Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Giáo dục di sản âm nhạc dân tộc thông qua một số làn điệu hát xoan, hát ghẹo cho học sinh thcs trên địa bàn thị xã phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.43 MB, 117 trang )

1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Phú Thọ là đất cuội nguồn của dân tộc Việt Nam. Hát Xoan, hát Ghẹo
Phú Thọ là giá trị di sản văn hoá phi vật thể là lối diễn xướng của người Việt
Cổ, là vốn văn hoá dân gian lâu đời đặc trưng vùng Đất Tổ có sức sống, lan
toả trong cộng đồng dân cư. Hát Xoan, Hát Ghẹo được nhắc đến trong truyền
thuyết về thời Hùng Vương, tương truyền, đó là điệu hát của dân gian, được
hoàng hậu, các mị nương yêu thích, học, truyền dạy cho nhau và truyền đến
cho nhau và truyền đến.
Hát Xoan, Hát Ghẹo là hai di sản văn hố lâu đời, phong phú, đặc sắc
khơng chỉ của tỉnh Phú Thọ mà nó là tải sản văn hoá của cả dân tộc Việt Nam.
Riêng với hát Xoan có một tin vui đến với nhân dân trong tỉnh và những
người quan tâm đến Hát Xoan, tại Bali (Indonesia) ngày 24/11/2011,
UNESCO đã chính thức thơng qua quyết định công nhận Hát Xoan Phú Thọ
(Việt Nam) trở thành Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại cần bảo tồn
khẩn cấp, với lời nhấn mạnh: Hát Xoan là hình thức âm nhạc rất cổ, kết hợp
yếu tố văn hoá, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca , giai điệu và làn điệu.
Việc bảo tồn, khai thác, phổ biến, quảng bá hát Xoan Phú Thọ trong
những năm tới là mục tiêu chiến luợc của tỉnh Phú Thọ về phát triển văn hoá
giai đoạn đến năm 2020. Bảo tồn Hát Xoan, Hát Ghẹo thực chất là bảo tồn
văn hố phi vật thể có từ thời Hùng Vuơng trên quê hương Đất Tổ cội nguồn
dân tộc, góp phần làm giàu nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Hiện nay thế giới đang diễn ra sự chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, kinh tế, khoa học... trong đó sự giao thoa các nền văn
hóa giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, đã làm phong phú nền văn
hóa nghệ thuật của các nước, tạo mối quan hệ qua lại về những giá trị nghệ
thuật để đưa các nước đến gần gũi với nhau hơn.
Giáo dục là trang bị cho thế hệ trẻ một hệ thống giá trị về kiến thức,
năng lực và khả năng phù hợp với sự phát triển của một xã hội hiện đại, đồng


thời đảm bảo phát huy những giá trị truyền thống của người Việt Nam, điều


2

này đã được khẳng định trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế, xã
hội đồng thời là nhiệm vụ, nội dung công tác giáo dục thế hệ trẻ trong giai
đoạn hiện nay. Phát huy, bảo tồn những giá trị giá trị văn hóa phi vật thể đói
với Hát Xoan, Hát Ghẹo. Đây là một nhiệm vụ quan trọng khơng chỉ đối với
những người con đất Tổ mà cịn là trách nhiệm của cả dân tộc Việt Nam.
Phú thọ là cội nguồn của dân tộc Việt Nam, Hát Xoan, Hát Ghẹo Phú
Thọ là giá trị văn hóa phi vật thể, là lối diễn xướng của người Việt cổ đặc
trưng vùng đất Tổ có sức sống lan tỏa trong đời sống cộng đồng dân cư gắn
với tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng được ra đời từ thời Hùng Vương.
Hát Xoan, Hát Ghẹo là hai di sản văn hóa lâu đời, phong phú đặc sắc
không chỉ tỉnh Phú Thọ mà nó cịn là tài sản văn hóa của cả dân tộc Việt
Nam. Vào ngày 24 tháng 11 năm 2011 UNESCO đã thông qua quyết định
công nhận Hát Xoan Phú Thọ (Việt Nam) trở thành Di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp.
Thời gian qua, các chương trình văn nghệ, chương trình giao lưu các
hội thi hội diễn về chủ đề Xoan, Ghẹo đã được diễn ra ở các cấp, các ngành
trong Tỉnh và cả nước. Hát Xoan, Ghẹo đã được quần chúng hưởng ứng và đã
đạt được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên để đưa vào chương trình dạy
học trong các trường THCS hiện nay thì chưa đạt được so với yêu cầu đặt ra.
Hát Xoan, Ghẹo thực sự chưa đi vào cuộc sống hàng ngày, trong các sinh hoạt
của cộng đồng, một trong những nguyên nhân đó là do:
- Việc đưa Hát Xoan, Hát Ghẹo vào nhà trường THCS trên địa bàn Thị
xã Phú Thọ còn hạn chế.
- Âm nhạc dân tộc Hát Xoan, Hát Ghẹo chưa có chỗ đứng trong phân
phối chương trình học và chưa có chương trình giáo dục cụ thể về các làn

điệu Hát Xoan, Hát Ghẹo.
- Phần lớn các đơn vị Trường học triển khai Hát Xoan, Ghẹo cịn mang
tính chất hình thức, chưa thực sự tạo được hứng thú cho người học.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu dạy học chưa đáp ứng được so
với yêu cầu đặt ra.


3

Chính vì vậy mà việc đưa Hát Xoan, Hát Ghẹo vào chương trình học
và giáo dục âm nhạc dân tộc thông qua một số làn điệu Hát Xoan, Hát Ghẹo
là rất cần thiết để bảo tồn và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc. Việc
giáo dục di sản âm nhạc dân tộc thông qua một số làn điệu Hát Xoan, Hát
Ghẹo cho học sinh THCS sẽ giúp các em hiểu được nguồn gốc, thể thức trình
diễn, nội dung lời ca và giá trị nghệ thuật của Hát Xoan, Hát Ghẹo. Từ đó các
em học sinh THCS biết khơi phục, gìn giữ, phát triển Hát Xoan, Hát Ghẹo.
Tiếp tục phổ biến rộng rãi trong đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần
làm phong phú thêm nền âm nhạc dân gian Việt Nam.
Việc giáo dục di sản âm nhạc dân tộc nhằm bồi dưỡng cho các em học
sinh lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc và thái độ trân trọng,
khâm phục đối những di sản văn hóa của cha ơng để lại.
Chính vì lí do đó tơi chọn đề tài: “Giáo dục di sản âm nhạc dân tộc thông qua
một số làn điệu Hát Xoan, Hát Ghẹo cho học sinh THCS trên địa bàn Thị xã
Phú Thọ” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Nghiên cứu Hát Xoan, Hát Ghẹo Phú Thọ ở các vùng, miền trong Tỉnh,
tìm ra những nét đặc trưng, tiêu biểu, để từ đó giáo dục giá trị di sản văn hóa
của dân tộc, thơng qua giảng dạy âm nhạc và các hoạt động ngoại khóa.
Đánh giá thực trạng dạy và học Hát Xoan, Hát Ghẹo tại các trường
THCS trên địa bàn Thị xã Phú thọ để từ đó nắm được tình hình dạy, học của

giáo viên và học sinh đối với làn điệu Xoan, Ghẹo Phú Thọ.
Tiến hành giảng dạy thực nghiệm, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, từ
đó lựa chọn một số bài Hát Xoan, Hát Ghẹo đưa vào chương trình giảng dạy
và xây dựng quy trình dạy hát ở trường THCS.


4

PHẦN II. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Một số cơng trình trong nước
Hát Xoan, Hát Ghẹo Phú Thọ là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá
của vùng đất Tổ Vua Hùng. Trong những năm qua, có nhiều nhà nghiên cứu
văn hóa đã tâm huyết và dành nhiều thời gian để nghiên cứu, sưu tầm làm tài
liệu truyền dạy, song chủ yếu là nghiên cứu lí luận về hát Xoan, Hát ghẹo.
Tiêu biểu là nhạc sĩ Nguyễn Đăng Hịe, (1979), Bước đầu tìm hiểu Hát Ghẹo
Vĩnh Phú, Ty Văn hóa Vĩnh Phú. PGS.Tú Ngọc, (1997), Hát Xoan, Dân ca lễ
nghi - phong tuc, Nxb Âm nhạc Hà Nội. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian
Nguyễn Khắc Xương với tài liệu “Hát Xoan Phú Thọ” Hội văn nghệ dân gian
Phú Thọ năm 2008; Nhạc sĩ Cao Khắc Thùy với “Hát Xoan – Hát Ghẹo dấu
ấn một chặng đường” NXB Âm nhạc 2011. Nhóm tác giả Cao Hồng Phương,
Bùi Thị Mai Lan, Phạm Thị Lộc, Tạ Thị Thu HIền, Nguyễn Huy Oanh
(2011), đề tài Hát Xoan – Hát Ghẹo một giá trị văn hóa phi vật thể, trường
đại học Hùng Vương... Song việc nghiên cứu hát Xoan, Ghẹo để giáo dục di
sản âm nhạc dân tộc trong trường THCS trên địa bàn thị Xã Phú Thọ chưa có
tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này.
2. Một số tài liệu của nước ngồi
Chưa thấy có một tác giả nào có cơng trình nghiên cứu và xuất bản, chỉ
có một số bài viết về hát Xoan tại hội thảo quốc tế tháng 1 năm 2010 do ủy
ban nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức. Một số bài viết của các tác giả như: Trần
Quang Hải (Quốc tịch Pháp); Giá Jaehnichen (quốc tịch cộng hòa liên bang

Đức); Yves Defrance (quốc tịch Pháp); Sheen Dea Cheol (quốc tịch Hàn
Quốc). Nội dung các bài viết hầu hết đều khẳng định hát Xoan là lối hát cửa
đình, có lối diễn xướng, giai điệu, lời ca cổ hết sức độc đáo và tập trung vào
việc đề xuất bảo tồn hát Xoan trong tương lai.
Tổng quan một số cơng trình nghiên cứu trước đây, để thấy rằng: hầu
hết các tác giả đều chú trọng đến việc nghiên cứu văn hóa, phong tục, lối diễn
xướng của hát Xoan, Hát ghẹo, giúp cho chúng ta có được một cái nhìn khái
quát về giá trị của dân ca Xoan, Ghẹo. Tuy nhiên chúng tôi cũng thấy rằng,


5

vẫn cần phải nghiên cứu hát Xoan, hát Ghẹo một cách sâu sắc, phải đánh giá
hai loại hình nghệ thuật này một cách chính xác, logich, khoa học, áp dụng
đưa vào trường THCS để giáo dục thế hệ trẻ biết trân trọng, gìn giữ và phát
huy vốn dân ca quý báu của ông cha để lại. Tiếp tục quảng bá hát Xoan, hát
Ghẹo đối với quần chúng nhân dân và trước cộng đồng Quốc tế, đặc biệt đưa
hát Xoan ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp, được cơng nhận là di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
3. Các tài liệu liên quan.
Cuốn Âm nhạc dân gian Phú Thọ do tác giả Trần Văn Thục chủ biên.
Nội dung cuốn sách chia làm bốn chương: Chương I: Khái quát về âm nhạc
dân gian Phú Thọ. Chương II: Hát Xoan Phú Thọ. Chương III: Hát Ghẹo Phú
Thọ. Chương IV: Các loại hình dân gian khác. Khóa luận đặc biệt quan tâm
đến Chương II và Chương III, với 2 nội dung chính: Khái quát về Hát Xoan,
Hát Ghẹo và đặc điểm tính chất âm nhạc của Hát Xoan, Hát Ghẹo.
Cuốn hát Xoan Phú thọ do tác giả Nguyễn Khắc Xương, hội văn nghệ
biên xoạn. Nội dung cuốn sách gồm có 5 phần: 1/ Hát Xoan tiếng hát cửa
đình đám hội làng mùa xuân trên quê hương Đất Tổ. 2/ Hát Xoan, diễn xướng
lễ hội truyền thống - về tổ chức và tục lệ của hát Xoan. 3/ Nội dung Hát Xoan,

lễ ca và tiệc mùa xuân. 4/ Mấy vấn đề văn hóa của Hát Xoan kết cấu, các quả
cách. 5/ Thử tìm hiểu quá trình ra đời và phát triển của Hát Xoan với các nội
dung: bài bản Hát Xoan.
Cuốn Hát Ghẹo do tác giả Nguyễn Đăng Hòe biên soạn, NXB Văn hóa,
Hà Nội. Trong cuốn Hát Ghẹo tác giả đã đưa ra những sự khám phá về bản
chất của Hát Ghẹo, những đặc trưng của nghệ thuật Hát Ghẹo ( nguồn gốc, lời
ca, các thành tố âm nhạc, lề lối diễn xướng....)
Cuốn Hát Xoan dân ca nghi lễ - Phong tục do tác giả Tú Ngọc biên
soạn. Cuốn sách gồm có 7 nội dung chính: 1/ Q hương Hát Xoan - Đất Tổ
các Vua Hùng. 2/ Hát Xoan: những địa danh tổ chức phường họ, quá trình
diễn xướng. 3/ Ngồn gốc và quá trình phát triển. 4/ Hát Xoan và dân ca lễ
nghi phong tục của người Việt. 5/ Thành tố văn chương (ca từ) trong Hát


6

Xoan. 6/ Thành tố âm nhạc trong Hát Xoan. 7/ Hát Xoan truyền thống và hiện
đại.
Cuốn Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện đề tài khoa học công nghệ “
Tính tương đồng, khác biệt giữa Hát Xoan, Hát Ghẹo” chủ nhiệm đề tài NCS.
Cao Hồng Phương. Báo cáo gồm có 3 chương. Chương 1: Khái quát lịch sử
địa lý vùng quê hương dân ca Xoan, Ghẹo. Chương 2: Một số nét tương đồng,
khác biệt trong văn hóa Hát Xoan, Hát Ghẹo. Chương 3: Một số nét tương
đồng, khác biệt trong nghệ thuật Hát Xoan và Hát Ghẹo.
Với những kiến thức kế thừa những cơng trình đi trước vừa nghiên cứu,
sáng tác, đề tài này đã chọn lọc tìm hiểu, nghiên cứu để “Giáo dục di sản âm
nhạc dân tộc thông qua một số làn điệu Hát Xoan, Hát Ghẹo cho học sinh
THCS trên địa bàn Thị xã Phú Thọ”.
PHẦN III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Các phương pháp nghiên cứu của đề tài.

- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu về các bài Hát Xoan, Hát Ghẹo Phú Thọ.
- Nghiên cứu về phân phối chương trình giảng dạy Hát Xoan, Hát Ghẹo trong
giờ ngoại khóa tại trường THCS trên địa bàn Thị xã Phú Thọ.
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về Hát Xoan, Hát Ghẹo, trình tự thể hiện, lối diễn
xướng độc đáo trong Hát Xoan, Hát Ghẹo.
- Nghiên cứu Phân phối chương trình Âm nhạc trường THCS và Học sinh
trường THCS trên địa bàn Thị xã - Phú Thọ.


7

- Nghiên cứu các tài liệu âm nhạc có liên quan đến văn hóa dân gian tỉnh Phú
Thọ.
3. Kết quả khóa luận, sản phẩm ứng dụng
Khóa luận là cuốn tài liệu tham khảo nhằm giáo dục các em học sinh về
truyền thống văn hóa dân tộc thơng qua một số làn điệu Hát Xoan, Hát Ghẹo.
Khóa luận cung cấp thêm cơ sở lí luận về Hát Xoan, Hát Ghẹo cho giáo
viên và các em học sinh.
Là tài liệu truyên truyền, quảng bá Hát Xoan, Hát Ghẹo, di sản văn hóa
vật thể của nhân loại trong cộng đồng và trong trường học.



8

PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐẠT ĐƯỢC.
CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ HÁT XOAN HÁT GHẸO MỘT GIÁ TRỊ VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ TỈNH PHÚ THỌ.
1.1. Hát Xoan
1.1.1. Nguồn ngốc ra đời của loại hình Hát Xoan
Hát Xoan Phú Thọ một loại hình dân ca đặc sắc trong kho tàng văn hóa
dân gian vùng Đất Tổ. Hát Xoan là dân ca nghi lễ phong tục, hát trước cửa
đình trong lễ hộ mùa xuân và chỉ hát vào những ngày hội đám, tế thần khi
làng mở hội.
Hát xoan là một loại dân ca độc đáo, tồn tại lâu đời ở hai xã Kim Đức
và Phượng Lâu, thuộc huyện Phù Ninh cũ nay là huyện Phong Châu và thành
phố Việt Trì.
Nguồn gốc của Hát Xoan có rất nhiều truyền thuyết khác nhau liên
quan đến thời kì các vua Hùng dựng nước Văn Lang.
Tại làng Phù Đức (gồm cả phường Xoan Phù Đức, phường Thét) theo
truyền thuyết kể rẳng vua Hùng đi tìm đất đóng đơ, một hơm nghỉ chân ở đây
là q Xoan Phù Đức - An Thái, được thấy các trẻ chăn trâu hát múa vua rất
ưa thích và lại dạy các em thêm nhiều điệu khúc nữa, những điệu hát múa ấy
của Vua Hùng và các trẻ chăn trâu đó cũng là những điệu múa Xoan đầu tiên.
Tại làng An Thái lại có truyện kể rằng vợ Vua Hùng đau bụng đẻ đã lâu
ngày mà vẫn không sinh nở, một nàng hầu gái bàn nên đưa nàng Quế Hoa
múa đẹp hát hay đến múa hát. Quế Hoa được gọi đến trước giường, uốn tay
đưa chân, dáng như tơ, giọng như suối, sắc như hoa... Vợ vua Hùng xem múa
nghe hát quả nhiên vui vẻ sinh ra được 3 người con trai tuấn tú khác thường.
Vua Hùng rất vui mừng, truyền cho các công chúa và cung nữ đều học những
giai điệu múa hát của Quế Hoa. Lúc đó vào mùa xuân nên các điệu múa hát

đó là Hát Xuân.
Ở Xã Cao Mại lại kể rằng Nguyệt Cư công chúa, Vua bà Xã Cao Mại,
con Vua Hùng, lúc lọt lòng mẹ cứ khóc, cứ như thế cho tới năm lên 3 tuổi.


9

Các cụ còn kể rằng Nguyệt Cư qua làng An Thái được nghe hát rồi đau bụng
đẻ.
Làng Hương Nội, nói có Hát Xoan thờ Xuân Nương, nữ tướng của 2 bà
Trưng, các cụ kể rằng: Xuân Nương khởi nghĩa đánh giặc Hán tham tàn, có
lần hành quân qua làng Xoan được nghe Hát Xoan, bèn cho quân học hát.
Cũng vì sự tích trên mà ngày tế Xuân Nương, dân làng Hương Nội tổ chức
Hát Xoan. Nếu thời Hai Bà Trưng đã có Hát Xoan để quân bà Xuân Nương
học hát thì hát Xoan hẳn đã ra đời trước đó nghĩa là vào thời Hùng Vương.
Nghiên cứu về lịch sử ra đời của Hát Xoan có rất nhiều quan điểm,
trong đó có một số quan điểm nổi bật là:
Trong tác phẩm Hát Xoan - dân ca phong tục của tác giả Tú Ngọc có
đoạn viết “Ở một vài nơi có Hát Xoan hàng năm, trong dân gian còn chọn lối
hát này là hát “ lãi lèn””. Cũng theo Tú Ngọc, cách gọi “ lãi lèn” theo truyền
thuyết dân gian lại gắn với huyền thoại của Vua Hùng rằng: Ba anh em vua
Hùng đi qua thôn Phù Đức vào buổi trưa và nghỉ lại ở một khu rừng gần thôn.
Từ trong rừng các vị nhìn ra bãi cỏ trước mặt thấy lũ mục đồng vừa chơi vừa
hát, chỗ thì đánh vật, chỗ thì kéo co, thấy vậy Đức Thánh Cả liền bảo bọn tùy
tùng đem một số điệu hát dạy cho lũ trẻ. Để kỉ niệm sự kiện này, hằng năm cứ
đến ngày 30 tháng 1 âm lịch, dân làng lại mở hội cầu, lệ vật cúng các vị là
bánh nẳng vào buổi trưa và thịt bò vào buổi chiều ở miếu. Về sau cứ đến chập
tối ngày hội hàng năm, phường Xoan phải lên hát thờ ở miếu Lãi Lèn. Hát
Xoan sinh ra từ đó và phường Xoan làng Xoan Phù Đức là phường Xoan gốc.
Trong kho sách Hán Nôm tại Viện nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ

một văn bản Hát Xoan thờ mang tên Thượng Điện xướng ca. Lối hát điệm
“Lên là lên lễ lễ” trong văn bản này được viết bằng những chữ Hán là “Liên
là lê lễ”. Bên cạnh đó lối hát cài hoa, kết hoa được nhắc đến trong Đại việt sử
kí tồn thư nếu so sánh với tiết mục múa hát Gài Huê của Hát Xoan hiện vẫn
được lưu giữ trong dân gian Phú Thọ thì có thể nhận ra đó chính là lối hát của
Hát Xoan.


10

Như vậy, từ những thông tin trên, kết hơp với câu truyện về hát “lãi lèn
nhà nghiên cứu Trần Thị Kim Anh cho rằng: Hát Xoan nguyên được gọi là
hát “lãi lèn” có thể là âm tiếng việt rất cổ, ban đầu cũng mang một ý nghĩa
nào đó, sau quá trình diễn biến đã mất dần ý nghĩa. Hát Xoan là một lỗi hát cổ
xưa của người việt, cho đến trước thế kỷ XV vẫn rất phổ biến trong dân gian
ở nhiều vùng khác nhau, về sau do bị cấm nên mai một dần và chỉ còn tồn tại
ở vùng Xoan gốc - Phú Thọ - cái nôi của đất Văn Lang xưa. Hát Xoan từng
được dân gian dùng để đón mừng vua chính vì vậy càng khẳng định vai trị
mang tính nghi thức của Hát Xoan.
Với những truyền thuyết và những sự tích Hát Xoan gắn với thời kỳ
lịch sử Hùng Vương chúng ta có thể hiểu rằng Hát Xoan vốn có từ rất lâu đời.
Trong văn hóa người Việt tín ngưỡng thờ thành hồng có từ xa xưa gắn
liền với đời sống của cư dân trồng lúa nước. Ta thấy Hát Xoan là những làn
điệu dân ca, dân vũ của người lao động, ngoài nội dung ca ngợi thành hoàng,
Vua, ca ngợi 4 mùa, quê hương, cầu chúc mùa vụ... còn phản ánh cuộc sống
hàng ngày như: Chèo thuyền, kiếm củi, đánh cá... Có thể nói Hát Xoan đã có
từ rất sớm gắn liền với sự ra dời, phát triển nền nông nghiệp lúa nước của
người Việt cổ.
Hát Xoan hội đủ các yêu cầu cần thiết để được UNESCO cơng nhận
là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại vào

ngày 24 tháng 11 năm 2011. Đó là hình thức âm nhạc cổ, kết hợp được yếu tố
văn hóa, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai điệu và làn điệu; chứa
đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ qua nhiều thế kỷ,
khơng bị biến mất trong đời sống hiện đại.
1.1.2. Hát Xoan được tổ chức vào những thời gian nhất định trong năm.
Hát Xoan cũng như một số dân ca khác của vùng Trung Du Bắc Bộ
thường được tổ chức vào mùa xuân: các phường Xoan ở tỉnh Phú Thọ lần lượt
khai xuân ở đình, miếu ngay từ mùng một Tết đầu năm. Ngày mồng 1 tết các
họ hát ở đình An Thái, rồi tới Kim Đới, Phù Đức và Thét, từ ngày mồng 5 tết
cả bốn phường Xoan đều khăn gói lên đường làm một chuyến du xuân đến hát


11

ở các đình nước nghĩa. Các phường đi hát từ ngày mồng 5 tháng 1 âm lịch
cho đến ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch. Hát xoan thường được tổ chức ở lễ
hội đền Hùng các tiết mục hát Xoan không thể thiếu trong lễ hội Giỗ tổ Vua
Hùng. Đây được coi là nét truyền thống của người dân phú Thọ nói riêng và
cả dân tộc Việt Nam nói chung. Thời điểm hát được quy định tại một điểm
hát nhất định, mỗi “phường” chọn một vị trí cửa đình.
Chúng ta hãy dõi theo bước đi của họ Xoan trong mùa xuân đình đám
hội hè.
Mồng 5 tháng riêng hát ở các cửa đình Tử Đà, An Đạo, Tiên Du, Phù
Ninh, Cẩm Đội thuộc huyện Phù Ninh.
Mồng 6 tới mồng 10 tháng riêng hát ở cửa đình Cao Mại, Nha Mơn,
Dữu Lâu, Nơng Trang (Việt Trì). Hồng Xá Thượng, Hạ Chuế (Vĩnh Lạc).
Ngày mồng 9 con gái làng Phù Đức và con trai làng sở tại hát đối đáp theo
một tập tục rất cổ. Năm nào làng phù Đức cũng cử nhiều cô gái tân đến hát
mừng thánh. Sau ba tiếng hát mừng là trò “cài hoa bắt cá”. Trai gái cầm tay
nhau thành một vòng tròn “cài hoa bắt cá”. Trai gái cầm tay nhau thành một

vòng trong vây quanh một người con trai. Anh này có quyền được chọn một
trong số những cô gái ra trước bàn thờ để cùng hát mừng thánh.
Từ 12 đến 15 tháng riêng, hát ở các cửa đình: Y Kỳ, Hữu Bổ (Phù
Ninh), Tây Cốc (Đoan Hùng).
Trong tháng 2 âm lịch, hát cửa đình: Đức Bác (Lập Thạch), Hương
Nộn (Tam Nơng), Thanh Đình (Phù Ninh).
Điểm hát cuối cùng là Xã Tử Du ( Lập Thạch).
Ngoài ra Hát Xoan còn được tổ chức ở các cuộc thi, các cuộc giao lưu
văn hóa văn nghệ trên tồn địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
1.1.3. Hát ở những địa điểm nhất định
Hát Xoan cịn có tên gọi là “Khúc mơn đình” (Hát cửa đình). Mỗi
phường Xoan giữ một số cửa đình nhất định, như một kiểu “Xí phần”. Hằng
năm vào tháng giêng các phường Xoan gốc như Phù Đức thường giữ các cửa
đình Phù Ninh, Đức Bác, Y Kỳ, Tây Cốc... Phường Xoan An Thái thường giữ


12

các cửa đình Cao Mại, Hương Nộn, Dữu Lâu.. Phường Thét thì quen đến các
cửa đình Tử Du, Nơng Trang, Kim Xá...

Hình 1.1. Các nghệ nhân Hát Xoan tại đình
Tục giữ cửa đình cịn mang ý nghĩa tránh sự tranh chấp và dẫn chân lên
nhau giữa cá phường Xoan. Các phướng Xoan thường đi cùng nhau. Ví dụ:
Họ Phù Đức đi với họ Kim Đới, họ An Thái đi với họ Thét. Cũng có khi cả 4
họ Xoan đi hát với nhua cùng một đình.
Tục giữ cửa đình đã dẫn tới tục kết nghĩa. Họ Xoan giữa cửa đình và
dân địa phương kết nghĩa với nhau. Tình nghĩa ấy rất được coi trọng. Khác
với kết nghĩa của Hát Ghẹo là kết nghĩa giữa hai hay nhiều làng với nhau,
hoặc Quan Họ chỉ kết ghĩa giữa hai Quan Họ, thì kết nghĩa của Xoan bao giờ

cũng theo lệ dân địa phương là vai anh, còn họ Xoan là vai em, dân là con
trưởng, họ là con thứ. Tục kết nghĩa cấm trai gái hai bên kết hơn với nhau, với
lí do dân với họ là anh em, đã là anh em tất nhiên không thể lấy nhau được.


13

Hình 1.2. Hát Xoan là tiếng hát dâng thần linh, cầu chúc, khấn nguyện
thần linh ban phúc cho dân làng...
1.1.4. Hát Xoan có tổ chức chặt chẽ
Các loại hát ví, đúm, trống quân, Ghẹo khôn nhất thiết phải tổ chức
thành những đội hát. Trai gái trong làng có một số người biết hát. Đến ngày
hội họ tự đi hát, hoặc dân làng chọn ra một số người luyện tập ít hôm trước
ngày hội để hát với làng kết nghĩa như Hát Ghẹo. Song họ khơng có quy tắc
chặt chẽ của phường hội.
- Hát Xoan đòi hỏi phải tổ chức thành phường Xoan hoặc họ Xoan. Khúc hát
“Gài Huê” có câu:
Tam thanh một mảnh hê hò
Lòng anh muốn lấy nhà trò họ Xoan
Thường mỗi phường Xoan có một ơng trùm, bốn năm kép và từ 12 đến 145
đào
Tam thanh một mảnh cành h khoai
Lịng anh muốn lấy mười hai cơ đào
Ơng trùm là người đứng tuổi, được dân làng tín nhiệm, thuộc bài bản và đọc
được các bản Xoan chữ nôm. Ông trùm hướng dẫn các đào , kép học tập các
làn điệu hát, múa, quản lý phường và giao dịch với địa phương mà phường
đến hát. Kép là những người đứng tuổi, người có vợ có con, nhưng phường


14


Xoan nào cũng có một hai kép con từ mười đến mười lăm tuổi để múa hát các
điệu mở đầu cho cuộc Hát Xoan là: Giáo trống, Giáo Pháo, đào Xoan đều là
những cơ gái tơ xinh đẹp, có giọng hát hay, tuổi từ mười lăm đến hai mươi.
Khi đã có chồng thường thì khơng theo phường nữa.
Hằng năm trước mùa đi hát, phường Xoan thường tập luyện vào tháng
chạp âm lịch. Họ ơn luyện các bài bản đã có sẵn và tập dượt cho thuần thục
các điệu bộ, động tác minh họa cho từng bài bản. Nơi tập dượt thường là nhà
ông trùm.
Đối với những cô đào mới vào phường thì được ơng trùm hoặc bạn cũ
dạy hát theo lối truyền khẩu, tập và uốn nắn từng động tác múa. Các kép thì
on lại các quả cách theo văn bản chữ nôm.
Hằng năm sau khi đã tập dượt, hát ở địa phương mình và ăn tết xong,
sang mùa xuân các phường Xoan bắt đầu cuộc hành trình ca hát ở các đình
làng.
Sau mỗi lần hát ở cửa đình nào đó, phường Xoan thường nhận được
một số tiền hay gạo của làng ban tặng
1.1.5. Hát có trình tự nhất định
Căn cứ vào nội dung và cách trình bày ta có thể chia làm ba phần: Hát
lễ nghi tôn giáo (nội dung hát thờ), phần trình diễn các quả cách (nội dung hát
giao dun là chính, có trai làng cùng tham gia hát biểu diễn với phường
Xoan) và phần hát hội.
- Phần lễ nghi tôn giáo: Hát Xoan mang những lời chúc tụng, cầu khẩn và
được trình diễn theo đúng nghi thức trước cửa đình. Đây là một bài khấn
nguyện được đọc lên theo lối văn sớ. Nội dung phần hát lễ cầu chúc "quốc
thái, dân an, mưa thuận gió hồ, nhà nhà no đủ". Về âm nhạc phần hát lễ đơn
giản về tiết tấu và giai điệu, tính chất trang nghiêm, cầu nguyện.
Để mở đầu cho cuộc hát, người trùm phường cùng người cúng tế của
hội làng năm đó đứng trước hương án hát chúc. Đây là một bài khẩn nguyện
được đọc lên theo lối văn sớ.



15

Tiếp theo, một Kép trẻ nhất trong phường chừng mười lăm tuổi đeo
trước ngực một cái trống nhỏ, kiểu trống bồng ra làm trò giáo trống và giáo
pháo. Kép trẻ vừa đánh trống vừa giữ nhịp vừa hát vừa làm động tác phụ họ
của phường ở phía sau.
Sau Giáo trống và Giáo pháo, chủ kép trẻ vào hậu trường để nhường
chỗ cho bốn cô đào tiến ra sân hát Thơ nhang và Đóng đám. Bốn cơ đào xếp
hàng ngang trước hương án, hai tay nâng chiếc quạt xòe tán khuỳnh trước mặt
giống như động tác dâng hương, vừa hát vừa làm điệu bộ tiến hương lên, lùi
bước xuống.
Với bốn giọng lề lối này, nội dung nói lên những cảm súc của con
người trước thần linh. Sau đó là ca ngợi thánh thần, những lời ca này thường
là có sẵn. Đào và Kép hát xen kẽ, lúc phụ họa lúc hát đuổi nhau. Múa hát rộn
ràng, khỏe mạnh gây được không khí tưng bừng cho ngày hội.
- Phần trình diễn các quả cách: Nội dung các quả cách bao gồm nhiều
mặt hoặc là mô tả đời sống sinh hoạt của các tầng lớp người đương thời ở
nông thôn hoặc ca ngợi cảnh vật thiên nhiên hoặc kể chuyện cổ tích đã xưa.
Về diễn xướng các quả cách có nhiều vẻ nhưng về cơ bản là lối hát nói và
ngâm đọc. Nối tiếp các quả cách, thường có láy câu: “Các bạn họ ta lấy qua là
dậm hỡi dậm ấy cho qua” hoặc “ cách ấy cho qua, hỡi bạn chèo ta giờ sang
cách khác, giã tiệc này, ta là Đại Vương”.
- Phần hát hội: là phần trình diễn hết sức phong phú ở các lĩnh vực, lời
ca, âm nhạc, múa và diễn xướng. Khơng chỉ có đào kép phường Xoan biểu
diễn mà một số tiết mục cịn có sự tham gia múa hát biểu diễn của trai gái
làng. Các tiết mục trong phần này thường được tiến hành theo thứ tự sau:
+ Bợm gái: là lối hát trao tình do các cơ đào diễn xướng có kèm theo
một vài động tác nhảy múa đơn giản. Bợm gái là một liên khúc dài gồm nhiều

đoạn hát có tính độc lập về cấu trúc.
+ Bỏ bộ: Phần lớn cũng mang nội dung giao duyên, cũng do các cô
đào diễn xướng. Trong tiết mục này, những động tác múa minh họa có phần
phong phú hơn. Cấu trúc cũng gần giống Bợm gái. Bỏ bộ là một chuỗi những


16

bài hát được diễn xướng liên tiếp. Ở đây mỗi bài hát có tính chất độc lập
tương đối về mặt cấu trúc lại đồng thời có chung một số đường nét giai điệu.
Đặc biệt chúng có chung một câu nhạc bắc cầu.
Tềnh là tềnh tang tềnh
Câu này đặt trước mỗi bài hát tạo thành sợi day liên kết toàn bộ tiết
mục này.
+ Xin hoa đố chữ: Là một cảnh hát đối đáp giữ trai làng sở tại với các
cô đào Xoan. Cảnh này gồm phần xin hoa, coi như phần mở đầu và phần đố
hoa, đố chữ coi như phần chính.
+ Hát Đúm: Cũng là một hoạt cảnh đối đáp giữa trai làng sở tại với các
đào Xoan. Đây cũng là lối chơi rất hấp dẫn, say mê nhất trong Hát Xoan. Cho
nên người ta gọi phường Xoan là “phường Đúm”.
+ Giã cá hay gọi là mó cá được coi là tiết mục kết thúc quá trình diễn
xướng của Hát Xoan. Đây cũng là cảnh múa hát sôi nổi và nghịch ngợm. Có
nơi, nhưng ở làng Cao Mại, “cá’ là các cơ Đào xoan. các trai làng vây thành
vịng trịn, miệng hát múa đong đưa dập dềnh nhìn sóng nước. Hát xong các
câu hát, các cơ đào đóng vai “cá” bỏ chạy, trai làng đuổi theo túm lấy như bắt
được “cá” rồi họ dâng lên bàn thờ để tiến “ Vua” (tức thành hoành làng) cầu
Vua bán phúc dân làng sau khi ông chủ tế “cá” lại tại trai làng. Giã cá là ca
khúc có tiết tấu nhịp nhàng, khỏe, gần với tiết tấu của bài hát lao động.
Vì là lối hát thờ Thần linh, Thành hoàng làng và các Vua Hùng trước
cửa đình nên nghệ thuật trình diễn của Hát Xoan rất đơn giản, mộc mạc với sự

kết hợp hài hòa giữa âm nhạc, thơ, về và giọng điệu mang đậm dấu ấn thổ ngữ
của địa phương vùng trung du Phú Thọ. Lời Xoan thường được thể hiện dưới
dạng thể thơ song thất lục bát (2 câu 7, một câu 6, một câu 8), thất ngôn (7
từ), lục bát, lục bát biến thể, bốn từ, sáu từ đơn giản dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hát.
Hát xoan hội đủ các yếu tố của văn nghệ dân gian bao gồm về tổ chức
Phường (họ); trình diễn theo hình thức đơn giản hát kết hợp với múa gắn với
tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Đó là hình thức âm nhạc cổ truyền, kết


17

hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai điệu và
làn điệu.
Văn chương trong Hát Xoan rất phong phú, hợp thành từ dòng dân gian
và bác học do các nhà nho tham gia sáng tác ở thời kì đất nước ta nho học
phát triển. Nội dung tuy đề cập đến nhiều mặt sinh hoạt xã hội những nhiều
hơn cả là nội dung hát thờ và hát giao duyên (trữ tình) thể hiện những khát
khao, mơ ước và niềm vui của con mgười. Lời ca trong Hát Xoan đều được
ghi chép thành bài bản ít có những trường hợp ngẫu hứng.
1.1.6. Hát Xoan có nhiều làn điệu phong phú
Khác với hát ví, trống quân, đúm chỉ có một làn điệu, Hát Xoan đã hình
thành những ca khúc hồn chỉnh. Chúng đặc tả sự kiện, tính cách bằng lời ca
và giọng. Sức biểu hiện của chúng cũng mạnh mẽ và hấp dẫn vì chúng rất
phong phú về làn điệu. Chúng đã có những lời riêng cũng như làn điệu riêng
biệt của mình.

Hình 1.3. Trong Hát Xoan, múa và hát luôn đi cùng kết hợp với nhau
1.1.7. Hát Xoan sử nhiều động tác múa và đạo cụ
Các dân ca trữ tình giao duyên hầu hết khong có các động tác và khơng
có đạo cụ. Người hát chỉ có hát và làm sao đạt được yêu cầu ứng đối. Riêng

trống quân có trống kèm theo để giữ nhịp cho hát.


18

Cách trình diễn của Hát Xoan và các loại dân ca phong tục nghi lễ có
khác, nó đã mang yếu tố của sân khấu. Người hát phải biết những động tác
nhảy múa như các điệu múa trong hát Bỏ bộ hoặc trong Giã cá. Lời ca trong
Hát Xoan cịn có sự kết hợp với các điệu múa đơn giản chủ yếu bằng đôi tay
của các đào, kép đưa ra, thu vào, ngửa bàn tay, úp bàn tay, kết hợp với việc sử
dụng các đạo cụ, như quạt, phách tre, nậm rượu... Di chuyển trong Hát Xoan
bằng đôi chân chủ yếu theo hàng dọc hoặc hàng ngang và vịng trịn (mó, giã
cá) cũng đơn giản không phức tạp. Và khi hát cũng có cả những đạo cu kèm
theo như: trống, phách, quạt... phát triển cao hơn các động tác minh họa là
múa.
1.1.8. Đặc điểm tính chất âm nhạc của Hát Xoan.
Hát Xoan thường được trình diễn vào mùa xuân, trong những ngày hội
đám ở một số đình làng trong tỉnh, nên cịn được gọi là hát cửa đình. Chữ
“Xoan” hay được gọi là chữ Xuân.
Những người đi Hát Xoan thường sống cùng xóm và tổ chức thành
phường. Hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng ca và múa. Người ta tụ họp ở
đình làng khơng chỉ nghe xoan mà cịn để “xem Xoan”, xem các đào Xoan
múa.
Hai yếu tố cơ bản của Xoan là thanh nhạc và múa. Hát Xoan là một loại
hình diễn xướng tổng hợp và có nhiều thể loại; hát khẩn nguyện, hát dao
duyên , hát ngượi ca lao động, hát diễn tích truyện. Về hình thức hát cũng
phong phú; hát xen kẽ, lao động, đối đáp, đồng ca kết hợp với đơn ca, hát kèm
múa, hát kết hợp với trị chơi...đó chính là những cơ sở tạo nên sự phong phú,
đa dạng của nghệ thuật âm nhạc Hát Xoan.
Hát Xoan cịn có hình thức ca khúc, những ca khúc tạo nên những tiết

mục vui, chữ tình mang yếu tố diễn xướng hoạt cảnh trong Xoan; Bỏ bộ, Bợm
gái, Xin huê - Đố chữ và Mó cá.
Hát Xoan đã khai thác thu và ghi âm được 35 làn điệu, thể hiện được
nhiều sắc thái tình cảm khác nhau. Giai điệu có 3 hình thức: nói, ngâm, và
hát. Tiết tấu rất mạch lạc, đa dạng và có nhiều tìm tịi sáng tạo góp phần khắc


19

hoạ tính cách, biểu đạt của mỗi điệu hát. Những trường hợp đảo phách,
nghịch phác thường ít gặp ở các loại hình dân ca khác thì trong Hát Xoan lại
có rất nhiều. Điệu thức, khúc thức đa dạng phong phú.
1.1.9. Đặc sắc nghệ thuật diễn xướng của Hát Xoan.
Ca nhạc của Xoan là ca nhạc biểu diễn với đầy đủ các dạng thức nhạc
hát gồm có hát nói, hát ngâm, ngâm thơ và ca khúc, có đồng ca nữ đồng ca
nam, tốp ca, đối ca, hát đa thanh, hát đuổi, hát đan xen, hát có lĩnh xướng và
hát đối đáp. Về sắc thái âm nhạc, nhạc Xoan vừa có những giọng nghiêm
trang thong thả vừa có những điệu dồn đuổi khỏe mạnh lại có những giọng
dun dáng trữ tình.
Đặc sắc của nghệ thuật Hát Xoan cịn được thể hiện đó chính là khi Hát
Xoan cịn được sử dụng nhiều động tác múa và đạo cụ. Đạo cụ và nhạc cụ
dùng cho Hát Xoan rất đơn giản, khơng địi hỏi cầu kỳ thể hiện tính nghiêm
trang trong thực hành tín ngưỡng thờ cúng và tính phổ thơng quần chúng để
các đào kép dễ thể hiện trình diễn Hát Xoan. Chỉ dùng một chiếc trống nhỏ
đường kính mặt trống 20 cm, chiều cao 25 đến 30 cm, hai mặt bịt da và tang
trống bằng gỗ mít cùng với đơi, ba cặp phách bằng tre đực già. Tuy vậy, kép
trống lại có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc giữ nhịp cho các kép và đào
hát trong toàn bộ cuộc hát. Nếu kép trống mà khơng thuần thục giữ nhịp trống
thì ảnh hưởng rất nhiều đến khơng khí và chất lượng của cuộc hát. Trước khi
vào cuộc hát, kép trống sẽ đánh một hồi như lời mời và ra hiệu bắt đầu cuộc

hát, sau đó là giữ nhịp cho cuộc hát. Khi chuyển các chặng hát thì bao giờ kép
trống cũng phải co hồi trống chuyển tiếp. Ngoài trống to trống nhỏ còn sử
dụng các thanh phách khi biểu diễn.
1.2. Hát Ghẹo
1.2.1. Nguồn gốc ra đời của loại hình Hát Ghẹo.
Hát Ghẹo ở huyện Tam Nông (nay là Tam Thanh) và Thanh Sơn cũng
như Hát Xoan đã trở thành sản phẩm riêng của Phú Thọ. Nó mang phong
cách đậm đà màu sắc địa phương, phát triển liền mạch theo thời gian.


20

Theo truyền thuyết dân gian kể lại về tục “kết nước nghĩa” giữa Hùng
Nhĩ (huyện Thanh Sơn) và Bảo vệ (huyện Tam Nông) như sau: Trước kia
Hùng Nhĩ vốn là nơi có rất nhiều gỗ q nhưng ruộng nương thì lại xấu, khô
cằn, nên việc cày cấy của dân làng thường hay bị thất thu, mất mùa triền
miên. Trong khi đó, Bảo Vệ lại là vùng có đất đai phì nhiêu, màu mỡ, cày cấy
luôn được mùa, cuộc sống người dân luôn no đủ, nhưng chỉ hiềm một nỗi, ở
Bảo Vệ chẳng có rừng nên thường khơng có đủ gỗ để dân làng làm nhà ở. Do
vậy dân hai làng đã đặt quan hệ kết nước nghĩa để cùng giúp đỡ nhau trong
sinh hoạt đời sống. Mối quan hệ này ngày càng được gắn bó chặt chẽ, nhân
dân hai làng thường xuyên đi lại thăm hỏi nhau, cùng nhau tham gia vui chơi
ca hát, dần dần hình thành nên quan hệ nước nghĩa như trong hát Ghẹo ngày
nay. Cũng có truyện kể lại do cả hai làng này đều có công lao trong việc bảo
vệ vợ chồng Đức Thánh Tản (Sơn Tinh) đánh lại Thủy Tinh mà họ dã kết
“nước nghĩa” với nhau.
Nguồn gốc Hát Ghẹo được gắn với câu chuyện dựng lại ngơi đình làng
Nam Cường thờ Xn Nương cơng chúa. Chuyện kể rằng ngơi đình làng thờ
nữ tướng Xuân Nương bị cháy, trai tráng Nam Cường cùng nhau lên rừng đại
ngàn kiếm gỗ về dựng lại đình. Đến địa phận xã Thục Luyện, mệt quá, trai

tráng ngồi nghỉ chân, trai gái Mường biết vậy liền đưa thịt rừng rượu thơm ra
đãi. Lại cùng nhau lên rừng ngả gỗ đóng bè cho trơi theo dịng sơng xi về.
Qua địa phận xã Thục Luyện bè bị mắc cạn, đẩy mãi không qua, những cô gái
Mường ở thôn Hùng Nhĩ đi hái mǎng về bèn khuyên vừa đẩy bè vừa hát thì
thần thác mới hài lịng để cho bè xi. Quả thật, khi trai gái hai bên cùng nhau
đẩy và hát đối đáp với nhau thì bè nhích dần rồi chảy về xi. Thác thần từ đó
được gọi là thác "đơi ta", khúc hát đẩy bè trên được gọi là "Hát Ghẹo" hay
"Ghẹo nước nghĩa" (nghĩa là hát giữa các thôn làng kết nghĩa với nhau), "hát
anh chị". Sở dĩ có tên "hát anh chị" vì hai bên hát đối đáp với nhau sẽ gọi
nhau là anh, là chị. Hát Ghẹo ở Nam Cường trở nên nổi tiếng và được gọi là
Hát Ghẹo Nam Cường để phân biệt với Hát Ghẹo của các vùng khác.


21

Để cảm tạ tấm lòng của nhân dân hai xã Thục Luyện và Hùng Nhĩ, khi
đình làng được khánh thành, nhân dân làng Nam Cường đã mời hai làng Thục
Luyện và Hùng Nhĩ tới dự, đồng thời họ kết nước nghĩa nhằm gắn chặt thêm
tình đồn kết, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn gian khổ. Hằng năm cứ vào
ngày tiệc lễ hội thờ Xuân Nương Công Chúa của Nam Cường cũng như vào
các ngày hội xuân mừng Tản Viên Sơn Thánh của Hùng Nhĩ và Thục Luyện,
các làng kết nước nghĩa lại cử người đi dự và trai gái các làng lại hát nước
nghĩa với nhau. Lời ca tiếng hát của họ đã gắn chặt thêm tình đồn kết giữa
hai dân tộc Việt - Mường và tình cảm đơi bên nước nghĩa ngày càng trở nên
thân thiết, tốt đẹp hơn.
Một số nhà nghiên cứu về làng Nam Cường tìm hiểu loại này gọi nó là
hát Ghẹo Nam Cường. Cũng có người gọi là hát Ghẹo Phú Thọ. Gọi như vậy
chẳng qua chỉ để nêu rõ địa phương mà nó được lưu truyền và phân biệt nó
với hát Ghẹo dao duyên nói chúng của miền bắc.
Như trên đã nói, hát Ghẹo Phú Thọ là hình thức hát nước nghĩa trong

dịp tế lễ đình đám giữa các làng Nam Cường, bảo vệ huyện Tam Thanh với
Thục Luyện và Hùng Nhĩ huyện Thanh Sơn.

Hình 1.4. Hát Ghẹo tron ngày hội


22

Các làng nước nghĩa Hát Ghẹo nhằm mục đích giao lưu nghệ thật vì
cơng việc thiêng liên, vì “sự thần” như các cụ vẫn nói, chứ khơng vụ vào sự
nhờ vả về kinh tế và đời sống của dân hai làng.
Các làng nước nghĩa cũng chỉ gặp nhau mỗi năm một lần vào các dịp tổ
chức hát mà thôi.
Cũng như tục kết nghĩa giữa các làng chạ Việt Nam, các làng nước
nghĩa của Hát Ghẹo cũng được gọi tên nhau là liền anh, liền chị, quan anh,
quan chị. Trai gái các làng kết nghĩa không lấy được nhau.
Như chúng ta đã thấy, Hát Ghẹo được tổ chức sau khi cuộc tế lễ đã kết
thúc và khơng hát ở cửa đình mà hát ở nhà tư. Nó khơng có nội dung khấn
chúc, khơng dính dáng đến tế lễ, khơng phải loại hình dân ca tín ngưỡng hoặc
loại “hát cửa đình”. Nhưng Hát Ghẹo nước nghĩa này cũng không phải loại
hát tự do như hát Ví, Đúm hay như quan Quan Họ, Hát Xoan chỉ hát mỗi năm
có một kỳ vào dịp tế thần và chỉ hát với nhau vào một đêm rồi chia tay.
Nghiên cứu qua các truyện kể dân gian nói về nguồng ngốc lịch sử ra đời của
Hát Ghẹo, có lẽ chúng ta sẽ khơng dám khẳng định một cách chắc chắn về
nguồn gốc ra đời của Hát Ghẹo. Nhưng có thể thấy Hát Ghẹo khơng chỉ là sự
cầu khấn thần linh thiêng liêng phù hộ cho cuộc sống lao động của con người
mà nó cịn cần thiết cả trong nhu cầu vui chơi giải trí, giao lưu với cộng đồng.
1.2.2. Về tổ chức hát
Cứ theo thông lệ, khoảng trước ngày lễ hội một tháng, các bô lão trong
làng lại tổ chức một buổi “cầu họp mặt” (còn gọi là cầu hội diện) để bàn việc

cúng tế và gửi giấy mời các làng nước nghĩa cùng đến dự (khoảng 14 người),
đồng thời dân làng sở tại cử ra một bà già (bà trùm) và một số chị em (dân sở
tại bao giờ cũng là nữ) tương ứng với một số người mời nước nghĩa đến cùng
ôn luyện, ca hát lại các bài Ghẹo và cũng là để đón tiếp các anh nước nghĩa.
Nếu năm nào mất mùa thì khơng tổ chức lễ lớn và thậm chí khơng mời nước
nghĩa, cịn năm nào được mùa thì tổ chức đàng hồng, có khi làm đến 4 - 5
mâm cơm khách mời nước nghĩa.


23

1.2.3. Thời gian và địa điểm ca hát
Thời gian : vào tháng ba hay tháng chín âm lịch thì những câu Hát
Ghẹo lại được cất lên giữa đôi bên sau khi buổi tế lễ vừa xong.
Địa điểm ca hát: Các “quan anh” “quan chị” đi đến một ngơi nhà nào
đó của nhân dân trong làng có địa điểm rộng rãi, thống mát, sạch sẽ, gia đình
khơng có chuyện gì buồn xảy ra trong năm.
Việc phân định chỗ ngồi trong Hát Ghẹo hết sức quy phủ. Các quan
anh thường ngòi trên sập hoặc trên giường được đặt ở giữa nhà, còn các quan
chị ngồi ở dãy giữa gian bên trong hoặch trải chiếu hoa ngồi ở nền nhà để
chuẩn bị hát.
1.2.4. Trang phục hát
Các anh các chị mặc những bộ quần áo đẹp nhất của mình dành cho
ngày lễ, ngày hội. Những trang phục của đồng bào ở đây cũng không có gì lạ
so với trang phục ngày lễ của đồng bào địa phương khác ở đồng bằng. Các
anh mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp. Các chị mặc áo trắng, yếm
điều, quần lụa sồi, thắt lưng bao các màu, đeo xà tích và khốc ra ngồi những
chiếc áo năm thân có màu sắc kết hợp với một cách hài hịa, đầu đội khăn mỏ
quạ.


Hình 1.5. Nam thanh nữ tú Hát Ghẹo


24

1.2.5. Trình tự của một buổi Hát Ghẹo
Hát Ghẹo là lối hát đối đáp nam nữ. Mỗi lần hát được quy định một đôi
nam hát với một dôi nữ. Khi hát quay mặt vào nhau. Trong cuộc Hát Ghẹo
các quan anh, quan chị thường đi hát từng đôi một xem ai thuộc được nhiều
giọng, nhiều câu.
Vì diễn trường của hát Ghẹo nằm trong một không gian thời gian nhất
định nên việc trình diễn các làn điệu hát chủ yếu phụ thuộc vào chất giọng, tài
nghệ diễn xuất của nghệ nhân. Từ trang phục cho đến điệu bộ, người nghệ
nhân luôn thể hiện ở sự giản dị, tình tứ, duyên dáng trong điệu bộ cử chỉ ánh
mắt, lời ca. Cái chất e thẹn, ngượng ngùng của các liền anh liền chị, cái sự
dùng dắng yêu thương của các quan anh trong cái vẻ rất khiêm tốn thực sự đã
làm nên nét duyên thầm cho hát Ghẹo.
Quá trình Hát Ghẹo được diễn ra như sau:
- Cầu hội diện: Trước ngày hội khoảng một tháng, làng mời các bô lão
trong làng tới để bàn tổ chức Hát Ghẹo. Ngày họp này được gọi là “Cầu hội
diện”. Quy mô tổ chức lớn hay nhỏ tùy thuộc vào năm đó được mùa hay
khơng để duy định dân làng đóng góp nhiều sẽ tổ chức to và mời nước nghĩa
đến dự. Còn năm nào mất mùa thì tổ chức nhỏ và khơng mời nước nghĩa. Khi
hội nghị các bô lão quyết định mời nước nghĩa dự, thì các cụ cử hai bà đứng
tuổi đã tham gia nhiều cuộc thi Hát Ghẹo, thuộc nhiều điệu hát để lựa chọn và
huấn luyện khoảng 15 - 20 cô gái trong độ tuổi từ 16 - 20 không bận việc gia
đình, khơng có tang, người đẹp hát hay, thơng minh, có khả năng giao tiếp
ứng xử tốt. Bên được mời cũng cử hai ông đứng tuổi biết nhiều điều hát lựa
chọn số lượng nam tương xứng để sang thi hát.
Khi cuộc thi bắt đầu chính thức sẽ chia làm bốn loại giọng và hát lần

lượt bao gồm: Ví đãi trầu, Giọng sổng, Sang giọng và Ví tiễn chân.
- Ví đãi trầu: Mở đầu cuộc hát là những lời chào hỏi sau đó các quan chị mỗi
người nâng trên tay một đĩa trầu. Các quan chị thường để trầu vào khăn tay
hoặc đặt ở trên tay một đĩa trầu ra mời các quan anh và hát những câu ví:
Quan Chị:


25

Miếng trầu để đĩa bưng ra
Xin anh nhận lấy để mà thở than
Miếng trẩu để đĩa bưng ra
Có cau có rẽ, lịng đà có vơi
Hay là trầu héo cau hơi
Mà anh lại để trầu mời không ăn...
Quan anh đáp:
Miếng trầu ăn nặng bằng chi
Ăn thì ăn vậy lấy gì trả ơn
Quan chị tiếp lời:
Miếng trầu ăn nhẹ như bơng
Ăn thì ăn vậy nhưng khơng có gì [20,tr.4]
Và các quan anh chị cứ mời đến khi các quan anh nhận trầu thì sang phần
chuyển tiếp.
Tiếp theo phần Ví đãi trầu, quan anh và quan chị chuyển sang hát Giọng sổng
sau khi đã nghỉ ngơi chút ít để ăn cơm.
- Giọng Sổng: Là những bài có giai điệu tương đối giống nhau nhưng khác
nhau về lời ca khi đối đáp nam và nữ.
Ví dụ:
Vì anh em mới tới đây
Bỗng dưng chiếu trải màn quây giữa nhà [20, tr.6]

Cuộc hát được bắt đàu từ chập tối, từ phần Ví đãi trầu đến khoảng canh
hai thì quan chị, quan anh sẽ ướm lời để kết thúc phần Giọng sổng. Hát đối
đáp ở những câu Ví đãi trầu và Giọng sổng mang tính chất đối lời theo một
âm điệu nhất định.
- Sang giọng: Đây là phần âm nhạc phong phú nhất của Hát Ghẹo chủ yếu đề
cập chủ đề tình u đơi lứa. Câu hát dùng để bắc cầu chuyển sang phần này
là:
Tình tình tang tình, tịch tịch tang tang
Giọng sổng anh (chị) em ta hãy để đấy


×