Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

12.THUThực trạng PHÂN LOẠI VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢI MỘT SỐ BÀI TẬP VỀ HYDROCACBON TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPTCTRAG-Chuong III.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.74 KB, 8 trang )

Luận văn tốt nghiệp GVHD : Cô Vũ Thị Thơ
CHƯƠNG III : TÌM HIỂU THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC
MÔN HOÁ Ở MỘT SỐ TRƯỜNG THPT
III.1 – MỤC ĐÍCH ĐIỀU TRA :
- Tìm hiểu động cơ, tinh thần, ý thức học tập môn hoá của học sinh.
- Thái độ, kỹ năng giải bài tập hoá học của học sinh đặc biệt là đối với bài tập hóa hữu cơ
chương trình lớp 11 : bài tập về hydrocacbon.
- Sự yêu thích và sự đánh giá mức độ khó của học sinh đối với các dạng bài tập hoá hữu cơ.
- Tìm hiểu về việc sử dụng các phương pháp giải bài toán hoá hữu cơ.
- Phương pháp học tập và kết quả học tập môn hoá.
III.2 – ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU TRA VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA :
- Điều tra thực trạng học tập môn hoá của học sinh khối 11 bằng cách phát phiếu thăm dò ý
kiến ở một số trường THPT, cho các em trả lời thu lại liền hoặc mang về nhà đánh dấu sau
đó nộp lại. Yêu cầu các em trả lời đúng với suy nghĩ của mình.
III.3- NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA :
Tiến hành phát phiếu điều tra ở các lớp thuộc các trường THPT sau :
STT Trường Lớp Số phiếu phát ra Số phiếu thu về
1 Hùng Vương 11A8 43 43
2 Gò Vấp 11A5 44 44
3 Nguyễn Du 11B3 48 47
4 Võ Thị Sáu 11A 11 47 45
Tổng
cộng
182 179
Phiếu điều tra gồm 16 câu, được soạn dưới hình thức trắc nghiệm cho học sinh đánh
dấu. Sau khi tập hợp thống kê ta thu được kết quả như sau :
 III.3.1 Cảm nhận chung của học sinh về môn hóa :
Câu Nội dung Số ý kiến
(A)
Tỉ lệ (%)
(B)


1 Em có thích học môn hoá không?
A. Rất thích
B. Thích
C. Không thích
D. Không ý kiến
25
94
20
40
13,96
52,51
11,17
22,34
2 Em thích học môn hoá vì lý do
gì?
A. Môn hoá là một trong những
môn thi vào các trường ĐH, CĐ
49 27,37
SVTH : Phan Thị Thùy
106
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Cô Vũ Thị Thơ
B. Có nhiều ứng dụng trong thực tế
C. Thầy cô dạy vui vẻ, dễ hiểu.
D. Có nhiều thí nghiệm vui hấp dẫn
E. Bài tập dễ, hay
F. Lý do khác
62
32
56
10

17
34,63
17,87
31,28
5,5
9,19
3 Em không thích học môn hoá vì :
A. Môn hoá rất khó hiểu, rắc rối,
khó nhớ.
B. Thầy cô dạy rất khó hiểu, giờ
học nhàm chán.
C. Môn hoá không giúp ích gì cho
cuộc sống.
D. Không có hứng thú học môn
hoá.
E. Bị mất căn bản môn Hóa
53
4
4
24
17
29,6
2,23
2,23
13,40
9,49
4 Theo em môn hoá dễ hay khó?
A. Rất khó
B. Khó
C. Vừa

D. Dễ
25
56
89
9
13,96
31,28
49,72
5,02
Nhận xét :
Nhìn vào kết quả ta thấy rằng : Đại đa số các em thích học môn hoá (66,47%) mặc dù
trong trường phổ thông còn nhiều môn học khác nữa. Các em thích học môn hoá vì nhiều lý
do khác nhau. Nhưng có lẽ lý do được các em chọn nhiều nhất là do môn hoá có nhiều ứng
dụng trong thực tế (34,63%), kế đến là môn hoá có nhiều thí nghiệm vui hấp dẫn (31,28%).
Và nhiều em thích học môn hoá vì nó là một môn học trong số những môn mà các em sẽ thi
đại học (27,37%). Và trong số 9,19% lý do khác thì có một số em ghi thêm : thích học hóa vì
nó là môn học bắt buộc. Các lý do trên hoàn toàn chính đáng và rất hợp lý.
So sánh giữa lý do làm cho các em thích học và không thích học môn hoá thì thấy vai
trò của nguời giáo viên rất quan trọng, các em yêu thích môn học do những nét đặc trưng rất
riêng của môn hoá : có nhiều ứng dụng và nhiều thí nghiệm vui hấp dẫn. Các em không
thích học môn hoá cho rằng môn hoá khó hiểu rắc rối nhàm chán (29,6%) và các em không
có hứng thú học môn hoá (13,4%).
Như chúng ta biết nhờ tài năng của người giáo viên, những nét đặc trưng riêng của
môn hoá so với môn khác, yếu tố quan trọng để các em học sinh yêu thích môn hóa sẽ được
làm rõ, phát huy. Nhưng tài năng đó có được phát huy hay không còn phụ thuộc vào thái độ
học tập của các em học sinh nữa.
Phần lớn học sinh cho rằng môn hoá vừa và hơi khó (71%). Các em thấy khó phần lớn
là không hiểu bài, không học bài và không biết làm bài tập. Xin trích lời của một em học
sinh :
“ Môn hoá sẽ trở nên dễ nếu một học sinh cố gắng tìm hiểu học hỏi cho dù thầy cô dạy khó

hiểu. Nhưng môn hoá sẽ trở nên khó nếu học sinh không muốn học dù thầy cô dạy dễ hiểu”
SVTH : Phan Thị Thùy
107
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Cô Vũ Thị Thơ
Vậy sự yêu thích, cảm nhận về môn hoá khó hay dễ phụ thuộc cả hai phía từ nguời
giáo viên và cả từ phía học sinh. Bởi vậy, nguời giáo viên cần phải cố gắng phát huy những
nét đặc trưng của môn hoá đồng thời khơi dậy ở các em lòng say mê học hỏi, nghiên cứu
khoa học.
 III.3.2 Ý thức học tập môn Hóa của học sinh:
Câu Nội dung (A) (B)
5 Trong giờ học môn hoá em thường :
A. Tập trung nghe giảng, phát biểu ý kiến
B. Nghe giảng một cách thụ động.
C. Không tập trung
D. Ý kiến khác
53
89
4
33
29,60
49,72
2,23
18,43
6 Em thường học môn hoá khi nào?
A. Thường xuyên.
B. Khi nào có giờ hoá.
C. Khi sắp thi
D. Khi có hứng thú
E. Ý kiến khác
22

86
28
43
19
12,29
48,04
15,64
24,02
10,61
Nhận xét :
Theo kết quả điều tra cho thấy các em có ý thức học tập chưa cao. Các em dành thời
gian cho môn hoá không nhiều, chủ yếu là khi có giờ hoá (48,04%) và khi sắp thi(15,64%).
Như vậy, cách học của các em có phần đối phó học để trả bài để được điểm tốt, còn số các
em học hoá thường xuyên(12,29%) và khi có hứng thú không nhiều(24,02%), thấp và trong
số 10,61% các em có ý kiến khác thì có những ý kiến : không học gì hết hoặc thi thoảng mới
học môn hóa chứng tỏ các em còn lơ là đối với việc học môn hoá.
Trong giờ học phần lớn các em ngồi tập trung nghe giảng nhưng nghe giảng một cách
thụ động (49,72%), số em ngồi nghe giảng có tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài chỉ
chiếm 29,6%. Ở đây không thể đổi lỗi cho học sinh, nó phản ánh lối truyền thụ kiến thức
một chiều truyền thống của nền giáo dục nước ta. Giáo viên giảng, học sinh chép bài một
cách thụ động. Cũng không thể không nói đến sự bất hợp lý trong chương trình hiện nay. “
Giáo viên giảng để tất cả các em hiểu thì không kịp giờ, không kịp biểu diễn thí nghiệm”,
“Còn nếu kịp giờ, kịp biểu diễn thí nghiệm thì học sinh không hiểu kịp”.
Tuy nhiên, người giáo viên cần tạo mọi điều kiện khuyến khích các em tham gia phát
biểu ý kiến xây dựng bài trong giờ học. Có như vậy các em mới có điều kiện hiểu và nhớ
những kiến thức đã học.
 III.3.2 Thái độ của học sinh đối với bài tập hóa học :
Câu Nội dung (A) (B)
7 Đối với bài tập hữu cơ, em
thường :

A. Chỉ làm bài tập giáo viên cho
B. Chỉ làm những bài dễ
C. Tìm thêm bài tập để làm
D. Chỉ làm một số bài khi giáo viên
ôn tập.
93
43
19
37
51,95
24,02
10,61
20,67
SVTH : Phan Thị Thùy
108
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Cô Vũ Thị Thơ
E. Không làm gì cả 7 3,91
8 Khi làm bài tập hoá hữu cơ, em
thường :
A. Giải theo cách giáo viên hướng
dẫn
B. Giải bằng nhiều cách khác nhau.
C. Suy nghĩ tìm cách giải hay, ngắn
gọn.
D. Tìm cách giải phù hợp với mình
nhất.
E. Ý kiến khác
113
6
11

62
20
63,12
3,35
6,14
34,63
11,17
9 Khi giải bài tập gặp khó khăn, em
thường :
A. Suy nghĩ tìm cách giải
B. Tranh luận với bạn bè
C. Hỏi giáo viên
D. Tìm sách tham khảo
E. Bỏ qua không quan tâm
44
79
30
43
22
24,58
44,13
16,75
24,02
12,29
10 Khi học hoá, em thường dùng thời
gian để :
A. Học lý thuyết
B. Làm bài tập căn bản
C. Làm bài tập khó
D. Học môn khác.

57
101
22
22
31,81
56,42
12,25
12,29
Nhận xét :
Khi tìm hiểu về thái độ, ý thức, kỹ năng của các em đối với bài tập hoá ta thấy học
sinh bây giờ rất thực tế. Các em chủ yếu làm bài tập giáo viên cho (51,95%), giải theo cách
giáo viên hướng dẫn (63,12%), làm bài tập căn bản (56,42%) khi không biết thì tranh luận
với bạn bè (44,13%). Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với thực tế. Các em không chỉ học
môn hoá mà còn nhiều môn khác nữa nên không có nhiều thời gian để tìm hiểu thêm kiến
thức ngoài, tìm những cách giải hay, ngắn gọn có chăng cũng chỉ có ở những học sinh khá
giỏi.
Bên cạnh đó cũng còn một phần nhỏ các em học sinh chịu khó tìm thêm bài tập để làm
(10,61%), giải bằng nhiều cách giải khác nhau (3,35%). Khi gặp bài toán khó thì tranh luận
với bạn bè nếu không giải quyết được thì hỏi giáo viên (16,75%), tìm thêm sách tham khảo
(24,02%). Đó là một điều đáng mừng cho nền giáo dục nước nhà vì còn có những học sinh
ham học hỏi có niềm say mê khoa học, yêu thích môn hoá học và biết vượt qua thử thách.
Giáo viên cần phát hiện và trả lời kịp thời những thắc mắc của các em đồng thời trong giờ
học, giáo viên cũng cần cố gắng đặt ra nhiều tình huống có vấn đề để các em suy nghĩ phát
biểu ý kiến xây dựng bài.
Tuy nhiên, bên cạnh điều đáng mừng trên thì vẫn có một số em thái độ học không tốt
như khi làm bài tập hóa hữu cơ thì các em không làm gì cả (3,91%); khi gặp bài tập khó thì
bỏ qua không quan tâm (12,29%) và khi học hóa thì lại dùng thời gian cho việc học môn
khác (12,29%).
SVTH : Phan Thị Thùy
109

Luận văn tốt nghiệp GVHD : Cô Vũ Thị Thơ
Khi gặp khó khăn thì có đến 44,13% học sinh tranh luận với bạn bè. Có lẽ không ai
gần gũi và hiểu các em như chính bạn bè của các em. Do đó trong lớp học, nếu có thể giáo
viên hãy xây dựng những tổ nhóm học tập tốt để giúp đỡ các em học sinh yếu, phát triển các
em học sinh giỏi .Có như thế, học sinh mới không ỷ lại, biết suy nghĩ giải quyết vấn đề một
cách logic, khoa học.
 III.3.4 Cách học hóa của học sinh :
Câu Nội dung (A) (B)
11 Em thường :
A. Học lý thuyết trước làm bài tập sau
B. Vừa làm bài vừa coi lý thuyết
C. Bắt tay vào làm đến khi không làm
được nữa thì thôi.
D. Những bài nào giáo viên làm rồi thì
làm lại được không thì thôi.
83
59
21
13
46,36
32,96
11,73
7,26
Nhận xét :
Về cách học môn hóa của các em thì có 54,69% các em có cách học hóa tốt:
học lý thuyết trước sau đó vận dụng vào việc giải bài tập. Môn hóa là môn lý thuyết tương
đối nhiều ,các em có thể làm bài tập, thực hành khi đã nắm vững lý thuyết.Và việc làm bài
tập sẽ giúp củng cố, phát triển lý thuyết. Nên tất yếu phải học lý thuyết trước khi làm bài
tập.Cách học vừa làm bài tập vừa xem lý thuyết cũng không hiệu quả vì các em sẽ mau quên
nhưng lại có đến 41,43% học sinh học như vậy. Và có 11,60% các em bắt tay vào làm bài

ngay đến khi không làm được thì thôi và 10% chỉ làm được những bài mà giáo viên đã làm.
Như vậy có 45,31% học sinh có phương pháp học hóa chưa đúng.
Giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh cách học môn hóa trước mỗi năm học hoặc đối
với một số bài cụ thể.
 III.3.5 Mức độ quan tâm của học sinh đối với bài tập hóa hữu cơ :
Câu Nội dung Rất thích Thích Không
thích
Không ý
kiến
12 Em thích dạng bài
tập hóa hữu cơ
nào:
- Viết đồng phân,
gọi tên
- Chuỗi phản ứng,
điều chế.
- Nhận biết.
- Tách, tinh chế.
- Tìm CTPT, CTCT
hợp chất hữu cơ.
- Bài tập hỗn hợp.
(A) (B) (A) (B) (A) (B) (A) (B)
21
16
12
5
18
8
11,73
8,93

6,70
2,79
10,05
4,46
85
83
80
40
82
62
47,48
46,36
44,69
22,34
45,81
34,63
35
50
48
80
36
58
19,55
27,93
26,81
44,69
20,11
32,40
38
30

40
56
42
51
21,22
16,75
22,34
31,28
23,46
28,49
Nhận xét :
SVTH : Phan Thị Thùy
110

×