VKSND hai cấp
tỉnh Hà Nam trong việc giải quyết tố giác, tin báo đối với tội phạm sản xuất, buôn
bán hàng giả.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về
THQCT trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đối với tội sản xuất,


5

buôn bán hàng giả. Luận văn không nghiên cứu giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm, đồng thời cũng không nghiên cứu việc giải quyết kiến nghị khởi tố đối với
tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn công tác THQCT
trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo đối với tội phạm sản xuất, buôn bán hàng
giả của VKSND hai cấp tỉnh Hà Nam.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn nói trên trong thời
gian từ năm 2018 đến năm 2021.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về

nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong
những năm qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học nêu trên, trong quá trình nghiên cứu
đề tài, học viên đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật
hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu;
phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê để tổng hợp
các tri thức khoa học và các luận chứng về các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, học viên còn đúc rút kinh nghiệm thực
tiễn là người trực tiếp thực hiện công tác THQCT, áp dụng phương pháp nghiên cứu
điển hình đối với một số vụ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất,
buôn bán hàng giả; sử dụng phương pháp phỏng vấn để xin ý kiến các chuyên gia
thực tiễn, từ đó rút ra các luận cứ, luận chứng làm cơ sở cho việc đưa ra các nhận
định, đánh giá của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở cho việc nghiên cứu, tìm hiểu một số


6

nội dung về thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo đối với tội
phạm sản xuất, bn bán hàng giả, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật thực định,
làm giàu tri thức lý luận về THQCT trong tố tụng hình sự nói chung, tội phạm sản xuất,
bn bán hàng giả nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất lượng thực hành
quyền cơng tố nói chung và thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin
báo đối với tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác

giảng dạy, nghiên cứu, học tập trong lĩnh vực hình sự cho cán bộ, sinh viên, học viên
khi học tập và nghiên cứu về thực hành quyền cơng tố nói chung, thực hành quyền
công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo đối với tội phạm sản xuất, bn bán hàng
giả nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thực hành quyền công tố trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả.
Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa
bàn tỉnh Hà Nam.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
1.1.1. Khái niệm
Trong những năm gần đây, đất nước ta đã không ngừng đẩy mạnh cuộc chiến
chống hàng giả và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, theo những số liệu được
cơng bố chính thức, hiện tượng sản xuất, buôn bán hàng giả không những không giảm
mà cịn có xu hướng tiến triển trầm trọng hơn. Điều này không chỉ được thể hiện ở số
lượng các vụ việc bị phát hiện, xử lý, mà còn ở sự đa dạng của hàng hoá bị làm giả, thủ
đoạn, phương thức và quy mô của các hoạt động sản xuất, bn bán hàng giả1.

Trước hết, để tìm hiểu về khái niệm hàng giả, từ điển kinh tế định nghĩa
“Hàng hoá là sản phẩm dùng để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào
q trình tiêu dùng thơng qua trao đổi”2, cịn từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Giả có
nghĩa khơng phải là thật mà được làm với bề ngoài giống như cái thật để người
khác tưởng là thật”3.
Theo từ điển Bách khoa tồn thư thì “Hàng giả là hàng làm bắt chước theo
mẫu mã của loại hàng thật nào đó đang được lưu hành, nhưng khơng bảo đảm đủ
tiêu chuẩn về phẩm chất hoặc khơng có giá trị sử dụng, hoặc khơng có giá trị sử
dụng đầy đủ, nhất là đối với mặt hàng thông dụng và có nhu cầu lớn. Về hình thức,
các loại hàng giả rất giống hàng thật, vì kĩ thuật làm hàng giả ngày càng tinh vi.
Người làm hàng giả cũng có khi sử dụng một phần nguyên liệu, các loại bao bì, tem
nhãn của hàng thật để lừa gạt người mua”4. Tuy nhiên, khái niệm này thực ra chỉ là

1

Trần Văn Hải, Một số phân tích về tình trạng xâm phạm và tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam,
Tạp chí Thơng tin và dự báo Kinh tế - Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 31 - 7/2008.
2
Từ điển Kinh tế, Nhà xuất bản sự thật (1979), tr.214.
3
Từ điển Tiếng việt, Nhà xuất bản văn hố (1998), tr.405.
4
Từ điển Bách Khoa tồn thư, Web


8

giải thích về mặt ngơn ngữ, mà chưa phải là khái niệm mang tính pháp lý, thể hiện
bản chất của hàng giả.
Dưới góc độ pháp lý, các từ “hàng giả”, “hàng nhái”, hay “hàng kém chất

lượng” đều là cách gọi thơng thường cho những hàng hóa, sản phẩm giả mạo về mặt
nội dung hoặc hình thức. Theo quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
(sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ được xác định
như sau:
“1. Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm
hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hóa giả
mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hóa sao chép lậu quy định
tại khoản 3 Điều này.
2. Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn
nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang
được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà khơng được phép của chủ sở hữu
nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.”
Theo quy định trên có thể hiểu hàng giả được phân thành hai loại: (1) Hàng
giả về hình thức là hàng hóa có sự trùng lặp về tên gọi, nhãn hiệu, kiểu dáng, xuất xứ,
nguồn gốc; (2) Hàng giả về nội dung tức là hàng giả về chất lượng hoặc công dụng,
giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng về hình thức là thật. Hàng giả có thể thuộc tất cả
các loại hàng hóa, từ hàng cao cấp đến những mặt hàng tiêu dùng thông thường.
Theo khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính
phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì hàng giả được
phân loại như sau: (1) Giả về chất lượng và công dụng của sản phẩm: Đây là những
hàng hóa khơng có giá trị sử dụng khơng đúng với bản chất ban đầu, tên gọi và
công dụng đã được cơng bố; (2) Giả về nhãn hiệu hàng hóa, bao bì sản phẩm: Đây
là hành vi làm giả tên, địa chỉ của các thương hiệu khác đã được đăng ký trên nhãn
hay bao bì sản phẩm hoặc giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, xuất xứ… (3) Giả mạo
về sở hữu trí tuệ: Đây là tình trạng hàng hóa bị trùng với những sản phẩm chính


9


hãng của các doanh nghiệp đã được đăng ký trước đó. Những dấu hiệu này thường
sẽ khó phân biệt trên thực tế; (4) Giả mạo về tem, nhãn, bao bì sản phẩm: Hành vi
này bao gồm việc làm giả các loại đề can, nhãn hàng hóa, bao bì sản phẩm, tem chất
lượng, phiếu bảo hành sản phẩm…
Như vậy, các quy định của pháp luật đã xác định tương đối rõ các loại hàng
được coi là hàng giả. Tuy nhiên, các xác định trên đây mới chỉ liệt kê các dấu hiệu để
nhận biết hàng giả chứ không đưa ra khái niệm cụ thể. Do đó, qua tham khảo quan
điểm của các nhà nghiên cứu luật học và các bài viết nghiên cứu về vấn đề này, tác giả
xin đưa ra khái niệm như sau:
Hàng giả là loại hàng hóa được sản xuất trái pháp luật dựa trên các đặc
điểm, tính chất của hàng hóa chính thống đã có trên thị trường, mang đặc điểm,
tính chất, kiểu dáng và các thơng tin, dấu hiệu của hàng thật nhưng không đủ tiêu
chuẩn chất lượng quy định, gây nhầm lẫn với hàng hóa đang được bảo hộ nhằm
mục đích lừa dối người tiêu dùng và thu lợi bất chính.
Từ khái niệm trên đây, có thể thấy, sản xuất hàng giả được hiểu là hành vi
làm (tạo) ra những sản phẩm, hàng hố có nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, nguồn
gốc, xuất xứ hàng hoá giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho
phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường, gây nhầm lẫn hoặc để lừa dối
khách hàng hoặc làm ra những sản phẩm hàng hoá giả chất lượng hoặc cơng dụng.
Cịn bn bán hàng giả được hiểu là hành vi mua hàng biết rõ là hàng giả với giá rất
rẻ và dùng các thủ đoạn gian dối để bán cho khách hàng với giá của hàng thật5.
Sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế cũng như lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Hành vi này bị
pháp luật hình sự Việt Nam coi là tội phạm từ khi Pháp lệnh năm 1982 được ban
hành, sau đó là BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và hiện nay là BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), qua thời gian, tội sản xuất, buôn bán hàng giả được
quy định ngày càng hoàn thiện và cụ thể hơn và tùy từng trường hợp người vi phạm
có thể bị áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm

5


/>

10

hình sự tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi.
Từ các phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm tội phạm sản xuất, buôn
bán hàng giả như sau:
Tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý, với việc sản xuất trái pháp luật ra
hàng hóa có đặc điểm, tính chất, kiểu dáng, thơng tin, dấu hiệu của hàng hóa chính
thống đã có trên thị trường nhưng khơng đủ tiêu chuẩn chất lượng quy định, gây
nhầm lẫn với hàng hóa đang được bảo hộ, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của
Nhà nước, xâm phạm lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và do đó phải bị xử lý
hình sự.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
* Khách thể của tội phạm
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là
trật tự của nền sản xuất hàng hóa, làm mất sự ổn định của thị trường, xâm hại lợi ích và
sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng. Hàng giả là đối tượng tác động của tội sản
xuất, bn bán hàng giả gồm: Hàng hóa khơng có giá trị sử dụng, cơng dụng; có giá
trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của
hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, cơng dụng
đã cơng bố hoặc đăng ký; hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc trong
các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở
xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, cơng bố áp
dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng
hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương
mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch

hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác; hàng hóa có nhãn hàng hóa,
bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói,
lắp ráp hàng hóa; tem, nhãn, bao bì giả.
* Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả được thể hiện ở các yếu


11

tố sau:
(1) Hành vi khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm hành vi sản xuất hàng giả và hành
vi buôn bán. Theo quy định tại Khoản 1,2 Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP
ngày 15/11/2013; Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 và
Khoản 1, 2 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn
bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì:
+ Hành vi sản xuất hàng giả là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các
hoạt động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái
chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra
hàng giả.
+ Hành vi buôn bán hàng giả là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các
hoạt động chào hàng, bày bán, giới thiệu, quảng cáo, khuyến mại, lưu giữ, bảo
quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa
hàng giả vào lưu thông.
(2) Hậu quả của tội phạm: Hậu quả của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là
thiệt hại do hành vi của các đối tượng thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả
gây ra cho trật tự của nền sản xuất hàng hóa, làm mất sự ổn định của thị trường, xâm
hại lợi ích và sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng, bao gồm thiệt hại về thể chất và

thiệt hại về vật chất, cụ thể:
+ Thiệt hại về thể chất: bao gồm thiệt hại về tính mạng hoặc các tổn hại về
sức khỏe cho người tiêu dùng.
+ Thiệt hại về vật chất: gây thiệt hại về tài sản. (Thiệt hại cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh hàng chính hãng, tài sản của người tiêu dùng khi mua phải hàng giả).
(3) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thiệt hại: Mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả ln là dấu hiệu ln có trong mặt khách quan
của cấu thành tội phạm vật chất. Do tội sản xuất, buôn bán hàng giả là tội phạm cấu


12

thành vật chất nên đây là dấu hiệu bắt buộc phải có để cấu thành tội phạm sản xuất,
bn bán hàng giả. Người phạm tội chỉ phải chịu TNHS về hậu quả thiệt hại do
chính hành vi khách quan của họ gây ra, hay nói cách khác người phạm tội chỉ phải
chịu TNHS về hậu quả thiệt hại khi hậu quả này có mối quan hệ nhân quả với hành
vi khách quan đã được họ thực hiện. Căn cứ vào nội dung của cặp phạm trù nhân –
quả theo phép biện chứng duy vật, có thể tóm tắt những căn cứ cho phép khẳng định
sự tồn tại quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại đã xảy ra
như sau:
+ Hành vi nguy hiểm phải xảy ra trước hậu quả;
+ Hành vi nguy hiểm chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh tội phạm,
hậu quả dứt khốt xảy ra nếu khơng có gì ngăn chặn hành vi nguy hiểm đó;
+ Hậu quả nguy hiểm xảy ra do chính hành vi đó gây nên chứ không phải do
hành vi nào khác.
* Mặt chủ quan của tội phạm
Cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện hành vi sản xuất, bn bán hàng giả có lỗi
cố ý trực tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích của
người phạm tội chủ yếu là vụ lợi. Tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu

thành tội phạm nhưng việc xác định động cơ, mục đích của cá nhân hay pháp nhân
phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm về sản xuất, bn bán hàng giả có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân thương mại. Trường hợp chủ thể của tội phạm là cá nhân thì người phạm
tội phải là người đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS. Trong trường hợp chủ thể
của tội phạm là pháp nhân, căn cứ vào Điều 75 BLHS thì điều kiện chịu trách
nhiệm hình sự là hành vi phạm tội sản xuất, bn bán hàng giả được thực hiện nhân
danh pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân và được thực hiện có sự chỉ đạo, điều
hành hoặc chấp thuận của pháp nhân.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong


13

việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, bn bán hàng giả
1.2.1. Khái niệm
VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đảm
bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Chức năng của
VKSND được thể hiện tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “ VKSND thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 Luật Tổ chức Viện KSND
năm 2014: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[20]. Xác định khái niệm
quyền cơng tố và theo đó là THQCT sẽ làm rõ hơn vai trị, vị trí của VKS trong hệ
thống cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong các cơ quan tư pháp; xác định rõ chức
năng của VKS, nhất là trong TTHS.
Vấn đề khái niệm quyền công tố và THQCT đã được đề cập nhiều trong
khoa học pháp lí nước ta với các mức độ khác nhau và nó vẫn đang là vấn đề với
nhiều ý kiến khác nhau. Có quan điểm cho rằng: Quyền cơng tố là quyền của VKS
thay mặt nhà nước bảo vệ lợi ích cơng (nhà nước, xã hội và cơng dân) khi có các vi

phạm pháp luật. Vì vậy, THQCT khơng chỉ trong TTHS mà cả trong lĩnh vực tố tụng
khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác [5]. Quan điểm khác cho
rằng, quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan nhất định khởi tố,
điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc
tội trước phiên tịa [23]. Có quan điểm khác lại cho rằng, công tố không phải là
chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng chúng đều ít nhiều có sự hợp
lý, bởi các quan điểm này đều dựa trên quy định của pháp luật và thực tiễn. Kế thừa
và tiếp thu những quan điểm của các nhà khoa học nêu trên, theo chúng tôi khái
niệm quyền công tố được hiểu như sau: “Quyền công tố là quyền truy cứu trách
nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước, cơ quan được nhà nước giao cho quyền này (ở
nước ta là VKSND) thực hiện các hoạt động nhằm phát hiện, xử lý tội phạm, truy tố
người phạm tội trước Tịa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa”.


14

THQCT thực chất là hoạt động đưa những quy định của pháp luật về quyền
công tố thuộc chức năng của VKS vào thực tế nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Tuy còn nhiều
quan điểm khác nhau về THQCT, nhưng qua nghiên cứu tổng hợp các quan điểm
khoa học về THQCT, cũng như thực tiễn quy định của pháp luật về THQCT, chúng
tôi đưa ra khái niệm về THQCT như sau: “Thực hành quyền công tố là việc VKSND
sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để đưa người (hoặc pháp
nhân thương mại) phạm tội ra truy tố và buộc tội trước Tòa án”.
Thời điểm bắt đầu của hoạt động THQCT được xác định kể từ khi tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tức là bắt đầu từ giai đoạn
đầu tiên của quá trình tố tụng
Tố giác, tin báo về tội phạm là một trong những nguồn thơng tin quan trọng

góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu của tội phạm, trên
cơ sở đó kịp thời tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để có căn cứ tiến hành
hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Về bản chất tố giác, tin báo về tội
phạm đều là những thông tin chứa đựng những dấu hiệu tội phạm mà các cơ quan
tiến hành tố tụng có được. Trong đó, tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện
và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Cá nhân có thể
tố giác tội phạm nhiều hình thức khác nhau như: thơng qua điện thoại, văn bản hoặc
có thể tố cáo trực tiếp bằng miệng. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có
dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thơng báo với cơ quan có thẩm
quyền hoặc thơng tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Thơng tin
về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan
có thẩm quyền có thể là sự chuyển tiếp thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được
từ tố giác tội phạm của cơng dân, cũng có thể là những thông tin thu được từ hoạt
động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó hoặc được phản ánh trên truyền thông
theo chức năng nghề nghiệp (các cơ quan thông tin đại chúng).
Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là việc các cơ quan có thẩm quyền


15

tiến hành các trình tự, thủ tục theo luật định để xác định những thông tin chứa đựng
những dấu hiệu tội phạm có dấu hiệu tội phạm hay khơng để quyết định việc khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
theo thẩm quyền điều tra của mình; Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt
động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục.
Trên cơ sở những phân tích trên đây, chúng tơi đưa ra khái niệm THQCT

trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm như sau: Thực hành quyền công tố
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là việc VKSND sử dụng các quyền
năng pháp lý mà pháp luật quy định để buộc tội đối với chủ thể phạm tội trong giai
đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Từ các phân tích trên, có thể định nghĩa hoạt động THQCT của VKSND
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả như
sau: Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản
xuất, buôn bán hàng giả là việc VKSND sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp
luật quy định để buộc tội đối với chủ thể phạm tội trong giai đoạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả
Việc làm rõ những đặc điểm của THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp
xây dựng và hoàn thiện kỹ năng, biện pháp hoạt động cụ thể của VKSND khi
THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng
giả. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy hoạt động THQCT trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, bn bán hàng giả có những đặc điểm sau đây:


16

Thứ nhất, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả
được phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội,
khơng làm oan người vơ tội thì trong q trình THQCT, KSV phải u cầu Cơ quan
có thẩm quyền điều tra làm các thủ tục trưng cầu giám định để xác định hàng hố
thu giữ có phải là hàng giả hay không ? Làm các thủ tục trưng cầu định giá tài sản
để giác định trị giá tài sản làm căn cứ xác định hành vi của các đối tượng có đủ yếu
tố cấu thành tội phạm hay khơng ? Có phạm vào khung tăng nặng hay khơng ?
Thứ hai, do các hoạt động giải quyết cần thiết phải tiếp hành các thủ tục

trưng cầu giám định, định giá tài sản do đó chỉ có cơ quan điều tra mới có thẩm
quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đối với hành vi sản xuất, buôn bán
hàng giả vì cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra khơng có
thẩm quyền thực hiện toàn bộ các hoạt động điều tra.
1.2.3. Ý nghĩa, vai trị của hoạt động thực hành quyền cơng tố trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả
Công tác THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất,
bn bán hàng giả có vị trí quan trọng, được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên
của quá trình giải quyết vụ án trong tố tụng hình sự. Hoạt động của VKSND trong
giai đoạn này càng có ý nghĩa đặc biệt, nhất là khi VKSND đã tích cực, chủ động
đồng hành cùng với hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản
xuất, buôn bán hàng giả của Cơ quan có thẩm quyền điều tra. Sự tham gia tích cực
của VKSND bảo đảm q trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản
xuất, bn bán hàng giả của Cơ quan có thẩm quyền điều tra diễn ra đúng pháp luật,
khách quan, chính xác, hạn chế đến mức tối đa việc để xảy ra oan sai và bỏ lọt tội
phạm; đặc biệt chống bỏ lọt tội phạm, chống oan sai là ý nghĩa bao trùm nhất.
Thứ nhất, công tác THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
sản xuất, buôn bán hàng giả là hoạt động nhằm thực hiện chức năng THQCT, kiểm
sát hoạt động tư pháp của VKSND. Chính vì lẽ đó, Điều 6 Luật tổ chức VKSND
năm 2014 quy định: VKSND thực hiện chức năng THQCT bằng các công tác: a)


17

THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; b) THQCT trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; đ) Điều tra một số loại tội phạm; e) THQCT
trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự; … (các điểm a, b, đ và e khoản 1).
Thứ hai, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả được
phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không
làm oan người vô tội. Vì lẽ đó, trong BLTTHS năm 2015 quy định VKSND thực

hiện cơng tác THQCT ngay từ khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả.
Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn này, có
thể thấy vai trị của cơng tác THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm sản xuất, buôn bán hàng giả của VKSND thể hiện ở những góc độ sau:
Một là, đây là một trong những công tác nhằm thực hiện chức năng THQCT,
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND trong tố tụng hình sự. Sở dĩ như vậy, bởi
giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng
giả là một trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, nên tất yếu cơng tác THQCT
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả là một phần
của công tác THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND trong tố tụng hình sự.
Hai là, cơng tác THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
sản xuất, buôn bán hàng giả bảo đảm mọi tố giác, tin báo về tội phạm sản xuất,
buôn bán hàng giả được tiếp nhận, giải quyết đầy đủ, đúng pháp luật, kịp thời,
không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. VKSND thực hiện chức năng
THQCT ngay kể từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nói chung, tội sản
xuất, bn bán hàng giả nói riêng. Có thể nói, đây là vừa là sự ghi nhận tích cực đối
với vị trí, vai trị của VKSND trong giai đoạn khởi tố, vừa là sự khẳng định đối với
hiệu quả công tác do VKSND thực hiện. VKSND thực hiện quyền công tố bằng
việc đề ra các yêu cầu kiểm tra, xác minh hoặc qua kiểm sát nếu phát hiện Cơ quan
có thẩm quyền điều tra thực hiện không đúng, không đầy đủ quy định của pháp luật
dẫn đến ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự khơng có căn cứ và trái pháp


×