Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Thực trạng nhiễm viêm gan B, C và HIV trên bệnh nhân đang điều trị Methadone tại Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật Bắc Ninh năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.35 KB, 55 trang )

SỞ Y TẾ BẮC NINH
TRUNG TÂM KIỂM SOÁT BỆNH TẬT

ĐINH MAI VÂN

THỰC TRẠNG NHIỄM VIÊM GAN B, C VÀ HIV TRÊN
BỆNH NHÂN ĐANG ĐIỀU TRỊ METHADONE TẠI TRUNG
TÂM KIỂM SOÁT BỆNH TẬT TỈNH BẮC NINH NĂM 2020

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

Bắc Ninh – 2020


SỞ Y TẾ BẮC NINH
TRUNG TÂM KIỂM SOÁT BỆNH TẬT

THỰC TRẠNG NHIỄM VIÊM GAN B, C VÀ HIV TRÊN
BỆNH NHÂN ĐANG ĐIỀU TRỊ METHADONE TẠI TRUNG
TÂM KIỂM SOÁT BỆNH TẬT TỈNH BẮC NINH NĂM 2020

Người thực hiện:
ĐINH MAI VÂN & CỘNG SỰ

Bắc Ninh – 2020


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS

: Acquired Immune Deficiency Syndrome


(Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)

ART

: Anti Retroviral Therapy (Điều trị kháng vi rút)

ARV

: Anti Retrovirus (Thuốc kháng retrovirus)

CDC

: Centers for Disease Control and Prevention (Trung tâm kiểm soát
và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ)

ĐTNC

: Đối tượng nghiên cứu.

Genotype

: Kiểu gen

ELISA

: Enzyme linked Immuno Sorbant Assay (Phản ứng
miễn dịch gắn men)

HBV


: Hepatitis B Virus (Vi rút gây viêm gan B)

HCV

: Hepatitis C Virus (Vi rút gây viêm gan C)

HIV

: Human Immunodeficiency Virus
(Virus gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người)

NCMT

: Nghiện Chích Ma Túy

PCR

: Polymerase chain reaction (Phản ứng chuỗi men
Polymerase)

PNBD

: Phụ nữ bán dâm

QHTD

: Quan hệ tình dục

RNA


: Ribonucleic acide (A xít Ribo Nucleic)

TCD4

: Tế bào Lympho T mang thụ thể CD4 trên bề mặt

VL

: Virus Load (Tải lượng vi rút)


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng số

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1

Phân bố theo tuổi, giới và nghề nghiệp

26

Bảng 3.2

Tình trạng hơn nhân

27


Bảng 3.3

Tiền sử sử dụng ma túy của bệnh nhân

28

Bảng 3.4.

Tiền sử bệnh tật trước khi vào điều trị

30

Bảng 3.5.

Yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV/HBV/HCV

30

Bảng 3.6.

Tình trạng nhiễm vi rút của bệnh nhân

32

Bảng 3.7.

Mối liên quan giữa thời gian TCMT và tỷ lệ nhiễm
HIV, HBV, HCV

31


Bảng 3.8.

Mối liên quan giữa thời gian tiêm chích ma túy và tỷ lệ
đồng nhiễm HIV, HBV, HCV

32

Bảng 3.9.

Mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm HIV/HBV/HCV với các
nhóm tuổi của ĐTNC

33

Bảng 3.10. Mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm HIV, HBV, HCV và
tình trạng hơn nhân của ĐTNC

33

Bảng 3.11 Mối liên quan giữa việc sử dụng BCS thường xuyên khi
QHTD với tình trạng nhiễm HIV, HBV, HCV

34

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Số TT

Tên hình vẽ


Trang

1

Hình vẽ 1.1: Cấu trúc HIV-1

3

2

Hình vẽ 1.2: Cấu trúc và bộ gen HBV

6

3

Hình vẽ 1.3: Cấu trúc HCV

10

4

Biểu đồ 3.1: Phân bố tuổi của ĐTNC theo nhóm tuổi

27

5

Biểu đồ 3.2: Tần suất sử dụng ma túy 30 ngày trước khi
vào điều trị


29

6

Biểu đồ 3.3: Cách sử dụng ma túy 30 ngày trước khi vào
điều trị

29

MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU......................................................................3
1.1. Tình trạng nhiễm viêm gan B, C và HIV trên thế giới và Việt Nam.................3
1.1.1. Nhiễm HIV........................................................................................................3
1.1.2. Nhiễm viêm gan B............................................................................................6
1.1.3. Nhiễm viêm gan C:...........................................................................................9
1.1.4. Tình trạng đồng nhiễm viêm gan B, viêm gan C và HIV:..............................13
1.2. Tình trạng nhiễm HIV, HBV, HCV và yếu tố liên quan làm tăng khả năng lây
nhiễm ở một số đối tượng nguy cơ cao:....................................................................15
1.3. Biện pháp dự phòng nhiễm HIV, HBV, HCV.................................................17
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................20
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu...................................................................20
2.2. Đối tượng nghiên cứu:.....................................................................................20
2.3. Phương pháp nghiên cứu:................................................................................20
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:................................................................24
2.5. Phương pháp thu thập số liệu: Chuẩn bị thu thập số liệu:...............................24
2.6. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu:.........................................................25

2.7. Khía cạnh đạo đức:..........................................................................................25
2.8. Hạn chế của nghiên cứu:.................................................................................25
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU...................................................................26
1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu:...........................................................26
2. Thực trạng nhiễm của bệnh nhân điều trị methadone...........................................30
3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng lây nhiễm HIV, HBV, HCV của đối
tượng nghiên cứu.......................................................................................................31
Chương 4. BÀN LUẬN...........................................................................................35
KẾT LUẬN..............................................................................................................45
KIẾN NGHỊ.............................................................................................................46


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm các vi rút viêm gan B, viêm gan C và HIV là một nhóm các vi rút gây
bệnh nguy hiểm ở người và nằm trong nhóm 10 nguyên nhân gây bệnh hàng đầu
trên thế giới. Các vi rút này có cách thức lây truyền giống nhau, đó là: qua đường
máu, qua đường tình dục và lây truyền dọc từ mẹ sang con. Nhưng mỗi loại vi rút
có khả năng lây nhiễm khác nhau với các hình thức phơi nhiễm, nên tỷ lệ nhiễm
cũng khác nhau theo địa dư . Người có nguy cơ cao nhiễm HIV, đồng thời cũng có
nguy cơ cao nhiễm viêm gan B và HCV. Trong số 40 triệu người nhiễm HIV trên
thế giới, ước tính 2-4 triệu người nhiễm viêm gan B mạn tính và 4-5 triệu người
nhiễm viêm gan C mạn tính. Cũng theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới năm
2017, thế giới có 6 tỷ người trong đó có 2 tỷ người đã nhiễm viêm gan B, 257 triệu
người (3,5% dân số) nhiễm HBV mãn tính năm 2015. Ở Đông Nam Á 39 triệu
người đã nhiễm HBV (15% dân số) và 600.000 người chết mỗi năm. Ở Việt Nam
năm 2013 có 9,6 triệu người đã nhiễm viêm gan B (10,5%). Cũng theo báo cáo của
Tổ chức Y tế thế giới năm 2017, thế giới ước tính có khoảng 70 triệu người đang
sống với vi rút viêm gan C. Theo thống kê của Chương trình phối hợp của Liên hợp

quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) năm 2019, trên tồn thế giới có 37,9 triệu người
đang sống chung với vi rút HIV và có 23,3 triệu người bệnh đang điều trị bằng
thuốc kháng HIV (ART) [5].
Đồng nhiễm các vi rút sẽ làm thay đổi diễn biến tự nhiên của từng loại đơn
nhiễm, hơn nữa đồng nhiễm vi rút viêm gan làm cho việc điều trị kháng vi rút
(ART) trở nên phức tạp hơn do tăng nguy cơ gây độc với gan và phải lựa chọn
thuốc đặc hiệu có tác dụng với cả HIV và viêm gan. Cũng do đặc điểm lây truyền
như vậy nên những tác nhân này có khả năng lây lan rất cao trong những nhóm
quần thể đặc biệt có hành vi hoặc điều kiện làm tăng nguy cơ lây nhiễm như nhóm
nghiện chích ma túy, phụ nữ bán dâm…, bệnh nhân truyền máu nhiều lần (hay còn
gọi là nhóm nguy cơ lây truyền cao hoặc nhóm nguy cơ cao). Những nhóm nguy cơ
cao này chính là những nhóm có vai trị hết sức quan trọng trong dịch tễ học và y tế


2

cơng cộng vì khả năng phát tán, lây lan dịch bệnh nguy hiểm này trong gia đình,
cộng đồng và trong các cơ sở y tế [11].
Tại Cơ sở điều trị Methadone, Trung tâm Kiểm sốt Bệnh tật Bắc Ninh tính
đến tháng 31/12/2019 hiện đang quản lý và điều trị bằng thuốc Methadone cho 434
bệnh nhân nghiện các chất dạng thuốc phiện. Qua khảo sát nhanh, bệnh nhân đa số
có tiền sử nghiện chích Heroine, và có rất nhiều bệnh nhân nhiễm viêm gan B, C và
một số nhiễm HIV. Để có những thơng tin cập nhật về tình trạng nhiễm viêm gan B,
viêm gan C, HIV và các yếu tố nguy cơ lây truyền trong nhóm nghiện ma túy là rất
cần thiết trong dịch tễ học và y tế cộng cộng để giúp các nhà chuyên môn cũng như
các nhà quản lý trong công tác dự báo và lập kế hoạch phòng chống các yếu tố nguy
cơ này một cách có hiệu quả. Hơn nữa tại Bắc Ninh chưa có đề tài nào nghiên cứu
về chủ đề này. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài:
“Thực trạng nhiễm viêm gan B, C và HIV trên bệnh nhân đang điều trị

Methadone tại Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật Bắc Ninh năm 2020” với các mục
tiêu sau:

1. Mô tả thực trạng nhiễm viêm gan B, viêm gan C và HIV trên bệnh nhân đang
điều trị Methadone tại CDC Bắc Ninh năm 2020

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến khả năng lây nhiễm viêm gan B, C và HIV
trên bệnh nhân đang điều trị Methadone tại CDC Bắc Ninh năm 2020.


3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình trạng nhiễm viêm gan B, viêm gan C và HIV trên thế giới và Việt
Nam
1.1.1. Nhiễm HIV.
1.1.1.1. Tác nhân gây bệnh.
HIV là vi rút gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. Là loại vi rút có men
sao chép ngược. Hiện nay, người ta xác định có hai vi rút khác biệt, HIV type 1 và
2 (HIV-1 và HIV-2). HIV-1 chịu trách nhiệm gây nhiễm hầu hết trên tồn cầu.
HIV-2 tìm thấy chủ yếu ở Tây Phi và khả năng gây bệnh và lây truyền ít hơn so với
HIV-1. HIV-1 được chia thành 3 phân nhóm riêng biệt: M (Major), O (Outlier) và
N (non-M, non-O) với đa số thuộc phân nhóm M. HIV thuộc họ Retroviridae, có
dạng hình cầu, kích thước khoảng 80-120 nm. Cấu tạo gồm 3 lớp: Lớp vỏ ngoài là
màng lipit kép có gắn các gai nhú là phân tử glucoprotein gồm gp120 và các yếu tố
xuyên màng gp 41. Lớp vỏ trong gồm 2 lớp protein là p17 và protein lõi p24. Đây
là kháng nguyên quan trọng để chẩn đoán nhiễm HIV [4].


4


Hình 1.1 Cấu trúc HIV-1

HIV là vi rút dễ bị tiêu diệt bởi các tác nhân lý hóa ở mơi trường bên ngoài cơ
thể. Nghiên cứu của CDC (USA) cho thấy, trong giọt máu hoặc dịch cơ thể khô,
HIV chỉ có thể tồn tại từ vài phút đến vài giờ tuỳ thuộc vào môi trường. HIV dễ
dàng bị diệt do tác động của nhiệt độ và các chất sát khuẩn, như ngâm dụng cụ tiêm
chích, châm cứu,…30 phút trong nước ô xy già 6%, dung dịch Natri hypoclorit
0,5% hoặc do nước Javen 0,5%. Trong dụng cụ hoặc bơm kim tiêm có chứa máu
khơng bị khơ, HIV có thể tồn tại đến vài ngày. Tuy nhiên, nhiệt độ âm, tia X, tia
cực tím khơng hủy được HIV [4].
1.1.1.2. Các kiểu lây truyền và yếu tố nguy cơ.
Lây truyền qua đường máu: HIV có nhiều trong máu tồn phần cũng như
trong các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương,...Do đó, HIV có
thể lây truyền qua máu và các chế phẩm máu nhiễm HIV hoặc cấy ghép các mô
tạng bị nhiễm hoặc qua các dụng cụ truyền máu, lấy máu không được tiệt trùng
đúng phương pháp. Lây truyền qua đường dụng cụ chích rạch, tiêm qua da như các
trường hợp như NCMT. Dùng chung hoặc dùng dụng cụ bị nhiễm vi rút chưa được
diệt khuẩn đúng cách các dụng cụ phẫu thuật, dụng cụ khám chữa bệnh có xuyên


5

chích qua da. Dùng chung hoặc dùng các dụng cụ bị nhiễm vi rút khi châm cứu,
xăm trổ lông mi, lông mày, lưỡi dao cạo râu,...[4] [11].
Lây truyền qua đường tình dục: Xảy ra khi dịch thể nhiễm HIV (máu, dịch
sinh dục,...) của người nhiễm HIV xâm nhập vào cơ thể bạn tình của họ. Tất cả các
hình thức quan hệ tình dục khơng được bảo vệ với một người nhiễm HIV đều có
nguy cơ lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, mức độ nguy cơ khác nhau với mỗi hình thức
quan hệ tình dục khác nhau. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sự lây truyền khác

giới (heterosexual) chiếm ưu thế hơn các nước phát triển. Sự lây truyền đồng giới
(homosexual) hiếm gặp ở châu Phi nhưng phổ biến hơn ở Đông Nam Á, Trung
Quốc, Trung và Nam Mỹ.
Lây truyền từ mẹ sang con: Khi mang thai, HIV từ máu của người mẹ nhiễm
HIV qua nhau thai để vào cơ thể thai nhi. Khi sinh, HIV từ nước ối, dịch tử cung,
dịch âm đạo của người mẹ xâm nhập vào trẻ trong q trình sinh. Giai đoạn sau
sinh, HIV có thể lây truyền qua sữa hoặc qua các vết nứt của núm vú mẹ, nhất là
khi trẻ đang có tổn thương ở niêm mạc miệng. Chỉ 1% người mẹ nhiễm HIV-2
có thể truyền cho con của mình, nhưng có đến 42% người mẹ nhiễm HIV-1 có
thể truyền cho con của mình qua tất cả các con đường. Sự lây truyền sau sinh của
HIV-1 qua sữa mẹ rất quan trọng và làm nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con tăng
lên gần gấp đơi [4].
1.1.1.3. Tình trạng nhiễm HIV trên Thế giới và Việt Nam:
Từ khi bắt đầu dịch, ước tính có 60 triệu người nhiễm HIV và 25 triệu người
tử vong liên quan đến AIDS. Đại dịch HIV/AIDS đang tiếp tục gia tăng trên thế
giới. Theo UNAIDS và WHO, năm 2019 có 25,4 triệu [24,5 triệu – 25,6 triệu]
người đang điều trị bằng thuốc kháng vi-rút; có 38,0 triệu [31,6 triệu – 44,5 triệu]
người trên toàn cầu đang sống chung với HIV. Và có 1,7 triệu [1,2 triệu – 2,2 triệu]
người mới nhiễm HIV vào năm 2019. Bên cạnh đó có 690 000 [500 000–970 000]
người chết vì các bệnh liên quan đến AIDS trong năm 2019. Có 75,7 triệu [55,9
triệu – 100 triệu] người đã bị nhiễm HIV kể từ khi dịch bắt đầu; 32,7 triệu [24,8
triệu – 42,2 triệu] người đã chết vì các bệnh liên quan đến AIDS kể từ khi dịch bắt


6

đầu. Mặc dù HIV/AIDS lây lan trên toàn thế giới, tuy nhiên tại mỗi vùng, mỗi quốc
gia lại có các mơ hình lây nhiễm khác nhau, thậm chí cịn có sự khác nhau về mơ
hình lây nhiễm virút theo cộng đồng, theo vùng địa lý trong cùng một quốc gia
[10].

Châu Á, chiếm 60% dân số thế giới, là nơi có số người sống với HIV chỉ sau
khu vực cận Sahara. Theo UNAIDS, năm 2019, ở Châu Á có khoảng 5,8 triệu (4,3
triệu – 7,2 triệu) người nhiễm HIV/AIDS đang còn sống, tập trung ở những đối
tượng có nguy cơ cao như người NCMT, PNBD và khách hàng của họ và tình dục
đồng giới nam. Một số nước châu Á, PNBD có nguy cơ nhiễm rất cao như
Myanmar hơn 18% PNBD nhiễm HIV. Thái Lan có 30- 50% người NCMT đang
sống với HIV, Myanmar có hơn một phần ba người NCMT nhiễm HIV (37,5%). Ở
Trung Quốc tỷ lệ lưu hành HIV ở người NCMT từ 6,7% đến 13,4%. Tuy nhiên,
dịch ở một số vùng châu Á bắt đầu lan rộng sang đối tượng nguy cơ thấp hơn qua
QHTD với người có nguy cơ. Ở Trung Quốc, sự lây truyền qua TCMT, tình dục
khác giới là con đường lây truyền chiếm ưu thế. Tại Việt Nam, nhiều phụ nữ có
nguy cơ thấp đang trở thành đối tượng dễ cảm nhiễm vì hành vi tình dục và sử
dụng ma túy nguy cơ cao của các bạn tình nam giới của họ. Tình hình dịch HIV tại
Việt Nam năm 2019 với số người nhiễm HIV cịn sống là 211.981 người, trong khi
đó có 103.428 người đã tử vong. Hình thái dịch HIV/AIDS ở nước ta vẫn trong
giai đoạn dịch tập trung, các trường hợp nhiễm HIV chủ yếu tập trung trong nhóm
nguy cơ cao như NCMT, PNBD...Đặc biệt là nhóm MSM đang tăng nhanh trong
những năm gần đây. Họ là những người có nguy cơ đặc biệt cao [10].
1.1.2. Nhiễm viêm gan B
1.1.2.1. Tác nhân gây bệnh:


7

Hình 1.2 Cấu trúc và bộ gen HBV
Vi rút viêm gan B thuộc họ Hepadnaviridae. Hạt vi rút hình cầu, đường kính
trung bình 42-47 nm, nhân chứa ADN và men ADN-polimeraza, cấu trúc vỏ
lipoprotein có chứa kháng nguyên bề mặt HBsAg. Ngồi HBsAg có vai trị quan
trọng trong việc phát hiện sự có mặt của HBV và kích thích sinh kháng thể bảo vệ,
cịn có kháng ngun lõi HBcAg và kháng nguyên hòa tan HBeAg. Người là vật

chủ tự nhiên được biết duy nhất. HBV qua đường máu vào gan và chỉ nhân lên
trong tổ chức gan.
HBV là vi rút DNA ở người nhỏ nhất được biết. Một phần của bộ genome
chuỗi kép tròn gồm 4 gen khung đọc mở trùng khớp mã hóa vỏ vi rút (pre-S và S),
nucleocapsid (precore và core), polymerase với hoạt động men transcriptase đảo
chiều có xu hướng sai số và protein X. Vì tỷ lệ sai số tự phát của men transcriptase
của vi rút, genome HBV tiến triển với tỷ lệ ước tính thay thế nucleotide từ 1,4 đến
3,2x10-5 vị trí mỗi năm [5]. HBV chứa một số kháng nguyên có thể phát hiện trong
máu và biến mất khi cơ thể tạo ra kháng thể chống lại chúng. Các kháng nguyên là
các dấu ấn (markers) đánh dấu các giai đoạn của nhiễm trùng. HBsAg và HBV
DNA ln là các dấu ấn có thể phát hiện đầu tiên trước khi xuất hiện các triệu
chứng bệnh. Viêm gan mạn tính được xác định khi các kháng nguyên bề mặt tồn tại
trên 6 tháng [5].
1.1.2.2. Các kiểu lây truyền và yếu tố nguy cơ:
HBV lây truyền do phơi nhiễm của phần dưới da hoặc niêm mạc với máu
hoặc dịch cơ thể khác bị nhiễm viêm gan B. HBV có khả năng lây nhiễm cao hơn
HIV 50-100 lần và cao hơn HCV hơn 10 lần. Liều gây nhiễm tối thiểu rất thấp, vì
vậy, dùng chung bàn chải răng hoặc lưỡi dao cạo cũng có thể lây nhiễm. HBV có
thể phát hiện thấy trong tế bào đơn nhân máu ngoại vi, tổ chức tuyến tụy, lách,
thận, da và dịch tiết như nước bọt, tinh dịch, mồ hôi, sữa mẹ, nước mắt, nước tiểu
và dịch tiết âm đạo. HBV có thể lây truyền theo 3 phương thức chính:


8

Lây truyền theo đường máu và sản phẩm từ máu, tạng ghép bị nhiễm, tinh
dịch, tiêm truyền và các can thiệp qua da khác, trong đó các sinh phẩm, dụng cụ
không được sàng lọc và thanh khử trùng sạch HBV.
Lây truyền qua đường tình dục khác giới hoặc đồng giới với bạn tình có
nhiễm viêm gan B. Nhiều trường hợp lây truyền từ vợ hoặc chồng hoặc từ những

người có quan hệ tình dục là người mang HBsAg hoặc đã mắc viêm gan B cấp như
từ PNBD. Gần đây tình hình nhiễm viêm gan B, HIV và HCV có tỷ lệ nhiễm cao
trên đối tượng này đã khẳng định đường lây truyền sinh dục của HBV. Lây truyền
do mẹ nhiễm viêm gan B mạn tính truyền cho con qua máu cuống rốn trong 3
tháng cuối của thai nghén hoặc trong khi sinh do trẻ phơi nhiễm với máu người mẹ
bị nhiễm viêm gan B là một trong những con đường lây nhiễm phổ biến nhất trên
thế giới. Trẻ sinh ra từ người mẹ nhiễm HBsAg, nhất là khi có cả HBeAg dương
tính có nguy cơ nhiễm viêm gan B rất cao, từ 60% đến 90%, đồng thời dễ trở
thành người mang vi rút kéo dài. Trước khi vắc xin HBV được đưa vào chương
trình tiêm chủng thường xuyên, tỷ lệ trẻ sơ sinh nhiễm viêm gan B là 10-30% từ bà
mẹ có HBsAg (+) nhưng HBeAg (-). Tỷ lệ này có thể lên đến 70-90% khi cả hai
kháng nguyên trên của bà mẹ cùng dương tính. Trẻ sơ sinh và trẻ em bị nhiễm viêm
gan B trong giai đoạn chu sinh nguy cơ mang mạn tính lên đến 90%[6] [9].
Ngồi ra, những con đường khác có thể lây truyền như chung bàn chải đánh
răng, qua tiếp xúc gần gũi lâu dài với người nhiễm viêm gan B trong gia đình, nhà
trẻ,…Vi rút có thể qua các vết tổn thương vi thể ở da, niêm mạc để xâm nhập vào
hệ tuần hồn người lành. Bởi vì, HBV có thể ổn định và lây nhiễm trên bề mặt môi
trường đến 7 ngày, sự lây truyền có thể xuất hiện gián tiếp do con đường nhiễm bẩn
bề mặt và những đối tượng khác [7].
1.1.2.3. Tình trạng nhiễm viêm gan B trên Thế giới và Việt Nam:
Viêm gan B là một bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất trên thế giới với trên một
phần ba dân số thế giới hiện nhiễm hoặc đã từng nhiễm viêm gan B. Khoảng 400
triệu (trên 2%) người mang HBV mạn tính, trong đó châu Á chiếm đa số tới ba
phần tư và hàng năm có khoảng 1-2 triệu người chết liên quan đến nhiễm viêm gan


9

B. Nhiễm viêm gan B chiếm 50%-80% các trường hợp ung thư gan trên thế giới
[10]. Ở những nước có tỷ lệ nhiễm HBV mạn tính trên 10% thì HBV chiếm tới

3% tổng số các trường hợp tử vong. Tuy nhiên, tỉ lệ nhiễm viêm gan B rất khác
nhau giữa các khu vực và quốc gia. Căn cứ vào tỷ lệ nhiễm viêm gan B trong cộng
đồng có thể chia ra 3 vùng lưu hành dịch. Vùng lưu hành thấp là vùng có tỷ lệ
nhiễm viêm gan B mạn tính trung bình dưới 2% dân số và dưới 20% số người đã
từng nhiễm viêm gan B [6]. Ở vùng này lây truyền ngang là chủ yếu, lây truyền
dọc là thứ yếu. Hầu hết nhiễm viêm gan B là qua con đường tình dục và NCMT
mặc dù có sự lưu hành phổ biến của vắc xin hiệu quả và an toàn. Nhóm nguy cơ
cao là người NCMT, tình dục đồng giới nam, nhân viên y tế, quần thể gia
đình nhiễm viêm gan B...Các nước phát triển như Bắc Mỹ, Tây Âu, Úc và một số
nước Nam Mỹ là những nước có dịch lưu hành thấp. Vùng lưu hành trung bình là
vùng có tỷ lệ nhiễm viêm gan B trung bình từ 2% đến 7% dân số và 20-50% số
người đã từng nhiễm viêm gan B [6]. Các nước Nam Âu, Trung Đơng và Nam Á
lưu hành ở mức trung bình. Lưu hành huyết thanh HBsAg dương tính ở Ấn Độ là
5%. Italia, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ lưu hành nhiễm viêm gan B mạn tính từ 3% đến
10% và tiêm chích khơng an tồn là con đường lây chủ yếu. Vùng lưu hành cao là
vùng có tỷ lệ nhiễm viêm gan B cao trên 8% dân số và trên 70% số người đã từng
nhiễm viêm gan B. Xấp xỉ 60% dân số thế giới sống ở vùng lưu hành HBV cao,
bao gồm Trung Quốc (1,3 tỷ) và nhiều vùng còn lại của châu Á và châu Phi. Với
ước tính 50 triệu trường hợp nhiễm mới hàng năm được chẩn đốn có 5-10% là
người lớn và đến 90% trẻ em sẽ trở thành mang mạn tính, 75% số này ở châu Á,
nơi mà viêm gan B là nguyên nhân đứng đầu viêm gan mạn tính, xơ gan và ung thư
gan.
Việt Nam là một nước nằm trong vùng dịch viêm gan B lưu hành cao và là
một trong những nước có tỷ lệ nhiễm viêm gan B cao nhất thế giới. Cả nước có
khoảng 12-16 triệu người mang HBV. Tỷ lệ dao động 15-20% (hoặc 5- 25%) tùy
theo các tác giả khác nhau [6]. Hiện tại chưa có số liệu thống kê giám sát cho riêng
HBV cũng như HCV mà được gộp chung trong nhóm các bệnh viêm gan vi rút.
Tính trên 100.000 dân là 15,8 trường hợp/năm. Theo các nghiên cứu thì tỷ lệ



10

HBsAg trong cộng đồng dân chúng từ 15%- 26% theo từng tác giả, từng vùng và
khu vực khác nhau. Ở nhóm nguy cơ cao như BNTMNL, BNCTNT, NCMT,
PNBD tỷ lệ nhiễm viêm gan B còn cao hơn nhiều [6] [3].
1.1.3. Nhiễm viêm gan C:
1.1.3.1. Tác nhân gây bệnh:
Vi rút viêm gan C (HCV) là vi rút có vỏ lipoprotein, đường kính 55-65 nm,
thuộc họ Flavirridae. Hệ gen của HCV có cấu trúc ARN chuỗi đơn với khoảng
9.600 nucleotide, gồm một khung đọc mở (ORF) đã được mã hóa cho một chuỗi
polypeptit lớn khoảng 3010 axít amin. Bộ gen này có thể chia thành 3 vùng chính
có hai đầu 5’ và 3’ gồm: Vùng khơng mã hóa là vùng ít biến đổi nhất. Vùng cấu
trúc mã hóa cho những protein vỏ tham gia cấu tạo tính kháng nguyên của những
bộ phân vi rút. Vùng khơng cấu trúc mã hóa cho những protein khơng cấu trúc
mang tính chất men, quyết định sự nhân lên của vi rút gồm 5 gen NS1, NS2, NS3,
NS4, NS5. HCV là vi rút RNA có khả năng thay đổi gen một cách nhanh chóng,
nhờ vậy nó có thể thốt khỏi vịng kiểm sốt của hệ thống miễn dịch. Bộ gen của
HCV thường có khác biệt quan trọng do những biến dị về cấu trúc quy định ra các
kiểu gen (genotype), phân típ gen (subgenotype) và biến lồi (quasi-species) [7].


11

Hình 1.3 Cấu trúc HCV
Mặc dù phát hiện HCV đã được 15 năm những kiến thức về HCV còn hạn chế
do chưa nuôi cấy thành công vi rút trên môi trường ni cấy tạo ra sự khó khăn
trong nghiên cứu. HCV có sức sống trung bình. Để tiêu diệt cần nhiệt độ 80 0C
trong 72 giờ. Tuy nhiên, nó rất nhạy cảm với các dung môi hữu cơ nên khử trùng
cũng dễ hơn so với HBV [5] [7].
1.1.3.2. Các kiểu lây truyền và các yếu tố nguy cơ:

Lây truyền HCV mạnh nhất là qua phơi nhiễm qua da trực tiếp hoặc bề mặt
tiếp xúc rộng với máu (ví dụ, truyền máu, ghép tạng từ người cho có bệnh hoặc
TCMT). HCV lây truyền kém hơn qua phơi nhiễm với khối lượng nhỏ, đơn lẻ (ví
dụ, tai nạn kim đâm) hoặc phơi nhiễm của niêm mạc với máu hoặc huyết thanh,
dịch tiết (ví dụ, trẻ sinh ra từ bà mẹ nhiễm, quan hệ tình dục với người nhiễm).
Cũng có bằng chứng cho thấy mơi trường cũng có thể là nguồn truyền nhiễm. Sự
lây truyền HCV do phơi nhiễm qua da không rõ ràng do lây nhiễm chéo vì sử dụng
lại kim bơm tiêm, lọ đựng thuốc, túi dịch hoặc những vật dụng pha chế thuốc của
người NCMT nhiễm viêm gan C. HBV cũng có những nguy cơ lây nhiễm tương tự,
tuy nhiên khả năng lây nhiễm của HBV cao hơn. HBV có khả năng tồn tại ngồi
mơi trường và độ tập trung trong máu người nhiễm cao hơn HCV.
Các yếu tố nguy cơ được xác định bao gồm truyền máu và các sản phẩm
máu, ghép tạng từ người cho bị nhiễm, NCMT, tiêm điều trị khơng an tồn, phơi
nhiễm nghề nghiệp với máu (tai nạn khi tiêm), sinh ra từ bà mẹ nhiễm, quan hệ tình
dục với người bị nhiễm và quan hệ tình dục với nhiều người. Trong đó, truyền máu
khơng sàng lọc, NCMT và tiêm điều trị khơng an tồn là đường lây truyền quan
trọng nhất [9].
Sự lây truyền HCV mạnh mẽ với việc sử dụng ma túy bằng kim tiêm qua
đường tiêm mạch máu và dưới da. Những trường hợp bệnh được thông báo nhiễm
viêm gan C do NCMT đang tăng lên ở Mỹ. Sự lưu hành HCV mạn tính ở NCMT
phổ biến hơn HIV và HBV. Sự lây truyền qua tiêm chích của HCV cao hơn HIV


12

gần 10 lần. Dùng chung kim tiêm dù chỉ 1 lần cũng có nguy cơ nhiễm viêm gan C.
Truyền các sản phẩm máu đã là một nguyên nhân hàng đầu lây truyền HCV. Tuy
nhiên, vì cơng tác sàng lọc được cải thiện, việc lây truyền qua truyền máu đã giảm
xuống ở hầu hết các nước phát triển. Tuy nhiên, tỉ lệ truyền máu có liên quan đến
HCV vẫn cịn cao ở những vùng khác trên Thế giới. Vai trò của hoạt động tình dục

trong sự lây truyền HCV vẫn cịn chưa rõ ràng. HCV lây truyền qua đường tình dục
kém hơn nhiều so với HBV. Nguy cơ lây truyền HCV qua đường chu sinh là rất
thấp. Đã có tài liệu xác định BNCTNT có tỉ lệ nhiễm viêm gan C cao hơn. Trong
những năm 90 nhiều nước trên Thế giới báo cáo tỉ lệ lưu hành HCV là 10-50%
trong BNCTNT [8].
1.1.3.3. Tình trạng nhiễm viêm gan C trên Thế giới và Việt Nam:
HCV là một gánh nặng bệnh tật chủ yếu liên quan đến cả các nước phát triển
và đang phát triển. TCYTTG ước tính sự lưu hành trên thế giới khoảng 2,2-3,0%
(khoảng 130-180 triệu người) nhiễm vi rút. Mặc dù, HCV được xem là bệnh dịch
thế giới nhưng có sự khác nhau rõ rệt về sự lưu hành giữa các khu vực và các quốc
gia.
Cũng tương tự như HBV, nhiễm viêm gan C cũng có thể mơ tả sự lưu hành
theo khu vực địa lý. Vùng lưu hành cao (trên 3%), trung bình (2,0-2,9%), thấp (1,01,9%) và rất thấp (dưới 1,0%). Những các vùng lưu hành HCV tương ứng cụ thể thì
khác với sự lưu hành của HBV [1]. Những nước có tỷ lệ lưu hành cao nhất được
báo cáo là những nước châu Phi và châu Á. Những vùng có tỷ lệ lưu hành thấp hơn
là những nước phát triển ở Bắc Mỹ, Tây Âu, và Australia. Những nước phát triển
có tỷ lệ huyết thanh HCV lưu hành thấp, bao gồm: Đức (0,6%), Canada (0,8%),
Pháp (1,1%). Cao hơn một chút là Mỹ (1,8%), Nhật Bản (1,5-2,3%) và Italy
(2,2%). Tỷ lệ lưu hành ở các nước đang phát triển có sự khác nhau rõ rệt hơn và nói
chung có ít số liệu lưu hành hơn các nước phát triển. Trung Quốc có tỷ lệ huyết
thanh HCV lưu hành được báo cáo là 3,2%, Ấn Độ (0,9%), Indonesia (2,1%). Ai
Cập, số dân ước tính 73 triệu người, có tỷ lệ huyết thanh lưu hành cao nhất là 22%
hoặc 17% đến 26%. Ước tính tỷ lệ lưu hành HCV ở Việt Nam là 2-2,9%.


13

Gánh nặng bệnh HCV ở các nước Đông Nam Á (xấp xỉ 32 triệu người) thực
tế cao hơn tổng số gánh nặng bệnh HCV ở châu Âu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ (khoảng
22 triệu). 15% ung thư gan chủ yếu ở châu Á là dương tính với anti- HCV. HCV là

nguyên nhân của 25-70% những trường hợp ung thư gan ở Đài Loan (25%) và
Nhật Bản (70%). Chỉ có một số nghiên cứu về sự lưu hành của HCV ở các lứa tuổi
khác nhau. Sự lưu hành HCV theo lứa tuổi có ít nhất 3 kiểu dịch tễ học khác nhau.
Kiểu thứ nhất xuất hiện ở những nước như Mỹ, Australia có tỷ lệ lưu hành HCV
cao nhất ở lứa tuổi 30 và 39, thấp hơn là lứa tuổi dưới 20 và trên 50. Kiểu thứ hai,
đã thấy ở những nước như Tây Ban Nha, Nhật Bản và Trung Quốc; phần lớn những
người nhiễm ở lứa tuổi trên 50. Kiểu thứ ba được thấy ở Ai Cập, có đồng đều ở tất
cả các lứa tuổi. Nhận định kiểu lưu hành HCV ở nhóm tuổi khác nhau ở các vùng
khác nhau cho phép nắm được đặc trưng dịch tễ học của HCV để có biện pháp phát
hiện và kiểm sốt tốt hơn.
1.1.4. Tình trạng đồng nhiễm viêm gan B, viêm gan C và HIV:
1.1.4.1. Đồng nhiễm HIV và HBV:
Trong những cá nhân nhiễm HIV sự lưu hành của huyết thanh dương tính
HBsAg cao xấp xỉ 10 lần sự lưu hành trong quần thể chung. Trong khoảng 40 triệu
người nhiễm HIV trên thế giới, ước tính khoảng 2-4 triệu (5- 10%) là đồng nhiễm
với HBV. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự đồng nhiễm này như sự khác nhau giữa
các vùng địa lý, tuổi phơi nhiễm, sự lưu hành những người nguy cơ cao.
Nghiên cứu trong giai đoạn trước kỷ nguyên sử dụng liệu pháp kháng vi rút
(ART) đưa ra giả thuyết là nhiễm viêm gan B có thể là một đồng yếu tố trong bệnh
HIV; tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy rõ đây không phải là đồng yếu tố khi
những bằng chứng từ giai đoạn sử dụng ART đã đưa ra gợi ý rằng HBV không
xuất hiện để làm biến đổi quá trình diễn biến của HIV. Ngược lại, HIV đồng
nhiễm ảnh hưởng đến diễn biến và lịch sử phát triển tự nhiên của nhiễm viêm gan
B do làm hại đến số lượng và chất lượng của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và mắc
phải. Sự tiến triển gan xơ hóa nhanh hơn và xơ gan dẫn đến gan mất bù (nhưng
không phải ung thư gan) được chứng minh ở bệnh nhân đồng nhiễm. Nguy cơ bệnh


14


gan giai đoạn cuối và tử vong liên quan đến bệnh gan có thể tăng vì đồng nhiễm
HIV.
1.1.4.2. Đồng nhiễm HIV và HCV.
HIV và HCV có chung con đường lây truyền do đó có tỷ lệ đồng nhiễm cao
với cả hai vi rút. Trong 33 triệu người nhiễm HIV trên thế giới năm 2007, ước tính
có khoảng 4-5 triệu có nhiễm cùng với HCV. Trong khi cả hai vi rút cùng lây
truyền hiệu quả cao qua con đường lây truyền do tiếp xúc trực tiếp với máu thì
HCV lại lây truyền qua đường tình dục khơng dễ dàng lắm. Khoảng 10%-14%
người nhiễm HIV phơi nhiễm tình dục nguy cơ cao nhiễm viêm gan C và có thể
85-90% người NCMT nhiễm HIV đồng nhiễm HCV. Ở Trung Quốc, Thái Lan và
Việt Nam ước tính sự lưu hành đồng nhiễm HIV/HCV trong người NCMT đến
90% Mỹ và châu Âu, xấp xỉ 30% đến 50% người nhiễm HIV bị nhiễm viêm gan
C. Nhưng trong người NCMT nhiễm HIV thì đồng nhiễm với HCV là 72% đến
95%. Đồng nhiễm HIV/HCV làm tăng nguy cơ tiến triển bệnh gan hơn nhiễm viêm
gan C đơn thuần.
Hậu quả tác động của HCV lên sự tiến triển của HIV vẫn còn chưa rõ ràng.
Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng HCV có thể thúc đẩy q trình phát triển
của HIV. Tuy nhiên gần đây sự đồng nhiễm ngày càng phổ biến hơn ở NCMT, là
những người luôn tiếp nhận sự điều trị HIV khơng đầy đủ, vì vậy sự khác nhau về
kết quả điều trị có thể phụ thuộc vào sự khác nhau trong quá trình tiếp nhận sự điều
trị HIV. Tỷ lệ ung thư gan và xơ gan ở người nhiễm HIV đồng nhiễm với HCV,
HBV cao hơn hơn người nhiễm HIV đơn thuần từ 6,5 đến 11 lần. HIV ảnh hưởng
mạnh đến sự tiến triển của HCV trong đồng nhiễm dẫn đến xơ gan, suy gan và ung
thư tế bào gan. Mặc dù, điều trị đầy đủ với ART cũng làm chậm tiến triển đến xơ
gan và các biến chứng do HCV. Tỷ lệ sống tốt hơn đối với những người nhiễm
HIV được điều trị ART hiệu quả cũng làm tăng tỷ lệ bệnh gan ở các nước phát
triển. Sự lưu hành HCV trong quần thể nhiễm HIV cao hơn nhiều quần thể nói
chung là những nơi gánh nặng HCV ước tính khoảng 2%. Điều đó cho thấy vai trị
quan trọng phịng chống lây truyền hơn nữa nhiễm viêm gan C như là một biện



15

pháp phòng chống bệnh đồng nhiễm ở những người nhiễm HIV. Nguy cơ trung
bình lây truyền HCV được xếp trong bảng dưới đây. Mặc dù, cả hai có chung con
đường lây nhiễm, sự lây truyền của cả hai vi rút này phụ thuộc vào kiểu lây truyền.
Bảng ước tính nguy cơ lây truyền trung bình:
Kiểu lây truyền

HIV

HCV

HCV/HIV đồng nhiễm

Giai đoạn chu sinh

7-50%

1-7%

1-20%

Tiếp xúc tình dục

1-3%

<1%

<4%


Vết thương xuyên da

0.3%

<1%

Chưa rõ

1.1.4.3. Đồng nhiễm viêm gan B và HCV:
HBV và HCV là nguyên nhân phổ biến nhất gây bệnh gan mạn tính trên thế
giới. Vì cùng chung đường lây truyền nên đồng nhiễm viêm gan B/HCV phổ biến
trong những cá nhân sống ở vùng dịch HBV và có nguy cơ cao lây nhiễm theo
những con đường ngồi đường tiêu hóa như NCMT, BNCTNT, bệnh nhân ghép
tạng và bệnh nhân β- thalassemia. Bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan B và HCV mạn
tính thường có biểu hiện lâm sàng và hậu quả nặng hơn nhiễm đơn với một vi rút
viêm gan nhưng vì thiếu những nghiên cứu cộng đồng đủ lớn nên số đồng nhiễm
viêm gan B/HCV thực sự khơng được biết chính xác. Số lượng đồng nhiễm cịn có
thể ước tính chưa được chính xác vì tồn tại nhiễm viêm gan B ẩn. Nói chung, xấp
xỉ 2-10% bệnh nhân anti-HCV dương tính có HBsAg dương tính và sự lưu hành
của anti-HCV có trong xấp xỉ 5-20% người nhiễm mạn tính HBV.
1.2. Tình trạng nhiễm HIV, HBV, HCV và yếu tố liên quan làm tăng khả
năng lây nhiễm ở một số đối tượng nguy cơ cao:
NCMT xuất hiện ở hầu hết các nước và nhiễm HIV lưu hành phổ biến trong
nhiều quần thể NCMT. Ước tính có khoảng 16 triệu (thay đổi 11-21 triệu) NCMT
trên thế giới, trong đó 10,3 triệu (78%) người NCMT là ở các nước đang phát triển.
Số NCMT ở các nước Nam và Đơng Nam Á có khoảng 3,3 triệu. Sau gần 30 năm
đại dịch HIV, NCMT vẫn là mối nguy cơ cao nhiễm HIV. Dịch HIV ở nhiều nước
trên thế giới là do NCMT và có quan hệ tình dục với bạn tình có TCMT. Ước tính




×