Nguyễn Thị Lan Hằng - THCS Đồng Than - Yên Mỹ: Phát triển t duy lí luận
của học sinh THCS bằng phơng pháp giải thích trong dạy học lịch sử bài 18.
ĐCSVN ra đời (Lớp 9
A. PHẦN MỞ ĐẦU
A. I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
A. I. 1. Lí do khoa học
Phát triển tư duy lí luận cho học sinh là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của giáo dục phổ thông, trong đó có dạy học lịch sử. Tiếc rằng
trong dạy học lịch sử cũng có nhiều người chưa nghiêm túc nhận thức được
đầy đủ vai trò, vị trí của bộ môn đối với việc hình thành tư duy của học sinh.
Họ xem những môn khoa học tự nhiên, khoa học ứng dụng như: Toán, Lí,
Hóa…mới phát triển tư duy, bộ môn Lịnh sử chỉ là môn học thuộc, đòi hỏi trí
nhớ.
Thực ra không phải như vậy, bởi vì: bản chất quá trình học tập của học
sinh là quá trình nhận thức, là quá trình mà người học phải thông qua các thao
tác của tư duy để nhận thức. Cho dù chỉ có học thuộc, chỉ tái hiện những kiến
thức mà loài người đã tích lũy được thì cũng là một quá trình của nhận thức.
Nó đòi hỏi một quá trình tư duy thì, mới chiếm lĩnh được nhận thức, cho nên,
trong quá trình học tập kiến thức lịch sử cũng đòi hỏi học sinh phải trải qua
nhều thao tác tư duy, nhờ đó mà tư duy của học sinh phát triển. Hơn nữa, kiến
thức lịch sử không chỉ là học thuộc một cách máy móc, không chỉ biết lịch sử
diễn ra như thế nào thông qua sự kiện mà còn đòi hỏi phải hiểu bản chất, mối
liên hệ bên trong của các sự vật hiện tượng, tức là biết giải thích, đánh giá,
bình luận, nhận xét các sự kiện lịch sử.
Lịch sử là tất cả những gì đã xảy ra trong xã hội loài người, nó tồn tại
độc lập với ý muốn chủ quan của con người với những đặc tính riêng của nó
như: tính không lặp lại, tính quá khứ, tính cụ thể. Chính vì vậy để hiểu được
lịch sử học sinh phải trải qua một quá trình thao tác tư duy như: phân tích,
tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa…Nhờ những thao tác đó mà
khả năng hoạt động tư duy độc lập, tư duy sáng tạo, trí thông minh của học
sinh phát triển. Để đạt được điều đó, dạy học lịch sử cần đảm bảo đúng
phương pháp đặc trưng bộ môn.
Trong hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử: phương pháp thông
tin – tái hiện, phương pháp nhận thức lịch sử & phương pháp tìm tòi nghiên
cứu thì phương pháp thông tin - tái hiện được dùng rộng rãi hơn cả ở trường
phổ thông. Việc thông tin tái hiện được thực hiện bằng trình bày miệng với hệ
thống dạy học tương ứng: tường thuật, miêu tả, kể chuyện, giải thích…& sử
dụng đồ dùng trực quan, sử dụng tài liệu văn bản… Phương pháp giải thích
trong dạy học lịch sử là phương pháp quan trọng để phát triển tư duy lí luận
của học sinh THCS nhưng ít được sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông.
Bài 18. Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) ra đời là bài có nhiều đơn
vị kiến thức mới mà chỉ được dạy – học trong một tiết vì vậy cần phải vận
dụng phương pháp dạy học sao cho phù hợp để đạt yêu cầu bài học.
A. I. 2. Lí do thực tiễn
Bộ môn Lịch sử đã đựơc thừa nhận có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với
việc giáo dục thế hệ trẻ. Nội dung và phương pháp dạy học mang tính chất
thời đại và giai cấp rõ rệt. Việc nhận thức vị trí, chương trình, sách giáo khoa
(SGK) Lịch sử nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhất là sau những
cải cách giáo dục là việc cần thiết.
Thực hiện đại trà chương trình và SGK Trung học cơ sở (THCS) mới,
môn Lịch sử với sự chuyển đổi SGK theo hướng giảm kênh chữ, tăng kênh
hình, cho học sinh tiếp cận cận nguồn sử liệu gốc, giảm bớt phần lịch sử quân
sự, tăng phần lịch kinh tế - văn hóa…đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương
pháp dạy học bộ môn từ “thầy nói, trò nghe” (phương pháp thuyết trình) sang
phương pháp trầy và trò cùng làm việc, đa dạng hóa loại hình dạy học, đòi hỏi
bắt buộc phải có đồ dùng học tập và bổ sung, nâng cao kiến thức khoa học,
kinh tế - văn hóa. Tuy vậy, một số hiện tượng phức tạp, những khái niệm,
những qui luật lịch sử không thể không cần đến phương pháp giải thích. Bởi
giải thích phù hợp với trình độ & yêu cầu học tập lịch sử ở trường phổ thông
sẽ góp phần vào việc phát triển tư duy lí luận của học sinh, giúp học sinh hiểu
rõ bản chất, ý nghĩa của các hiện tượng, khái niệm, qui luật lịch phức tạp ấy.
Năm 2010 là năm kỉ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng, năm tiến hành
Đại hội Đảng các cấp. Chính vì vậy mỗi giáo viên chúng ta cần thấy rõ tầm
quan trọng cũng như ý nghĩa lịch sử của việc ĐCSVN ra đời đối với lịch sử
dân tộc để từ đó nâng cao chất lượng giáo dục nói chung mà cụ thể là nâng
cao chất lượng giảng dạy lịch sử nói riêng.
Trong Chương trình Lịch sử 9 ở Bài 18. Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời có ba đơn vị kiến thức mới mà chỉ được dạy – học trong một tiết vì vậy
nhiều giáo viên không biết làm thế nào để học sinh ghi nhớ sự kiện một cách
tốt nhất, không biết làm thế nào để có thể giúp học sinh hiểu rõ vì sao nói
ĐCSVN ra đời là “bước ngoặt” vĩ đại trong lịch sử của giai cấp công nhân &
cách mạng Việt Nam mà vẫn đảm bảo thời lượng của chương trình.
Để công tác thực hiện chương trình, SGK THCS mới nói chung cũng
như việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở bậc THCS nói riêng đi vào
thuận lợi và có kết quả tốt, đặc biệt làm cho học sinh THCS không chỉ “biết”
mà còn “hiểu” sâu sắc lịch sử dân tộc nhất là lịch sử về sự ra đời, ý nghĩa sự
ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đối với công cuộc chiến đấu bảo vệ xây
dựng đất nước, mặt khác để góp phần phát triển tư duy lí luận của học sinh
THCS tôi đã chọn nội dung “Phát triển tư duy lí luận của học sinh THCS
bằng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử bài 18. ĐCSVN ra đời
(Lớp 9)” - thực trạng và giải pháp để nghiên cứu.
A. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ năm học 2005 - 2006 Bộ giáo dục và Đào tạo (BGD & ĐT) đã tổ
chức thực hiện đại trà SGK môn Lịch sử 9 THCS mới. Hè năm 2006 hầu hết
các Phòng giáo dục, các Sở giáo dục - Đào tạo trong cả nước đã tiến hành
tổng kết công tác thực hiện bồi dưỡng thay sách và giảng dạy theo SGK mới
ở các trường THCS và độ ngũ giáo viên bộ môn. Song các vấn đề nêu ra còn
mang tính chung chung, chưa sát thực, cụ thể với từng bộ môn, từng nội dung
lịch sử cụ thể trong môn Lịch sử, chưa đề cập đến tất cả những thuận lợi cần
phát huy và khó khăn cần giải quyết của bộ môn Lịch sử do thời gian có hạn.
Trên thực tế, thực trạng và giải pháp về việc vận dụng hệ thống các
phương dạy học trong bộ môn lịch sử đã được nhiều thầy cô đề cập, nghiên
cứu, nhưng việc “Phát triển tư duy lí luận của học sinh THCS bằng phương
pháp giải thích trong dạy học lịch sử. Bài 18. Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời - Lớp 9 ” mới nói riêng thì chưa có một tác giả nào nghiên cứu để phục
vụ tốt cho giáo viên và học sinh trong việc dạy - học lịch sử phần ĐCS VN ra
đời.
A. III. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA
Nghiên cứu thực trạng việc “Sử dụng phương pháp giải thích trong dạy
học lịch sử. Bài 18. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời - Lớp 9” sẽ làm sáng tỏ
vấn đề rất quan trọng trong việc thực hiện đổi mới chương trình, SGK và
phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử như: SGK và phương pháp dạy học;
những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện SGK, Sách giáo viên (SGV);
thực trạng đội ngũ giáo viên THCS về trình độ chuyên môn và phương pháp
dạy – học; trình độ nhận thức của học sinh; việc sử dụng phương pháp dạy
học… Từ đó đề xuất các giải pháp phục vụ cho việc sử dụng SGK và đổi mới
phương pháp dạy học bộ môn.
Đưa ra một số phương pháp để góp phần đổi mới phương pháp dạy học và thay SGK môn Lịch sử có hiệu quả: Phương pháp giải thích trong dạy
học lịch sử.
A. IV. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
- Nghiên cứu vấn đề “Phát triển tư duy lí luận của học sinh THCS
bằng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử. Bài 18. Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời - Lớp 9” - lí luận và thực tiễn.
- Phương pháp sử dụng “Sử dụng phương pháp giải thích trong dạy
học lịch sử. Bài 18. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời - Lớp 9”.
A. V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
A. V.1. Đối tượng
- SGK, SGV, Chương trình lịch sử THCS lớp 9 mới
- Giáo viên lịch sử, học sinh THCS Đồng Than, Yên Mỹ, Hưng Yên
A. V. 2. Phạm vi
SGK, SGV, Chương trình lịch sử THCS, lớp 9 mới Bài 18. Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời.
A. VI. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Để giải quyết được vấn đề, đề tài đã kết hợp rất nhiều các phương pháp
nghiên cứu như:
- Phương pháp điều tra khảo sát: Để thấy được thực trạng vấn đề và
giải pháp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Để thấy được sự khác nhau giữa các
lớp có và không áp dụng đề tài, từ đó khẳng định giá trị khả thi của đề tài.
- Phương pháp lôgic: Sử dụng để nghiên cứu vấn đề trong hình thức
tổng quát của nó nhằm nêu nên cái chung, cái tất yếu, bản chất của vấn đề.
- Phương pháp thực nghiệm: Sử dụng phương pháp này để đối chiếu
kết quả của đề tài.
- Phương pháp tổng hợp, qui nạp, phương pháp phân tích, giải thích.
Trong các phương pháp đó đặc biệt coi trọng phương pháp giải thích,
phương pháp phân tích, và phương pháp lôgic.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I
Vấn đề phát triển tư duy lí luận của học sinh THCS bằng phương pháp
giải thích trong dạy học lịch sử bài 18. ĐCSVN ra đời (lớp 9) – lý luận và
thực tiễn
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I.1. Nhân loại bước vào thế kỷ XXI với những chuyển biến mới cực kỳ
quan trọng, ảnh hưởng lớn đến tình hình các nước, các dân tộc và cuộc sống
của mỗi con người. Trong những chuyển biến lớn lao đó, nổi bật lên sự hình
thành một xã hội thông tin, một nền kinh tế tri thức và sự phát triển chưa từng
thấy của khoa học công nghệ cũng như xu hướng không cưỡng lại được của
quá trình toàn cầu hoá. Tất cả các yếu tố đó đã tác động mạnh mẽ đến giáo
dục và tạo ra một làn sóng cải cách giáo dục chung ở các nước trên thế giới.
Điểm chung của công cuộc cải cách giáo dục này là đặc điểm chú ý đến bốn
khuyến cáo của Hội đồng về giáo dục cho thế kỷ XXI của tổ chức Liên hợp
quốc về giáo dục, khoa học, văn hoá (tổ chức UNESCO): “Học để biết, học
để làm, học để cùng chung sống, học để làm người .”
Để giúp cho con người để có thể sống tốt, có trách nhiệm với cộng đồng
trong một xã hội phát triển, các nhà giáo dục trên thế giới đã khẳng định vai
trò quyết định của việc hình thành các năng lực cho người học. Trong đó đặc
biệt nhấn mạnh đến việc hình thành bốn năng lực chìa khoá, đó là: Năng lực
sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự khẳng định mình, năng lực hành động
có hiệu quả. Đây cũng chính là những điểm được nhấn mạnh trong mục tiêu
giáo dục của nhiều nước trên thế giới, trong đó có nước ta.
Để đạt được mục tiêu trên, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới nội dung,
phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học. Đối với nước ta, đổi mới nội
dung và phương pháp dạy học là yêu cầu sống còn của xây dựng đất nước
trong thế giới hợp tác đa phương, trong cuộc cạnh tranh gay gắt về kinh tế, về
nguồn nhân lực có chất lượng trí tuệ cao. Mặt khác, chúng ta đang xây dựng
một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN để ứng phó với đặc điểm
không chắc chắn và những năng lực cơ bản, có khả năng “Dĩ bất biến, ứng
vạn biến”. Chính vì thế, yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học có
ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nước ta trong thời kỳ mới.
Phương pháp dạy học là con đường, cách thức hoạt động thống nhất
của thầy và trò, trong đó thầy tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
Xuất phát từ thành tựu của lí luận dạy học và đặc trưng của môn học,
chúng ta xác định hệ thống phương pháp dạy học lịch sử gồm: Phương pháp
thông tin - tái hiện lịch sử, phương pháp nhận thức lịch sử và phương pháp
tìm tòi nghiên cứu.
Trong việc sử dụng hệ thống phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ
thông nói trên cần chú ý đến những nguyên tắc về dạy học thường xuyên có
mặt trong quá trình dạy học lịch sử. Những nguyên tắc này làm cho việc sử
dụng hệ thống phương pháp sinh động, cụ thể, có hiệu quả sư phạm cao. Một
trong những nguyên tắc dạy học được sử dụng trong môn Lịch sử ở trường
phổ thông đó phương pháp giải thích.
Giải thích là làm cho hiểu rõ (Từ điển Tiếng Việt). Đây là một trong
những hình thức, những cách thức cơ bản của hệ thống dạy học trình bày
miệng – cách thực hiện phương pháp thông tin – tái hiện.
Giải thích được sử dụng trong việc trình bày tài liệu mới, nhắc lại
những kiến thức đã học có liên quan đến việc tiếp thu kiến thức mới để học
sinh tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của những hiện tượng phức tạp, những khái
niệm, các qui luật làm cho học sinh có quan điểm khoa học về sự phát triển
của xã hội loài người, về những mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
Giải thích bao giờ cũng gắn liền với các thao tác của tư duy & thuộc giai đoạn
hai của quá trình nhận thức. Giải thích phù hợp sẽ phát triển tư duy lí cho học
sinh.
Giải thích thường trả lời cho câu hỏi: Vì sao?
I.2. Đặc điểm của tư duy lịch sử & mối quan hệ của nó với phương
pháp giải thích
Tư duy là quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ & quan hệ bên trong có tính qui luật của sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Môn học nào ở trường phổ thông cũng hình thành cho học sinh tư duy
bộ môn, như tư duy toán học, tư duy sinh học…Vì vậy môn lịch sử cũng cho
các em tư duy lịch sử.
Ngoài những tính chất của tư duy nói chung, hoạt động tư duy lịch sử
của học sinh trong quá trình học tập lịch sử cũng có những đặc trưng riêng:
Tư duy lịch sử là hoạt động trí tuệ của học sinh nhằm nhận thức đúng quá
khứ, hiểu rõ hiện tại & dự đoán sự phát triển hợp quy luật của tương lai.
Trong việc hình thành & phát triển tư duy lịch sử, sự kiện lịch sử có vai
trò quan trọng, vì chỉ có thể tư duy đúng đắn trên cơ sở tài liệu – sự kiện.
Song, nắm bắt sự kiện lịch sử phải tiến tới trình độ hiểu biết lịch sử: bản chất,
đặc trưng của sự kiện, quá trình phát triển lịch sử, những biểu hiện cụ thể của
quy luật ở mỗi thời kì… - tức là phải biết giải thích.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong những năm gần đây, bộ môn Lịch sử đã đổi mới nhiều trong các
khâu cơ bản của quá trình dạy học, trong đó có đổi mới phương pháp dạy học
lịch sử. Tuy nhiên, phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử vẫn chậm đổi mới.
Nhìn chung, giáo viên có kết hợp nhiều phương pháp dạy học song chưa hiệu
quả. Giải thích khi dạy học lịch sử chưa được chú ý mặc dù hầu hết ở các
trường, giáo viên dạy môn Lịch sử hầu hết đều đã qua đào tạo chuyên môn Sư
phạm. Nhưng trong quá trình dự giờ thăm lớp đồng nghiệp, khi tham dự các
kỳ giáo viên dạy giỏi bộ môn Lịch sử tôi thấy việc giải thích trong dạy học
lịch sử còn quá khiêm tốn. Nhất là dạy bài 18. ĐCSVN ra đời, bởi:
+ Giáo viên ở trường phổ thông hiện nay vẫn quan tâm SGK, SGV là
chuẩn để dạy học. Mà thực tế khảo sát SGK và SGV lịch sử bậc THCS việc
giải thích một sự kiện, nội dung lịch sử còn quá ít, chung chung, hời hợt.
Chính vì vậy học sinh không hiểu rõ, hiểu sâu sự kiện, khái niệm, thuật ngữ…
Trong khi đó ở nhiều bài lịch sử rất cần giáo viên giải thích hoặc hướng dẫn
học sinh giải thích, đặc biệt ở lớp 9 phần lịch sử Việt Nam (ví dụ: bài 18.
ĐCSVN ra đời (thuật ngữ: Chính cương, luận cương chính trị, “bước ngoặt”
vĩ đại trong lịch sử của giai cấp công nhân & cách mạng Việt Nam...)
+ Số giáo viên thoát ra khỏi quan niệm đó thì hoặc là quá ít “vốn” lịch sử
(do đào tạo 30% sử, 70% văn) hoặc có “vốn” nhưng phương pháp sử dụng
chưa hiệu quả (do chưa xác định được đúng các ô trong sơ đồ Đai-ri nên lúc
nào cũng sợ bài dài không dạy hết, nhất là lịch sử Việt Nam lớp 9) nên cũng
không dám giải thích hoặc giải thích chưa thấu đáo.
Thực trạng đó đã làm cho học sinh không có hứng thú học tập lịch sử so
với học văn, không xác định được mục tiêu học tập bộ môn Lịch sử ở trường
phổ thông. Và từ không có hứng thú học tập, học sinh không thích thậm chí
“sợ” hoặc “ghét” học lịch sử hoặc chỉ học để đạt mức “không bị điểm kém”.
Điều này thể hiện rất rõ ở kỳ thi đầu vào bậc Trung học phổ thông và Đại học,
Cao đẳng hàng năm. Số lượng học sinh có điểm dưới trung bình rất đông. Có
khi một phòng thi chỉ có 1-5 học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên. Chính
điều đó khả năng tư duy lịch sử của học sinh rất hạn chế.
Chương II
Phương pháp phát triển tư duy lí luận của học sinh THCS bằng phương
pháp giải thích trong dạy học lịch sử Bài 18. Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời (Lớp 9)
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BÀI 18. ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỜI
Bài 18: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, được đưa vào nội dung
chương trình lịch sử lớp 9 thuộc phần hai, Chương II. Nội dung cụ thể:
Phần II: Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay
Chương II: Việt Nam trong những năm 1930 – 1939
Bài 18. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
I. Hội nghị thành lập ĐCSVN
II. Luận cương chính trị (10.1930)
III. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập đảng
Nội dung lịch sử này, theo hướng dẫn thực hiện phân phối chương trình
mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng từ năm học 2009 - 2010 theo
hướng giảm tải, điều chỉnh nội dung kiến thức trong từng tiết học cho phù
hợp sẽ được học ở Học kì II trong 1 tiết (tiết 22 tuần 21).
II. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG
Việc giải thích trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải đảm bảo
hai tiêu chuẩn cơ bản: tính giáo dưỡng & tính vừa sức. Giải thích là một
phương pháp khó vì nó phải giải thích về những vấn đề trừu tượng về lịch sử.
Giải thích phải phục vụ được nội dung, yêu cầu của từng bài học, phải phù
hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Vì vậy, trong mỗi bài giảng, giáo
viên cần xác định rõ những vấn nào cần giải thích.
Có nhiều cách để thực hiện phương pháp giải thích trong bài dạy lịch
sử .
Thứ nhất, khi trình bày & khắc sâu cho học sinh một sự kiện, một biến
cố lịch sử quan trọng, giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến thức cần
thiết rồi dừng lại phân tích sự kiện ấy, hoặc hướng dẫn học sinh tự phân tích.
Chẳng hạn khi giải thích về ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Đông
Dương, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích ý nghĩa “bước ngoặt” của sự
thành lập Đảng trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc & tiến bộ xã
hội. Từ đó, đi đến khái quát, kết luận về tính tất yếu, hợp quy luật của sự ra
đời của Đảng & phê phán những luận điểm sai trái về sự kiện này như cho
Đảng ra đời là do sự áp đặt, chưa chín muồi đối với điều kiện Đông Dương
lúc bấy giờ…)
Thứ hai, việc giải thích được tiến hành ở cuối một mục, một bài, một
chương để rút ra những điểm quan trọng nhất mà học sinh cần ghi nhớ.
Chẳng hạn: sau khi học xong các nước đế quốc Anh, Pháp, Đức, Mĩ, giáo
viên cần giải thích đặc điểm chung của chủ nghĩa đế quốc, sự phát triển không
đồng đều về mặt kinh tế sẽ dẫn tới những cuộc chiến tranh phân chia lại thị
trường thế giới.
Thứ ba, trong khi giảng dạy, giáo viên có thể kết hợp giải thích một số
từ, thuật ngữ, khái niệm mới, khó đối với học sinh, hoặc nâng cao sự hiểu biết
của các em về những sự kiện cụ thể lên mức lí luận, khái quát. Ví dụ, khi giải
thích về tính chất không triệt để của cuộc cách mạng tư sản Anh, cần cho học
sinh thấy cuộc cách mạng này được tiến hành dưới sự lãnh đạo của một liên
minh giai cấp giữa tư sản & quý tộc mới, đặc điểm đó nảy sinh trên cơ sở của
mối liên hệ kinh tế. Hai giai cấp này có nguồn gốc khác nhau nhưng lại có
cùng lợi ích trên con đường kinh doanh tư bản chủ nghĩa.
Trong khi tiến hành giải thích, giáo viên nên hướng dẫn động viên tính
tích cực của hoạt động nhận thức của học sinh. Giải thích là bước quan trọng
dẫn đến nắm nội dung khái niệm, từ chỗ hiểu hiện tượng đến hiểu bản chất
của sự kiện lịch sử. Do đó, giải thích giúp học sinh đạt đến mức suy lí, nghĩa
là qua việc hiểu biết lịch sử cụ thể rút ra những kết luận có tính chất lí luận
khái quát. Chính vì thế ngôn ngữ của giải thích phải rất ngắn gọn, khúc chiết
& súc tích; ngữ điệu phải rõ ràng, mạch lạc.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Từ thực trạng việc điều tra nghiên cứu việc áp dụng phương pháp giải
thích trong dạy học lịch sử nói chung và việc dạy lịch sử Sự ra đời của
ĐCSVN nói riêng tôi đã tìm hiểu nguyên nhân, cơ sở lí luận và phương pháp
sử dụng chúng.
Để khẳng định tính đúng đắn của vấn đề tôi đã tiến hành soạn hai giáo
án, một giáo án soạn có sử dụng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử,
một giáo án soạn không sử dụng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử
cho Tuần 21. Tiết 22. Bài 18. Đảng cộng sản Việt nam ra đời. (Có giáo án
kèm theo)
Với giáo án soạn có sử dụng phương pháp giải thích trong dạy học lịch
sử tôi đem áp dụng vào dạy thử cho học sinh lớp 9B. Giáo án soạn không sử
dụng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử tôi đem áp dụng vào dạy
thử cho học sinh lớp 9C trường THCS Đồng Than. Kết quả thu được: Về
hứng thú học tập, khả năng nắm kiến thức, thái độ tình cảm của học sinh ở lớp
có sử dụng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử khả quan hơn so với
lớp không sử dụng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử. Cụ thể:
Lớp
9B
9C
Sĩ số
35
37
Hứng thú học tập
TS
%
20
18
57.1
48.7
Có khả năng nắm
Thái độ tình
kiến thức
TS
%
cảm rõ ràng
TS
%
25
22
18
18
71.4
59.5
51.4
48.7
Với số liệu trên ta thấy ta thấy đề tài có hiêụ quả rõ rệt: Số học sinh có
hứng thú học tập, có khả năng nắm bắt kiến thức, có thái độ tình cảm rõ ràng
với bộ môn đã tăng. Vì vậy tôi nghĩ rằng có thể áp dụng đề tài này phổ biến
vào quá trình giảng dạy và học tập bộ môn Lịch sử cho giáo viên và học sinh
THCS.
IV. NHỮNG HẠN CHẾ, VẤN ĐỀ CÒN BỎ NGỎ
Lịch sử là một ngành khoa học của khoa học xã hội, là hình thức quan
trọng của việc con người nhận thức sự phát triển của xã hội. Mà sự phát triển
ấy chính là những cái đã qua từ rất xa, những cái đang diễn ra & cả những cái
chưa xảy ra. Chính vì vậy, dạy - học Lịch sử, nhất là Lịch sử về sự ra đời của
Đảng không phải là dễ. Phương pháp giải thích trong giảng dạy Lịch sử là
một trong những phương pháp khó làm nhưng có hiệu quả cao khi phát triển
tư duy lí luận cho học sinh THCS. Các bài dạy có thể sử dụng phương pháp
này còn nhiều nhưng đề tài này mới chỉ áp dụng vào một bài : Bài 18.
ĐCSVN ra đời (lớp 9) mà chưa có điều kiện trình bày việc áp dụng phương
pháp này vào những bài khác trong chương trình lịch sử THCS.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua quá trình giảng dạy của bản thân, qua quá trình dự giờ thăm lớp
đồng nghiệp & đặc biệt qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực
tiễn tôi rút ra được một vài kinh nghiệm nhỏ có thể nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn như sau:
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để có hướng vận dụng phương pháp
dạy học cho thích hợp.
- Kết hợp với các đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo, tích hợp kiến
thức các môn: Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân, nhất là kiến thức môn
Ngữ văn để minh họa, dẫn chứng cho giờ dạy - học Lịch sử thêm sinh động,
gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Ngôn ngữ trình bày của giáo viên phải rõ ràng, gây cảm xúc, có ngữ
điệu phù hợp.
- Giành thời gian hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới một cách cụ
thể.
- Hướng dẫn học sinh sưu tầm, sử dụng tư liệu để mở rộng, khắc sâu
kiến thức.
- Tùy theo đối tượng học sinh & cơ sở vật chất phục vụ quá trình dạy học mà sử dụng phương pháp giải thích trong dạy - học Lịch sử cho phù hợp.
VI. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG
Do điều kiện sinh hoạt của học sinh các trường THCS không giống
nhau, sự tiếp thu kiến thức của các em khác nhau, cơ sở vật chất phục vụ cho
dạy - học ở các trường cũng khác nhau, vì vậy việc áp dụng có hiệu quả cao
nhất cũng khác nhau.
Đương nhiên sáng kiến có thể sử dụng cho tất cả giáo viên & học sinh
THCS nếu học sinh có ý thức học tập, nhận thức tốt & giáo viên có kinh
nghiệm giảng dạy, yêu nghề, say mê với việc mở rộng kiến thức cho học sinh
thì đây là điều kiện tốt & ngược lại.
Để có kết quả như mong muốn cần có các phương tiện dạy - học hỗ trợ,
như: video, cátset, máy chiếu, phim tư liệu…
VII. ĐỀ XUẤT
Năm 1941, khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã biên soạn quyển “Lịch sử nước ta” bằng thơ lục bát với
hai câu mở đầu :
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
“Biết” để tường nguồn gốc mình mà đấu tranh giành độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội. Có thể khẳng định rằng, tác dụng của bộ môn Lịch sử không
chỉ cung cấp kiến thức (giáo dưỡng) mà còn có tác dụng về tình cảm, phẩm
chất, đạo đức, quan điểm chính trị (giáo dục) về nhận thức tư tưởng và khả
năng hành động (phát triển)
Là trí thức XHCN, là người kỹ sư tâm hồn, tôi nghĩ rằng, người giáo
viên nói chung và người giáo viên giảng dạy Lịch sử nói riêng phải thấy rõ và
thực hiện tốt trách nhiệm đối với bộ môn mình giảng dạy. Giải thích trong
dạy học Lịch sử là một trong những phương pháp có vị trí, ý nghĩa vô cùng to
lớn đối với việc giáo dưỡng, giáo dục, phát triển thế hệ trẻ. Vì lẽ đó, tôi mạnh
dạn đưa ra một số đề xuất về vấn đề nâng cao chất lượng bộ môn qua việc sử
dụng phương pháp giải thích trong việc phát triển tư duy lí luận của học sinh
THCS :
- Giảm thiểu số giáo viên không có chuyên môn dạy kê môn Sử.
- Tổ chức bồi dưỡng phương pháp dạy học mới đại trà cho toàn bộ giáo
viên bộ môn. Trong quá trình bồi dưỡng, tăng cường các giờ dạy minh hoạ để
giáo viên dự, học tập và rút kinh nghiệm, tăng cường cho học viên soạn bài và
giảng thử để tất cả học viên đều rút kinh nghiệm. Nếu nảy sinh những vướng
mắc, khó khăn đội ngũ cốt cán có điều kiện để giúp đỡ.
- Trang bị cho giáo viên những tài liệu tham khảo bổ ích (các bài soạn
của giáo viên giỏi bộ môn qua các kì thi Giáo viên giỏi các cấp, những sáng
kiến kinh nghiệm bộ môn), giới thiệu những tư liệu để giáo viên sưu tầm và
vận dụng vào thực tế giảng dạy.
- Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, bồi dưỡng cách tổ chức hoạt động
ngoại khoá, cách tổ chức việc tự học cho học sinh.
- Giáo viên cần tự sưu tầm tầm thêm các tranh ảnh, đồ dùng dạy học
phù hợp với bài học.
- Giáo viên cần tích hợp kiến thức các bộ môn (Ngữ văn, Địa lí, Giáo
dục công dân…) minh hoạ, dẫn chứng cho giờ dạy Sử thêm sinh động, gây
hứng thú học tập cho học sinh.
- Hướng dẫn học sinh sưu tầm, sử dụng tư liệu để mở rộng, khắc sâu
kiến thức, giải thích những vấn đề tương tự.
C. KẾT LUẬN
Nhân loại bước vào thế kỷ XXI với bước phát triển nhảy vọt về khoa
học công nghệ và hình thành một xã hội thông tin. Những yếu tố đó tác động
mạnh mẽ đến giáo dục và đặt ra yêu cầu bức thiết là phải cải cách nền giáo
dục ở tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đang tiến hành Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, đổi mới giáo dục
phổ thông là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ sống còn của đất nước
nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng trí tuệ cao, có
thể cạnh tranh với thế giới và khu vực.
Đứng trước yêu cầu đó Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
TW khoá VIII (1996) đã ghi rõ : “phải đổi mới mạnh mẽ phát triển giáo dục
và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy
sáng tạo của người học”.
Tại điều 4, Chương I của Luật giáo dục nước cộng hoà XHCN Việt
Nam (11.1998) quy định : “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động tư duy, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng nêu rõ
: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cần tạo
chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo. Đổi mới phương pháp
dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học,
coi trọng thực hành, thực nghiệm ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi
nhét, học vẹt, học chay” .
Trên cơ sở các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và đạt được
mục tiêu của chương trình, khoá học Lịch sử, giáo viên cần vận dụng các
phương pháp dạy học Lịch sử sao cho phù hợp. Trong đó đặc biệt chú ý đến
phương pháp giải thích bởi tính ưu việt của nó khi tìm hiểu bản chất, ý nghĩa
của những hiện tượng phức tạp, những khái niệm các quy luật lịch sử & rèn
cho học sinh kĩ năng tư duy lí luận.
Dân tộc ta vẫn tự hào vì có lịch sử lâu đời “dựng nước gắn với giữ
nước”. ĐCSVN ra đời đã ghi thêm một mốc son chói lọi vào trang sử vàng
truyền thống ấy. Bởi ĐCSVN ra đời đã đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng
gần một thế kỉ của thực dân Pháp & đế quốc Mĩ, đưa đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, đưa vai trò, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng cao. Chính vì vậy để giúp học sinh hiểu sâu sắc điều đó, người giáo viên
Lịch sử ở trường phổ thông cần vận dụng nhuần nhuyễn, khéo léo phương
pháp dạy học trên.
Tuy nhiên, thực tế quá trình giảng dạy lịch sử ở bậc THCS, Bài 18.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời có dung lượng kiến thức dài, học sinh chưa
thực sự “cần” học, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy - học chưa đảm
bảo, vì vậy khi sử dụng phương pháp giải thích cần lựa chọn cho phù hợp với
đối tượng học sinh.
Tôi hy vọng rằng với việc nghiên cứu đề tài “Phát triển tư duy lí luận
của học sinh THCS bằng phương pháp giải thích trong dạy học lịch sử. Bài
18. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời - Lớp 9 ” sẽ góp phần giúp anh chị em
giáo viên giảng dạy Lịch sử ở các trường THCS tham khảo để nâng cao chất
lượng học tập môn Lịch sử cho học sinh, nhất là Lịch sử ĐCSVN để các em
trân trọng những thành quả mà các bậc tiền bối đã tạo dựng và để lại cho đặc
biệt là Hồ Chí Minh. Mặt khác càng hiểu thêm vai trò của Đảng trong cuộc
sống để từ đó ra sức học tập để trở thành nguồn nhân lực có chất lượng trí tuệ
cao phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương góp phần đưa
đất nước “sánh vai kịp các cường quốc năm châu” như mong mỏi của Bác lúc
sinh thời.
Nhưng do thời gian có hạn, năng lực, kinh nghiệm của bản thân chưa
dày dạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận đựơc
sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp & phụ huynh học sinh để đề tài được
hoàn chỉnh, góp phần nâng cao việc giảng dạy của giáo viên & chất lượng
kiến thức cúng như năng lực tư duy lí luận cho học sinh.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Đồng Than, ngày 25 tháng 3 năm 2010
NGƯỜI THỰC HIỆN
Phạm Thị Lan Hằng