Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 164 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----------------------

ĐẶNG HỒNG OANH

VĂN XI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 ĐẾN NAY
TỪ CÁCH ĐỌC CHẤN THƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội – 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----------------------

ĐẶNG HỒNG OANH

VĂN XI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 ĐẾN NAY
TỪ CÁCH ĐỌC CHẤN THƯƠNG

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số : 9.22.01.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Lê Lưu Oanh


TS. Trần Ngọc Hiếu

Hà Nội – 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất. Các tài liệu tham khảo,
trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu
của mình.
Tác giả luận án


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................3
4. Đối tượng, phạm vi và tư liệu nghiên cứu ..............................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5
6. Đóng góp của luận án ..............................................................................................6
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...........................................7
1.1. Lí thuyết chấn thương như là một cách đọc văn học ...........................................7
1.2. Những chặng đường phát triển của lí thuyết chấn thương. ................................10
1.2.1. Chặng thứ nhất: thời kì manh nha của lí thuyết chấn thương .........................10
1.2.2. Chặng thứ hai: sự trỗi dậy của lí thuyết chấn thương .....................................13
1.2.3. Chặng thứ ba: đa dạng hóa, đa phương hóa lí thuyết chấn thương.................17
1.3. Cách đọc chấn thương và văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay .............25
1.3.1. Văn xuôi Việt Nam sau 1975 – chất liệu của cách đọc chấn thương .............25

1.3.2. Khái quát lịch sử nghiên cứu văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ
cách đọc chấn thương ................................................................................................28
Chương 2. NHẬN DIỆN CHẤN THƯƠNG VÀ VĂN HỌC CHẤN THƯƠNG ....35
2.1. Quan niệm của luận án về chấn thương .............................................................35
2.2. Cơ chế hình thành và hoạt tác của chấn thương ................................................46
2.2.1. Bạo lực ............................................................................................................46
2.2.2. Bạo lực tiềm ẩn ...............................................................................................52
2.3. Phân loại văn học chấn thương ..........................................................................57
2.3.1. Văn xuôi chứng nhân ......................................................................................58
2.3.2. Văn xuôi dư chấn ............................................................................................63


Chương 3. MỘT SỐ CHỦ ĐỀ CHẤN THƯƠNG TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1975 ĐẾN NAY ..................................................................................68
3.1. Chấn thương lịch sử ...........................................................................................68
3.1.1. Cơ chế hình thành chủ đề chấn thương lịch sử ...............................................68
3.1.2. Cảm thức chấn thương ....................................................................................77
3.1.3. Các kiểu nhân vật chấn thương .......................................................................87
3.2. Chấn thương trong đời thường ...........................................................................93
3.2.1. Các hình thái bạo lực trong đời thường ..........................................................93
3.2.2. Cảm thức chấn thương ..................................................................................101
3.2.3. Các kiểu nhân vật chấn thương .....................................................................106
Chương 4. CHẤN THƯƠNG VÀ CẤU TRÚC TỰ SỰ TRONG VĂN XUÔI VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1975 ĐẾN NAY .....................................................................113
4.1. Những vấn đề về người kể chuyện...................................................................113
4.1.1. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và đạo đức tự sự trong văn học chấn thương
.................................................................................................................................114
4.1.2. Thẩm quyền của người kể chuyện ................................................................117
4.1.3. Sự đa bội của điểm nhìn trần thuật................................................................127
4.2.1. Sự khủng hoảng của ngôn ngữ ......................................................................131

4.2.2. Hiệu ứng gây tác động về cảm xúc (Affect theory) ......................................136
4.2.3. Kết cấu mở ....................................................................................................139
KẾT LUẬN .............................................................................................................144
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....................150
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................151
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đầu những năm 1990, lí thuyết chấn thương trỗi dậy như một điểm nhấn
đáng chú ý trong bối cảnh học thuật Hoa Kì. Nó trở thành một khuynh hướng lí luận
phê bình nổi bật, nơi ngưng tụ nhiều vấn đề khác nhau (Geoffrey Hartman). Ngồi
cái cảm giác mang tính đương đại như Geoffrey Hartman đã nói, sự phát triển của
phê bình chấn thương còn chạm đến nỗi bất an sâu xa nhất của nhân loại: nó cảnh
báo về những trạng thái bạo lực ln âm ỉ, có nguy cơ bùng phát và đe dọa đến đời
sống hiện sinh của con người. Người ta nhận ra rằng, sự bất ổn đó có thể tồn tại bất
kì đâu, trong bất cứ chiều kích khơng – thời gian nào, từ dấu vết trong đời sống cá
nhân cho đến cộng đồng, dân tộc. Bởi, xét đến cùng, lịch sử nhân loại đã từng đi qua
biết bao những cơn chấn động khủng khiếp: những cuộc chiến tranh xóa sổ cả một
dân tộc, xung đột sắc tộc, tôn giáo, diệt chủng, thảm họa môi trường, dịch bệnh…
Lịch sử đau thương đó đã góp phần đóng dấu kí ức tập thể vào trong tiềm thức của
mỗi cá nhân, khiến không ít người cho rằng: chính nỗi đau mới thực sự ghi dấu trạng
thái hiện tồn của cá nhân con người trong cuộc đời này. Từ góc nhìn đó, rõ ràng lí
thuyết chấn thương mang giá trị nhân bản sâu sắc. Nó khiến cho con người lắng nghe
tiếng vọng của những vết thương trong quá khứ để thấu hiểu hơn những bất ổn ngầm
ẩn trong đời sống hiện tại.
Sự hình thành và phát triển năng động của lí thuyết chấn thương, một mặt,
vừa xuất phát từ nhu cầu con người muốn nhận thức lại những kinh nghiệm lịch sử
khủng khiếp, tàn bạo mà những tác động của chúng ln có thể di căn sang hiện tại;

mặt khác, vừa do thực tế của xã hội nhiều bạo động, áp lực cho phép các chấn thương
trong hình thức cũ và mới tiếp tục làm tổn hại con người cả về tinh thần lẫn thể chất.
Nói lí thuyết chấn thương nằm trong cái gọi là khúc ngoặt đạo đức của lí thuyết đương
đại là vì thế: nó khắc phục được nhược điểm của lí thuyết ở giai đoạn trước khi nhiều
học giả cho rằng lí thuyết khơng có khn mặt con người.
Với chất liệu đặc thù và cách thức sáng tạo riêng, văn học trở thành phương
tiện hữu hiệu giúp con người quan sát được các chấn thương. Đặc biệt, văn xuôi, với
đặc trưng của việc kể, với khả năng hấp thu mọi tần số, mọi xung động trong cuộc


đời, bằng việc chối từ những gì thi vị hóa (vốn dĩ thường thấy trong thơ), lại chính là
thể loại thể hiện được những ưu thế của nó trong việc biểu đạt chất thương. Thực tế
là, đến những năm 90, kinh nghiệm về chấn thương của con người không thể chỉ là
đối tượng của một ngành nghiên cứu. Trong các loại hình nghệ thuật, văn chương
ngày càng thể hiện ưu thế đặc biệt trong việc biểu hiện và lưu giữ những trạng thái
chấn thương của con người. Dẫu các nghệ thuật khác cũng miêu tả chấn thương,
nhưng phải bằng ngôn từ của văn học, các dạng biểu hiện của chấn thương mới được
gọi tên, mới lộ hình hài, mới cất lên được tiếng nói (the voice of wound). Chấn thương
trong văn học, vì thế, khơng chỉ giúp con người nhìn sâu vào những kinh nghiệm và
những nếm trải của nhân tính mà cịn góp phần chất vấn lịch sử, vén những bức màn
bí mật, tìm câu trả lời cho sự thật bị chơn giấu.
1.2. Việt Nam là mảnh đất cịn di căn nhiều vết thương trong quá khứ. Trên
cái nền thực tại ấy, một bộ phận văn học sẽ là tiếng nói của những vết thương than
khóc (crying wound). Cái âm vọng trong dòng chảy lịch sử văn học ấy, đã trở lại
mãnh liệt hơn bao giờ hết trong văn học sau 1975, bởi vết thương chiến tranh của dân
tộc Việt vẫn còn mưng mủ, và đời sống thế sự thời hậu chiến đã lộ diện bao điều bất
trắc. Lần đầu tiên, độc giả biết được, đằng sau hào quang của chiến thắng là những
vết thương vẫn còn nhức nhối: nỗi ám ảnh từ kí ức kinh hồng của chiến tranh, những
thân phận người với bao bi kịch giữa đời thường… Bên cạnh những nhà văn đã có
một quãng đời sống và viết dưới thời máu lửa, cịn có những cây bút dù chưa từng

trải qua thực tế chiến tranh tàn khốc, nhưng vẫn cảm nhận được những sang chấn tâm
lí âm ỉ trong kí ức cộng đồng. Ngồi ra, hiện thực bất ổn muôn thuở của đời sống
nhân sinh, với những chấn thương tâm lí hiện đại cũng là mảng đề tài nóng bỏng thúc
giục nhà văn khám phá. Việc nhìn nhận những chấn thương được biểu đạt qua văn
học, một mặt giúp ta thấy được sự phát triển tương ứng của văn học với các xung
động của đời sống, mặt khác nhấn mạnh ưu thế của văn chương trong việc gọi tên
được những trạng thái của chấn thương.
1.3. Lí thuyết văn học đóng vai trị quan trọng trong việc tiếp cận các hiện
tượng văn học. Các lí thuyết hiện đại giúp cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam có
thêm những cơng cụ, những hệ quy chiếu mới để phân tích, đánh giá và tạo ra những


đối thoại học thuật cần thiết. Từ khi Đổi mới đến nay, các lí thuyết về văn học có điều
kiện du nhập vào Việt Nam, trở thành công cụ hữu hiệu giúp các nhà nghiên cứu soi
nhìn các hiện tượng văn học dưới nhiều góc độ. Dĩ nhiên, khơng một lí thuyết nào là
vạn năng, nhưng bản thân mỗi lí thuyết đều gợi dẫn những hướng tìm tịi cần thiết.
Thành tựu nghiên cứu văn học ở Việt Nam trong khoảng ba thập niên gần đây đã
chứng minh điều đó. Bên cạnh thi pháp học, kí hiệu học, phê bình nữ quyền, phê bình
sinh thái, lí thuyết trị chơi… lí thuyết chấn thương tuy đã được biết đến, nhưng vẫn
chưa thâm nhập sâu vào đời sống học thuật ở Việt Nam, và do vậy, việc áp dụng nó
vào nghiên cứu văn học vẫn cịn khá hạn chế.
1.4. Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1975 đến nay từ cách đọc chấn thương để nghiên cứu. Thực hiện đề tài này, chúng
tơi muốn trình bày một cách đọc: tiếp cận, diễn giải văn xuôi đương đại Việt Nam –
một thực thể có sự vận động phức tạp – dưới góc nhìn lí thuyết chấn thương.
Với nỗ lực vượt qua những cách hiểu giản đơn, chúng tơi hi vọng sẽ phân
tích biểu hiện chấn thương và cơ chế hình thành chấn thương trong văn học Việt Nam
sau 1975 với diện mạo vốn có của nó.
2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tơi hướng tới những mục đích cơ bản sau đây:

- Khẳng định vị trí, vai trị của lí thuyết chấn thương trong bối cảnh nghiên
cứu khoa học nhân văn hiện đại của thế giới, tính khả dụng của lí thuyết chấn thương
trong nghiên cứu văn học. Đặc biệt, luận án cố gắng thiết lập một mơ hình đọc chấn
thương. Mơ hình đó sẽ khiến cho người ta có điểm tựa, có thao tác để có thể nói về
văn học chấn thương.
- Khẳng định những ưu thế của cách đọc chấn thương đối với bộ phận văn
xuôi Việt Nam sau 1975, đồng thời từ góc nhìn của lí thuyết chấn thương, khám phá
đặc sắc về nội dung tư tưởng cũng như hình thức biểu đạt của một số tác phẩm văn
xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Lí thuyết chấn thương là một dịng mạch lí thuyết đang có sự phát triển
rất năng động trong nghiên cứu, phê bình văn học ở phương Tây. Tuy nhiên, trong


lĩnh vực nghiên cứu nhân văn ở Việt Nam, chưa có một cơng trình nào mang tính
chất tổng thuật, giới thiệu, cập nhật lí thuyết này một cách hệ thống. Từ thực tế đó,
nhiệm vụ đầu tiên chúng tơi đặt ra trong luận án đó là khái quát lại diễn trình phát
triển của lí thuyết chấn thương, diễn giải các khái niệm cơ bản, đưa lại một bức tranh
tương đối hồn chỉnh về q trình hình, phát triển và khả năng ứng dụng của lí thuyết
chấn thương trong nghiên cứu văn học.
2.2. Thực tế cho thấy, lí thuyết chấn thương có sự đa dạng về cách tiếp cận.
Chúng tơi cũng ý thức được rằng, luận án sẽ không thể khảo sát được tất cả các cơng
trình nghiên cứu về chấn thương trên thế giới. Trong giới hạn của luận án, chúng tơi,
một mặt sử dụng lí thuyết của Cathy Caruth như dịng mạch lí thuyết đóng vai trị hạt
nhân để để thiết lập quan niệm của mình về chấn thương; mặt khác, chúng tơi cịn kết
hợp với những góc tiếp cận khác để từ đó xây dựng một bộ khung hồn chỉnh, biện
luận cho những kiến giải của mình. Bởi luận án muốn đi sâu thực hành một lối đọc
chấn thương – lối đọc dựa trên các thuật ngữ và thao tác phân tích được gợi ý từ các
lí thuyết gia của khuynh hướng này.
2.3. Văn chương vốn là nơi lưu giữ kinh nghiệm sống cũng như biểu đạt tư

tưởng của con người, trong đó kinh nghiệm chấn thương là một khía cạnh rất quan
trọng. Vấn đề chấn thương khơng chỉ gợi ra cách hiểu đối với lịch sử mà còn giải mã
những vấn đề phức tạp trong đời sống cá nhân con người – yếu tố trung tâm của đời
sống lịch sử đó. Tuy nhiên, bộ phận văn học mô tả chấn thương của con người chưa
được quan tâm đúng mức, khái niệm chấn thương tuy đã được đề cập đến nhưng chưa
hề được xác định một cách chính xác về mặt nội hàm. Lấy văn chương làm chất liệu
để trình hiện một lối đọc chấn thương, chúng tơi muốn làm rõ: chương, ở một phương
diện nào đó, có thể gọi tên các giải phổ chấn thương của con người; mặt khác, từ
những khám phá thế giới nội tâm vô cùng phức tạp của con người bởi những tác động
có tính chấn thương, chúng tơi muốn nhấn mạnh rằng cách đọc chấn thương có thể
chất vấn các cơ chế gây ra và bảo lưu các chấn thương trong đời sống; các cơ chế làm
con người quên đi chấn thương trong nhiều trường hợp, nhất là những chấn thương
lịch sử.
2.4. Đọc văn xi Việt Nam dưới ánh sáng của lí thuyết chấn thương, luận
án cũng tập trung làm rõ những nét tiêu biểu trong lối viết chấn thương của một bộ


phận nhà văn; thấy được chấn thương có thể tác động mạnh mẽ tới cách thức tổ chức
trần thuật.
4. Đối tượng, phạm vi và tư liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến
nay – một hiện tượng phức tạp và đang vận động khơng ngừng. Đối tượng đó được
“đọc” từ cách đọc chấn thương, nói cách khác, luận án tiếp nhận lí thuyết chấn thương
và vận dụng nó để khảo sát các tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay ở các
thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí. Phạm vi khảo sát tương đối rộng (cả về thời gian
và thể loại) như vậy mới giúp nhận diện những dấu vết, những biểu hiện của chấn
thương trong văn học một giai đoạn, đáp ứng những đòi hỏi của đề tài nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, luận án sẽ áp dụng, phối hợp các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây:

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Lí thuyết chấn thương vốn liên quan
đến nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn, cho nên phương pháp liên ngành tất
yếu phải được sử dụng khi triển khai nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra trong luận án.
Theo đó, văn xi Việt Nam từ 1975 đến nay sẽ được chúng tôi tiếp cận từ các góc
độ: triết học, phân tâm học, văn hóa học, ngữ văn…
- Phương pháp hệ thống: Chấn thương không hề tồn tại biệt lập, mà chỉ là
một biểu hiện trong đời sống tinh thần của con người. Vấn đề chấn thương trong văn
xi Việt Nam đương đại cũng có quan hệ với nhiều vấn đề khác của một diễn trình
văn học. Hơn thế, lí thuyết chấn thương, bản thân nó cũng là một hệ thống, gồm nhiều
khía cạnh, nhiều thành tố. Do vậy, áp dụng lí thuyết chấn thương để nghiên cứu thực
tế văn học như luận án đã xác định đòi hỏi phải áp dụng phương pháp hệ thống để
tránh rơi vào tình trạng phiến diện, siêu hình.
- Phương pháp loại hình: Bản thân một nền văn học ln ln là một thực
thể mang tính loại hình, nghĩa là những đặc điểm của nó được thể hiện trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Việc áp dụng phương pháp loại hình nghiên cứu chấn thương
trong văn xi Việt Nam đương đại là đòi hỏi tất yếu. Trong luận án, phương pháp
loại hình sẽ thể hiện tính ưu việt trong việc phân loại chấn thương, các kiểu nhân vật


chấn thương…
- Phương pháp phân tích cấu trúc văn bản nghệ thuật: Sử dụng lí thuyết
chấn thương vào nghiên cứu thực tế văn học đã xác định, thực chất là dùng ánh sáng
lí thuyết ấy để soi tỏ các tác phẩm văn học. Những luận điểm về chấn thương trong
văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay phải được rút ra trên cơ sở phân tích văn bản văn
học. Ngồi ra, khơng có con đường nào khác.
6. Đóng góp của luận án
- Luận án là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam giới thiệu một cách có hệ thống
về lí thuyết chấn thương, quá trình hình thành, sự phát triển, nội dung chủ yếu và tính
khả dụng của nó trong nghiên cứu các lĩnh vực, trong đó nổi trội nhất là nghiên cứu
văn học.

- Luận án đã cho thấy được tính khả dụng của việc thực hành cách tiếp cận
văn học từ lí thuyết chấn thương để giải quyết những vấn đề của văn xuôi Việt Nam
giai đoạn 1975 đến nay, đặc biệt đi sâu vào phân tích chủ đề chấn thương trong đời
thường, góp phần mở rộng phạm vi của văn học chấn thương. Đây là khía cạnh chưa
từng được đề cập trong các nghiên cứu trước đây.
- Việc nghiên cứu chấn thương trong văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay
không chỉ giúp khám phá chiều sâu của một bộ phận văn học, khẳng định tính đặc
thù (dân tộc, lịch sử) và tính phổ quát (nhân loại) của nó, mà cịn nhìn thấy một khơng
gian tiềm năng cho sáng tạo văn học trong tình hình hiện tại. Trong bối cảnh hội nhập,
tồn cầu hóa diễn ra như hiện nay, kiểm chứng hiệu quả của việc áp dụng lí thuyết
hiện đại vào việc khảo sát các dữ kiện văn học Việt Nam là rất có ý nghĩa.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Nhận diện chấn thương và văn học chấn thương
Chương 3. Một số chủ đề chấn thương trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1975 đến nay
Chương 4. Chấn thương và cấu trúc tự sự trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1975 đến nay.


Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lí thuyết chấn thương như là một cách đọc văn học
Lí thuyết (theory) bắt nguồn từ thuật ngữ “theōria” (θεωρία) trong tiếng Hy
Lạp cổ, được hiểu là “suy ngẫm, suy đoán” [1]; hoặc “chiêm nghiệm về bản chất của
sự vật” [2]. Thuật ngữ này được nhắc tới đầu tiên vào cuối thế kỉ XVI gắn với tên
tuổi của Christopher Marlowe, một nhà thơ, nhà viết kịch người Anh. Việc truy
nguyên ý nghĩa của lí thuyết từ một thuật ngữ cổ xưa có thể gợi nhắc chúng ta về một
phần bản chất của các cách tiếp cận lí thuyết đối với văn học. Bởi “theoria” nhằm chỉ
một góc nhìn hoặc một viễn cảnh của sân khấu Hy Lạp. Đó cũng chính là những gì lí

thuyết văn học hướng tới. Lí thuyết (Literary Theory) liên quan đến các hoạt động
diễn dịch ý nghĩa của các văn bản trên thế giới này. Mà diễn dịch, về cơ bản chính là
trình diễn một lối đọc, trong đó, hoạt động đọc chính là q trình chúng ta truy tìm,
kiến tạo, chất vấn các ý nghĩa trong đời sống.
Jonathan Culler trong cơng trình Nhập mơn lí thuyết văn học khi đi vào diễn
giải về lí thuyết và ý nghĩa của lí thuyết cho rằng, thực ra khơng hề dễ dàng để đi tìm
câu trả lời cho câu hỏi Lí thuyết là gì?. Đối với ngành nhân văn, đặc biệt trong lĩnh
vực nghiên cứu văn chương, lí thuyết “đã thay đổi đáng kể bản chất của nghiên cứu
văn học” [3; 11-12], tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là lí thuyết chỉ thuộc về địa
hạt của văn chương. Lí thuyết, theo ông, hướng đến một thứ khác. Khi quan niệm lí
thuyết như là một thể loại – một dạng nghĩ và viết có giới hạn vơ cùng khó xác định,
Jonathan Culler đã chỉ ra được một thực tế rằng có những cơng trình lí thuyết vượt
lên trên lĩnh vực gốc. Điều đó có nghĩa là lí thuyết thách thức những giới hạn, định
hướng tư duy trong các vấn đề nằm ngoài lĩnh vực của chúng. Quan điểm của
Jonathan Culler đã chỉ ra được tình trạng trong thực tế chuyển động của lí thuyết
phương Tây. Rõ ràng trên diễn trình phát triển của ngành nhân văn, lí thuyết ln
triển hạn những khả thể của nó. Sự vận động của các hệ hình lí thuyết nằm ở chỗ các
hệ hình ấy lấy cái gì là tâm điểm của sự diễn giải. Từ những năm 1949 của thế kỉ XX,
với sự ra đời của cơng trình Lý luận văn học (Wellek và Warren) – cơng trình đầu
tiên trình bày các vấn đề lí thuyết phê bình văn học một cách hệ thống, khoa học. Vào


thời điểm đó, lí thuyết được xem là “cách chúng ta nói, sắp xếp và suy ngẫm về những
gì đang làm với tư cách là một nhà phê bình: một loại ngơn ngữ lấy thực hành phê
bình làm đối tượng của nó” [4; 2]. Tuy nhiên, hơn hai thập niên trở về sau, lí thuyết
dường như đã nới rộng đường biên. Cuộc cách mạng lí thuyết vào những năm 1960,
1970 đã phá vỡ thế độc tơn của mơ hình thống trị tập trung vào ngơn ngữ của Phê
bình mới Anh - Mỹ và Chủ nghĩa cấu trúc. Ở thời điểm này, quyền bá chủ của các
học thuyết tập trung vào ngôn ngữ đã dần suy yếu. Vậy nên, nếu như lí thuyết trước
năm 1970 thường được hiểu là lí thuyết văn học thì lí thuyết sau năm 1970 rẽ hướng,

tạo nên nhiều khúc ngoặt trên bối cảnh văn hóa rộng lớn. Sự ra đời và trỗi dậy của lí
thuyết chấn thương nằm trong mạch vận động đó của lí thuyết đương đại.
Như vậy, về bản chất, ở ý nghĩa sâu xa nhất, lí thuyết, đặc biệt là lí thuyết
đương đại là lí thuyết về việc diễn dịch, cụ thể, lí thuyết tồn tại như là một cách đọc.
Điều đó cũng có nghĩa là lí thuyết đương đại là sự tiếp nối, thay thế của các mơ hình
đọc khác nhau, trong đó khơng có cách đọc nào là tồn năng, mỗi cách đọc có thể
làm nổi bật một số khía cạnh của văn bản mà truyền thống đọc cấu trúc luận ít quan
tâm. Đối tượng của sự đọc ở đây chính là văn bản theo nghĩa rộng, chứ không phải
chỉ là văn chương. Và các văn bản đời sống đó khơng chỉ được nhìn dưới lăng kính
duy nhất mà cịn được quan sát dưới rất nhiều góc độ. Đó là lí do tại sao các lí thuyết
khơng ngừng sinh sơi nảy nở, lịch sử của nghiên cứu phê bình văn học chính là lịch
sử vận động khơng ngừng của các lí thuyết. Ngồi ra, cũng như các lí thuyết đương
thời, lí thuyết chấn thương ra đời trên nền của văn hóa hậu hiện đại. Ngoài việc khắc
phục sự bế tắc của cách đọc tập trung vào văn bản, lí thuyết chấn thương còn chống
lại cái trung tâm, hướng tới sự phi trung tâm, tính liên ngành. Việc gọi chấn thương
như là một lí thuyết trong ngành nhân văn (cũng như cách gọi lí thuyết về giới, lí
thuyết chủng tộc, lí thuyết hậu thực dân…) đã góp phần giải phóng lí thuyết ra khỏi
tính đại tự sự, tiệm cận với những cái tiểu tự sự. Càng ngày chúng ta càng thấy rằng
lí thuyết khơng cịn bó hẹp trong diễn ngơn trung tâm của văn bản khép kín mà đã
mở rộng ra ở những giá trị ngoại biên, đối thoại với những diễn ngơn, tư tưởng hiện
đại. Và cách đọc chấn thương có thể hiểu là cách tiếp nhận lí thuyết chấn thương, vận
dụng nó vào việc đọc văn bản.


Tuy nhiên, sự giao cắt giữa các lí thuyết ngồi văn học và các văn bản văn
chương có thể trở thành chìa khóa vạn năng để mở ra vơ cùng những cách đọc đối
với văn bản văn học. Cụ thể ở đây, lí thuyết chấn thương có thể gợi ý cách đọc phân
tâm, trong đó những khái niệm được gợi ý từ Freud đã trở thành công cụ đắc lực cho
các nhà nghiên cứu nhận diện các triệu chứng bệnh học được mơ tả trong văn bản.
Bởi vì tính chất của nó là một lối đọc triệu chứng cho nên lối đọc chấn thương tập

trung nhận diện tính chấn thương. Chúng tơi cho rằng, lối đọc chấn thương có thể đưa
lại những ý nghĩa vơ cùng quan trọng và có tính phát hiện đối với những thực thể văn
chương sinh động và phức tạp. Thứ nhất, cách đọc ấy phải chỉ ra rằng: các triệu chứng
chấn thương được mô tả, nhận diện trong văn chương khác với những vết thương thể
chất. Nó là thứ lặn vào thế giới tinh thần, tác động tới vơ thức, vơ cùng khó nắm bắt.
Khơng phải lúc nào các nghiên cứu về bệnh lý cũng có thể nhạy cảm hơn các cách
tiếp cận của nghệ thuật đối với các trạng thái tinh thần của con người. Thực chất ngơn
ngữ miêu tả của bệnh lí trong văn bản y khoa vẫn là một kiểu loại mô tả khá trừu
tượng và duy lí. Chính vì thế nó có thể nhận diện được nhưng khó có thể tạo sự đồng
cảm, khó có thể khơi dậy cảm xúc. Hơn nữa, trong văn hóa hậu hiện đại, chấn thương
thực chất là đa ngành, nổi lên như một nơi ngưng tụ cho rất nhiều vấn đề khác nhau
(Geoffrey Hartman). Trong bối cảnh văn hóa rộng lớn, chấn thương sẽ giao cắt, tiệm
cận với những vấn đề nóng bỏng của đời sống hiện đại như chủng tộc, môi trường,
giới… Chấn thương về giới, đặc biệt là giới tính thứ ba liệu có “vừa vặn” với bất kì
bản mơ tả nào về y khoa? Hay nỗi mặc cảm về chủng tộc (như chủng tộc Do Thái
trong sự kiện Holocaust, chủng tộc người da đen trong bối cảnh xung đột chủng tộc
ở Châu Âu và Hoa Kì) – vấn đề trọng tâm của đời sống và cảm thức phương Tây một
thời liệu có thể được nhận diện đơn thuần thông qua những thuật ngữ tâm lý học? Và
liệu các chấn thương lịch sử có thể được thanh giải thông qua những phương pháp trị
liệu của y học? Những câu hỏi đó sẽ dẫn tới những vấn đề quan trọng tiếp theo, mà
theo chúng tôi thể hiện rõ ưu thế của cách đọc chấn thương trong văn học. Đó là,
ngồi việc nhận diện các triệu chứng phức tạp, lối đọc chấn thương còn đi vào chất
vấn nguyên nhân, nguồn gốc của chấn thương. Cơ chế nào khiến cho chấn thương
xảy ra và lưu cữu trong cõi tinh thần của con người? Cơ chế nào khiến cho một trạng


thái chấn thương được nhận diện hay không được nhận diện? Thậm chí, phê bình
chấn thương có tác động trở lại việc tìm kiếm hình thức nghệ thuật, lối viết? Các khả
thể đó khiến cho chấn thương trong văn chương không bao giờ là sự mô phỏng của
chấn thương trong ngành tâm lý học, thậm chí nó cịn thách thức, chấn vấn tính duy

lí của những phán đốn tâm lý thuộc ngành này. Xa hơn nữa, cách đọc chấn thương
còn có khả năng khơi phục lại đạo đức của việc đọc, giúp ngành Nhân văn vượt qua
khỏi cơn khủng hoảng và bế tắc trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học…
Bản thân cách đọc của lí thuyết chấn thương là cách đọc có tính vận động. Đó
là sự phát triển từ lối đọc triệu chứng sang lối đọc mang tính phản tư và tác động trở
lại thực tại. Tính vận động đó đến từ chính những chuyển động mạnh mẽ của diễn
ngơn lí thuyết này: sự chuyển dịch ý nghĩa của nội hàm khái niệm chấn thương, sự
tạo lập các hệ hình lí thuyết chấn thương qua từng giai đoạn phát triển, từng ngã rẽ
của lí thuyết chấn thương – chặng đường sẽ được chúng tôi giới thiệu một cách có hệ
thống dưới đây. Dõi theo một lí thuyết trên tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại khơng
chỉ giúp chúng ta hình dung một cách tổng quan về sức sống và khả năng ứng dụng
của một lí thuyết đã trở thành một phạm trù quan trọng trong diễn ngơn lí thuyết và
phê bình đương đại, mà cịn có thể đánh giá về tính khả dụng của một cách đọc dựa
trên các thuật ngữ và thao tác phân tích được gợi ý từ các lí thuyết gia của khuynh
hướng này.
1.2. Những chặng đường phát triển của lí thuyết chấn thương
Từ khi ra đời đến nay, lí thuyết chấn thương đã có một diễn trình phát triển rất
năng động trong bối cảnh học thuật của Hoa Kì và Châu Âu. Bắt nguồn từ một thuật
ngữ được sử dụng trong lĩnh vực y học, được nhận diện thông qua hàng loạt triệu
chứng về thể chất và thần kinh, chấn thương trở thành một khái niệm nổi bật trong
ngành nghiên cứu nhân văn. Trong quá trình hình thành và phát triển, chúng tơi nhận
thấy chặng đường của lí thuyết chấn thương có thể phân chia thành ba giai đoạn như
sau:
1.2.1. Chặng thứ nhất: thời kì manh nha của lí thuyết chấn thương
Những ý niệm ban đầu của con người về chấn thương được nhận diện trong ý
nghĩa y học của thuật ngữ này. Chấn thương được định nghĩa như là một vết thương
hay một tổn thương ngồi cơ thể nói chung. Tuy nhiên, đến nửa sau thể kỉ XIX, đặc


biệt tại Anh, dưới thời Victoria, thuật ngữ chấn thương chuyển nội hàm từ vết thương

thân thể, vết thương vật lí sang chấn thương tâm lí. Bước ngoặt ý nghĩa đó bắt nguồn
từ những sự kiện tai nạn tàu hỏa khủng khiếp mà nạn nhân của những tai nạn đó phải
chịu cả vết thương về thể xác lẫn những ám ảnh về tinh thần. Người ta nhận ra rằng,
dẫu vết thương thân thể được chữa lành hoàn toàn, nhưng những ấn tượng kinh hoàng
trở thành nỗi đau dai dẳng kéo dài mãi về sau. Năm 1860, John Ericsson – một bác sĩ
người Anh trong cơng trình Về đường sắt và các chấn thương khác của hệ thần kinh
(On Railway and Other Injuries of the Nervous System) đã ghi nhận một mơ hình
phản ứng tâm lí của bệnh nhân có liên quan đến tai nạn đường sắt [dẫn theo 5; 290].
Ericsson đưa ra giả thuyết rằng nguyên nhân vật lí trực tiếp cho hiện tượng này bắt
nguồn từ cú sốc cột sống (spine shock). Thuật ngữ đó xuất hiện nhiều trong các diễn
ngơn y khoa và pháp lí thời kì này, theo đó những rối loạn về thể chất như sợ hãi, lo
lắng, sốc… được xem là nguồn gốc của hệ thống y học về chấn thương tâm lí ở
phương Tây hiện đại. Nhà văn Charles Dickens – một nạn nhân của vụ tai nạn xe lửa
năm 1865, cũng là một ví dụ điển hình của hiện tượng rối loạn tâm lí chấn thương.
Ơng bị chứng run rẩy và mất giọng trong hai tuần. Ông đặc biệt ám ảnh bởi sự rung
lắc của tàu. Thậm chí, những năm về sau, những nỗi sợ hãi mơ hồ và trải nghiệm vượt
ngưỡng đó vẫn ám ảnh ông [6]. Những cú sốc gây ra bởi tai nạn tàu hỏa (railway
shock) như trường hợp của Charles Dickens không phải là hiện tượng hiếm gặp ở
Anh thời bấy giờ. Tuy nhiên, Jill Matus – chuyên gia về chấn thương thời kì Victoria,
đã khẳng định rằng có một thực tế là con người thời đại Victoria đã thấy được mối
quan hệ giữa shock, kí ức và ý thức, thậm chí tồn tại lí thuyết về sự tổn thương tinh
thần cho thấy những xúc cảm mạnh mẽ có thể tạo ra trạng thái như hiệu ứng, phá vỡ
kí ức… nhưng thời bấy giờ chưa thể phát triển một lí thuyết đầy đủ về chấn thương
tâm lí. Dẫu thời đại Victoria đã hình thành một thứ phả hệ về nghiên cứu chấn thương
tinh thần, phải đến phân tâm học của Freud, những luận điểm quan trọng về chấn
thương mới được xây dựng thành một hệ thống – tiền đề cho phê bình chấn thương
sau này.
Quan niệm về chấn thương giai đoạn này chủ yếu gắn với tên tuổi của Freud,
và lí thuyết chấn thương, do đó, nằm trong dịng mạch của phân tâm học. Các nghiên



cứu phân tâm học về nguồn gốc của chấn thương cũng như tác động của nó tới thần
kinh con người bắt nguồn từ trong nghiên cứu về sốc và chứng cuồng loạn của các
nhà nghiên cứu, bên cạnh Freud, gồm Jean Martin Charcot, Joseph Breuer, Pierre
Janet… Cuối thế kỉ XIX, ở phương Tây nổi lên một số xu hướng nghiên cứu về chứng
loạn thần kinh, đặc biệt ở các bệnh nhân nữ. Nếu như các chuyên gia về y học thời
bấy giờ cho rằng chấn thương vẫn là một khiếm khuyết về thể chất thì các nhà tâm lí
học đã đưa ra các giả thuyết về mối quan hệ nhân quả giữa chấn thương và tâm lí.
Đặc biệt, Jean Martin Charcot, cha đẻ của ngành thần kinh học và thôi miên đã thấy
được dấu hiệu của sự thối hóa thần kinh. Ông cho rằng chứng rối loạn phân ly
(hysteria) là một căn bệnh tâm lí, và kết luận rằng triệu chứng của hysteria xuất phát
từ một sự kiện chấn thương làm tổn thương não. Pierre Janet, người có cùng ý tưởng
với Charcot đã tìm cách chữa trị cho những bệnh nhân bị chấn thương bằng cách
khuyến khích họ nhớ lại những kí ức chấn thương, biến nó thành kí ức trần thuật/kể
chuyện. Quan điểm của Charcot và Janet đã gợi ý cho Freud về ý tưởng chấn thương
thần kinh, đặc biệt là các chấn thương bị che giấu như là căn nguyên của của chứng
cuồng loạn. Cùng với cộng sự của mình, Josef Breuer, trong cơng trình Nghiên cứu
về chứng cuồng loạn (Studies on hysteria, 1895), Freud đã khám phá ra rằng cái lõi
của chấn thương luôn khởi nguồn từ một sự kiện trong thời thơ ấu, dẫu rằng khi mới
xảy ra, sự kiện đó khơng phải là chấn thương tự nó. Bằng sự hồi tưởng, những triệu
chứng ban đầu ấy mới trở thành cơ chế gây đau. Freud và Breuer ví sự kiện chấn
thương ấy như là thời kì ủ bệnh của những hành động trì hỗn, có nghĩa là những sự
kiện chấn thương chỉ có thể được hiểu, được nhận biết sau thời gian của hành động
trì hỗn (ơng dùng thuật ngữ Nachträglichkeit), làm trì hỗn hiệu lực và ý nghĩa của
q khứ. Đó là lí do vì sao, chấn thương – sự kiện neo đậu trong phần vơ thức con
người – chỉ có thể được nhận diện trong quá trình hồi tưởng.
Năm 1920, Freud cho ra đời cuốn tiểu luận Sâu xa hơn nguyên tắc không đổi
(Beyond the Pleasure Principle) trong đó, ơng mở rộng lí thuyết chấn thương, điều
chỉnh một số quan điểm về cơ chế phòng thủ của cái bản ngã (ego). Sự điều chỉnh
quan niệm về chấn thương của Freud bắt nguồn từ tình trạng phổ biến của những cựu

binh chiến tranh: shellshock – những người sống sót trở về từ Thế chiến thứ 1. Tình


trạng của những người lính này cho thấy, ở họ khơng chỉ tồn tại trạng thái rỗng của
trí nhớ, mà cịn có sự xuất hiện liên tục, ám ảnh của những trạng thái cực đoan như
ảo giác, ác mộng. Freud nhấn mạnh đặc điểm đó như là tính tái diễn, sự quay trở lại
của kí ức (compulsion of repeat). Freud cho rằng có một cơ chế khiến sự kiện chấn
thương quay trở lại, tái diễn, biến cải thông qua những giấc mơ. Khi được nhớ lại, sự
kiện chấn thương đó sẽ neo vào trong vô thức của con người; từ đó tạo ra cảm giác
đứt gẫy, tan rã của bản ngã. Đây là quan điểm rất tiến bộ của Freud - là tư tưởng được
những nhánh nghiên cứu chấn thương ở giai đoạn sau tiếp thu và phát triển: một sự
kiện chấn thương chỉ được nhìn nhận trong quá trình tái trình hiện của kí ức (q trình
nhớ lại), và nó khơng chỉ là q trình của một cá nhân, mà cịn là cơ chế kiến tạo nên
kí ức của cộng đồng – một dạng biểu hiện của văn hóa (cái gì được nhớ và cái gì
khơng được nhớ).
Phải hơn một thế kỉ sau, triệu chứng rối loạn kí ức hay cịn gọi là hậu chấn
tâm lí (PTSD) mới được chính thức xác nhận bởi Hiệp hội tâm thần Hoa Kì. PTSD
xuất phát từ việc điều trị sang chấn tâm lí cho những cựu binh trở về từ chiến tranh
Việt Nam, trong đó những trải nghiệm trong chiến tranh được xem như là một tác
nhân gây chấn thương cực độ (Roger Luckhurst). Trên thực tế, PTSD đã từng được
biết đến ở thế chiến thứ nhất với hiện tượng shellshock – trạng thái trống rỗng của trí
nhớ, kèm theo đó là sự xâm lấn của những trạng thái cực đoan vào trong trí óc, khiến
cho kinh nghiệm chấn thương bị tái diễn đầy đau đớn trong thực tại. Thừa nhận PTSD
và những cơ chế vận hành đặc biệt của tâm lí hậu chấn thương, các bác sĩ và nhà tâm
thần học thời kì này đã bắt đầu lưu ý đến một yếu tố quan trọng, tác nhân đầu tiên
gây nên chấn thương, là kí ức.
1.2.2. Chặng thứ hai: sự trỗi dậy của lí thuyết chấn thương
Có thể thấy, lí thuyết chấn thương của Freud cùng những khám phá của ông về
sự lặp lại mang tính bắt buộc của kinh nghiệm/sự kiện chấn thương, sự đổ vỡ và phân
mảnh của bản ngã chấn thương đã góp phần thúc đẩy sự ra đời, phát triển của nhánh

nghiên cứu này, đặc biệt là giai đoạn những năm 90 của thế kỉ XX. Kế thừa tinh thần của
Freud, Cathy Caruth, Shoshana Felman, Geoffrey Hartman – các nhà nghiên cứu trường
phái Yale, Hoa Kì đã tạo ra làn sóng đầu tiên trong việc xây dựng lí thuyết chấn thương


trong ngành khoa học nhân văn. Các nhà nghiên cứu chấn thương thời kỳ đầu đều đồng
ý với quan điểm của Freud: chấn thương thách thức khả năng tái trình hiện. Họ định
nghĩa chấn thương như là một sự kiện khơng thể biểu đạt, tiết lộ những mâu thuẫn vốn
có trong kinh nghiệm chấn thương và ngơn ngữ. Ngồi ra, lí thuyết về ảnh hưởng, tác
động của chấn thương tới tâm lý của cá nhân (sự phân ly, gián đoạn, phân mảnh) được
sử dụng để khám phá trải nghiệm của cá nhân trước một sự kiện chấn thương cộng đồng
trong văn bản, từ đó, kết nối kinh nghiệm cá nhân và các nhóm văn hóa, hoặc cá nhân
và đời sống chính trị.
Một trong những sự kiện đánh dấu cho sự bắt đầu của một hệ thống lí thuyết
liên quan đến chấn thương được thiết lập thời kì này chính là sự ra đời của kho lưu
trữ video làm chứng cho sự kiện thảm sát người Do Thái tại Yale năm 1980. Dự án
kho lưu trữ Yale thu thập chứng ngôn của những người Do Thái sống sót sau thảm
họa diệt chủng của Đức quốc xã, trong đó, những người cịn sống mong muốn được
kể lại những trải nghiệm chết chóc của họ.
Geoffrey Hartman – một trong những người sáng lập ra kho lưu trữ Yale trước khi đặt mối quan tâm của mình vào tiếng nói của những người Do Thái sống
sót khỏi thảm họa diệt chủng, đã từng thực hành phân tích chấn thương thơng qua
việc đọc mảng văn chương hư cấu, đặc biệt là thơ lãng mạn của Wordsworth. Hartman
đã nhìn thấy mối liên hệ giữa chấn thương cá nhân và tập thể qua sáng tác của thi sĩ
người Anh. Sự phản bội của nước Anh khi chống lại Pháp và cuộc cách mạng Pháp,
theo Geoffrey Hartman là một sự kiện gây chấn thương có quy mơ tập thể. Sự kiến
ấy đã tác động mạnh mẽ tới kinh nghiệm chấn thương cá nhân, mà ở đây chính là mối
tổn thương sâu sắc của hồn thơ Wordsworth. Những phân tích chấn thương trong các
văn bản văn chương và điện ảnh, được Geoffrey Hartman trình bày trong bài tiểu luận
Hành trình của nhà phê bình: Những suy tư văn học 1958-1988.
Geoffrey Hartman chuyển mối quan tâm sang chấn thương của người Do

Thái khi ông bắt đầu công việc lưu trữ những chứng tích của những chứng nhân của
Holocaust tại Yale. Với ơng, điều đó giúp phục chế lại những trải nghiệm đau thương,
đảm bảo không lãng quên trường hợp cá thể. Những cơng trình nổi tiếng của Hartman
như Hồi tưởng Holocaust: Bóng hình của kí ức (Holocaust remembrance: The Shape


of Memory, 1993), Về tri thức chấn thương và nghiên cứu văn học (On Traumatic
Knowledge and Literary Studies, 1995), Bóng đêm bất tận: hệ quả của Holocaust
(The Longest Shadow: In the Aftermath of the Holocaust, 1996) đã đưa lại những dự
đoán về tác động, ảnh hưởng to lớn của nghiên cứu chấn thương đối với phê bình văn
học; thể hiện mối quan tâm đặc biệt của ông đối với sự kiện Holocaust và sự vận hành
của trí nhớ. Đặc biệt, việc thành lập kho lưu trữ video Fortunoff Holocaust tại Yale,
nơi thu thập lời khai của những người sống sót sau thảm họa Holocaust khơng chỉ
góp phần thúc đẩy sự khám phá của ơng về phương diện lí thuyết, mà với một mục
đích nhân văn hơn, để những tiếng nói của những cá thể chấn thương không bị rơi
vào quên lãng (bản thân Hartman thoát khỏi thảm sát Do Thái ở Châu Âu bằng cách
đi từ Đức đến Anh, sau đó đến Mĩ định cư khi cịn nhỏ). Hơn nữa, lịch sử được kể lại
bởi những chứng nhân sẽ là một thứ lịch sử truy vấn gắt gao những vấn đề nhức nhối
trong kí ức của họ – vốn dĩ đã từng được tái hiện lại một cách đơn sơ và bị giản lược
quá nhiều. Dự án của Hartman và các đồng nghiệp của ông đã gợi ý một mô hình rất
quan trọng trong nghiên cứu văn học chấn thương, đó là nghiên cứu văn chương
chứng nhân. Ngồi ra, ý tưởng của ơng cho thấy văn học chấn thương có thể thâu nạp
thêm thể loại tự truyện, từ đó “đưa nghiên cứu văn học lại gần hơn những hình thức
căn bản phi văn chương, thông tục của tự biểu hiện bằng tự sự” [8; 569].
Rõ ràng, kho lưu trữ video về chứng nhân Holocaust đã thu hút sự quan tâm
của những nhà nghiên cứu chấn thương của Yale khi họ bắt đầu xây dựng hệ thống lí
thuyết của riêng mình. Shoshana Felman đã từng cho rằng phải có một thứ ngôn ngữ
khủng hoảng và cấp bách về việc chịu trách nhiệm đối với sự thật lịch sử, được cho
là thời đại của chứng ngôn, một thời đại chứng kiến bản thân nó trải qua một sự kiện
lớn [dẫn theo 4; 503]. Trong cơng trình viết chung với Dori Laub, Bằng chứng, Sự

khủng hoảng của chứng nhân trong văn học, phân tâm học và lịch sử (Testimony,
Crises of Witnessing in Literature, Psychoanalysis and History) xuất bản năm 1992,
nhà phê bình văn học của Yale và nhà phân tâm học Dori Laub đã lần đầu tiên nêu
lên một lí thuyết tổng quan về bằng chứng ngơn, chứng nhân và vai trị của trí nhớ,
cũng như cho thấy nhu cầu quan sát lại những biến động lịch sử, chẳng hạn từ trường


hợp Holocaust. Thơng qua việc phân tích các văn bản, các bộ phim, tài liệu, bao gồm
tiểu thuyết của Camus, tiểu luận của de Man, dự án thơ ca của Paul Celan và Pagis,
những lời chứng lưu trữ trong video, bộ phim Shoah của Claude Lanzmann…các tác
giả đã khám phá ảnh hưởng, tác động của Holocaust tới văn hóa, nghệ thuật đương
đại.
Năm 1995, cuốn sách Chấn thương, những khám phá về kí ức (Trauma,
Explorations In Memory) với những góc nhìn đa chiều về chấn thương được xuất bản.
Trong bài mở đầu, Cathy Caruth đã nhắc tới trải nghiệm muộn màng của kinh nghiệm
chấn thương – quan điểm bà kế thừa từ Freud và sẽ được phát triển sâu hơn trong
những cơng trình về sau. Tuy nhiên, trong giới hạn của một bài giới thiệu, thay vì đi
xác lập khái niệm chấn thương, Cathy Caruth quan tâm tới tác động của kinh nghiệm
chấn thương đối với phân tâm học trên cả thực hành lẫn lí thuyết, cùng những khía
cạnh khác của văn hóa như văn chương và sư phạm, cấu trúc của lịch sử qua văn bản
và phim ảnh, chủ nghĩa tích cực chính trị và xã hội. Những chủ đề đó được triển khai
trong một loạt các bài viết của Shoshana Felman, Dori Laub, Henry Kristal, Harold
Bloom, Van Der Kolk… Chấn thương được nhận diện dưới nhiều góc nhìn, trong
cuộc đối thoại rộng rãi với nhiều văn bản, nhiều ngữ cảnh.
Năm 1996, chuyên luận Kinh nghiệm không được khẳng định, chấn thương,
trần thuật và lịch sử (Unclaimed Experience: Trauma, Narrative, History) của Cathy
Caruth được ấn hành và gây tiếng vang lớn. Cuốn sách được xem là văn bản kinh
điển của phê bình chấn thương. Từ đây, lí thuyết chấn thương bắt đầu xác lập nội hàm
của nó trong lĩnh vực nghiên cứu. Cơng trình của Caruth một mặt tiếp thu những quan
điểm về chấn thương của Freud, mặt khác phát triển lí thuyết của mình, với hệ thống

ý tưởng được xem là rất thời thượng và có tầm ảnh hưởng rộng rãi trong lĩnh vực
nghiên cứu nhân văn, đặc biệt ở ở Hoa Kì. Cuốn sách bao gồm 5 phần chính trong đó
có thể thấy được khả năng bao qt, kết nối những vấn đề thuộc những chủ đề khác
nhau như phân tâm học của Freud, lí thuyết chấn thương và rối loạn tâm lí hậu chấn,
nghiên cứu lịch sử và văn hóa, lí thuyết về đạo đức… và tất cả đều được soi chiếu từ
góc nhìn của lí thuyết chấn thương. Đặc biệt, Cathy Caruth chú ý đến tính khơng đồng
hóa được của chấn thương dẫn đến việc quay trở lại đầy ám ảnh của nó. Cathy Caruth


cho rằng chấn thương luôn tạo ra được những nghịch lí kép trong ý thức và ngơn ngữ.
Một mặt ta rất muốn biết ý nghĩa của quá khứ, nhưng mặt khác ta lại khơng thể hiểu
nổi nó. Kinh nghiệm chấn thương, theo bà, nó vượt q chiều kích tâm lí của sự chịu
đựng. Mâu thuẫn từ đó nảy sinh: một mặt thấy đe dọa của cái chết, một mặt ta phải
sinh tồn. Bạo lực luôn xuất hiện theo cách ta khơng thể ngờ tới, và chấn thương, vì
thế là cái đến muộn.
Cơng trình của Cathy Caruth đóng vai trị rất quan trọng trong bối cảnh vận
động của phê bình chấn thương, đặc biệt nó có vai trị khơi nguồn của lí thuyết chấn
thương hiện đại. Việc đọc chấn thương thơng qua những văn bản triết học, văn
chương, điện ảnh (chẳng hạn Caruth đọc lại Mose và Nhất thần luận của Freud, phân
tích các dạng chấn thương trong Hiroshima mon amour của Duras và Resnais…) đã
đưa lại những gợi ý sâu xa về các kinh nghiệm chấn thương, như nhận ra chấn thương
cộng đồng tái diễn trong số phận cá nhân, nguy cơ tái diễn chấn thương từ những gì
bị quên lãng dẫn đến những trải nghiệm muộn màng của chấn thương… Đặc biệt,
mơ hình về tính bất khả trình hiện của ngôn ngữ gây ra bởi chấn thương của Caruth
vẫn là một tư tưởng cốt lõi trong ngành nghiên cứu chấn thương hai thập kỉ sau đó.
Michelle Balaev cịn nhận thấy rằng tầm quan trọng trong mơ hình lí thuyết của Cathy
Caruth đó là một mặt tiếp tục duy trì cơ sở của mơ hình truyền thống, mặt khác mở
rộng khung lý thuyết tới các lí thuyết khác như nữ quyền luận, lí thuyết chủng tộc và
hậu thuộc địa [7; 365].
1.2.3. Chặng thứ ba: đa dạng hóa, đa phương hóa lí thuyết chấn thương

Lí thuyết chấn thương giai đoạn sau, một mặt tiếp nối mạch tư tưởng của
giai đoạn trước nó, mặt khác, kiếm tìm nhiều hướng biểu đạt mới. Ở xu hướng nghiên
cứu chấn thương tiếp theo, khơng ít người quay lại hồ nghi quan điểm của Cathy
Caruth. Có người cho rằng lí thuyết của Caruth trong khi quá xốy sâu vào tính bất
khả trình diện của chấn thương đã quên đi nhiệm vụ lớn lao của văn chương nói riêng,
của nghiên cứu nhân văn nói chung là làm nổi bật lên sự bạo tàn. Nổi bật giữa những
tiếng nói phản biện, nghi vấn của nghiên cứu chấn thương giai đoạn này là quan điểm
của Ruth Leys trong công trình Chấn thương: Một phả hệ (Trauma: A Genealogy,
2000). Cách tiếp cận của Ruth Leys chối từ lối tiếp cận của khái niệm chấn thương


thường được áp dụng trong văn học hiện đại. Bởi xuất phát từ điểm nhìn của một
người lập bảng phả hệ, cơng trình bà mang tư tưởng của một tác phẩm của lịch sử trí
tuệ, khác hẳn với cơng trình hậu cấu trúc về chấn thương, đặc biệt là những môn đệ
của Freud. Bằng cách chú trọng vào việc phân tích Freud vốn dĩ là nền tảng tư tưởng
trong những diễn giải của Caruth, Ruth Leys cho rằng Caruth đã đọc sai Freud, và
chính cách đọc gượng ép đó đã dẫn đến những điểm mù trong việc xác lập nội hàm
chấn thương. Ruth Leys lấy thôi miên làm nền tảng cho lí thuyết chấn thương [11; 89]. Cách tiếp cận của Ruth Leys, căn bản vẫn là cách tiếp cận phả hệ, trong đó các
khái niệm và lí thuyết về chấn thương được nhìn thấy dưới ánh sáng của bối cảnh lịch
sử, xã hội và văn hóa thay vì xem nó như sự phát triển tuyến tính của một nền tảng
tri thức đang vận hành, phát triển.
Cũng như Ruth Leys, Dominick Lacapra đặt lịch sử là trục trung tâm của rất
nhiều vấn đề đáng lưu tâm trong bối cảnh ngành nhân văn đương đại. Hầu hết các
cơng trình của Dominick Lacapra (trong đó có Viết về lịch sử, viết về chấn thương
(Writing History, Writing Trauma) và Lịch sử và những giới hạn của nó, con người,
động vật, bạo lực (History and Its limits, Human, Animal, Violence) đều cho thấy sự
quan tâm đặc biệt của ông đối với mối liên hệ giữa văn chương và lịch sử, đặt các
văn bản phê bình trong những cuộc đối thoại với nhiều ngữ cảnh phức tạp. Trong
những thập kỉ gần đây, Lacapra quan tâm đến chấn thương và đại diện, đặc biệt là sự
kiện của Holocaust. Ông tiếp cận với những sự kiện chấn thương thông qua các chứng

ngôn và việc làm chứng của những người trải qua thảm họa diệt chủng. Tuy nhiên,
từ những cơng trình của các nhà nghiên cứu khác như Michael Bernard - Donals và
Richard Glejzer, Dominick Lacapra thấy rằng cái nhìn lịch sử, với những giới hạn
của chính nó đã khước từ tầm quan trọng của tiếng nói của những người làm chứng.
Trong khi đó, theo ơng, đó là vấn đề sống còn đối với nạn nhân. Bởi kinh nghiệm
chấn thương, nhất là trong trường hợp của Holocaust thường gắn với những điều
không thể biểu đạt, vượt lên cái bình thường, những chấn động vượt ngưỡng, nên nó
thường được giới thiệu kèm theo cái trác tuyệt.
Như vậy, cơng trình của Ruth Leys và Dominick Lacapra là những dẫn
chứng điển hình cho nỗ lực của các nhà nghiên cứu hậu Caruthian trong việc kiếm


tìm một mơ hình mới cho lí thuyết chấn thương. Thực tế cho thấy rằng, hơn hai thập
kỉ kể từ khi chuyên luận của Cathy Caruth được ấn hành, nghiên cứu chấn thương đã
dần chuyển mình sang một bước ngoặt mới. Phê bình chấn thương càng ngày càng
mở rộng phạm vi nghiên cứu, kết hợp, cộng hưởng với nhiều nhánh của lí thuyết
đương đại.
Mơ hình nghiên cứu chấn thương cũng dần thay đổi, chuyển từ mơ hình cổ
điển của Cathy Caruth sang mơ hình lí thuyết đa ngun (pluralism theory - Michelle
Balaev). Trong bài viết Xu hướng trong lí thuyết chấn thương trong văn học (Trend
in Literary Trauma Theory) đăng trên tập chí Mosaic: An Interdisciplinary Critical
Journal vào năm 2008, Michelle Balaev đã gợi ý về mơ hình đa ngun lí thuyết khi
nghiên cứu chấn thương. Trong khi xem xét những mơ hình và kí ức chấn thương
được biểu hiện trong tiểu thuyết, Michelle Balaev đã chú ý tới vai trò của địa điểm
thể hiện trong việc neo giữ trải nghiệm cá nhân trong bối cảnh văn hóa rộng lớn. Bà
cho rằng thông qua việc dựng nên bối cảnh thách thức những ngầm định về các mối
quan hệ trong xã hội và quy tắc đạo đức, tiểu thuyết về chấn thương thể hiện rất rõ
cách thức mà những sự kiện đau thương tác động vào người trong cuộc. Lí thuyết về
địa điểm của Michelle Balaev đã bước đầu cung cấp thêm một mơ hình, một cách tiếp
cận với văn học chấn thương, phá vỡ tính độc tơn của lí thuyết truyền thống.

Quan điểm của Michelle Balaev được triển khai một cách đầy đủ và sâu sắc
trong cơng trình Bản chất của chấn thương trong tiểu thuyết Hoa Kì (The nature of
Trauma in American Novels, 2012). Cơng trình là kết quả nghiên cứu cơng phu dịng
mạch văn học chấn thương từ nhiều điểm nhìn lí thuyết. Với mục đích mở rộng khả
năng diễn giải của lí thuyết chấn thương trong văn chương, Michelle Balaev đã khẳng
định tầm quan trọng của mô hình đa ngun, trong đó, văn học chấn thương nên được
tiếp cận diễn giải từ nhiều mơ hình và phương pháp tiếp cận. Trong những cơng trình
sau này, chẳng hạn bài giới thiệu Nhìn lại lí thuyết chấn thương trong văn học
(Literary Trauma theory reconsidered) in trong cuốn Các cách tiếp cận đương đại về
lí thuyết chấn thương trong văn học (Contemporary Approaches in Literary Trauma
Theory) do chính bà biên tập và chương viết về chấn thương (Chapter 29: Trauma)
in trong Sổ tay lí thuyết chấn thương (A companion to Literary Theory, 2018),


Michelle Balaev tiếp tục khẳng định vai trị của lí thuyết đa nguyên trong nghiên cứu
văn học chấn thương. Các cách tiếp cận đa nguyên, theo bà, có nhiều khả năng thừa
nhận cả bối cảnh sinh học thần kinh và bối cảnh xã hội của trải nghiệm chấn thương,
cũng như các vị trí mà ở đó ý nghĩa khác nhau của chấn thương được truyền tải qua
ngôn ngữ. Không loại trừ thực tế là các yếu tố xã hội, ngữ nghĩa, chính trị và kinh tế
đều hiện diện trong trải nghiệm và hồi ức của chấn thương [14; 8]. Sự chuyển dịch ra
khỏi trung tâm của mơ hình cổ điển cũng đồng nghĩa với việc mở rộng tiềm năng diễn
giải của lí thuyết chấn thương thơng qua sự soi chiếu dưới ánh sáng của tâm lí học xã
hội, nghiên cứu văn hóa, phân tâm học, hậu thuộc địa, nữ quyền, chủng tộc, hay thậm
chí những động hướng mới hơn như các lí thuyết về cảm xúc. Cụ thể, cuốn sách bắt
đầu từ lí thuyết kí hiệu học (Parsing the Unspeakable in the Context of Trauma của
Barry Stampfl); đến lí thuyết về diễn ngôn trong bài viết Secondary Thinking and
Trauma: Dostoievsky’s Note from Underground của Herman Rapaport; lí thuyết hậu
thuộc địa, nhân học và xã hội học trong chương 4, 5). Sự đa dạng hóa về phương pháp
luận càng có ý nghĩa hơn khi tiếp cận soi sáng các hiện tượng văn chương độc đáo
trong dòng chảy văn học đương đại.

Một trong những điểm đáng lưu ý của phê bình chấn thương giai đoạn này,
theo chúng tơi, đó là nó nhìn ra được nhiều kiểu chấn thương và các cơ chế gây chấn
thương. Chấn thương quan tâm sâu sắc đến các quan điểm triết học về bạo lực. Bạo
lực không chỉ tồn tại dưới hình thức của các thảm họa, biến cố, ngược lại, nó lại tồn
tại theo cơ chế rất tinh vi, len lỏi trong mọi diễn biến của đời sống thường nhật. Chấn
thương trong đời thường đẩy con người vào những khủng hoảng hiện sinh. Đó cũng
chính là lí do mà nhiều nhà nghiên cứu chấn thương giai đoạn này truy tìm nguồn gốc
của chấn thương trong mọi cơ chế, phương diện của đời sống, từ đó hình thành cái
nhìn đa dạng hóa trong việc nhận diện nguồn gốc chấn thương. Từ chỗ kiến tạo về
mặt văn hóa (như quan điểm của Michelle Balaev), phê bình chấn thương giai đoạn
này nghiên cứu chấn thương như một diễn ngôn, và chính bước ngoặt diễn ngơn đó
khiến người ta buộc phải chất vấn: Trong điều kiện nào thì trải nghiệm của con người
được coi là chấn thương? Nếu các kí ức được truyền thơng chính thống tạo dựng nên
ngày càng trở thành một câu chuyện đơn nhất, những đại tự sự, rõ ràng quyền lực và


×