Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.06 KB, 110 trang )

mn

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Đặng Thị Loan

PHÁT TRIỂN
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI CƠ SỞ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội - 2009


MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 7
TẠI CƠ SỞ
1.1.

Bản chất của trợ giúp pháp lý


7

1.2.

Trợ giúp pháp lý tại cơ sở

14

1.2.1.

Đặc điểm của trợ giúp pháp lý tại cơ sở

14

1.2.2.

Vai trò, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý tại cơ sở

22

1.2.2.1.

Tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo và đối tượng chính sách tiếp 22
cận và được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí

1.2.2.2.

Thúc đẩy tổ chức trợ giúp pháp lý thực hiện có hiệu quả các vụ việc trợ 23
giúp pháp lý


1.2.2.3.

Góp phần hồn thiện chế độ công vụ và tăng cường quan hệ phối hợp 25
với các cơ quan, ban, ngành và tổ chức đoàn thể tại cơ sở

1.2.2.4.

Góp phần tích cực thực hiện xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội ở cơ 25
sở

1.2.2.5.

Huy động nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý tại cơ sở

27

1.2.2.6.

Thúc đẩy thực hiện dân chủ ở cơ sở

27


Chương 2 - THỰC TRẠNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI CƠ SỞ
2.1.

30

Thực trạng trợ giúp pháp lý tại cơ sở trước khi có Luật Trợ giúp pháp 30
lý năm 2006


2.1.1.

Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý

34

2.1.2.

Trợ giúp pháp lý lưu động

37

2.1.3.

Trợ giúp pháp lý thơng qua tổ hồ giải ở cơ sở

43

2.1.4.

Trợ giúp pháp lý thông qua Hộp thư trợ giúp pháp lý, gửi thư miễn 44
cước phí

2.1.5.

Trợ giúp pháp lý qua các phương tiện thông tin đại chúng

45


2.1.6.

Trợ giúp pháp lý qua điện thoại

46

2.1.7.

Trợ giúp pháp lý tại nhà riêng của cộng tác viên

46

2.2.

Thực trạng trợ giúp pháp lý tại cơ sở từ khi có Luật Trợ giúp pháp lý 50
năm 2006 đến nay

2.2.1.

Tổ cộng tác viên trợ giúp pháp lý

51

2.2.2.

Trợ giúp pháp lý lưu động

55

2.2.3.


Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý

61

2.2.4.

Sinh hoạt chuyên đề pháp luật

68

2.2.5.

Trợ giúp pháp lý qua điện thoại

70

Chương 3 - YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 80
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI CƠ SỞ
3.1.

Yêu cầu phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở

3.1.1.

Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở nhằm bảo đảm quyền tiếp cận trợ 80
giúp pháp lý của người nghèo và đối tượng chính sách

80



3.1.2.

Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở cần huy động đông đảo lực lượng 82
xã hội tham gia

3.1.3.

Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở phải bảo đảm tính thường xuyên, 85
liên tục và gần nhất với cộng đồng dân cư

3.1.4.

Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở gắn với thực hiện cải cách tư pháp 86
và cải cách hành chính

3.1.5.

Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở gắn chặt chẽ với các chính sách về 88
giảm nghèo

3.2.

Một số giải pháp phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở

89

3.2.1.

Hoàn thiện thể chế


89

3.2.2.

Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về trợ giúp 90
pháp lý tại cơ sở

3.2.3.

Tăng cường thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp lý cơ sở

3.2.4.

Đẩy mạnh trợ giúp pháp lý tại cơ sở dựa trên đặc thù của địa phương, 95

94

tập trung vào vùng, miền có nhiều nhu cầu trợ giúp pháp lý
3.2.5.

Tăng cường nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý tại cơ sở

98

3.2.6.

Xây dựng cơ chế đánh giá hiệu quả trợ giúp pháp lý tại cơ sở

100


KẾT
LUẬN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ra đời từ năm 1997 trên cơ sở Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng
Chính phủ, đến nay, hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và
đối tượng chính sách đã và đang ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò
trong đời sống pháp luật của xã hội, trở thành bộ phận quan trọng trong Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xố đói giảm nghèo và được cụ thể hố trong
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 và
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn vùng
đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai
đoạn II). Qua hơn 10 năm hình thành và phát triển, cơng tác trợ giúp pháp lý
đạt được những kết quả tích cực, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao
hiểu biết pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, người
dân tộc thiểu số, người có cơng với cách mạng và những người có hồn cảnh
đặc biệt khác. Theo số liệu thống kê, tính đến hết 6 tháng đầu năm 2009, các
tổ chức trợ giúp pháp lý trong cả nước đã trợ giúp được 1.259.744 vụ việc cho
1.307.201 người được trợ giúp pháp lý (trong đó, có 558.527 người nghèo,
194.368 người có cơng với cách mạng, 210.498 người dân tộc thiểu số, còn
lại là các đối tượng khác).
Với đặc thù phần lớn đối tượng trợ giúp pháp lý là những người có khó
khăn về kinh tế, trình độ hạn chế, sống tập trung chủ yếu ở cấp cơ sở, vùng
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa nên để đạt được những kết quả trên,
ngay từ giai đoạn đầu triển khai hoạt động này, Bộ Tư pháp đã chủ trương
hướng mạnh về cơ sở, chủ động tiếp cận, tìm đến và giúp đỡ khi dân cần pháp
luật thông qua các phương thức: trợ giúp pháp lý lưu động, Tổ, Điểm, Chi

nhánh, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, chuyên trang, chuyên mục phát thanh,

1


truyền hình, sinh hoạt chuyên đề pháp luật tại các địa bàn xa trung tâm, có
nhiều nhu cầu trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện cho người nghèo, đối tượng
chính sách được giải toả vướng mắc pháp luật ngay tại chỗ, khơng phải đi lại
tốn kém. Đặc biệt với hình thức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, người
dân không chỉ thụ động tiếp thu kiến thức pháp luật mà cịn tham gia hình
thành các “đáp án” pháp luật. Trong thời gian qua, các vụ việc trợ giúp pháp
lý chủ yếu được thực hiện tại cơ sở (781.041 vụ việc, chiếm 62% tổng số vụ
việc). Thực tiễn đã chứng minh đây là hướng đi đúng đắn, tăng khả năng tiếp
cận của người dân với hoạt động trợ giúp pháp lý trên cơ sở bám dân, phục vụ
nhân dân tại chỗ của các tổ chức trợ giúp pháp lý, nhất là đối với người dân ở
vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng có nhiều khó khăn. Qua đó thể hiện rõ mục
đích, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý là xuất phát và phục vụ tốt nhất lợi ích của
người nghèo và đối tượng chính sách.
Để khẳng định tầm quan trọng của công tác trợ giúp pháp lý cũng như
tạo cơ sở pháp lý bền vững thúc đẩy công tác này phát triển, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người dân, ngày 29/6/2006, Quốc hội khố XI
tại kỳ họp thứ 9 đã thơng qua Luật Trợ giúp pháp lý (có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2007). Cùng với các quy định cụ thể, chặt chẽ về khái niệm, nguyên tắc
hoạt động trợ giúp pháp lý, tổ chức bộ máy, người thực hiện trợ giúp pháp lý,
Luật đã quy phạm hoá các hoạt động trợ giúp pháp lý, trong đó có các phương
thức trợ giúp pháp lý tại cơ sở. Để đưa các quy định của Luật Trợ giúp pháp
lý đi vào cuộc sống, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành có
liên quan đã ban hành đồng bộ nhiều văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định,
Thông tư, Quyết định, Chỉ thị) hướng dẫn chi tiết thi hành Luật. Vì vậy, trợ
giúp pháp lý tại cơ sở đã có cơ sở pháp lý cần thiết, được tạo “đà”, “đòn bẩy”

để phát triển tại cộng đồng dân cư.

2


Tuy nhiên, để nhân rộng và tăng cường chất lượng, hiệu quả trợ giúp
pháp lý cơ sở, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, tìm ra những giải
pháp để các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý được thực thi hiệu quả trên
thực tế, đồng thời hoàn thiện thể chế nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu thực
tiễn mà các quy định của Luật chưa đề cập. Đó là phải chuẩn hố được mơ
hình Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại cấp huyện giúp
Trung tâm quản lý và thực hiện tốt trợ giúp pháp lý tại cơ sở, phát huy tối đa
hiệu quả của trợ giúp pháp lý lưu động và Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, kiểm
soát và đánh giá được chất lượng, hiệu quả của các phương thức này trong
tương quan với những chi phí về con người, kinh phí, cơ sở vật chất và đánh
giá được mức độ đạt của các phương thức này so với ý nghĩa, tác dụng của
nó. Bên cạnh đó, ngồi các phương thức đã được quy định trong Luật Trợ
giúp pháp lý, thực tế còn một số phương thức khác như Hộp thư trợ giúp pháp
lý, trợ giúp pháp lý phối hợp với hoà giải cơ sở, trợ giúp pháp lý qua các
phương tiện thông tin, trợ giúp pháp lý tại nhà riêng của cộng tác viên… đang
được triển khai có hiệu quả cũng cần nghiên cứu để có hướng dẫn phù hợp.
Hiện nay, do chưa có nhận thức thống nhất và đầy đủ về vị trí, vai trị,
mục đích của trợ giúp pháp lý nên mặc dù hoạt động này có nhiều tác dụng
tích cực đối với đời sống của người dân ở cơ sở nhưng nhiều nơi chưa có sự
quan tâm đầu tư đúng mức (về con người, kinh phí và cơ sở vật chất), vì vậy,
người nghèo và người có hồn cảnh đặc biệt chưa thực sự được tiếp cận và sử
dụng dịch vụ pháp lý miễn phí. Hoạt động giới thiệu, truyền thơng cịn hạn
chế, nhiều nơi, người dân chưa biết về trợ giúp pháp lý để tìm đến yêu cầu
giúp đỡ khi cần thiết. Đồng thời, do ý thức pháp luật của người dân còn thấp
nên trong cuộc sống thường ngày, họ chưa có thói quen sử dụng pháp luật mà

tự giải quyết vướng mắc, tranh chấp dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật

3


hoặc để những mâu thuẫn, tranh chấp đã đến mức trầm trọng mới nhờ đến cơ
quan có thẩm quyền.
Tóm lại, xuất phát từ những ưu điểm và hiệu quả của các phương thức
trợ giúp pháp lý tại cơ sở và nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
người dân, tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận dịch vụ pháp lý miễn phí, cần
thiết phải có sự đầu tư nghiên cứu tìm ra những giải pháp thiết thực thúc đẩy
phát triển các phương thức này.
Vì vậy, tơi đã chọn đề tài “Phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở” để
nghiên cứu viết Luận văn Cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ mới của ngành Tư pháp, thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính
sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những
đối tượng chịu thiệt thòi trong xã hội, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của
cơng cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về vật chất
và tinh thần, tạo điều kiện cho người nghèo trong xã hội được bình đẳng trong
tiếp cận pháp luật, công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số luận án,
luận văn tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và nhiều bài báo, tạp chí, chuyên đề
nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến trợ giúp
pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đó là: Luận án
Tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện
đổi mới” của tác giả Tạ Thị Minh Lý; Luận văn Thạc sĩ: “Hoàn thiện pháp
luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng
Tuyến; Luận văn Thạc sĩ “Hồn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của
người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đỗ Xuân Lân;

đề tài cấp Bộ: "Mơ hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng

4


thực hiện trong điều kiện hiện nay”, “Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng
Pháp lệnh trợ giúp pháp lý” và nhiều bài viết, chuyên đề trên các báo, tạp chí
nghiên cứu khoa học như: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Đặc san trợ giúp
pháp lý, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam, Website
"Trợ giúp pháp lý Việt Nam" (www.nlaa.gov.vn)... Tuy nhiên, về vấn đề phát
triển trợ giúp pháp lý tại cơ sở thì đến nay chưa có nghiên cứu chun sâu,
tồn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích của Luận văn
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về trợ
giúp pháp lý tại cơ sở; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, tăng
cường hiệu quả, phát huy tác dụng tích cực của các phương thức này để người
nghèo, người dân tộc thiểu số và người có hồn cảnh đặc biệt khác có nhiều
cơ hội, địa chỉ để được trợ giúp pháp lý miễn phí.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý
tại cơ sở (cấp xã và tại thơn, bản, làng, xóm, ấp, phum, sóc...) từ năm 1997
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; quan điểm của Đảng về bảo đảm công bằng xã hội;
xố đói giảm nghèo; cải cách tư pháp; cải cách hành chính.
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, so


5


sánh, đối chiếu. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử
dụng các tư liệu thực tiễn, kết quả khảo sát để hoàn chỉnh Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Trợ giúp pháp lý tại cơ sở có vai trị quan trọng trong đời sống pháp luật
của người nghèo và đối tượng chính sách tại cơ sở nói chung và cơng tác trợ
giúp pháp lý nói riêng. Vì vậy, Luận văn sẽ là cơng trình đầu tiên nghiên cứu
một cách hệ thống, chun sâu về mục đích, ý nghĩa, vai trị, tác dụng, tìm ra
những đặc điểm chung của trợ giúp pháp lý tại cơ sở.
Luận văn góp phần chứng minh quá trình phát triển đúng đắn của các
quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý tại cơ sở tạo cơ sở pháp lý quan trọng
thúc đẩy công tác này. Đồng thời, đánh giá sâu sắc, sát thực tình hình trợ giúp
pháp lý tại cơ sở hiện nay, nêu và phân tích yêu cầu về mặt pháp lý và thực
tiễn trong thời gian tới đối với công tác này.
Luận văn này đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy trợ
giúp pháp lý tại cơ sở phát triển phù hợp với tình hình mới và mang lại hiệu
quả thiết thực.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về trợ giúp pháp lý tại cơ sở
Chương 2: Thực trạng trợ giúp pháp lý tại cơ sở
Chương 3: Yêu cầu và một số giải pháp phát triển trợ giúp pháp lý tại cơ
sở
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ts. Nguyễn Văn Tuân, các thầy cô giáo Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, lãnh đạo và các bạn bè, đồng nghiệp trong
cơ quan, đơn vị đã tích cực giúp đỡ tơi hồn thành Luận văn này.


6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI CƠ SỞ
1.1. Bản chất của trợ giúp pháp lý
Trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý có lịch sử ra đời cách đây
khoảng 500 năm, bắt đầu xuất hiện ở Anh (thế kỷ XV), Đức và Hà Lan vào
những thập niên giữa thế kỷ XIX, sau đó đến Pháp, Mỹ và xuất hiện muộn
hơn vào đầu thế kỷ XX ở Úc và một số nước trong khu vực như: Singapore,
Malaysia, Campuchia, Trung Quốc… Trong những thập kỷ gần đây, nhất là
sau chiến tranh thế giới lần II, trợ giúp pháp lý phát triển mạnh do các Nhà
nước bắt tay vào xây dựng lại đất nước trong hoàn cảnh hồ bình, mơi trường
phát triển tương đối thuận lợi, có điều kiện quan tâm chăm lo hơn đến các vấn
đề xã hội và bảo đảm công bằng xã hội.
Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hồ
(1945) đã có những hoạt động mà xét về bản chất là việc giúp đỡ pháp lý
miễn phí dưới tên gọi “tư pháp bảo trợ” gắn với những quy định về quyền bào
chữa và bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo: “Trong việc đại hình, nếu
trước Tịa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố một bị can khơng có ai
bênh vực, ơng Chánh án sẽ cử một luật sư bào chữa cho hắn” (Điều 44 Sắc
lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946); “các luật sư có quyền biện hộ trước tất cả
các Tồ án, trừ Tòa án sơ cấp” (Điều 46 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946);
“nguyên cáo hoặc bị cáo trong một việc hộ có quyền xin tư pháp hỗ trợ" (Sắc
lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946). Các hoạt động mang tính chất trợ giúp pháp
lý xuất phát từ bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và
vì dân theo tư tưởng của Hồ Chí Minh nhằm bảo vệ quyền cơng dân, quyền
con người, đặc biệt cho nhóm người yếu thế trong xã hội.

7



Theo Người, quyền con người phải được bảo đảm bằng Hiến pháp và
phải là quyền Hiến định. Ngay trong lời nói đầu của bản Hiến pháp đầu tiên
trong lịch sử dân tộc năm 1946 do Người làm Trưởng Ban soạn thảo đã xác
định “bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân”, đồng thời, quy định về
quyền bào chữa của bị can, bị cáo: "Người bị cáo được quyền bào chữa lấy
hoặc mượn luật sư” (Điều 67). Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
thực hiện hoạt động giải thích, hướng dẫn pháp luật, tham gia đại diện, bào
chữa cho nhân dân có tính bao cấp (các chi phí do Nhà nước chi trả) mà xét
về bản chất, cũng là hoạt động trợ giúp pháp lý. Các Hiến pháp tiếp theo đều
khẳng định quyền quyền bào chữa của bị can, bị cáo: Điều 101 Hiến pháp
năm 1959: “Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo”; Điều 133 Hiến pháp
năm 1980: “Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để
giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý.” Điều 132 Hiến pháp năm
1992: "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để
giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa". Tuy nhiên, chưa có tài liệu
nói đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý". Trong các Nghị quyết của Đảng hay văn
bản pháp luật của Nhà nước thường dùng cụm từ “tư vấn pháp luật” hay “dịch
vụ pháp lý” mà chưa có khái niệm, định nghĩa về trợ giúp pháp lý một cách
cụ thể, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII chủ trương “tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn
pháp luật miễn phí”; Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 quy định luật sư có
nhiệm vụ tham gia tố tụng và tư vấn pháp luật; Thông tư số 1119/QLTPPL
năm 1987 và Công văn số 870 năm 1989 của Bộ Tư pháp chỉ nói về “dịch vụ

8



pháp lý” và cho phép Hội luật gia và các Đồn luật sư được mở Văn phịng tư
vấn pháp luật.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20
xuất phát từ tiếng Anh là “legal aid”. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê
Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì “legal aid” có nghĩa là “trợ
cấp pháp lý”. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do
Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì “legal aid” trong cụm từ “legal aid
schem” có nghĩa là “bảo trợ tư pháp”.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hố Thơng tin, 1999 thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc
gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến”. Từ điển Từ và ngữ
Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh giải thích: trợ giúp là góp
sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà
không lấy tiền công. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, 1994 thì “trợ giúp” có nghĩa là “giúp đỡ”. Thuật ngữ “giúp đỡ” lại được
giải thích theo nghĩa tích cực là giúp để làm giảm bớt khó khăn, nghĩa là làm
cho ai một việc gì đó hoặc cho ai cái gì đó mà người đó đang cần. Cái đang
cần ở đây là “pháp lý” theo nghĩa rộng của từ này. Ngoài ra, trong một số tài
liệu khác còn gọi là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư
pháp”. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau về thuật ngữ này nhưng cụm từ
“trợ giúp” có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự “giúp đỡ, bảo trợ, hỗ
trợ” và thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” đang được sử dụng chính thức trong các
văn bản pháp luật như hiện nay có tính khái qt hơn cả, thể hiện rõ được bản
chất của trợ giúp pháp lý.

9


Tham khảo tài liệu của các nước trên thế giới và theo các nghiên cứu

trước đây, bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý được nhận diện ở những
đặc điểm sau đây:
- Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người có
trình độ am hiểu pháp luật thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm phục vụ để
thoả mãn nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người nghèo và đối tượng chính sách
thơng qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngồi tố tụng, giúp
đỡ thực hiện cơng việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu
nại… Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính nhân văn
sâu sắc, ln vì con người, bởi đối tượng phục vụ là những người có hoàn
cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ
(người nghèo, đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, người tàn tật,
trẻ em, người già cô đơn không nơi nương tựa...);
- Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý rõ nét bởi chính phương thức hoạt
động và mục đích hướng tới của nó. Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ, hỗ trợ về
các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa
bảo vệ quyền và lợi ích cho các đối tượng trợ giúp pháp lý theo quy định, góp
phần tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và tạo cơ hội
tiếp cận pháp luật thuận lợi cho các đối tượng này. Trợ giúp pháp lý ở một số
nước nhấn mạnh đến tính pháp lý như Hàn Quốc: trợ giúp pháp lý là việc một
luật sư hoặc một cán bộ pháp lý Nhà nước cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật,
đại diện hoặc các dịch vụ trợ giúp khác có liên quan đến pháp luật. Ở Anh và
xứ Wales, trợ giúp pháp lý được hiểu là giúp đỡ cho những người khơng có
khả năng chi trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý; ở Đức, trợ giúp
pháp lý là việc giúp đỡ một phần hoặc tồn bộ tài chính cho những người
khơng có khả năng thanh tốn cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện
hoặc bào chữa trước Toà án; ở Québec - Canada, trợ giúp pháp lý cũng được

10



nói đến với bản chất là hoạt động có mục đích tạo điều kiện cho những người
gặp khó khăn về tài chính có cơ hội tiếp cận với dịch vụ pháp lý.
- Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: trợ giúp pháp lý là
nhiệm vụ trước hết của Nhà nước, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước
nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật và
xóa nghèo về pháp luật. Từ đó, góp phần thiết lập sự ổn định chính trị, bảo vệ
chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm
tin của người dân vào chế độ. Trợ giúp pháp lý là một “kênh” hiệu quả để
Nhà nước điều tiết, giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ
đồn kết cộng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội. Ví dụ, người
Úc nhìn nhận trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ cho một người có được hồn cảnh
và điều kiện tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là
tạo ra sự công bằng khi tiếp cận với pháp luật. Hay tại Điều 1001 Đạo luật về
công ty dịch vụ pháp lý được sửa đổi năm 1977 của Mỹ quy định: trợ giúp
pháp lý là tạo sự công bằng khi tiếp cận pháp luật của các cá nhân không thể
thuê mướn luật sư, tạo cơ hội cho những người có thu nhập thấp.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng trong các tài
liệu từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam. Đến năm 1996, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được
sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp: “Mơ hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý,
phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”. Thuật ngữ “trợ giúp pháp
lý” đã được sử dụng chính thức trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997
của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, đã có hệ thống văn bản pháp
luật quy định về lĩnh vực này và một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực khác
cũng đề cập đến khái niệm “trợ giúp pháp lý” như Pháp lệnh Luật sư năm

11



2001, Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư ban hành kèm theo Quyết
định số 356b/2002/QĐ-BT ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp…
Ngoài ra, trong nhiều văn bản, chính sách của Nhà nước đã nhắc đến thuật
ngữ “trợ giúp pháp lý”. Tuy nhiên, chỉ đến khi Luật Trợ giúp pháp lý được
ban hành năm 2006 mới quy định về khái niệm trợ giúp pháp lý: “trợ giúp
pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp
pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và
vi phạm pháp luật” (Điều 3).
Qua đó, đã khái qt hố được bản chất, thể hiện đặc thù của hoạt động
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam nhằm phân biệt với các hoạt động nghiệp vụ
pháp lý khác.
- "Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này": Dịch vụ pháp lý
miễn phí có chủ thể cung cấp (tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực
hiện trợ giúp pháp lý) và đối tượng cung cấp (người được trợ giúp pháp lý bao
gồm: người nghèo, người có cơng với cách mạng, người dân tộc thiểu số và
những đối tượng có hồn cảnh đặc biệt khác); dịch vụ được cung cấp là tư vấn
pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải và thực hiện
những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động
khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đây là dịch vụ pháp lý miễn phí,
đối tượng thụ hưởng dịch vụ khơng phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, kể
cả lệ phí giấy tờ khi yêu cầu trợ giúp và việc thuê luật sư. Các chi phí sẽ do
ngân sách Nhà nước bảo đảm hoặc được huy động trong cộng đồng, sự hỗ trợ
của các tổ chức nước ngoài và quốc tế thông qua các Dự án hoặc Quỹ trợ giúp

12



pháp lý. Trợ giúp pháp lý miễn phí đã trở thành nguyên tắc hoạt động trợ giúp
pháp lý được quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý. Đây là điểm đặc thù nổi
bật của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và là sự nỗ lực lớn của chúng ta trong
điều kiện đất nước cịn khó khăn (ở nhiều nước trên thế giới, người được trợ
giúp pháp lý phải trả một số khoản chi phí hành chính nhất định hoặc phải trả
một phần chi phí hoặc phải trả chi phí khi thắng kiện trong các vụ việc tranh
tụng). Tính chất này xuất phát từ quan điểm của Đảng là thực hiện công bằng
xã hội trong từng bước phát triển. Mặc dù điều kiện kinh tế của Việt Nam cịn
khó khăn nhưng nhà nước vẫn dành khoản ngân sách nhất định để chi cho
hoạt động trợ giúp pháp lý. Bởi vì những người được xác định là người nghèo
thì trong cuộc sống, họ khơng đủ kinh phí để trang trải cho cái ăn, cái mặc,
học hành nên không thể bắt buộc người người đó trả một phần kinh phí cho
các dịch vụ pháp lý mà họ được hưởng.
- Trợ giúp pháp lý có mục đích “giúp người được trợ giúp pháp lý bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và
vi phạm pháp luật”. Mục đích ở đây bao hàm cả mục đích trực tiếp (giúp
người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật) và mục đích
gián tiếp (mục đích chung) là "góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp
luật, bảo vệ cơng lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh
chấp và vi phạm pháp luật".
Như vậy, cách tiếp cận trên của Luật Trợ giúp pháp lý về khái niệm trợ
giúp pháp lý cũng phù hợp với tính chất của hoạt động này trong lịch sử thế
giới. Đó là giúp đỡ cho những đối tượng có khó khăn (chủ yếu về kinh tế) tiếp

13



cận với các dịch vụ pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp.
Đồng thời, qua khái niệm này (dẫn chiếu tới các quy định của Luật Trợ
giúp pháp lý) cũng nêu lên đặc thù của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Hoạt
động trợ giúp pháp lý mở rộng và vươn tới khơng chỉ người nghèo mà cịn đối
với người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người già cơ đơn, người tàn
tật, trẻ em không nơi nương tựa, người được trợ giúp pháp lý theo các Điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Những vụ việc về tố tụng (hình sự,
dân sự, lao động, đất đai…) liên quan đến quyền và lợi ích thiết thân của
người nghèo và đối tượng chính sách nhưng họ khơng có luật sư đại diện, bào
chữa bảo vệ hoặc những vụ việc do cơ quan, cán bộ nhà nước giải quyết chưa
thỏa đáng, có vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
người dân đã được trợ giúp pháp lý thông qua nhiều hình thức. Ngồi ra, trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam cịn có điểm đặc thù là kiến nghị thi hành pháp luật
(gồm: kiến nghị giải quyết vụ việc trợ giúp pháp lý, kiến nghị công vụ và kiến
nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật).
1.2. Trợ giúp pháp lý tại cơ sở
1.2.1. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý tại cơ sở
Trên cơ sở những phân tích về bản chất trợ giúp pháp lý nêu trên thì trợ
giúp pháp lý tại cơ sở không phải là khái niệm được sử dụng để phân biệt với
khái niệm trợ giúp pháp lý mà trợ giúp pháp lý tại cơ sở mang đầy đủ bản
chất, đặc điểm của hoạt động trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý tại cơ sở
được hiểu là việc cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí ngay tại nơi đối
tượng được trợ giúp pháp lý cư trú, sinh sống, góp phần nâng cao ý thức pháp
luật, giảm bớt khiếu kiện, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ngay ở cơ sở.

14



"Cơ sở" là một khái niệm được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau
nhưng theo nghĩa chung là để chỉ một không gian xã hội nhất định, nơi diễn ra
các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt, giao tiếp, tham gia vào các quan hệ
xã hội của một tập thể, cộng đồng người trong một trật tự nhất định do các tổ
chức và thiết chế quản lý. Theo góc nhìn xã hội học và tâm lý học, ở đó, cộng
đồng người tập hợp lại theo lứa tuổi, giới tính, cơng việc, sở thích, nghề
nghiệp, huyết thống... Chẳng hạn như: một gia đình, cơ quan, cơng sở, một xí
nghiệp, doanh nghiệp, công ty, một bệnh viện, trường học, một viện nghiên
cứu... “Cơ sở” dưới góc độ quản lý nhà nước (thường được sử dụng trong các
văn bản pháp luật, các tài liệu nghiên cứu về nhà nước và pháp luật) là một
cấp quản lý trong hệ thống bốn cấp của quản lý hành chính nhà nước hiện
hành ở nước ta: (1) cấp Trung ương; (2) cấp tỉnh (gồm tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương); (3) cấp huyện (gồm quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh) và
(4) cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn) - cấp cơ sở. Như vậy, “cơ sở” là cấp
thấp nhất, thuộc tầng sâu nhất, là cấp cơ sở của quản lý nhà nước và là đơn vị
hành chính nhỏ nhất. Người ta cũng quy ước gọi Trung ương, tồn quốc là
cấp vĩ mơ, cấp tỉnh, cấp huyện là cấp trung mô và cơ sở là cấp vi mô. Xã và
thị trấn là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn, phường là cấp cơ sở ở đô thị nhưng
ở nước ta, đơn vị xã chiếm số lượng lớn (85%) trong tổng số đơn vị cơ sở.
Bởi lẽ, nước ta là nước nông nghiệp, trên 2/3 sức lao động xã hội vẫn là lao
động nông nghiệp. Nhiều phường vốn từ xã mà hình thành trong q trình đơ
thị hố nhưng vẫn chưa hồn tồn tách khỏi nơng nghiệp. Vì vậy, cơ sở ở
nước ta trước hết và chủ yếu là cơ sở xã ở nông thôn. Xã trở thành đại diện,
mang đặc trưng tiêu biểu, phổ biến cho cấp cơ sở của quản lý hành chính nhà
nước và của hệ thống chính trị cơ sở. Vì thế, nói tới cơ sở là nói tới các xã ở
vùng nơng thôn [14, tr.170].

15



Trong một số văn kiện của Đảng cũng đề cập đến cơ sở với nghĩa là
cấp hành chính thấp nhất, chẳng hạn: Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày
18/3/2002 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về
''Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn''; Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 28/3/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở...
Theo Hiến pháp năm 1980, đơn vị hành chính thấp nhất gồm xã,
phường, thị trấn (Điều 113) và "cơ sở" được hiểu là cấp thấp nhất khi Hiến
pháp quy định về việc "tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở" (Điều 104). Với nghĩa này, “cơ sở” cũng được đề cập trong
Hiến pháp 1992: "Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại của Nhà
nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở" (Điều
109).
Tuy nhiên, cũng có cách hiểu khác "cơ sở" là cộng đồng dân cư ở cấp
thấp hơn, chia nhỏ hơn xã. "Nếu xã là cơ sở với đặc trưng quản lý nhà nước
thì thơn, xóm (tương ứng với làng, ấp, bản...) có thể xem là cơ sở với đặc
trưng là tự quản của cộng đồng xã hội nông thôn” [14, tr.170]. Hoặc “cơ sở”
đồng nghĩa với cách hiểu là "làng xã". Làng xã Việt Nam đã có từ thời rất xa
xưa và có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống của nhân dân Việt Nam.
"Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm hiểu cộng
đồng làng xã, và muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì cũng phải bắt đầu
từ việc xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì khơng có làng xã Việt Nam thì
khơng có quốc gia Việt Nam" [37, tr.318]. “Cũng có nhiều cách hiểu khác
nhau về làng xã. Làng là tiếng thuần tuý Việt Nam, xã là một từ Hán cổ có
nghĩa là cái nền để tế thần đất. Nhưng trước hết, làng xã phải là nơi đồng quê,
ở đó nhiều gia đình sinh sống quy tụ thành khu gọi là xóm, các xóm phân biệt


16


với nhau bằng các luỹ tre xanh... Hai, ba, bốn hoặc có khi là năm, sáu xóm
họp thành một thơn gọi là làng. Hai, ba, bốn thôn họp thành xã. Với số dân
80% sống ở vùng nông thôn nên vấn đề quản lý làng/xã ở thời nào cũng có
những bức xúc, mọi công việc của nhà nước cũng như địa phương về nguyên
tắc đều được thực hiện ở địa phương, tức ở làng xã” [18, tr.20]. Tuy nhiên,
cũng có nghiên cứu cho rằng “Trừ một vài ngoại lệ của mô hình "nhất thơn,
nhất xã” cịn di tồn từ lịch sử mà những ngoại lệ này rồi sẽ mất đi trong đà
biến đổi của cơng nghiệp hố nơng thơn; với sự phát triển của dân cư và việc
điều chỉnh quy mô xã, chúng ta cần tách bạch rõ ràng, không đồng nhất giữa
xã với thôn, hoặc xã với làng" [14, tr.170].
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 quy định
phạm vi thực hiện dân chủ đến xã, phường, thị trấn; thơn, làng, ấp, bản, phum,
sóc; tổ dân phố, khu phố, khối phố... Theo Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động
hòa giải cơ sở năm 1998 thì “hồ giải ở cơ sở được thực hiện thơng qua hoạt
động của Tổ hoà giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở thơn,
xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác phù hợp với pháp luật, đạo
đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân. Nhà nước tạo điều
kiện và khuyến khích hoạt động hồ giải, các hình thức hoà giải ở cộng đồng
dân cư” (Điều 2).
Theo Từ điển Tiếng Việt, “cơ sở" là "cái nền tảng, trong quan hệ với
những cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển" hoặc là
"đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản xuất,
công tác của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ phận lãnh đạo
cấp trên" [35, tr.215 - 216]. Như vậy, xét ở góc độ quản lý hành chính nhà
nước thì “cơ sở” là cấp xã (xã, phường, thị trấn) và ở góc độ xã hội học thì
“cơ sở” cịn là cộng đồng dân cư ở thơn, làng, ấp, bản, phum, sóc; tổ dân phố,


17


khu phố, khối phố... Hay nói một cách khác, cơ sở là khái niệm được tính từ
cấp xã trở xuống.
Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng về cơ sở, làm rõ vai trị, tính chất
của cơ sở. Theo kết quả nghiên cứu, khảo sát về cơ sở của nhiều tác giả, cơng
trình nghiên cứu cho thấy “cơ sở” có những nét đặc trưng sau đây:
- Cơ sở là hình ảnh thu nhỏ của xã hội và đời sống xã hội, nơi diễn ra
mọi hoạt động sống, sinh hoạt và phát sinh các quan hệ pháp luật phổ biến
nhất của người dân, nơi chính quyền và cán bộ sống và làm việc hàng ngày
cùng với người dân, có điều kiện gần gũi trực tiếp và thường xuyên với dân
chúng. Dân chúng ở cơ sở qua những biến đổi thực tế về công ăn, việc làm,
đời sống và các quan hệ xã hội, qua thái độ và hành vi của cán bộ, đảng viên
đối với dân chúng mà cảm nhận và đánh giá về đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, chất lượng đội ngũ cán bộ nhà nước. Vì vậy, cơ sở là nền
tảng, nền móng của “tồ nhà chế độ”, nếu cơ sở suy yếu, rệu rã là khởi đầu
những suy yếu của chế độ. Nước lấy dân làm gốc, chăm lo cuộc sống và phát
triển của dân thì phải dồn sức chăm lo sự bền vững của cơ sở, từ cơ sở. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: "Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng
của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xi". Chúng ta
đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên
nền tảng dân chủ xã hội chủ nghĩa nên sự thành công hay thất bại được quyết
định chủ yếu ở cấp xã.
- Cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách, luật pháp của
Đảng và Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm mức độ, tác dụng và hiệu quả đi vào
cuộc sống của pháp luật Nhà nước. Là cấp gần nhất với thực tiễn và trực tiếp
nhất với cuộc sống của người dân nên cơ sở phải là cấp tổ chức triển khai
thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của


18


Nhà nước để bảo đảm một cách thiết thực nhất những yêu cầu an sinh và an
ninh cho dân, cho sự phát triển cộng đồng. Thước đo của các hoạt động nhà
nước, trong đó có hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật ở cơ sở là không
ngừng nâng cao dân sinh, dân trí pháp lý, dân chủ của dân, thực hiện và phát
huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và văn
hoá tinh thần cho dân cư trong cộng đồng. Vì vậy, cấp cơ sở là mắt khâu quan
trọng đối với sự phát triển của cả hệ thống chính trị trong xã hội, là địa chỉ
quan trọng nhất mà các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng
và luật pháp của Nhà nước phải tìm đến.
Vì tầm quan trọng của cấp cơ sở, trợ giúp pháp lý cũng như các hoạt
động xã hội khác cần thiết phải bắt đầu và hướng tới cơ sở. Để tổ chức thực
hiện các quy định pháp luật trợ giúp pháp lý trong cuộc sống, đưa hoạt động
trợ giúp pháp lý đi vào thực tiễn, đến với người nghèo và đối tượng chính
sách thì có nhiều cách thức, phương thức khác nhau. Chẳng hạn: Về mặt hình
thức hoạt động có thể là tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa trong tố tụng, đại
diện ngoài tố tụng, hoà giải; về mặt chủ thể thực hiện là Trung tâm trợ giúp
pháp lý độc lập thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể
thực hiện; về mặt địa điểm thực hiện có thể trợ giúp pháp lý tại trụ sở Trung
tâm, tại các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước hoặc tại địa điểm
ngoài trụ sở Trung tâm; về cấp hành chính thực hiện có thể thực hiện ở cấp
Trung ương (trước khi có Luật Trợ giúp pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý
thuộc Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp có chức năng thực hiện các vụ việc
trợ giúp pháp lý), cấp tỉnh (Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp),
cấp huyện (Chi nhánh, Tổ trợ giúp pháp lý, Phòng Tư pháp), cấp xã (Tổ cộng
tác viên, Điểm trợ giúp pháp lý, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, Ban Tư pháp).
Như vậy, nói đến trợ giúp pháp lý tại cơ sở là nói đến trợ giúp pháp lý dựa


19


Luan van. Luan an. Do an.

trên yếu tố địa điểm (ngoài trụ sở Trung tâm) và yếu tố cấp hành chính (cấp
xã, thơn, xóm, làng, bản ...).
Trong những năm qua, trợ giúp pháp lý tại cơ sở đã mang lại những kết
quả khả quan, thực hiện có hiệu quả chủ trương hướng về cơ sở của ngành Tư
pháp. Đồng thời, thơng qua trợ giúp pháp lý thì tính chất Nhà nước phục vụ,
vì dân được thể hiện rõ nét hơn. Mặc dù trợ giúp pháp lý là hoạt động nghề
nghiệp địi hỏi trình độ chun mơn cao, sự đầu tư lớn về cơng sức, trí tuệ,
thời gian của người thực hiện trợ giúp pháp lý và là hoạt động được thực hiện
không thu tiền nhưng trợ giúp pháp lý lại khác với các hoạt động có tính chất
"miễn phí, khuyến mại" khác là bám dân, bám cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tiếp cận.
Có thể thấy rõ những đặc điểm sau đây của trợ giúp pháp lý tại cơ sở:
- Chủ thể thực hiện: là Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi
nhánh của Trung tâm thông qua người thực hiện trợ giúp pháp lý là Trợ giúp
viên pháp lý và cộng tác viên của Trung tâm và Chi nhánh. Đối với các tổ
chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý (Văn phòng luật sư, Công ty luật,
Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã
hội - nghề nghiệp, xã hội - nghề nghiệp), các luật sư, tư vấn viên pháp luật
thuộc các tổ chức này tham gia trợ giúp pháp lý tại cơ sở thông qua cơ chế
cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
- Đối tượng phục vụ của trợ giúp pháp lý tại cơ sở cũng là những đối
tượng phục vụ của hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung, bao gồm người
nghèo, người có cơng với cách mạng, người dân tộc thiểu số thường trú ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người già cô đơn, người
tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người được trợ giúp pháp lý theo các

Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc phụ nữ là nạn nhân của bạo



20


Luan van. Luan an. Do an.

lực gia đình, của tội phạm buôn bán phụ nữ, người mới ra tù tái hòa nhập xã
hội... theo các Dự án hợp tác quốc tế. Trước khi có Luật Trợ giúp pháp lý, đối
tượng trợ giúp pháp lý còn bao gồm người được miễn án phí theo quy định
của pháp luật.
- Hình thức trợ giúp pháp lý được cung cấp: giới hạn hơn ở một số hình
thức là tư vấn, giải đáp pháp luật, hoà giải, kiến nghị, giúp đỡ thực hiện thủ
tục hành chính, khiếu nại. Bởi lẽ, các hình thức trợ giúp pháp lý khác như
tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng phải thực hiện tại các cơ quan khác
(cơ quan Cơng an, Tồ án, Viện Kiểm sát, các cơ quan nhà nước...) mà không
thể thực hiện ngay tại nơi cư trú của các đối tượng.
- Địa điểm thực hiện: ngoài trụ sở Trung tâm, tại nơi cư trú, sinh sống
của người nghèo và đối tượng chính sách, tập trung ở những nơi xa trung tâm,
vùng sâu, vùng xa, nông thơn, miền núi. Cấp đơn vị hành chính thực hiện là
cấp xã hoặc có thể là tại cơng đồng dân cư ở thơn, xóm, bản, làng, ấp, cụm
dân cư, tổ dân phố... và tại cả nhà dân.
- Các phương thức trợ giúp pháp lý tại cơ sở bao gồm: Tổ, Điểm, Câu
lạc bộ trợ giúp pháp lý (có số ít Trung tâm thành lập Chi nhánh tại cấp xã), trợ
giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, Hộp thư trợ giúp pháp
lý, trợ giúp pháp lý qua các phương tiện thông tin đại chúng, trợ giúp pháp lý
qua điện thoại, trợ giúp pháp lý phối hợp với hoà giải cơ sở, trợ giúp pháp lý
tại nhà riêng của cộng tác viên...

- Kinh phí thực hiện: nằm trong tổng kinh phí hoạt động của Trung tâm
trợ giúp pháp lý nhà nước do ngân sách nhà nước cấp, sự hỗ trợ của nước
ngồi thơng qua các Dự án hợp tác quốc tế, Quỹ trợ giúp pháp lý và các
nguồn hỗ trợ, đóng góp của các tổ chức và cá nhân.



21


×