Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật Quốc tế: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG KIM CHINH

KHUNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
TÀI TRỢ CỦA BÊN THỨ BA TRONG TỐ TỤNG
TRỌNG TÀI ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

KHUNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
TÀI TRỢ CỦA BÊN THỨ BA TRONG TỐ TỤNG
TRỌNG TÀI ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380108

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Trần Thị Thùy Dương
Học viên
: Đặng Kim Chinh
Lớp
: 19CHQT_K32_NC, Khóa 32

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của
bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế” là cơng trình nghiên cứu của cá
nhân và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các nội dung
nêu trong luận văn đảm bảo tính trung thực, chính xác, tin cậy.
Luận văn được hồn thành với sự giúp đỡ, hướng dẫn của PGS.TS Trần Thị
Thùy Dương. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tác giả

Đặng Kim Chinh


DANH MỤC VIẾT TẮT

ALF

Association of Litigation
Hiệp hội các nhà tài trợ kiện
Funders of England and Wales tụng của Anh và xứ Wales
Convention on the Settlement of

Công ước

Investment Disputes between

ICSID

States and Nationals of Other

States

Công ước
New York
1958

EVIPA

Công ước về Giải quyết Tranh
chấp Đầu tư giữa các Quốc gia
và các Công dân quốc gia khác

Convention on the Recognition
Công ước về Công nhận và Thi
and Enforcement of Foreign
hành các Quyết định trọng tài
Arbitral Awards (New York,
nước ngoài, 1958
1958)
Investment
Protection Agreement
between the European Union

Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa
Liên minh châu Âu và Cộng hòa

and the Socialist Republic of

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam


Vietnam
ICSID

IIA

ISDS

International Centre for
Settlement of Investment
Disputes
international investment
agreement
investor-state dispute
settlement

Trung tâm Giải quyết Tranh
chấp Đầu tư Quốc tế
các hiệp định quốc tế về đầu tư
giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu
tư và nhà nước / giải quyết tranh
chấp đầu tư quốc tế

TPF

third-party funding

tài trợ của bên thứ ba

UNCITRAL


United Nations Commission
on International Trade Law

Ủy ban Pháp luật Thương mại
Quốc tế Liên Hợp Quốc

UNCTAD

United Nations Conference on Hội nghị Thương mại và Phát
Trade and Development
United Nations Commission

WG III

on International Trade Law Working Group III

triển Liên Hợp Quốc
Nhóm làm việc số III của
UNCITRAL


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ CỦA BÊN THỨ BA
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI ĐẦU TƯ QUỐC TẾ .......................................9
1.1. Nguồn gốc tài trợ của bên thứ ba trong giải quyết tranh chấp ...............10
1.2. Một số khái niệm “tài trợ của bên thứ ba” trong giải quyết tranh chấp ...
...............................................................................................................................12
1.2.1. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba của một số học giả .............................13
1.2.2. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba của một số hiệp hội ............................16

1.2.3. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba trong các quy tắc trọng tài ................18
1.2.4. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba trong pháp luật một số quốc gia ........20
1.2.5. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba trong các hiệp định quốc tế về đầu tư
............................................................................................................................23
1.3. Khái niệm “tài trợ của bên thứ ba” trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc
tế ...........................................................................................................................25
1.4. Ưu, nhược điểm và xu hướng phát triển của tài trợ của bên thứ ba trong
tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế .........................................................................27
1.4.1. Ưu, nhược điểm của tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư
quốc tế.................................................................................................................28
1.4.2. Xu hướng phát triển của tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài
đầu tư quốc tế .....................................................................................................32
Kết luận chương 1 ...................................................................................................34
CHƯƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÀI TRỢ CỦA BÊN THỨ BA
ĐỐI VỚI TỐ TỤNG TRỌNG TÀI ĐẦU TƯ QUỐC TẾ VÀ KHUNG PHÁP
LÝ ĐIỀU CHỈNH ....................................................................................................35
2.1. Những ảnh hưởng của tài trợ của bên thứ ba đối với tố tụng trọng tài
đầu tư quốc tế ......................................................................................................35
2.1.1. Tài trợ của bên thứ ba và xung đột lợi ích đối với trọng tài viên ............35


2.1.2. Ảnh hưởng của tài trợ của bên thứ ba đến quyết định phân bổ chi phí và
bảo đảm chi phí ..................................................................................................36
2.1.3. Ảnh hưởng của tài trợ của bên thứ ba đối với bảo mật và đặc quyền pháp
lý .........................................................................................................................39
2.1.4. Kiểm soát của nhà tài trợ bên thứ ba đối với tố tụng trọng tài và tác động
tiêu cực đến việc giải quyết tranh chấp một cách thân thiện .............................40
2.2. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba trong tố
tụng trọng tài đầu tư quốc tế .............................................................................42
2.2.1. Khơng có quy định trực tiếp điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba

trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế ................................................................42
2.2.2. Cấm tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế ..........45
2.2.3. Nhóm quy định trực tiếp điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba
trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế ................................................................46
2.2.4. Xây dựng khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba
trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế ................................................................55
2.3. Khung pháp lý “nghiêm khắc với tài trợ của bên thứ ba” trong tố tụng
trọng tài đầu tư quốc tế dành cho Việt Nam và giải pháp xây dựng .............57
2.3.1. Khung pháp lý “nghiêm khắc với tài trợ của bên thứ ba” trong tố tụng
trọng tài đầu tư quốc tế dành cho Việt Nam ......................................................58
2.3.2. Giải pháp xây dựng khung pháp lý “nghiêm khắc với tài trợ của bên thứ
ba” trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế dành cho Việt Nam .........................60
Kết luận chương 2 ...................................................................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đầu tư quốc tế có vai trị quan trọng, đóng góp đáng kể đối với sự phát triển
kinh tế của Việt Nam trong thời đại tồn cầu hóa. Tính đến nay, Việt Nam đã gia
nhập và tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do1 và bảo hộ đầu tư.2 Tuy
nhiên, song hành cùng với sự phát triển của đầu tư quốc tế tại Việt Nam sẽ là sự gia
tăng các vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế.
Trong các vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế, tài trợ của bên thứ ba (thirdparty funding) có thể hiểu là bất kỳ nguồn tài trợ nào của thể nhân hoặc pháp nhân
khơng phải là một bên tranh chấp nhưng có ký kết thỏa thuận với một bên tranh
chấp để thanh toán một phần hoặc tồn bộ chi phí tố tụng nhằm đổi lại một khoản
thù lao phụ thuộc vào kết quả tranh chấp, hoặc bất kỳ nguồn kinh phí nào của thể
nhân hoặc pháp nhân không phải là một bên tranh chấp dưới hình thức trợ cấp hoặc

viện trợ khơng hồn lại.3
Sự gia tăng các vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế kéo theo hiện tượng gia
tăng đáng kể tài trợ của bên thứ ba đối với các vụ kiện đầu tư quốc tế về cả số lượng
nhà tài trợ bên thứ ba (third-party funder) và số vụ kiện được tài trợ.4 Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp, tài trợ của bên thứ ba đối với các vụ kiện đầu tư quốc tế vẫn
chưa được kiểm soát, điều chỉnh ở cấp hiệp định, pháp luật đầu tư quốc gia cũng
như theo các quy tắc trọng tài đầu tư quốc tế hiện hành. Do đó, tài trợ của bên thứ
ba trong tranh chấp đầu tư quốc tế ngày càng thu hút sự chú ý, quan tâm của các
quốc gia, các nhà đầu tư, các nhà tài tài trợ bên thứ ba, các tổ chức trọng tài quốc tế,
các luật sư và các học giả.5
Quá trình phát triển lịch sử của hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế
được thiết lập bởi các hiệp định quốc tế về đầu tư cho thấy: Trong các phương thức
giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế hiện nay, trọng tài đầu tư quốc tế đã nổi lên
15 FTA có hiệu lực và 2 FTA đang đàm phán (theo truy cập 20/8/2022).
Đinh Ánh Tuyết (2020), “Hỗ trợ cải thiện công tác phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế”,
Báo cáo nghiên cứu nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, UNDP UK 2019-2020, tr.5.
3
Điểm (i), điều 3.28, chương 3, phần B của EVIPA.
4
UNCITRAL - Working Group III (ISDS Reform) (2019), A/CN.9/WG.III/WP.157 - Possible reform of
investor-State dispute settlement (ISDS) Third-party funding, United Nations, para.3.
5
Brooke Guven and Lise Johnson (2019), The Policy Implications of Third-Party Funding in Investor-State
Dispute Settlement, Columbia Center on Sustainable Investment (CCSI), pp.1.
1
2


2
theo thời gian như một phương thức được ưu tiên lựa chọn. 6 Theo Nhóm làm việc

số III của UNCITRAL (UNCITRAL Working Group III), tài trợ của bên thứ ba ảnh
hưởng tới tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế trên nhiều phương diện.7
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài xuất phát từ yêu cầu cấp bách đối
với Việt Nam đó là phải hiểu biết thấu đáo về ảnh hưởng và khung pháp lý điều
chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế
thông qua phương thức trọng tài đầu tư quốc tế, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp
để ngăn ngừa, hạn chế các ảnh hưởng, tác động tiêu cực đối với Việt Nam.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài
trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế” làm luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu của tác giả, cho đến nay, tại Việt Nam, có một bài báo đề cập
tài trợ của bên thứ ba, đó là bài “Tài trợ từ bên thứ ba trong trọng tài thương mại:
kinh nghiệm từ một số hệ thống pháp luật cho Việt Nam” của Trần Hoàng Tú Linh,
Huỳnh Quang Thuận tại Tạp chí Khoa học và Pháp lý số 03(142)/2021. Bài báo so
sánh tổng quan về tài trợ của bên thứ ba trong pháp luật một số nước, từ đó đưa ra
đề xuất: Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam nên đi theo con đường mà Hong Kong
đang đi, nghĩa là quy định về “tài trợ từ bên thứ ba” trước mắt chỉ áp dụng cho hoạt
động trọng tài.
Trong phạm vi hiểu biết của tác giả, thời gian gần đây, trên thế giới có một
xu hướng mạnh mẽ quan tâm nghiên cứu tới chủ đề tài trợ của bên thứ ba trong cả
tranh chấp dân sự được giải quyết tại tòa án quốc gia, tranh chấp thương mại được
giải quyết thông qua trọng tài thương mại và đặc biệt là tranh chấp đầu tư quốc tế
thông qua phương thức trọng tài đầu tư quốc tế. Trong đó, có thể liệt kê những tác
giả và cơng trình tiêu biểu sau đây.
Nhóm các luận văn, luận án:
Mr. Daniel Mathew (2019), Third party funding in international arbitration,
Degree of LL.M, National Law University Delhi (India). Luận văn này xem xét tính
6


UNCTAD (2010), Investor–State Disputes: Prevention and Alternatives to Arbitration, UNCTAD New
York/Geneva, pp. 13, 14, 15.
7
UNCITRAL - Working Group III (ISDS Reform) (2019), A/CN.9/WG.III/WP.172 - Possible reform of
investor-State dispute settlement (ISDS) - Third-party funding – Possible solutions, United Nations, para.5.


3
minh bạch, tiết lộ thông tin, đặc quyền pháp lý và phân bổ chi phí có liên quan đến
sự tham gia của tài trợ của bên thứ ba trong bối cảnh trọng tài quốc tế. Tuy nhiên,
luận văn chỉ xem xét các vấn đề một cách khái quát, tổng quan và tập trung vào
phân tích pháp luật Ấn Độ đối với tài trợ của bên thứ ba và đưa ra đề xuất về khả
năng áp dụng tại Ấn Độ và các khu vực pháp lý thông luật khác.
Thibault De Boulle (2014), “Third-Party Funding” in International
Commercial Arbitration, Master thesis of the education ‘Master of Laws’, Faculty
of Law Ghent University. Luận văn phân tích khá tồn diện các khía cạnh pháp lý
liên quan đến tài trợ của bên thứ ba, bao gồm: các quan điểm về khái niệm tài trợ
của bên thứ ba theo nghĩa hẹp (sensu stricto) và theo nghĩa rộng (sensu lato); giải
thích về sự gia tăng gần đây của tài trợ của bên thứ ba trong trọng tài thương mại;
các vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tới tài trợ của bên thứ ba và điều chỉnh hoạt
động của các nhà tài trợ bên thứ ba. Tuy nhiên, luận văn chỉ xem xét tài trợ của bên
thứ ba trong bối cảnh trọng tài thương mại quốc tế và tập trung vào cơ chế điều
chỉnh hành vi của nhà tài trợ bên thứ ba.
Nhóm các báo cáo nghiên cứu của một số tổ chức:
ICCA (2018), Report of the ICCA-Queen Mary Task Force on third-party
funding in international arbitration, The Netherlands. Báo cáo này tập trung vào
mục tiêu đánh giá, phân tích tác động của tài trợ của bên thứ ba đối với tố tụng
trọng tài quốc tế và khả năng điều chỉnh các tác động này. Với mục tiêu trên, báo
cáo đã xem xét không những về tài trợ của bên thứ ba hiện đại (“modern third-party
funding”), mà còn cả thị trường tài trợ của bên thứ ba, các nguồn tài chính cạnh

tranh và các mơ hình có chức năng tương đương với tài trợ của bên thứ ba. Báo cáo
đã dựa trên một khái niệm rộng về tài trợ của bên thứ ba nhằm tìm kiếm sự kết hợp
giữa các yếu tố nêu trên. Tuy nhiên, giới hạn phạm vi của báo cáo là xem xét tài trợ
của bên thứ ba ở mức độ tổng quan, theo đó báo cáo không xem xét tới sự tương tác
với các hệ thống pháp luật và đưa ra giải pháp cụ thể.
UNCITRAL Working Group III (2019), A/CN.9/WG.III/WP.157 - Possible
reform of investor-State dispute settlement (ISDS) Third-party funding, United
Nations. Báo cáo của Nhóm làm việc số III của UNCITRAL giới thiệu định nghĩa
tài trợ của bên thứ ba, khung pháp lý điều chỉnh trong pháp luật một số quốc gia,
hiệp định và quy tắc trọng tài. Báo cáo cũng nêu ra các vấn đề chính phát sinh trong
giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, bao gồm: xung đột lợi ích và tiết lộ thông tin,


4
việc kiểm soát của nhà tài trợ bên thứ ba với quá trình tố tụng trọng tài, vấn đề bảo
mật và đặc quyền pháp lý, chi phí và bảo đảm chi phí và ảnh hưởng gia tăng các vụ
kiện phù phiếm (frivolous claims). Tuy nhiên, báo cáo này chỉ mang tính tổng hợp,
giới thiệu tổng quan, đưa ra các vấn đề chứ chưa phân tích và tìm các cách thức
điều chỉnh.
UNCITRAL Working Group III (2019), A/CN.9/WG.III/WP.172 - Possible
reform of investor-State dispute settlement (ISDS) Third-party funding – Possible
solutions, United Nations. Đây là báo cáo mới nhất trong khuôn khổ làm việc của
Nhóm làm việc số III của UNCITRAL liên quan tới tài trợ của bên thứ ba, nó là
phiên bản bổ sung của báo cáo A/CN.9/WG.III/WP.157 nêu trên. Báo cáo này đã
nhận diện được các mối quan ngại trong đó chia ra hai cấp độ: ảnh hưởng tới hệ
thống tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư nói chung và tới tố
tụng trọng tài đầu tư quốc tế nói riêng; giới thiệu về khung pháp lý điều chỉnh và
đặc biệt đã gợi mở được các biện pháp cải cách có thể về ngăn cấm tài trợ của bên
thứ ba, quy định điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba. Tuy nhiên, báo cáo
này vẫn chỉ dừng ở mức độ nhận diện vấn đề, gợi mở các tùy chọn có thể trong việc

điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba. Ngoài ra, báo cáo không xem xét tới sự
tương tác với các hệ thống pháp luật và đưa ra giải pháp cụ thể.
ICSID (2022), Proposed amendments to the regulations and rules for ICSID
convention proceedings, ICSID arbitration rules. Quy tắc trọng tài mới nhất của
ICSID đã bổ sung một số quy định về tài trợ của bên thứ ba, bao gồm: Quy tắc 14
quy định đối với việc thông báo về tài trợ của bên thứ ba; Quy tắc 53(4) quy định
hội đồng trọng tài có nghĩa vụ phải xét tới sự tồn tại của tài trợ của bên thứ ba trong
việc ra quyết định về bảo đảm chi phí.
Nhóm các sách, bài báo, tạp chí khoa học:
Duarte G. Henriques (2018), “Third-party funding – in search of a
definition”, The American Review of international Arbitration, Vol. 28 No. 4. Bài
báo xem xét khái niệm tài trợ bên thứ ba theo góc độ ảnh hưởng đến xung đột lợi
ích, phán quyết về chi phí và bảo đảm chi phí, từ đó chỉ ra sự phức tạp trong việc
định nghĩa tài trợ của bên thứ ba. Bài báo cũng cảnh báo về sai lầm mang tính
phương pháp luận trong việc định nghĩa tài trợ của bên thứ ba và nhà tài trợ bên thứ
ba. Bài báo gợi mở cách tiếp cận trong việc định nghĩa thuật ngữ pháp lý, từ đó, đưa
ra phương pháp khả thi trong việc định nghĩa tài trợ của bên thứ ba. Bài báo cũng


5
đưa ra các điểm đặc trưng của tài trợ của bên thứ ba và kết luận rằng điểm đặc trưng
nhất chính là yếu tố kiểm sốt của nhà tài trợ bên thứ ba đối với vụ kiện. Tuy nhiên,
bài báo không đưa ra khái niệm tài trợ của bên thứ ba.
Sarah E. Moseley (2019), “Disclosing Third-Party Funding in International
Investment Arbitration”, Texas Law Review, vol.97-2019. Bài báo phân tích và đưa
ra đề xuất một cơ chế tiết lộ thông tin nhằm hạn chế tác hại của tài trợ của bên thứ
ba, cụ thể là chuyển trách nhiệm pháp lý sang các tổ chức trọng tài thơng qua việc
tích hợp các thủ tục cơng bố thơng tin và quy trình bổ nhiệm trọng tài viên đã có từ
trước để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá xung đột lợi ích.
Willem H. van Boom (2011), “Third-Party Financing in International

Investment Arbitration”, Erasmus School of Law, Rotterdam, the Netherlands. Bài
báo giải thích vai trò của tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc
tế; so sánh tổng quan về các hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động tài trợ của
bên thứ ba, đặc biệt tập trung tới cách thức mà tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng
trọng tài đầu tư quốc tế được điều chỉnh và cách thức cải thiện việc điều chỉnh
này. Tuy nhiên, bài báo được viết trong bối cảnh cách nay đã hơn 10 năm, bài báo
cũng chưa nhận diện được các ảnh hưởng mà tài trợ của bên thứ ba tác động tới
trọng tài đầu tư quốc tế và chính vì vậy mà bài báo chưa đưa ra được cách thức
điều chỉnh phù hợp mà chỉ gợi mở hai cực của việc điều chỉnh: (1) không cần quy
định trực tiếp điều chỉnh và (2) cấm tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài
đầu tư quốc tế.
Brooke Guven and Lise Johnson (2019), “The Policy Implications of ThirdParty Funding in Investor-State Dispute Settlement”, Columbia Center on
Sustainable Investment (CCSI) - Working Paper 2019. Bài báo phân tích tác động
của tài trợ của bên thứ ba đối với các quốc gia bị đơn cụ thể, các ngành cụ thể
(chẳng hạn như cơ sở hạ tầng và khai khoáng), số vụ việc, bản chất và động cơ của
nguyên đơn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (foreign direct investment –
FDI), sự phát triển của luật đầu tư và sự bỏ mặc hoặc điều chỉnh quá mức đối với
tài trợ của bên thứ ba. Bài báo kết luận rằng tài trợ của bên thứ ba trong ISDS có thể
có những ảnh hưởng nghiêm trọng và mang tính hệ thống cần được chú ý và phân
tích sâu hơn. Tuy nhiên, bài báo chỉ tập trung xem xét ảnh hưởng của tài trợ của bên
thứ ba với quốc gia bị đơn ở khía cạnh chính sách.


6
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn so sánh, phân tích, đánh giá các cách thức điều chỉnh hoạt động tài
trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế, trên cơ sở đó, đưa ra khung
pháp lý điều chỉnh phù hợp và đề xuất biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế các ảnh
hưởng, tác động tiêu cực đối với Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Phân tích, so sánh một số khái niệm “tài trợ của bên thứ ba” trong giải quyết
tranh chấp và đưa ra khái niệm “tài trợ của bên thứ ba” trong tố tụng trọng tài đầu tư
quốc tế;
- Phân tích, đánh giá những ảnh hưởng của tài trợ của bên thứ ba đối với tố
tụng trọng tài đầu tư quốc tế;
- Phân tích, so sánh các cách thức điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba
trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế, từ đó, đưa ra khung pháp lý điều chỉnh;
- Đề xuất khung pháp lý “nghiêm khắc với tài trợ của bên thứ ba” trong tố
tụng trọng tài đầu tư quốc tế dành cho Việt Nam và giải pháp xây dựng khung pháp
lý này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: khái niệm và các hình thức tài trợ của bên thứ ba; hoạt
động tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế khi có sự tham gia của tài trợ của bên thứ ba;
một số vụ kiện điển hình liên quan đến tài trợ của bên thứ ba; quy định về tài trợ
của bên thứ ba trong một số hiệp định quốc tế về đầu tư, quy tắc trọng tài và pháp
luật một số quốc gia; khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba
trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu:
Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng
tài đầu tư quốc tế là một vấn đề phức tạp và có phạm vi nghiên cứu rộng. Bởi vậy,
trong khuôn khổ hạn định về số trang đối với một luận văn, tác giả sẽ chỉ tiến hành:
(1) Tập trung vào các tranh chấp đầu tư quốc tế phát sinh theo các IIA mà không
xem xét tới tranh chấp đầu tư quốc tế chỉ dựa theo hợp đồng đầu tư giữa nhà đầu tư
và nhà nước và/hoặc chỉ dựa theo pháp luật đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư; (2)
Xem xét tài trợ của bên thứ ba dưới vai trò tài trợ cho nhà đầu tư nguyên đơn mà


7
không xem xét tới tài trợ của bên thứ ba dưới vai trò tài trợ cho quốc gia bị đơn; (3)
Nghiên cứu trên cơ sở các ảnh hưởng của tài trợ của bên thứ ba tới tố tụng trọng tài

đầu tư quốc tế đã được nhận diện bởi Nhóm số làm việc số III của UNCITRAL; (4)
Phân tích, đánh giá các phán quyết trọng tài được giới hạn trong các bài báo, báo
cáo đã được xuất bản trên internet, do các yêu cầu bảo mật trong hầu hết các quy tắc
trọng tài và hiệp định quốc tế về đầu tư, các phán quyết trọng tài không được công
bố hoặc chỉ được công bố một phần; (5) Trong phần biện pháp để ngăn ngừa, hạn
chế các ảnh hưởng, tác động tiêu cực đối với Việt Nam, luận văn chỉ đưa ra biện
pháp trong trường hợp Việt Nam là bị đơn, không nhắc tới biện pháp đối với nhà
đầu tư Việt Nam khi kiện quốc gia tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ cần nghiên cứu trên, tác giả sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm: phương pháp nghiên cứu so sánh,
phương pháp phân tích và tổng hợp. Tiêu biểu như: (1) Tác giả sử dụng cả phương
pháp nghiên cứu so sánh cũng như phương pháp phân tích và tổng hợp trong Mục 1.2
Chương 1 với mục đích phân tích làm rõ các khái niệm “tài trợ của bên thứ ba” từ
một số nguồn tiêu biểu khác nhau, đồng thời so sánh chúng, từ đó tổng hợp các điểm
chung trong nội hàm của các khái niệm này làm tiền đề để đề xuất khái niệm “tài trợ
của bên thứ ba” trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế; (2) Tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu so sánh trong Mục 2.2 Chương 2 nhằm so sánh các quan điểm đối
lập trong các cách thức điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng
tài đầu tư quốc tế làm tiền đề để đưa ra khung pháp lý điều chỉnh phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận – thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn đưa ra khái niệm “tài trợ của bên thứ ba” trong tố
tụng trọng tài đầu tư quốc tế, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ
ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế, đồng thời kiến nghị đề xuất khung pháp lý
“nghiêm khắc với tài trợ của bên thứ ba” dành cho Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đưa ra giải pháp xây dựng khung pháp lý
“nghiêm khắc với tài trợ của bên thứ ba” trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế
dành cho Việt Nam, góp phần giảm thiểu các tác động tiêu cực trong trường hợp
Việt Nam là bị đơn tại trọng tài đầu tư quốc tế khi nhà đầu tư nguyên đơn sử dụng
tài trợ của bên thứ ba.



8
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 02 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng
tài đầu tư quốc tế
Chương 2. Những ảnh hưởng của tài trợ của bên thứ ba đối với tố tụng trọng
tài đầu tư quốc tế và khung pháp lý điều chỉnh


9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ CỦA BÊN THỨ BA
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Trong tranh chấp đầu tư quốc tế, quyền lợi, nghĩa vụ giữa nhà đầu tư nước
ngồi và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư được điều chỉnh bởi: các hiệp định quốc
tế về đầu tư (international investment agreement - IIA), hợp đồng đầu tư giữa nhà
đầu tư và nhà nước, pháp luật đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư.
Trong phạm vi giới hạn, luận văn tập trung vào các tranh chấp đầu tư quốc tế
phát sinh theo các IIA mà không xem xét tới tranh chấp đầu tư quốc tế chỉ dựa theo
hợp đồng đầu tư giữa nhà đầu tư và nhà nước và/hoặc chỉ dựa theo pháp luật đầu tư
của nước tiếp nhận đầu tư.
Các IIA thường quy định nhiều phương thức và cơ chế giải quyết tranh chấp
khác nhau để nhà đầu tư lựa chọn. Nhìn chung, nhà đầu tư nước ngồi có thể lựa
chọn một số phương thức giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế sau: (1) giải quyết
tranh chấp thông qua bảo hộ ngoại giao; (2) giải quyết tranh chấp tại tòa án của
nước tiếp nhận đầu tư; (3) giải quyết tranh chấp thông qua trung gian, hòa giải; (4)
giải quyết tranh chấp tại trọng tài đầu tư quốc tế.8 Trong phạm vi giới hạn, luận văn
tập trung tới phương thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài đầu tư quốc tế.

Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế được định nghĩa tại các IIA, cũng
thường được gọi là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước
(investor-state dispute settlement - ISDS) là cách thức, biện pháp hay phương thức mà
nhà đầu tư nước ngoài (đối tượng bảo hộ của các IIA) và nước tiếp nhận đầu tư giải
quyết vấn đề tranh chấp liên quan tới nghĩa vụ bảo hộ đầu tư của nước đó theo các
quy định của IIA.9 Tuy nhiên, lưu ý rằng, bảo hộ nhà đầu tư thông qua cơ chế ISDS
trong các IIA tự nó khơng phải là mục tiêu chính sách của các IIA mà được xem như
một phương tiện để đạt được mục tiêu mong muốn. Bởi vì đối tượng và mục tiêu của

Trần Việt Dũng, Nguyễn Thị Lan Hương (2020), Các cơ chế trọng tài đầu tư quốc tế - Quy tắc, thủ tục và
thực tiễn, NXB ĐHQG TP.HCM, tr.12.
9
Trần Việt Dũng, Nguyễn Thị Lan Hương (2020), Các cơ chế trọng tài đầu tư quốc tế - Quy tắc, thủ tục và
thực tiễn, NXB ĐHQG TP.HCM, tr.32, 33.
8


10
các IIA là thúc đẩy đầu tư và định hình cách đối xử của chính phủ với đầu tư nhằm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững và thịnh vượng của các thành viên.10
Chính vì vậy, theo tác giả, bất kể những tác động nào làm ảnh hưởng tới cơ
chế ISDS, ảnh hưởng tới tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế, từ đó gián tiếp làm giảm
mục tiêu của các hiệp định quốc tế về đầu tư sẽ đều là đối tượng mà các quốc gia ký
kết, các tổ chức trọng tài, tổ chức có liên quan và các học giả quan tâm để có biện
pháp điều chỉnh phù hợp.
Theo Nhóm làm việc số III của UNCITRAL, tài trợ của bên thứ ba ảnh
hưởng tới cả cơ chế ISDS và cả tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế.11 Theo mục đích
nghiên cứu, luận văn tập trung xem xét ảnh hưởng của tài trợ của bên thứ ba đối với
tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế.
Để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, trước tiên cần

phải làm rõ tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế là gì, đồng
thời phải chỉ rõ ưu, nhược điểm cũng như xu hướng phát triển của tài trợ của bên
thứ ba trong tố tụng trọng tài đầu tư quốc tế.
1.1. Nguồn gốc tài trợ của bên thứ ba trong giải quyết tranh chấp
Theo quan sát của tác giả, ngày nay, trong lĩnh vực pháp lý, nhắc đến tài
trợ của bên thứ ba, nhiều người thường liên tưởng tới mục đích tốt đẹp, đó là
việc tiếp cận cơng lý của một bên tranh chấp đang gặp khó khăn tài chính.
Tuy nhiên, tài trợ của bên thứ ba lại có nguồn gốc từ “bảo trợ” (maintenance)
và “bảo trợ - dự phần” (champerty) với mục đích lạm dụng cơng lý của các quý tộc
tham nhũng và các quan chức hoàng gia, những người gắn bản thân với những vụ
kiện giả dối, củng cố độ tin cậy của chúng để đổi lấy một phần lợi ích. Chính vì vậy
chúng đã bị ngăn cấm ở Anh từ thời kỳ Trung Cổ.12
“Bảo trợ” (maintenance) có nguồn gốc từ tiếng latin "manutenere", có thể
được hiểu như là "sự thâu tóm quyền của một người khác (bằng cách trực tiếp hoặc
gián tiếp hỗ trợ tài chính cho họ) nhằm khởi xướng, tiến hành hoặc bảo vệ trong các
10

Brooke Guven and Lise Johnson (2019), The Policy Implications of Third-Party Funding in Investor-State
Dispute Settlement, Columbia Center on Sustainable Investment (CCSI), pp.8
11
UNCITRAL - Working Group III (ISDS Reform) (2019), A/CN.9/WG.III/WP.172 - Possible reform of
investor-State dispute settlement (ISDS) - Third-party funding – Possible solutions, United Nations, para.5.
12
Sherina Petit and Daniel Jacobs, “Maintenance and champerty An end to historic rules preventing thirdparty funding?”, International arbitration report - Issue 7, Norton Rose Fulbright, 2016, pp.9.


Luan van. Luan an. Do an.

11
vụ kiện dân sự mà khơng có lý do hợp pháp". “Bảo trợ” cũng được mô tả như là

"một hành động tiếp tay, đảm trách, hoặc duy trì các cuộc tranh cãi nhằm làm xáo
trộn, cản trở quyền hiện hữu.”13
“Bảo trợ” đề cập đến việc hỗ trợ (ví dụ: hỗ trợ tài chính) của bên thứ ba
khơng liên quan để theo đuổi hoặc duy trì các vụ kiện tụng. “Bảo trợ - dự phần” là
một hình thức “bảo trợ” nhưng để đổi lấy một phần tiền thu được.
Hiện nay, “bảo trợ” và “bảo trợ - dự phần” đã khơng cịn bị cấm ở Anh và
một số nước thơng luật khác. Ví dụ như:
- Tại Anh và xứ Wales: (1) Mục 13 Phần II Chương 58 Đạo luật Hình sự Anh
năm 1967 (section 13, part II, chapter 58, Criminal Law Act 1967) quy định: bãi bỏ
tội “bảo trợ” (bao gồm cả “bảo trợ - dự phần”); (2) Mục 14 Phần III Chương 58 Đạo
Luật Hình sự Anh năm 1967 (section 14, part III, chapter 58, Criminal Law Act
1967) quy định: không ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
(tort liability) vì hành vi “bảo trợ” hoặc “bảo trợ - dự phần”;
- Tại Úc: (1) Mục 322A Phần IA Đạo luật Hình sự 1958 (section 322A, part
IA, Crimes Act 1958) quy định: tội “bảo trợ” (bao gồm cả “bảo trợ - dự phần”) bị
bãi bỏ; (2) Mục 32 Phần VII Đạo luật về các Hành vi sai trái 1958 (section 32,
part VII, the Wrongs act 1958) quy định: không ai phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng (to be liable in tort) vì hành vi “bảo trợ” hoặc
“bảo trợ - dự phần”.
Lord Neuberger, chủ tịch của Tòa án tối cao vương quốc Anh (the UK
Supreme Court) nói rằng “tiếp cận công lý là một quyền và nhà nước không nên cản
trở cá nhân tận dụng quyền đó”.14 Tài trợ của bên thứ ba với vai trị là một cơng cụ
hỗ trợ cho quyền tiếp cận công lý, đặc biệt là đối với các bên tranh chấp thiếu khả
năng tài chính theo đuổi kiện tụng. Do vậy, việc cấm tài trợ của bên thứ ba có thể
coi đồng nghĩa với việc gián tiếp cản trở quyền tiếp cận công lý của người dân.

Philip Vasquez (2015), Third Party Litigation Funding – An Introduction, History and Snapshot for
professionals, CreateSpace Independent Publishing Platform, pp.9.
14
Sherina Petit and Daniel Jacobs, “Maintenance and champerty An end to historic rules preventing thirdparty funding?”, International arbitration report - Issue 7, Norton Rose Fulbright, 2016, pp.9.

13




Luan van. Luan an. Do an.

12
Theo Steven Friel – Giám đốc Quỹ tài trợ tố tụng Woodsford (Woodsford
Litigation Funding): học thuyết “Champerty and Maintenance” là dấu tích lịch sử
của thơng luật Anh, nó khơng có vị trí trong trọng tài quốc tế hiện đại.15
Ngày nay, trong các hội thảo pháp lý, thuật ngữ “tài trợ của bên thứ ba” có
thể còn được thay thế bởi một số thuật ngữ khác như: tài trợ tố tụng (litigation
funding), tài trợ pháp lý (legal financing / legal funding), cấp vốn của bên thứ ba
(third party financing) hoặc tài trợ pháp lý thay thế (alternative legal funding). Tại
Anh và xứ Wales, thuật ngữ tài trợ tố tụng và tài trợ của bên thứ ba được sử dụng
thay thế cho nhau. Trong nhiều khu vực tài phán khác, thuật ngữ tài trợ tố tụng
(litigation funding) có nội hàm rộng hơn, theo đó bao gồm cả tài trợ của bên thứ ba
cũng như các dạng thức tài trợ khác như: các thỏa thuận phí theo khoản bồi thường
(damages based arrangement – DBA), bảo hiểm chi phí pháp lý trước sự kiện và
sau sự kiện (before-the-event/after-the-event legal expenses insurance) …16
1.2. Một số khái niệm “tài trợ của bên thứ ba” trong giải quyết tranh chấp
Khái niệm tài trợ của bên thứ ba đang tiếp tục là chủ đề của các cuộc tranh luận
gay gắt vì tài trợ của bên thứ ba có thể được cung cấp thơng qua nhiều cấu trúc khác
nhau.17 Thật vậy, theo góc nhìn và mối quan tâm khác nhau, các học giả, tổ chức quốc
tế, quy tắc trọng tài, luật pháp quốc gia và hiệp định quốc tế đưa ra khái niệm không
giống nhau về tài trợ của bên thứ ba. Thậm chí, ngay cả một nhóm chủ thể (có cùng
góc nhìn và mối quan tâm), chẳng hạn như những nhà tài trợ bên thứ ba cũng chưa
thống nhất được định nghĩa chính xác về tài trợ của bên thứ ba, một số ý kiến cịn nghi
ngờ về khả năng có thể đưa ra được định nghĩa về tài trợ của bên thứ ba.18

Một loạt các cơ chế đã từng được phát triển để tài trợ cho một bên tranh chấp,
chẳng hạn như thỏa thuận phí phụ thuộc thành cơng (contingency fee), bảo hiểm
trách nhiệm (liability insurance), tài trợ danh mục đầu tư (portfolio funding), tài trợ
cho hãng luật (law firm financing), bảo hiểm trước và sau sự kiện (before-the-

Sherina Petit, James Rogers and Cara Dowling, “Third-party funding in arbitration – the funders’
perspective”, International arbitration report - Issue 7, Norton Rose Fulbright, 2016, pp.5.
16
Philip Vasquez (2015), Third Party Litigation Funding – An Introduction, History and Snapshot for
professionals, CreateSpace Independent Publishing Platform, pp.7.
17
UNCITRAL - Working Group III (ISDS Reform) (2019), A/CN.9/WG.III/WP.157 - Possible reform of
investor-State dispute settlement (ISDS) Third-party funding, United Nations, para.8.
18
ICCA (2018), Report of the ICCA-Queen Mary Task Force on third-party funding in international
arbitration, The Netherlands, pp.45, 46.
15




Luan van. Luan an. Do an.

13
event/after-the-event insurances), cho vay kiện tụng (litigation loans) và các khoản
quyên góp (philanthropic arrangements).
Một số khái niệm về tài trợ của bên thứ ba bao gồm các loại tài trợ nói trên trong
khi các định nghĩa khác áp dụng cách tiếp cận hẹp hơn, chẳng hạn bằng cách loại trừ
các nhà tài trợ phi thương mại, khoản quyên góp hoặc bảo hiểm trước/sau sự kiện.
Những định nghĩa áp dụng cách tiếp cận hẹp hơn loại trừ các hình thức tài trợ mà đã

được quy định thơng qua các cơ chế pháp lý khác. Ngồi các loại tài trợ hiện có này, có
một loạt các mơ hình tài trợ khác đã được hình thành gần đây và đang phát triển nhanh
chóng, với các tùy chọn ngày càng đa dạng, phức tạp và trở nên khả dụng.19
1.2.1. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba của một số học giả
Rupert Matthew Jackson – nguyên thẩm phán Tòa phúc thẩm Anh và xứ
Wales (the Court of Appeal of England and Wales) đã đưa ra khái niệm: tài trợ
của bên thứ ba được hiểu là tài trợ kiện tụng bởi một bên khơng có lợi ích từ
trước trong vụ kiện, thường trên cơ sở (i) nhà tài trợ sẽ được thanh toán theo tỷ
lệ phần trăm của số tiền được bồi hoàn từ vụ kiện; và (ii) nhà tài trợ khơng được
thanh tốn nếu vụ kiện khơng thành cơng.20 Định nghĩa này đưa ra trong bối
cảnh kiện tụng tại tòa án và làm cơ sở để tòa án ra quyết định về phân bổ, bảo
đảm chi phí tố tụng
Duarte G. Henriques đề xuất rằng định nghĩa về tài trợ của bên thứ ba liên
quan đến việc xem xét các đặc trưng sau:21
- Tài trợ của bên thứ ba là một thỏa thuận nhằm tài trợ cho vụ kiện hoặc bảo
vệ/phản tố cho một bên pháp nhân/thể nhân;
- Việc tài trợ được thực hiện bởi một bên thể nhân hoặc pháp nhân là một bên
khơng có liên quan tới quan hệ pháp lý đang tranh chấp;
- Nhà tài trợ sẽ có quyền nhận được một lợi ích (tiền hoặc lợi ích khác) liên
quan đến phán quyết theo cách không truy địi, nghĩa là, nếu vụ kiện khơng thành
cơng, bên được tài trợ khơng có nghĩa vụ bồi thường hoặc hồn trả khoản đầu tư
của nhà tài trợ;
19

UNCITRAL - Working Group III (ISDS Reform) (2019), A/CN.9/WG.III/WP.157 - Possible reform of
investor-State dispute settlement (ISDS) Third-party funding, United Nations, para.9.
20
Rupert Jackson (2009), Review of Civil Litigation Costs - Preliminary Report, London, p.viii.
21
Duarte G. Henriques (2018), “Third-party funding – in search of a definition”, The American Review of

international Arbitration, Vol. 28 No. 4, pp.429, 430.




Luan van. Luan an. Do an.

14
- Nếu quy tắc đạo đức hành nghề cho phép, luật sư của bên được tài trợ sẽ
can thiệp vào thỏa thuận với tư cách là người thụ hưởng chính của việc tài trợ, được
ủy thác nhận số tiền thu được, hoặc việc khác liên quan tới tồn bộ tiến trình;
- Quyền giám sát, can thiệp hoặc kiểm soát vụ kiện của nhà tài trợ bên thứ ba.
Duarte G. Henriques cho rằng:22 đặc trưng căn bản trong khái niệm tài trợ
của bên thứ ba chính là sự kiểm soát của nhà tài trợ đối với vụ kiện, tất cả các đặc
trưng khác đều xoay quanh đặc trưng cốt lõi này. Cho dù nhiều nhà tài trợ khẳng
định rằng họ khơng kiểm sốt vụ kiện và làm như vậy là bất hợp pháp trong nhiều
khu vực tài phán, nhưng điều này có thể khơng phải lúc nào cũng đúng. Cường độ
của việc kiểm sốt có thể khác nhau, trải rộng từ quyền giám sát vụ kiện, chấm dứt
thỏa thuận hoặc lựa chọn trọng tài viên của nhà tài trợ cho đến tình huống mà điều
khoản trọng tài có thể được mở rộng cho các bên thứ ba.
Dường như đồng quan điểm với Duarte G. Henriques về đặc trưng kiểm soát
vụ kiện của nhà tài trợ, Willem H. Van Boom cho rằng:23 các dạng cấp tài chính cho
kiện tụng có thể coi như một “dải” với một cực là hợp đồng vay và cực kia là
chuyển giao tồn bộ quyền sở hữu. Hình thức hợp đồng vay nghĩa là nguyên đơn
vay tiền từ người cho vay, có thể có lãi suất hoặc khơng có lãi suất, ngun đơn duy
trì tồn bộ quyền kiểm sốt vụ kiện. Hình thức chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu
nghĩa là nguyên đơn chuyển giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình trong vụ kiện
sang cho người mua. Giữa hai cực của “dải” là các hình thức hợp đồng ở đó bên thứ
ba đầu tư vào vụ kiện và dự phần theo kết quả.
Bảng “dải” các dạng cấp tài chính cho kiện tụng24

Cấu trúc pháp lý

Hệ quả đối với việc kiểm sốt vụ kiện

Hợp đồng vay (ví dụ: từ ngân hàng) Ngun đơn duy trì tồn bộ quyền kiểm sốt
vụ kiện, mặc dù vụ kiện có thể được thế
chấp để đảm bảo tiền vay.

Duarte G. Henriques (2018), “Third-party funding – in search of a definition”, The American Review of
international Arbitration, Vol. 28 No. 4, pp.431.
23
Willem H. van Boom (2011), “Third-Party Financing in International Investment Arbitration”, Erasmus
School of Law, Rotterdam, the Netherlands, pp.25
24
Willem H. van Boom (2011), “Third-Party Financing in International Investment Arbitration”, Erasmus
School of Law, Rotterdam, the Netherlands, pp.26
22




Luan van. Luan an. Do an.

15

Hợp đồng vay miễn truy địi (non- Giống như hình thức hợp đồng vay nhưng
recourse loan); hợp đồng phí điều miễn truy địi nếu thua kiện; luật sư theo
kiện (conditional fee arrangement - đuổi vụ kiện và chỉ lấy thù lao khi vụ kiện
CFA)
thành công (theo giờ hoặc theo phần trăm).

Bảo hiểm rủi ro chính trị (political Người kiện sẽ được bồi thường bởi công ty
risk insurance - PRI): hợp đồng bảo bảo hiểm. Quyền kiểm soát vụ kiện sẽ được
hiểm được thực hiện trước sự kiện đối tự động chuyển cho công ty bảo hiểm (trong
với khoản bồi thường của vụ kiện.
phạm vi bồi thường).
Bảo hiểm chi phí pháp lý trước sự Nguyên đơn sẽ được công ty bảo hiểm bồi
kiện (before the event – BTE) hoặc thường các khoản liên quan đến tư vấn pháp
sau sự kiện (after the event - ATE): lý, án phí và/hoặc chi phí luật sư, phán quyết
một hợp đồng bảo hiểm bồi thường chi phí bất lợi. Mặc dù bản thân vụ kiện
bao gồm các chi phí pháp lý nhưng không được chuyển giao và quyền sở hữu
không bao gồm số tiền bồi thường vẫn thuộc về nguyên đơn, cơng ty bảo hiểm
của chính vụ kiện.

thường sẽ có một số quyền kiểm soát đối với
vụ kiện và chiến lược kiện tụng.

Thỏa thuận phí phụ thuộc thành Nguyên đơn sẽ được hãng luật/luật sư đảm
công (Contingency Fee Agreement) trách về chi phí tư vấn pháp lý, án phí, phán
quyết chi phí bất lợi. Trong trường hợp vụ kiện
thành cơng, hãng luật/luật sư sẽ thu lại một
phần giá trị khoản bồi thường. Do đó, quyền sở
hữu kinh tế (economic ownership) (quyền có
lợi ích song hành với rủi ro) được chia sẻ giữa
nguyên đơn và hãng luật/luật sư, hãng luật/luật
sư thường sẽ có quyền kiểm sốt đáng kể đối
với vụ kiện và chiến lược kiện tụng.
Tài trợ của bên thứ ba

Nguyên đơn sẽ được bên thứ ba tài trợ về
chi phí tư vấn pháp lý, án phí và/hoặc chi

phí luật sư, phán quyết chi phí bất lợi (tùy
thuộc vào bối cảnh pháp lý mà nguồn tài trợ




Luan van. Luan an. Do an.

16

được sử dụng). Trong trường hợp vụ kiện
thành công, nhà tài trợ bên thứ ba sẽ thu một
phần giá trị khoản bồi thường. Do đó, quyền
sở hữu kinh tế được chia sẻ giữa nguyên đơn
và bên thứ ba, bên thứ ba thường sẽ có
quyền kiểm soát đáng kể đối với vụ kiện và
chiến lược kiện tụng.
Mua bán vụ kiện

Chủ sở hữu ban đầu của vụ kiện chuyển
quyền sở hữu cho người mua để đổi lại một
khoản tiền. Việc chuyển giao được hoàn tất
bằng việc chuyển giao tồn bộ vụ kiện và
thơng báo cho bên đối phương.

Theo chúng tơi, bảng “dải” các dạng cấp tài chính cho kiện tụng dựa theo hệ
quả đối với việc kiểm soát vụ kiện này của Willem H. Van Boom đưa ra cái nhìn
tổng quan và dễ hiểu về các dạng thức có thể của tài trợ của bên thứ ba. Tuy nhiên,
chúng tôi chưa đồng quan điểm đối với cực “hợp đồng vay” khi mà Willem H. Van
Boom cho rằng với loại hình này thì ngun đơn duy trì tồn bộ quyền kiểm soát vụ

kiện, thực tế, người cho vay vẫn phải kiểm soát việc sử dụng vốn vay, quá trình giải
ngân để đạt được mục đích thu hồi được vốn và lãi (nếu có). Hệ quả là, dù ít hay
nhiều người cho vay sẽ có tác động nhất định tới việc kiểm soát vụ kiện. Với lập
luận này, chúng tơi sẽ coi hình thức cho vay nêu trên thuộc nội hàm của khái niệm
tài trợ của bên thứ ba theo nghĩa rộng nhất như được đề cập ở Mục 1.3 tiếp theo.
1.2.2. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba của một số hiệp hội
Hiệp hội Luật sư Quốc tế (International Bar Association – IBA) không đưa ra
khái niệm tài trợ của bên thứ ba, tuy nhiên lại đưa ra khái niệm rõ ràng về nhà tài
trợ bên thứ ba (third-party funder) tại điểm b, phần giải thích quy tắc 6
(Explanation to General Standard 6): “thuật ngữ nhà tài trợ bên thứ ba đề cập bất
kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào đang đóng góp quỹ hoặc hỗ trợ vật chất khác, cho việc
khởi kiện hoặc bảo vệ vụ kiện và có lợi ích kinh tế trực tiếp hoặc nghĩa vụ bồi
thường theo phán quyết sẽ được đưa ra bởi trọng tài.”25 Khái niệm này được đưa ra
25

IBA (2014), IBA Guidelines on Conflicts of Interest in International Arbitration, pp.14, 15.




Luan van. Luan an. Do an.

17
để giải quyết vấn đề xung đột lợi ích trong tố tụng trọng tài quốc tế khi có sự tham
gia của bên thứ ba như nhà tài trợ bên thứ ba hoặc công ty bảo hiểm ảnh hưởng tới
tính độc lập và cơng tâm của trọng tài viên.
Tương tự như IBA, Hiệp hội các nhà tài trợ kiện tụng của Anh và xứ Wales
(the Association of Litigation Funders of England and Wales – ALF) không trực
tiếp đưa ra khái niệm về tài trợ của bên thứ ba mà đưa ra định nghĩa về nhà tài trợ,
theo đó, nhà tài trợ thơng qua thỏa thuận tài trợ kiện tụng (litigation funding

agreement - LFA) thanh toán các chi phí (bao gồm cả chi phí tiền tố tụng) cho bên
được tài trợ để giải quyết tranh chấp, nhằm mục đích đổi lấy một phần tiền thu được
nếu vụ kiện thành công (như đã được xác định trong LFA), tuy nhiên, phần tiền thu
được này sẽ không vượt quá số tiền thu được từ tranh chấp đang được tài trợ, trừ
khi bên được tài trợ vi phạm nghiêm trọng các quy định trong LFA.26 Định nghĩa
này được đưa ra trong khuôn khổ của Hiệp hội nhằm xác định tư cách thành viên
tham gia và các chuẩn mực đạo đức, ứng xử mà các thành viên tham gia phải tuân
thủ. Theo đó các tiêu chuẩn của thành viên hiệp hội hiện tại là khá khắt khe. Ví dụ:
nhà tài trợ kiện tụng phải duy trì khả năng tiếp cận với số vốn tối thiểu là 5 triệu
bảng Anh hoặc số tiền khác theo quy định của Hiệp hội. Theo tác giả đây có thể là
một rào cản gia nhập Hiệp hội, xét theo nghĩa tích cực, các tiêu chuẩn như vậy sẽ
hình thành được “một lớp” các nhà tài trợ có đủ khả năng, tiềm lực và uy tín, tuy
nhiên, xét theo nghĩa tiêu cực, các tiêu chuẩn như vậy sẽ hạn chế cạnh tranh lành
mạnh vì nó cũng đồng thời tạo nên một rào cản lớn khi gia nhập ngành.
So sánh quy định về tài trợ của bên thứ ba của IBA, ALF có thể thấy một số
điểm chung và khác biệt như sau:
- Về chủ thể tài trợ: nhà tài trợ bên thứ ba là một bên không phải là một bên
tranh chấp trong vụ kiện;
- Về chủ thể được tài trợ: một bên tranh chấp ký kết thỏa thuận tài trợ với
nhà tài trợ bên thứ ba;
- Về đối tượng tài trợ: khoản ngân quỹ hoặc hỗ trợ vật chất khác cho bên
được tài trợ để khởi kiện hoặc bảo vệ vụ kiện;
- Về mục đích tài trợ và đặc tính hồn vốn: nhà tài trợ bên thứ ba nhằm tới
khoản thù lao phụ thuộc vào kết quả của q trình tố tụng. Tuy nhiên, ALF cịn quy
26

Article (2) of Code of conduct for litigation funders (January 2018)





Luan van. Luan an. Do an.

18
định rõ phần tiền mà nhà tài trợ thứ ba nhận được sẽ không vượt quá số tiền thu
được từ tranh chấp đang được tài trợ, có thể hiểu rằng: phần tiền mà nhà tài trợ nhận
được còn phụ thuộc vào cả khả năng thi hành án.
1.2.3. Định nghĩa tài trợ của bên thứ ba trong các quy tắc trọng tài
Hầu hết các tổ chức trọng tài không đưa ra bất kỳ điều khoản nào xác định
hoặc giải quyết rõ ràng đối với tài trợ của bên thứ ba, chỉ có một số trường hợp
ngoại lệ.27 Ví dụ:
- Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (the Singapore International
Arbitration Center – SIAC) mặc dù không đề cập khái niệm tài trợ của bên thứ ba
trong quy tắc trọng tài (SIAC Rules 2016) và quy tắc trọng tài đầu tư (SIAC
Investment Rules 2017), tuy nhiên trong Lưu ý thực hành (Practice Note) ngày
31/03/2017 đưa ra định nghĩa có liên quan tới tài trợ của bên thứ ba đó là khái niệm:
Lợi ích kinh tế trực tiếp (direct economic interest) và nhà tài trợ bên ngoài (external
funders),28 theo đó, “lợi ích kinh tế trực tiếp” nghĩa là một lợi ích trong tố tụng
trọng tài liên quan tới việc cấp tài trợ hoặc khoản bồi thường của một bên không
tranh chấp cho một bên tranh chấp theo phán quyết trọng tài; “nhà tài trợ bên ngồi”
có nghĩa là bất kỳ ai, dù pháp nhân hay thể nhân, có “lợi ích kinh tế trực tiếp” theo
kết quả của tố tụng trọng tài. Lưu ý rằng: hai khái niệm này đưa ra chỉ với mục đích
bổ sung nghĩa vụ của trọng tài viên trong thực hành và ứng xử theo các quy tắc
trọng tài của SIAC;29
- Quy tắc trọng tài do Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hong Kong quản lý
(Administered Arbitration Rules 2018 - HKIAC) tại Điều 34 và Điều 44 mặc dù
nhắc tới tài trợ của bên thứ ba nhằm điều chỉnh việc ra quyết định chi phí và yêu
cầu tiết lộ thông tin, tuy nhiên lại không đưa ra khái niệm về tài trợ của bên thứ
ba. Thay vào đó, HKIAC đưa ra khái niệm tài trợ của bên thứ ba tại Hướng dẫn về
tài trợ của bên thứ ba (HKIAC Guidelines for third-party funding in arbitration):

“tài trợ của bên thứ ba phát sinh khi một tổ chức hoặc người thứ ba chun nghiệp
đóng góp kinh phí hoặc hỗ trợ vật chất khác cho một bên trong trọng tài và có lợi

27

UNCITRAL - Working Group III (ISDS Reform) (2019), A/CN.9/WG.III/WP.157 - Possible reform of
investor-State dispute settlement (ISDS) Third-party funding, United Nations, para.14.
28
SIAC (2017), Administered cases under the arbitration rules of the SIAC on arbitrator conduct in cases
involving external funding, Practice Note PN -01/17 (31 March 2017), para.3.
29
SIAC (2017), Administered cases under the arbitration rules of the SIAC on arbitrator conduct in cases
involving external funding, Practice Note PN -01/17 (31 March 2017), para.1, 2.




Luan van. Luan an. Do an.

19
ích kinh tế trực tiếp trong phán quyết được trọng tài đưa ra”.30 Điểm riêng biệt
trong định nghĩa này ở chỗ, tài trợ của bên thứ ba được định nghĩa gián tiếp thông
qua hành vi của nhà tài trợ bên thứ ba. Tuy nhiên, Hướng dẫn này của HKIAC chỉ
mang tính tự nguyện nhằm khuyến khích các bên và trọng tài tuân thủ;31
- UNCITRAL chưa chính thức đưa ra định nghĩa về tài trợ của bên thứ ba
trong quy tắc trọng tài. Tuy nhiên, gần đây UNCITRAL đã đưa ra bản dự thảo quy
định về tài trợ của bên thứ ba để lấy ý kiến các quốc gia, tổ chức và các học giả
quan tâm, trong đó đưa ra định nghĩa về tài trợ của bên thứ ba như sau:32 “tài trợ
của bên thứ ba là bất cứ việc cung cấp tài trợ vốn trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc hỗ
trợ tương đương cho một bên tranh chấp bởi một thể nhân hoặc pháp nhân không

phải là một bên trong tranh chấp thông qua trợ cấp hoặc để đổi lại thù lao phụ
thuộc vào kết quả của tố tụng.” Khái niệm này được đưa ra làm căn cứ để đề xuất
các mơ hình điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ ba và các quy định tài trợ của
bên thứ ba trong tố tụng trọng tài;
- Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế đã đưa ra Quy tắc trọng
tài ICSID phiên bản 2022 (ICSID arbitration rules 2022) có hiệu lực từ ngày 1
tháng 7 năm 2022, trong đó tại Quy tắc 14(1) đã nêu khái niệm về tài trợ của bên
thứ ba: “tài trợ của bên thứ ba đề cập đến một bên trực tiếp hoặc gián tiếp cung cấp
tiền cho một bên tranh chấp để bảo vệ hoặc theo đuổi tố tụng trọng tài thơng qua
khoản qun góp hoặc trợ cấp hoặc để đổi lại thù lao phụ thuộc vào kết quả của quá
trình tố tụng.” Khái niệm này được đưa ra làm tiền đề để bên được tài trợ thực hiện
nghĩa vụ tiết lộ thông tin về nhà tài trợ bên thứ ba từ đó làm cơ sở cho trọng tài viên
được chỉ định xem xét xung đột lợi ích nhằm ra quyết định chấp thuận việc bổ
nhiệm hay không theo Quy tắc 19(3)(b), đồng thời cũng làm cơ sở để hội đồng
trọng tài ra phán quyết về bảo đảm chi phí theo Quy tắc 36(3).
So sánh quy định về tài trợ của bên thứ ba của SIAC, HKIAC, UNCITRAL
và ICSID có thể thấy một số điểm chung và khác biệt như sau:
- Về chủ thể tài trợ: nhà tài trợ bên thứ ba là một bên không phải là một bên
tranh chấp trong vụ kiện;
CIETAC HKAC (2016), “Guidelines for Third-Party Funding in Arbitration”, para 1.2.
CIETAC (2016), “Guidelines for Third-Party Funding in Arbitration”, para 1.1, 1.4.
32
United Nations Commission on International Trade Law (UNCITRAL) (2021), Possible reform of
investor-state dispute settlement – Draft provisions on third-party funding, United Nations, pp.2.
30
31





×