Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường qua thực tiễn Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.59 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ CHÍ HIẾU

HỒN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
MÔI TRƯỜNG QUA THỰC TIỄN HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60105

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: T.S VŨ QUANG

HÀ NỘI- NĂM 2005


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

1. Tính cấp thiết của đề tài

1
1

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài


2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

4. Mục tiêu nghiên cứu

3

5. Phương pháp nghiên cứu

4

6. Bố cục của Luận văn

5

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Tranh chấp môi trường và
pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường; Chương 2: Thực
trạng việc áp dụng pháp luật và một số vấn đề thực tiễn đặt ra trong
công tác giải quyết tranh chấp mơi trường tại Hải Phịng; Chương 3:
Một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp mơi
trường.
Chương 1: TRANH CHẤP MƠI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG
1.1. TRANH CHẤP MƠI TRƯỜNG

1.1.1. Khái niệm tranh chấp mơi trường


7
7
7

1.1.2. Bản chất pháp lý và các đặc điểm của tranh chấp môi trường

16

1.1.2.1. Bản chất pháp lý của tranh chấp môi trường.

16

1.1.2.2. Các đặc điểm của tranh chấp môi trường

20

1.1.3. Phân loại các tranh chấp môi trường

23

1.2. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG

1.2.1. Khái niệm pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường

25
25

1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp môi trường


26

1.2.3. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp môi
trường
1.2.3.1. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh

30


trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về môi trường (nhóm 1).

30

1.2.3.2. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp phát
sinh giữa các tổ chức và cá nhân với nhau nhằm bảo vệ môi
trường chung cũng như bảo vệ quyền và lợi ích của chính

33

mình (nhóm 2)
1.2.4. Kinh nghiệm của một số nước trong giải quyết tranh chấp môi

40

trường
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ THỰC TIỄN ĐẶT RA TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP MƠI TRƯỜNG TẠI HẢI PHỊNG

44


2.1. Tình hình mơi trường Hải Phịng những năm qua và cơng tác tổ
chức thực hiện luật bảo vệ môi trường ở Hải Phịng

44

2.2. Một số vụ tranh chấp mơi trường điển hình thời gian qua tại Hải
Phịng

54

2.3. Thực trạng việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
môi trường tại Hải Phòng

62

2.4. Một số vấn đề thực tiễn đặt ra trong công tác giải quyết tranh
chấp môi trường tại Hải Phịng

77

Chương 3: MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HỒN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG QUA THỰC TIỄN HẢI PHỊNG

88
3.1. Sự cần thiết phải hồn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp mơi
trường
3.2. Quan điểm hồn thiện

88

92

3.3. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
môi trường
KẾT LUẬN

Danh mục tài liệu tham khảo

99
110
112


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
mối quan tâm đến chất lượng cuộc sống đang dần được thay đổi. Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh những ưu điểm về
mặt kinh tế như lợi nhuận, khuyến khích tính cạnh tranh… thì cũng có mặt
trái của nó đó là sự tác động và ảnh hưởng xấu tới môi trường. Trong chiến
lược về môi trường của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020, cũng đã khẳng định quan điểm phát triển bền vững, tức là
phát triển kinh tế- xã hội có gắn kết chặt chẽ với bảo vệ môi trường. Ngăn
chặn các hành vi gây ô nhiễm môi trường, khắc phục suy thối và sự cố mơi
trường, nâng cao chất lượng của mơi trường sống chính là mục tiêu, nhiệm vụ
của bảo vệ mơi trường, trong đó hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
mơi trường có ý nghĩa và tầm quan trong đặc biệt.
Tuy nhiên, trong tiến trình CNH, HĐH và quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế của đất nước nói chung và của Hải Phịng nói riêng, do nhiều

nguyên nhân khác nhau mà các tranh chấp về môi trường nảy sinh từ những
mâu thuẫn, xung đột đang có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh đó, cơ sở pháp
lý cho việc giải quyết tranh chấp môi trường vẫn cịn nhiều bất cập. Chính
thực tế này dẫn đến việc giải quyết tranh chấp môi trường bị kéo dài, khơng
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cũng như trong việc
phục hồi chất lượng môi trường bị xuống cấp.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm phần tích, đánh giá thực trạng việc áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp mơi trường tại Hải Phịng, từ đó đưa ra
các ý kiến nhằm hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường.

1


2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Có thể nói vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường trong mấy năm gần
đây mới được đề cập nhiều, đặc biệt vấn đề tranh chấp môi trường và giải
quyết tranh chấp môi trường là vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam. Do vậy, từ
phương diện lý luận, vấn đề này cũng mới được các nhà khoa học thuộc các
lĩnh vực khác nhau như khoa học pháp lý, khoa học kinh tế môi trường, khoa
học quản lý về môi trường bước đầu nghiên cứu. Từ góc độ pháp lý liên quan
đến giải quyết tranh chấp mơi trường thì hệ thống các văn bản pháp luật cũng
như cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp mơi trường vẫn cịn thiếu và chưa
hồn thiện. Vì vậy, tại thời điểm này, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
và tồn diện về tranh chấp môi trường và cơ chế giải quyết tranh chấp môi
trường để từ đó hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp mơi trường là
một việc làm hết sức khó khăn.
Do vậy, đây là cơng trình khoa học cấp luận văn thạc sỹ đầu tiên của
Khoa Luật đến thời điểm này nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về
pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp môi trường. Các ý kiến nêu

ra trong luận văn là những luận cứ khoa học của chính tác giả.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập cũng như giúp cho việc giải quyết tranh chấp môi trường
trong thực tế có hiệu quả.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật cũng như
các cơ chế pháp lý liên quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp mơi trường
nói chung và thực tiễn của việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh

2


chấp mơi trường tại Thành phố Hải Phịng, đồng thời có xem xét đối chiếu
với kinh nghiệm của một số nước trong khu vực hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của nội dung một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu các quy định pháp luật của Việt Nam hiện hành liên quan
đến hoạt động giải quyết tranh chấp môi trường. Trên cơ sở những quy định
chung đó, đề tài nghiên cứu thực trạng việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp môi trường tại thành phố Hải Phịng. Đồng thời phân tích, đánh giá
những vấn đề thực tiễn đặt ra trong công tác giải quyết tranh chấp mơi trường
tại Hải Phịng, để từ đó có kiến nghị hồn thiện khơng chỉ ở địa bàn Hải
Phịng mà có thể coi đó là những bài học kinh nghiệm quý báu khi xem xét áp
dụng giải quyết các tranh chấp mơi trường trên phạm vi tồn quốc.
Đề tài chỉ xem xét các tranh chấp môi trường phi hình sự liên quan đến
hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho quyền, lợi ích của các chủ
thể về mơi trường mà khơng có dấu hiệu của tội phạm (Theo Bộ luật hình sự
1999 và chương XVII- chương các tội phạm về mơi trường nói riêng). Bảo vệ

mơi trường nói chung, bảo vệ quyền của con người được sống trong môi
trường trong lành không chỉ là trách nhiệm của riêng quốc gia nào, của địa
phương nào mà vấn đề mang tính tồn cầu. Tuy nhiên, đề tài không xem xét
các tranh chấp môi trường giữa Việt Nam với các nước khác mà chỉ tập trung
xem xét các tranh chấp môi trường xảy ra tại thành phố Hải Phòng.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Việc nghiên cứu đề tài: "Hồn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp mơi
trường qua thực tiễn Hải Phòng" nhằm xém xét các biểu hiện cụ thể của tranh
chấp môi trường tại thành phố Hải Phịng, từ đó phân tích đánh giá cơ chế
pháp lý để giải quyết các tranh chấp môi trường tại Hải Phịng. Tìm ra những

3


mặt được, chưa được cần khắc phục để có hướng hồn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp mơi trường, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của
các quốc gia khác trong lĩnh vực này.
Kết quả đạt được của Luận văn:
Thứ nhất: Luận văn làm rõ được khái niệm tranh chấp mơi trường, trong
đó cần phân tích được đặc điểm của tranh chấp môi trường và từ đó phân biệt
được tranh chấp mơi trường với các tranh chấp khác. Phân tích và chỉ ra bản
chất pháp lý cũng như các dạng của tranh chấp môi trường.
Thứ hai: Trên cơ sở xem xét những vấn đề chung về tranh chấp môi
trường, Luận văn làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết
tranh chấp môi trường, trong đó phân tích được các ngun tắc giải quyết
tranh chấp môi trường và cơ chế pháp lý giải quyết các loại tranh chấp môi
trường.
Thứ ba: Luận văn phân tích được thực trạng của việc áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp môi trường tại thành phố Hải Phịng, trong đó đưa

ra và phân tích được các vụ việc điển hình cũng như những vấn đề thực tiễn
đặt ra trong công tác giải quyết tranh chấp môi trường tại Hải Phòng.
Thứ tư: Trên cơ sở xem xét những vấn đề lý luận chung và thực trạng
của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp môi trường tại Hải
Phòng, thấy được những tồn tại cần khắc phục, từ đó đề tài đưa ra một số ý
kiến nhằm hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp mơi trường.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài, tác giả quán triệt quan điểm
của Chủ nghĩa Mác- Lênin về Nhà nước và pháp luật cũng như đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.

4


Trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở trên, phương pháp luận
được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng. Ngoài ra, các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh, tổng hợp, điều tra xã hội học cũng
được vận dụng để làm sáng tỏ những vấn đề được nêu ra.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Tranh chấp môi trường và pháp luật về giải quyết tranh
chấp mơi trường.
Trong chương này, tác giả trình bày khái quát các nguyên nhân làm nảy
sinh các tranh chấp mơi trường, phân tích bản chất pháp lý, các đặc điểm của
tranh chấp môi trường, thấy được sự khác nhau giữa tranh chấp môi trường
với các loại tranh chấp khác, chỉ ra các dạng (phân loại) tranh chấp môi

trường. Trong chương này, tác giả cũng trình bày quy định của pháp luật về
giải quyết tranh chấp môi trường, trong đó phân tích được các ngun tắc giải
quyết tranh chấp môi trường, cơ chế pháp lý hiện hành về giải quyết tranh
chấp mơi trường có tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực.
Chương 2: Thực trạng của việc áp dụng pháp luật và một số vấn đề
thực tiễn đặt ra trong công tác giải quyết tranh chấp mơi trường tại Hải
Phịng.
Trong chương này, tác giả đưa ra và phân tích được các vụ việc tranh
chấp mơi trường điển hình thời gian qua ở Hải Phịng. Phân tích được thực
trạng của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp mơi trường tại
Hải Phịng và chỉ ra những tồn tại cần khắc phục và những vấn đề mà thực
tiễn giải quyết tranh chấp môi trường đặt ra.

5


Chương 3: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết
tranh chấp môi trường.
Trong chương này, tác giả phân tích sự cần thiết của việc hồn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường. Trên cơ sở chương 2, tác giả
trình bày một số ý kiến hồn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường.

Chương 1
TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG
1.1. TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG

1.1.1. Khái niệm về tranh chấp môi trường

6



Trên thế giới, tranh chấp liên quan đến môi trường khơng phải là hiện
tượng xã hội mới nảy sinh, nó đã xuất hiện từ rất sớm và liên quan tới nhiều
quốc gia khác nhau. Điều này cũng có thể lý giải vì xét về nguyên nhân khách
quan thì các nước trên thế giới xảy ra tranh chấp đã có một nền sản xuất công
nghiệp lớn và phát triển. Về chủ quan thì con người đã ý thức được vấn đề
bảo vệ môi trường và quyền của con người được sống trong mơi trường trong
lành. Chúng ta có thể điểm qua một số vụ tranh chấp mơi trường điển hình
giữa các nước trong thời gian qua.
Vụ thứ nhất: một vụ kiện nổi tiếng giữa hai quốc gia là Mỹ và Canađa (gần
biên giới Mỹ), trong quá trình hoạt động đã thải một lượng khí thải rất lớn với hàm
lượng độc hại cao vào bầu khí quyển. Khí thải đã bay sang Mỹ làm ảnh hưởng tới
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp tại Tiểu bang Oasinhtơn (Mỹ) gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản và làm thương tổn đến sức khoẻ của cư dân trong vùng.
Trọng tài quốc tế đã ra bản phán quyết yêu cầu Canađa phải kịp thời ngăn chặn các
ảnh hưởng xấu của khí thải tới các quốc gia khác và bồi thường cho Mỹ những thiệt
hại do khí thải gây ra.
Kết quả giải quyết vụ kiện đã trở thành "thông lệ" để xem xét, giải quyết các
tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đồng thời là cơ sở khoa học
cho việc hình thành nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền". [49]
Vụ thứ hai: là vụ kiện của hai quốc gia là Australia và New Zealand đối với
Pháp khi Pháp tiến hành thử vũ khí hạt nhân vào năm 1973, làm bụi phóng xạ bay
sang các quốc gia khác, gây ảnh hưởng đáng kể đến tính mạng, sức khoẻ và tài sản
của cơng dân hai quốc gia trên. [49]
Vụ thứ ba: năm 1998, một con tàu của công ty nhựa Formosa, Đài Loan chở
3000 tấn chất thải độc hại có chứa thuỷ ngân đến đổ bất hợp pháp tại một bãi chôn
lấp chất thải ở Sihanouk Ville của Campuchia, làm một số người dân tiếp xúc với
rác thải bị tử vong. Campuchia đã mở phiên toà xét xử, phạt tội các chủ tàu 5 năm
tù và phạt tiền 0,5 triệu USD.[2]


7


Ngồi ra cịn rất nhiều vụ việc có ảnh hưởng tới môi trường xảy ra trên
thế giới và tại các nước Châu Á- Thái Bình Dương.
Đối với Việt Nam, vấn đề tranh chấp môi trường xuất hiện muộn hơn so
với các nước trên thế giới. Trước năm 1986, có thể nói các tranh chấp mơi
trường dưới các dạng khác nhau dường như chưa xuất hiện trên thực tế, thuật
ngữ tranh chấp môi trường cũng chưa được các nhà khoa học gọi tên và đề
cập tới trong bất kỳ một tài liệu khoa học nào. Ở Việt Nam, các tranh chấp
môi trường xuất hiện muộn hơn vì các lý do:
Thứ nhất: trước năm 1986, nhu cầu khai thác các tài nguyên thiên nhiên,
các thành phần môi trường phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng chưa nhiều, do
vậy các hành vi gây suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và huỷ hoại
cho mơi trường ít xảy ra. Nếu có thì chỉ xảy ra trên phạm vi hẹp, mức độ ảnh
hưởng khơng đáng kể đến tính mạng, sức khoẻ của con người. Hơn nữa thời
kì này, sự tác động xấu của thiên nhiên và môi trường đến sức khoẻ con người
chưa thể hiện nhiều và mức độ chưa cao do chất lượng mơi trường sống cịn
tương đối tốt.
Thứ hai: thời kì này, đất nước ta còn nghèo, do vậy mối quan tâm lớn
nhất của Đảng và Nhà nước ta là tâp trung phát triển kinh tế, đó cũng là mối
quan tâm của từng cá nhân, từng gia đình so với địi hỏi về chất lượng môi
trường sống.
Thứ ba: chế độ sở hữu các nguồn tài nguyên, các thành phần môi trường
chủ yếu thuộc về Nhà nước mà chưa được giao cho các cá nhân, tổ chức sử
dụng ổn định lâu dài. Tình hình này dẫn tới việc những thiệt hại do một số
hành vi huỷ hoại môi trường như phá rừng, khai thác bừa bãi nguồn lợi thuỷ
sản …ở nơi này, nơi kia đều thuộc về Nhà nước và ít liên quan đến lợi ích
riêng của các cá nhân, tổ chức. Kết quả của việc không phân định rõ quyền sở


8


hữu các nguồn tài nguyên, các thành phần môi trường đã dẫn tới sự thiếu
trách nhiệm và thiếu sự phản ứng quyết liệt từ phía người dân đối với hành vi
gây ơ nhiễm mơi trường.
Thứ tư : thời kì này, hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường
cũng như hệ thống các cơ quan tư pháp chưa được thiết lập hồn chỉnh, bên
cạnh đó các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này còn thiếu… Đây chính
là trở ngại lớn cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
khi có thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra.
Từ năm 1986 trở lại đây, thực hiện đường lối chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đất nước ta đã có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Kinh tế thị
trường bên cạnh những ưu điểm như thúc đẩy tăng trưởng, tính cạnh
tranh…thì cũng có mặt trái của nó là tác động xấu đến môi trường. Nghị
quyết số 41- NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 15/11/2004
về bảo vệ mơi trường trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã khẳng
định: "Môi trường nước ta vẫn bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc đã đến mức
báo động: Đất đai bị xói mịn, thối hố; Chất lượng các nguồn nước suy
giảm mạnh; Khơng khí ở nhiều đơ thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; Khối
lượng phát sinh và mức độ độc hại của chất thải ngày càng tăng; Tài nguyên
thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác q mức, khơng có quy
hoạch; Đa dạng sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; Điều kiện vệ sinh môi
trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không bảo đảm. Việc đẩy mạnh phát
triển cơng nghiệp, dịch vụ, q trình đơ thị hố, sự gia tăng dân số trong khi
mật độ dân số đã q cao, tình trạng đói nghèo chưa được khắc phục tại một
số vùng nông thôn, miền núi; Các thảm hoạ do thiên tai và những diễn biến
xấu về khí hậu tồn cầu đang tăng, gây áp lực lớn lên tài nguyên và môi

trường"[3, 1]. Tuy nhiên, hiện nay, mối quan tâm đến chất lượng môi trường

9


sống của con người đang được nâng cao. Người dân một mặt tham gia tích
cực vào hoạt động bảo vệ môi trường, làm sạch môi trường, mặt khác người
dân cũng tỏ thái độ phản ứng gay gắt và quyết liệt hơn đối với các hành vi gây
ơ nhiễm, suy thối môi trường.
Những yêu cầu của người dân thông qua các đơn kiến nghị, khởi kiện tại
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật
mỗi ngày một nhiều và đa dạng hơn. Những yêu cầu của người dân không chỉ
dừng lại ở việc đề nghị các cơ quan quản lý Nhà nước xử lý nghiêm các hành
vi vi phạm pháp luật môi trường, buộc người gây ô nhiễm phải chấm dứt ngay
các hành vi gây ô nhiễm hoặc phải chuyển đi nơi khác mà cịn địi hỏi người
gây ơ nhiễm phải có biện pháp làm sạch, khôi phục lại môi trường đã bị phá
huỷ và phải bồi thường các thiệt hại về người và tài sản gây ra đối với họ.
Những người dân không chỉ yêu cầu đối với những thiệt hại gây ra do các dự
án đang hoạt động mà đối với các dự án trước khi đi vào hoạt động có khả
năng gây ô nhiễm, gây tác động xấu đến môi trường không được tiến hành,
triển khai các hoạt động ở gần nơi dân cư sinh sống, nếu những dự án này vẫn
được triển khai thì chủ dự án, chủ cơng trình hoặc cơ quan có thẩm quyền
cấp phép phải trả trước cho dân một khoản tiền (tiền bù đắp cho những thiệt
hại do chất lượng môi trường suy giảm do cơng trình, dự án gây ra) hoặc một
khoản tiền đủ để họ di dời đi nơi khác có chất lượng mơi trường được dảm
bảo hơn.
Chúng ta có thể xem xét và phân tích các ví dụ sau để minh hoạ cho
khẳng định trên:
Ví dụ 1: Vụ đền bù thiệt hại do ô nhiễm nước, gây chết cá ở Tây Ninh: ngày
14/02/1998 cá trên rạch Tây Ninh bị chết hàng loạt. Ngày 16/02/1998 Sở KHCN &

MT Tây Ninh tổ chức khảo sát dọc theo rạch và cùng chính quyền địa phương và
nhân dân ghi nhận thời điểm cá bị chết nhiều nhất và lấy các mẫu nước tại các vị trí

10


này. Ngày 17/02/1998 cá cảnh nuôi lồng trên sông Vàm Cỏ Tây (là nơi rạch Tây
Ninh đổ nước vào) lại bị chết hàng loạt. Ngày 18/02/1998 Sở KHCN& MT, chính
quyền địa phương lập biên bản xác định số lượng cá chết cụ thể tại từng điểm, tiếp
tục lấy mẫu nước sông tại nhiều điểm trên khu vực cá bị chết. Sau khi có kết quả
phân tích mẫu nước, đã tiến hành thanh tra tình hình kiểm sốt ơ nhiễm tại công ty
đường Bourbon và 9 cơ sở sản xuất bột mì có nguồn phát thải vào sơng Vàm Cỏ
Tây. Từ kết quả thanh tra và sau khi đã loại trừ nguyên nhân dịch bệnh của cá đã
nhận định nguyên nhân gây ô nhiễm rạch Tây Ninh và sông Vàm Cỏ Tây dẫn tới cá
chết là do sự cố của công ty đường gây ra là chính. Cũng qua phân tích thành phần
mẫu nước tại các điểm cá chết, nhận định có thành phần thành nước thải của 9 cơ sở
chế biến bột mì. Thơng qua số liệu phân tích thành phần nước thải và tổng sản
lượng thải của công ty, thành phần nước sơng Vàm Cỏ Tây, tốc độ dịng chảy và
thời gian lan truyền của nước thải, thời điểm xảy ra sự cố của công ty (sau khi loại
trừ các nguyên nhân khác như dịch bệnh) đã buộc công ty đường Bourbon thừa
nhận là bên chủ yếu gây ra ơ nhiễm tại các vị trí và các ngày nói trên. Đồng thời 9
cơ sở chế biến bột mì cũng được mời họp để xem xét các kết quả phân tích và họ
đều thừa nhận có góp phần làm ơ nhiễm nước sông, dẫn tới cá chết hàng loạt. Các
hộ dân bị thiệt hại đã được thông báo kết quả xác định nguyên nhâ n ô nhiễm. Họ đã
thống kê và địi bồi thường thiệt hại do cá cảnh ni lồng bị chết là 125 triêụ
đồng. Cuối cùng, trên cơ sở hoà giải, dưới sự hướng dẫn của sở KHCN &MT,
công ty đường chịu trách nhiệm bồi thường 50 triệu đồng, các hộ chế biến bột
mì cũng có phần trách nhiệm trong việc làm ô nhiễm sông và chấp nhận bồi
thường 7 triệu đồng. [7, 102]
Ví dụ 2: Hiện tượng nhân dân 3 xã Nam Sơn, Bắc Sơn, Hồng Kỳ, huyện Sóc

Sơn thành phố Hà Nội yêu cầu UBND thành phố Hà Nội phải trả trước cho họ một
khoản tiền dưới dạng tiền bù đắp chất lượng môi trường sống bị giảm sút hay còn
gọi là tiền bù đắp những ảnh hưởng về môi trường do việc triển khai thực hiện dự
án đầu tư xây dựng khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nam Sơn tại khu vực mà họ
đang sinh sống (căn cứ theo Quyết Định 695/QĐ- TTg ngày 10/8/1998 của Thủ

11


tướng Chính phủ về việc thu hồi đất 130.607 m 2 tại hai xã Nam Sơn và Hồng Kỳ
giao cho Ban quản lý dự án cơng trình cơng cộng, sở giao thơng cơng chính xây
dựng khu chơn lấp, xử lý rác thải sinh hoạt).[7, 76]
Ví dụ 3: Ban Giám đốc vườn Quốc gia Cúc Phương đề nghị Chính phủ và các
cơ quan hữu quan xem xét lại quyết định phê duyệt đề án xây dựng xa lộ Bắc Nam
(giai đoạn 1), trong đó có đoạn đường cắt ngang qua vùng đệm của Vườn Quốc gia
(6 km). Bên khiếu nại cho rằng việc xây dựng đoạn đường giao thông này sẽ làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các yếu tố môi trường, phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh
thái khu vực này. Đây chính là phản ánh của người dân đối với các quyết định hành
chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có liên quan tới lợi ích về mặt môi
trường.[7]

Như vậy, qua các hiện tượng mới nảy sinh ở trên, chúng ta có thể thấy
những xung đột, những mâu thuẫn, những bất đồng về quyền và lợi ích giữa
các chủ thể có liên quan tới mơi trường được biểu hiện rất đa dạng. Cũng
giống như các tranh chấp khác, tranh chấp môi trường cũng xuất phát từ chỗ
tranh chấp giữa ai với ai?, do nguyên nhân nào làm phát sinh tranh chấp đó?
Và tranh chấp về mục đích gì?
Trước hết chúng ta tìm hiểu khái niệm về tranh chấp, theo như một số từ
điển đã định nghĩa "tranh chấp là giành nhau, giằng co một cái không rõ thuộc
về bên nào; đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn đề

quyền lợi giữa hai bên"[39, 898]. Cũng có thể định nghĩa "tranh chấp là
những mâu thuẫn, bất hoà về quyền và nghĩa vụ hợp pháp giữa các chủ thể
tham gia vào một quan hệ pháp luật, trong đó có tranh chấp bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng…". Tranh chấp mơi trường bên cạnh những điểm chung
của tranh chấp, cịn có nhiều điểm khác biệt. Trong các văn bản pháp luật về
môi trường như Luật bảo vệ môi trường năm 1993; Nghị định số 175/CP ngày
18/10/1993 hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường năm 1993; Nghị định

12


số 26/CP, ngày 26/3/1996 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ
mơi trường và Nghị định số 121/CP, ngày 12/05/2003 cũng quy định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; trong Dự thảo luật bảo vệ
môi trường sửa đổi ngày 10/01/2005 cũng chưa có định nghĩa chính thức về
tranh chấp mơi trường. Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến và quan điểm khác
nhau xoay quanh vấn đề này:
Theo các tác giả thuộc Bộ mơn luật mơi trường, trường đại học luật Hà
Nội thì "Tranh chấp môi trường là những mâu thuẫn, những bất đồng ý kiến
của các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật môi trường khi họ cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm"[16, 195]; Theo quan điểm
này, tác giả đã xác định được đối tượng của tranh chấp có liên quan đến các
quyền và lợi ích về mặt mơi trường. Tuy nhiên, nếu cho rằng tranh chấp môi
trường chỉ nảy sinh khi các quyền và lợi ích về mơi trường bị xâm hại (có
nghĩa là khi mơi trường đã bị ơ nhiễm, suy thối ở các mức độ nhất định) thì
quan điểm này đã bỏ qua một dạng tranh chấp đã xảy ra trong thực tế (được
nêu ra trong các ví dụ trên), dạng tranh chấp này liên quan đến quan hệ pháp
luật về phịng ngừa sự xâm hại đến mơi trường. Thực tế cho thấy trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường, xung đột mâu thuẫn giữa các bên có thể xảy ra ngay
từ khi chưa có sự xâm hại, song có cơ sở cho rằng sự xâm hại đó chắc chắn sẽ

xảy ra nếu khơng có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Theo nhóm nghiên cứu thuộc Vụ dân sự- kinh tế Bộ Tư pháp thì "Tranh
chấp về mơi trường là thể hiện cụ thể của việc tranh chấp dân sự ngoài hợp
đồng trong lĩnh vực sử dụng các thành phần môi trường". Quan điểm này
cũng đã xác định được đối tượng của tranh chấp có liên quan đến các quyền
và lợi ích về mặt môi trường. Tuy nhiên, quan điểm thứ hai mới chỉ nêu một
dạng cụ thể của tranh chấp môi trường, đó là tranh chấp dân sự ngồi hợp
đồng trong lĩnh vực sử dụng các thành phần môi trường mà chưa bao quát hết

13


được các dạng khác của tranh chấp trong lĩnh vực này. Chúng ta thấy trên
thực tế, tranh chấp môi trường còn được thể hiện dưới các dạng của tranh
chấp khác, đó là tranh chấp kinh tế có nội dung mơi trường (đối tượng của
hợp đồng kinh tế là các thành phần môi trường được khai thác, sử dụng) như
tranh chấp nảy sinh từ hợp đồng khai thác, kinh doanh động thực vật rừng;
Hợp đồng khai thác, kinh doanh nguồn lợi thuỷ sản; Hợp đồng xuất nhập
khẩu công nghệ, thiết bị đã qua sử dụng… Các tranh chấp trong lĩnh vực này
thường nảy sinh khi một trong các bên không tuân thủ luật bảo vệ môi trường
như khai thác các thành phần môi trường một cách quá mức hoặc không đúng
phương pháp, quy cách…. Tranh chấp mơi trường cũng có thể tồn tại là tranh
chấp hành chính về mơi trường, đó là các tranh chấp có liên quan đến quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan quản lý Nhà nước về mơi
trường. Tranh chấp mơi trường cũng có thể là tranh chấp quốc tế (Tranh chấp
giữa các quốc gia) về mơi trường.
Cũng có quan điểm cho rằng tranh chấp môi trường phải được hiểu là
tranh chấp về các thành phần môi trường, tranh chấp về các yếu tố tạo nên
môi trường, cụ thể hơn là tranh chấp về quyền sở hữu hay quyền sử dụng các
thành phần môi trường. Nếu tiếp cận theo hướng này, tức là chúng ta đã đồng

nhất quyền sở hữu, quyền sử dụng các thành phần môi trường, các nguồn tài
nguyên với quyền bảo vệ chúng. Như vậy, chúng ta sẽ không thấy hết được
những lợi ích mà các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật mơi trường hướng
tới, đó khơng chỉ là những lợi ích về mặt kinh tế như sở hữu, khai thác và sử
dụng các thành phần môi trường mà còn phải quan tâm tới việc khai thác sử
dụng chúng như thế nào để bảo đảm cho chúng không bị thay đổi về tính chất,
suy giảm về số lượng, phá vỡ sự cân bằng sinh thái trong tự nhiên… hay nói
một cách khác người ta cịn phải quan tâm tới việc bảo vệ chúng như thế nào
để bảo đảm chất lượng của môi trường sống. Như vậy việc khai thác, sử dụng

14


các thành phần môi trường phải phù hợp với tiêu chuẩn, quy định mà Nhà
nước mà cộng đồng đặt ra. Bên cạnh đó, quan điểm này cũng nhấn mạnh
tranh chấp môi trường là tranh chấp về quyền sở hữu hay quyền sử dụng các
thành phần môi trường. Tuy nhiên quan điểm này sẽ khơng lí giải được trong
trường hợp một thành phần mơi trường nào đó khơng thuộc quyền sở hữu,
quyền sử dụng của riêng ai, ví dụ như cảnh quan thiên nhiên, âm thanh, khơng
khí, đất đai chưa giao cho ai sử dụng… nhưng bị ô nhiễm do hành vi vi phạm
của một chủ thế nào đó và chủ thể bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ tài sản
trong trường hợp này có rất nhiều và lúc đó có làm nảy sinh tranh chấp mơi
trường hay khơng!
Có quan điểm cho rằng tranh chấp môi trường được hiểu là tranh chấp
trong việc đòi bồi thường những thiệt hại về mơi trường do người có hành vi
vi phạm pháp luật mơi trường, làm ơ nhiễm, làm suy thối các thành phần môi
trườn gây thiệt hại cho người khác. Như vậy quan điểm này cho rằng tranh
chấp môi trường chỉ nảy sinh khi hành vi vi phạm pháp luật môi trường đã
gây thiệt hại trên thực tế. Thiệt hại gây ra trên thực tế sẽ là căn cứ đầu tiên để
xác định trách nhiệm phải phục hồi lợi ích bị tổn thất của bên gây thiệt hại

cho bên bị thiệt hại. Tuy nhiên như vậy chúng ta sẽ không thấy được hết các
lợi ích mà các bên tham gia quan hệ pháp luật môi trường hướng tới. Họ
không chỉ quan tâm tới lợi ích cụ thể, trước mắt bị thiệt hại và đòi phải được
bù đắp, được bồi thường mà họ cịn quan tâm đến những lợi ích mà họ cho
rằng sẽ có nguy cơ bị mất, bị suy giảm trong tương lai và họ địi hỏi những
người có khả năng gây hại phải có biện pháp loại trừ, hạn chế các thiệt hại có
thể xảy ra ngay từ giai đoạn đầu của dự án hoặc họ đòi được bù đắp, được
chia sẻ những thiệt thịi về quyền lợi mơi trường mà họ phải gánh chịu. Việc
triển khai dự án sẽ làm ảnh hưởng đến quyền được sống trong môi trường
trong lành của họ.

15


Như vậy từ việc phân tích những mặt hạn chế của các quan điểm trên,
chúng ta cần thống nhất rằng nói tới tranh chấp mơi trường là phải nói tới sự
xung đột, sự bất đồng, mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên có liên quan đến mơi
trường khi có hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây thiệt hại hoặc đe doạ
gây thiệt hại.
Do đó ở mức độ chung nhất, có thể định nghĩa: tranh chấp mơi
trường là những mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật môi trường khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm hoặc có nguy cơ bị xâm phạm.
1.1.2. Bản chất pháp lí và các đặc điểm của tranh chấp mơi trường.
1.1.2.1. Bản chất pháp lí của tranh chấp mơi trường.
Như đã trình bày đã trình bày ở Mục 1, muốn tìm hiểu bản chất pháp lí
của các tranh chấp mơi trường, chúng ta cần phải tìm hiểu tính chất của các
mối quan hệ pháp luật môi trường mà các chủ thể tham gia khi nảy sinh tranh
chấp. Do quan hệ pháp luật mơi trường được hình thành chủ yếu từ hai nhóm
quan hệ xã hội có tính chất khác nhau (nhóm quan hệ giữa các cơ quan Nhà

nước có thẩm quuyền với các tổ chức, cá nhân công dân phát sinh từ các hoạt
động quản lý Nhà nước về mơi trường và nhóm quan hệ giữa các tổ chức, cá
nhân, công dân với nhau nhằm bảo vệ môi trường chung cũng như bảo vệ
quyền và lợi ích của chính mình). Từ đó, các tranh chấp mơi trường nảy sinh
từ các mối quan hệ nêu trên sẽ có bản chất pháp lý khơng giống nhau. Việc
tìm hiểu bản chất pháp lý của các loại tranh chấp môi trường sẽ giúp chúng ta
đưa ra cơ chế pháp lý thích hợp để giải quyết các loại tranh chấp này.
Nhóm 1: Tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về
môi trường.

16


Các tranh chấp thuộc nhóm này thường nảy sinh khi các đương sự cho
rằng quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính do các cơ quan quản lý
Nhà nước, cơ quan quản lý môi trường hoặc cán bộ quản lý Nhà nước về môi
trường áp dụng đã hoặc sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
họ. Xét về bản chất, các tranh chấp này là một dạng cụ thể của tranh chấp
hành chính- tranh chấp hành chính trong lĩnh vực quản lý mơi trường .
Chúng ta đều biết, các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung và các cơ
quan quản lý Nhà nước về mơi trường nói riêng, trong q trình thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình đều phải ban hành các quyết định hành chính
hoặc thực hiện các hành vi hành chính nhất định có liên quan tới mơi trường
và trong nhiều trường hợp, nó đụng chạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của
các tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ. Theo khoản 10 Điều 2 của Luật
khiếu nại, tố cáo ngày 11/12/1998 thì "Quyết định hành chính là quyết định
bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước được áp dụng một lần đối với một
hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý
hành chính". Cũng theo khoản 10 Điều 2 thì: "Hành vi hành chính là hành vi

của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính Nhà nướ khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật".
Hiện nay cũng có hai quan điểm khác nhau về có hay khơng có tranh
chấp hành chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng khơng có tranh chấp hành
chính vì khi nói đến tranh chấp là nói đến sự xung đột giữa các bên, trong khi
bản thân quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ khơng bình đẳng (Quan hệ
giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý, trong đó chủ thể quản lý là
người đại diện cho Nhà nước, thực hiện quyền lực của Nhà nước giao phó).
Tính chất của quan hệ ln mang tính mệnh lệnh, bắt buộc, nếu có sự phản
ứng thì đó là sự phản ứng của một bên (bên bị quản lý) và khơng coi đó là thái

17


độ của người tranh chấp. Trong khi đó quan điểm thứ hai lại cho rằng, hành vi
khiếu kiện của cá nhân, tổ chức chính là thể hiện sự xung đột, bất đồng ý kiến
giữa họ với người ra quyết định hành chính hoặc người có hành vi hành chính
làm ảnh hưởng hoặc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Sự xung
đột này cần thiết phải có sự tham gia của những cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong việc giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn này (có thể theo
trình tự hành chính hoặc trình tự tư pháp thơng qua tồ án). Quan điểm này
cho rằng xung đột và phương thức giải quyết xung đột trong lĩnh vực này
hoàn toàn mang bản chất của các tranh chấp nói chung và tranh chấp mơi
trường nói riêng nảy sinh trong đời sống xã hội. Trên cơ sở phân tích hai quan
điểm trên, chúng ta hồn tồn nhất trí với quan điểm thứ hai, tức là có tồn tại
tranh chấp hành chính nói chung và tranh chấp hành chính mơi trường nói
riêng (tranh chấp hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về môi trường).
Chúng ta có thể trở lại ví dụ 3 trong Phần 1, để làm sáng tỏ quan điểm này.
Qua ví dụ đó, chúng ta thấy thực tế đã nảy sinh nhiều vụ việc thể hiện yêu cầu
của người dân và của các tổ chức đối với các quyết định hành chính của cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền (ngay cả khi quyết định này chưa được triển
khai trong thực tế, song họ có cơ sở chắc chắn rằng việc thực hiện quyết định
hành chính đó sẽ gây ra những thiệt hại về mơi trường).
Nhóm hai: Tranh chấp phát sinh giữa các tổ chức và cá nhân công
dân với nhau nhằm bảo vệ mơi trường chung cũng như bảo vệ quyền và lợi
ích của chính mình.
Các mâu thuẫn của nhóm này nảy sinh khi các đương sự cho rằng hành
vi của phía bên kia gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến tính mạng, sức
khoẻ và tài sản của chính mình hoặc gây ảnh hưởng đến chất lượng môi
trường xung quanh, tức là gây thiệt hại đến mơi trường nói chung. Các mâu
thuẫn này thường làm phát sinh trách nhiệm phải dừng ngay lập tức hành vi

18


đã hoặc sẽ có khả năng gây ảnh hại đến mơi trường, phải bù đắp những thiệt
thịi về quyền lợi môi trường bị ảnh hưởng hoặc bồi thường thiệt hại (nếu có)
của bên có hành vi gây hại.
Đối với tranh chấp thuộc nhóm này, chúng ta thấy thiệt hại mà một bên
là các tổ chức, cá nhân phải gánh chịu có thể đã xảy ra trên thực tế hoặc có cơ
sở chắc chắn rằng nó sẽ xảy ra trên thực tế. Những thiệt hại này có thể là tính
mạng, sức khoẻ, tài sản của cá nhân cũng như tài sản của tổ chức mà nó cịn
làm phương hại tới các quyền của con người về mặt mơi trường, đó là quyền
được sống trong môi trường trong lành không bị ô nhiễm. Điều đó sẽ đặt ra
trách nhiệm pháp lý đối với bên có hành vi vi phạm pháp luật mơi trường, gây
thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác và gây thiệt hại cho mơi trường nói chung.
Chúng ta có thể trở lại các ví dụ 1 và ví dụ 2 trong Phần 1 để làm sáng tỏ
cho kết luận này. Trong ví dụ 1, trên cơ sở phân tích các căn cứ khoa học, Sở
KHCN&MT tỉnh Tây Ninh đã yêu cầu Công ty đường Bourbon và 9 cơ sở
chế biến bột mỳ phải có biện pháp khắc phục mơi trường nước bị ô nhiễm và

phải bồi thường tổng cộng 57 triệu đồng cho những hộ dân bị thiệt hại. Đây là
ví dụ minh hoạ cho việc có hành vi vi phạm pháp luật môi trường, đã gây
thiệt hại trên thực tế. Trong ví dụ 2: dẫn chứng cho việc các cơ sở, tổ chức
phải bồi thường thiệt hại (dưới dạng tiền bù đắp chất lượng môi trường sống
bị giảm sút, môi trường sống bị ảnh hưởng) cho các cá nhân, tổ chức khác về
những thiệt hại chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai đối với họ.
Xét về bản chất thì tranh chấp thuộc nhóm này có thể thuộc loại tranh
chấp dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa các bên gây thiệt hại
và bên bị thiệt hại. Ngồi ra có thể là tranh chấp kinh tế có nội dung mơi
trường, tức là đối tượng của hợp đồng kinh tế là các thành phần môi trường
được khai thác, sử dụng như tranh chấp nảy sinh từ hợp đồng khai thác, kinh

19


doanh động, thực vật rừng; hợp đồng khai thác, kinh doanh nguồn lợi thuỷ
sản; hợp đồng xuất, nhập khẩu công nghệ, thiết bị đã qua sử dụng … Các
tranh chấp trong lĩnh vực này thường nảy sinh khi một trong các bên không
tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường như khai thác các thành phần môi
trường một cách quá mức, không đúng cách thức… và đã bị cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền xử lý như tịch thu tang vật, phương tiện, đình chỉ hoạt
động… khiến cho hợp đồng kinh tế đã kí kết khơng thể thực hiện được và từ
đó gây thiệt hại cho phía bên kia của hợp đồng kinh tế, làm phát sinh tranh
chấp. Tuy nhiên như chúng ta đã thấy trong nhóm 2 này, dù là tranh chấp dân
sự hay tranh chấp kinh tế thì đều có điểm chung đó là có thiệt hại xảy ra do
hành vi vi phạm pháp luật của một bên và bên vi phạm gây thiệt hại phải có
nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại đó, tức là đều phát sinh trách nhiệm dân
sự về bồi thường thiệt hại.
1.1.2.2. Các đặc điểm của tranh chấp môi trường
Ở nước ta tranh chấp môi trường là hiện tượng xã hội mới nảy sinh.

Cũng giống như các tranh chấp khác, tranh chấp môi trường cũng phát sinh từ
hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác, gây ảnh hưởng đến trật tự pháp luật; đều do các chủ thể thực hiện; đều
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có). Tuy nhiên, tranh chấp
mơi trường là một vấn đề khá phức tạp, mang tính tổng hợp, đa ngành xét từ
nhiều phương diện khác nhau và so với các tranh chấp khác, tranh chấp mơi
trường có các đặc điểm riêng sau:
1.1.2.2.1. Về đối tượng tranh chấp
Đối tượng của tranh chấp môi trường là các quyền và lợi ích hợp pháp về
mặt mơi trường của các chủ thể bị xâm hại hoặc bị đe doạ xâm hại. Ở đây
chúng ta phải thấy những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể không

20


chỉ dừng lại ở các quyền về tài sản như quyền khai thác, sử dụng các thành
phần môi trường, các nguồn tài nguyên của một chủ thể nào đó mà đó cịn là
những quyền lợi về mặt mơi trường liên quan tới phịng, chống ơ nhiễm, suy
thối mơi trường, đó là quyền được sống trong môi trường trong lành, không
bi ô nhiễm. Vấn đề tiếp theo đó là quyền và lợi ích hợp pháp về mặt mơi
trường của các chủ thể không chỉ thể hiện ở những thiệt hại thực tế đã xảy ra
mà cịn được hiểu đó là những thiệt hại sẽ xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra, nếu
như khơng có biện pháp ngăn chặn từ đầu có hiệu quả.
1.1.2.2.2. Về chủ thể tranh chấp
Chủ thể của tranh chấp môi trường là các bên tham gia tranh chấp khi họ
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp về mặt mơi trường của mình bị xâm hại.
Đặc điểm về mặt chủ thể của tranh chấp mơi trường chính là phạm vi chủ thể
và tính khó xác định một cách nhanh chóng, cụ thể, chính xác các bên tham
gia tranh chấp.
Tranh chấp mơi trường có phạm vi chủ thể rất rộng với nhiều loại chủ

thể khác nhau, vì nó xảy ra không chỉ ở cấp độ quốc gia mà cịn trên bình diện
quốc tế, bao gồm: cá nhân, tổ chức và các quốc gia. Tranh chấp quốc tế về
môi trường có thể xảy ra giữa hai hay nhiều quốc gia. Ví dụ, tranh chấp giữa
các quốc gia láng giềng trong việc khai thác, sử dụng các thành phần môi
trường quốc tế như các nguồn nước chung, động thực vật hoang dã hoặc tranh
chấp về hậu quả gây nên bởi ô nhiễm, sự cố môi trường diễn ra ở diện rộng tại
một quốc gia nhưng ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Có thể thấy điều này
qua một số sự kiện thực tế như năm 1989 Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố cắt đứt dịng
chảy của sơng Inzaradi chảy sang Irắc và Sulia; Pháp tranh chấp với Tây Ban
Nha về tài nguyên nước của hồ Điranô; tranh chấp về sự cố mơi trường gây ơ
nhiễm như vụ rị rỉ chất phóng xạ tại nhà máy điện nguyên tử Chécnôbưn của

21


Liên Xô cũ năm 1986 và một số nước như Thuỵ Điển, Hà Lan, Na uy, Anh,
Áo đã đưa ra u cầu địi Liên Xơ cũ phải bồi thường do nông sản của những
nước này bị ô nhiễm.
Tranh chấp môi trường thường liên quan đến rất nhiều chủ thể bởi nó có
thể diễn ra ở tầm hẹp trên một địa bàn cụ thể hoặc ở tầm rộng trên phạm vi
khu vực, vùng hay cả nước. Chính vì vậy, các chủ thể thường khơng được xác
định một cách cụ thể, chính xác vào thời điểm nảy sinh tranh chấp. Có nhiều
trường hợp có thể xác định được bên bị hại nhưng khơng thể xác định được
cụ thể bên gây hại. Ví dụ, nhiều cơ sở sản xuất cùng thải chất thải vào một
con sông, làm ô nhiễm nguồn nước, gây thiệt hại cho những người nuôi trồng
thuỷ sản ở con sông đó. Trong trường hợp khác, người ta xác định được bên
gây hại nhưng lại không xác định được cụ thể bên bị hại. Ví dụ, một tổ chức
nào đó gây ra sự cố tràn dầu dẫn đến ô nhiễm môi trường, tác động xấu đến
sức khoẻ con người cũng như tài sản của rất nhiều dân cư sống trong khu vực
đó. Ngồi ra cịn có trường hợp bên vi phạm có nhiều người đồng thời gây

thiệt hại cho nhiều người khác và khơng thể xác định cụ thể, chính xác cả hai
bên vào thời điểm nảy sinh tranh chấp. Ví dụ, tranh chấp giữa nhiều nhà máy,
lò gạch trong một vùng với cộng đồng dân cư do khói bụi của các cơ sở này
gây ra.
1.1.2.2.3 Về thời điểm nảy sinh tranh chấp
Tranh chấp mơi trường có thể xảy ra từ rất sớm, khơng chỉ xảy ra khi
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự bị xâm hại trên thực tế mà
ngay cả khi quyền và lợi ích hợp pháp của các bên mới đang ở trong tình
trạng bị đe doạ xâm hại. Khác với tranh chấp môi trường, tranh chấp trong
các lĩnh vực khác thường chỉ nảy sinh khi quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự đã bị xâm hại. Qua dấu hiệu này cũng cho thấy pháp luật cần có

22


×