Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

BỆNH SẢN KHOA TRÊN BÒ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.2 KB, 52 trang )

BỆNH TRONG THỜI GIAN MANG THAI CỦA BÒ
BÀI 1
BỆNH SẨY THAI
► Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Biết được các nguyên nhân, triệu chứng và một số biện pháp phòng trị bệnh sẩy
thai trên bò.
Quá trình bò mang thai bị gián đoạn (chết đi) được gọi là hiện tượng sẩy thai. Bào thai
bị đẩy ra khỏi cơ thể khi còn sống hay đã chết. Thỉnh thoảng gặp trường hợp bào thai bị tiêu
biến đi hoặc bào thai bị chết và lưu lại trong tử cung cơ thể bò mẹ.
I. Phân loại hiện tượng sẩy thai
a. Căn cứ vào thời gian xảy ra bệnh
- Sẩy thai: hiện tượng này xảy ra vào thời kỳ đầu của thai kỳ.
- Đẻ non: hiện tượng này xuất hiện vào thời gian có thai kỳ cuối.
b. Căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh
• Loại sẩy thai có tính chất truyền nhiễm (lây lan): Nguyên nhân là do vi khuẩn, virus
hoặc ký sinh trùng gây ra.
• Loại sẩy thai không có tính chất truyền nhiễm: Là loại sẩy thai xảy ra có tính chất cá
thể, không mang tính lây lan như:
- Sẩy thai do dinh dưỡng: Chủ yếu do chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý, khai
thác và sử dụng gia súc có thai không hợp lý, khẩu phần thức ăn thiếu dinh dưỡng đặc
biệt là thiếu vitamin A,D,E và vitamin nhóm B hay do chế độ sử dụng công lao động gia
súc quá sức làm giảm sức đề kháng của gia súc mẹ, làm rối loạn mối liên hệ giữa nhau
mẹ và nhau con gây hiện tượng sẩy thai.
- Sẩy thai do tổn thương: Do các tác động cơ giới, gia súc bị húc vào bụng, bị đá vào
bụng, bị trượt ngã…Tất cả các nguyên nhân gây hiện tượng vỡ mạch máu ở thành tử
cung, nhau thai gây những phản xạ co bóp đột ngột của tử cung dẫn tới hiện tượng sẩy
thai.
- Sẩy thai do gia súc mẹ bị bệnh: Tất cả các trường hợp bệnh lý xảy ra ở cơ thể mẹ
nói chung hay ở cục bộ cơ quan sinh dục nói riêng đều có thể là nguyên nhân gây sẩy
thai.
Thí dụ:


Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 1
+ Bệnh ở hệ tim mạch gây rối loạn tuần hoàn giữa nhau thai và bào thai làm bào thai
bị thiếu dinh dưỡng.
+ Bệnh ở hệ hô hấp làm bào thai bị thiếu oxy.
+ Bệnh ở gan thận làm bào thai bị ngộ độc.
+ Bệnh ở hệ tiêu hóa như chướng hơi, bội thực dạ cỏ, táo bón, tiêu chảy…làm tử cung
tăng co bóp.
+ Do gia súc mẹ bị ngộ độc thức ăn, nước uống.
+ Do sử dụng thuốc tẩy hay thuốc hay thuốc kích thích cơ trơn co bóp khi gia súc mẹ
mang thai.
- Sẩy thai do bệnh của bào thai: Trong thực tiễn sản xuất thường gặp các trường hợp
sau:
+ Bào thai phát triển không bình thường, thai bị dị dạng quái thai.
+ Phù thũng màng thai hay viêm nhau thai.
+ Dây rốn dị dạng phát triển quá dài hay quá ngắn.
+ Nhau thai dị dạng phát triển quá dài hay quá ngắn.
+ Dịch thai quá nhiều hay quá ít.
c. Căn cứ vào triệu chứng và mức độ của bệnh
- Tiêu thai:
Đây là quá trình bệnh lý nhẹ nhất trong các loại sẩy thai. Hiện tượng này thường xảy ra
trong thời kỳ đầu của quá trình có thai. Tất cả các tổ chức tế bào của thai được cơ thể mẹ
hấp thụ hoàn toàn không để lại sự biến đổi nào hay vết tích gì trong tử cung. Biểu hiện
triệu chứng điển hình của hiện tượng này là sau lần phối giống cuối cùng một vài chu kỳ,
gia súc xuất hiện trạng thái động dục bình thường. Cơ quan sinh dục nói riêng và cơ thể nói
chung không có triệu chứng điển hình.
- Thai thối rữa:
Bào thai bị chết và các phần mềm của thai bị phân giải (thối rữa). Quá trình phân giải
bắt đầu từ các nhau thai đến các phần mềm của thai tạo ra một hỗn dịch màu nâu hay đỏ
và luôn được thải ra ngoài. Một số mảnh xương vụn hay xương nhỏ có thể lẫn với dịch thải
ra. Những xương to và lớp sụn giữ lại trong tử cung.

Hỗn dịch luôn được thải ra ngoài, lúc đầu nhiều màu đỏ nhạt sau biến thành màu nâu
lẫn mủ cuối cùng chỉ hoàn toàn mủ chảy ra. Mỗi khi gia súc đi tiêu, tiểu hay rặn thì hỗn
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 2
dịch và mủ chảy ra nhiều hơn, dịch có mùi hôi thối. Dịch dính vào gốc đuôi, xung quanh
âm hộ, một thời gian sau dịch khô lại bong vẩy màu đen. Khám qua trực tràng xoa bóp tử
cung có thể phát hiện được tiếng lạo sạo cửa xương thai. Kích thước của tử cung phụ thuộc
vào tuổi của thai lúc chết nhưng nói chung nhỏ hơn nhiều so với tử cung chứa thai phát
triển bình thường cùng tuổi. Bện này nếu phát hiện muộn điều trị không kịp thời dễ dẫn
đến tình trạng con vật bị huyết nhiễm trùng, gia súc sẽ chết. Thường gia súc cái bị rối loạn
sinh sản hoặc vô sinh.
- Thai khô (thai gỗ, thai calcium hóa):
Sau khi thai bị chết, tất cả các dịch trong tế bào tổ chức của thai được cơ thể gia súc mẹ
hấp thụ hoàn toàn. Những phần khác trở nên khô cứng và được lưu lại trong tử cung.
Khi bào thai đã chết nhưng thể vàng vẫn tồn tại và luôn tiết ra progesteron, vì vậy tử
cung co bóp yếu, cổ tử cung đóng kín, vi khuẩn bên ngoài không xâm nhập vào được. Thời
gian đầu của bệnh, dịch thai và tất cả các dịch trong tế bào tổ chức của thai được niêm mạc
cơ thể mẹ hấp thu, các tổ chức khác của thai rắn lại, thể tích thai bị thu nhỏ. Đầu và chân
thai chụm lại với nhau, nhau thai khô, nhăn nheo và bám chặt lấy thai, nhau thai và bào thai
biến thành một cục màu nâu, đen, cứng nên người ta gọi là thai khô, thai gỗ hoặc là thai
calcium hóa. Cũng có trường hợp nhau thai bị phân hủy nhưng không được hấp thụ hết tạo
thành hỗn hợp dịch đặc quánh màu nâu đen nằm lại trong tử cung.
Về lâm sàng thường xuất hiện một số triệu chứng sau: đã qua thời gian có thai trung bình
mà gia súc mẹ không biểu hiện quá trình sinh. Những biểu hiện của cơ thể nói chung và cơ
quan sinh dục nói riêng của hiện tượng có thai dần dần giảm xuống hoặc mất hẳn nhưng
gia súc vẫn không biểu hiện động dục trở lại. Kiểm tra qua trực tràng thấy cổ tử cung nhỏ
hơn nhiều so với tử cung có thai bình thường cùng tháng. Khi xoa bóp tử cung có thể phát
hiện được bọc thai khô ở trong tử cung, thành tử cung dày và cứng hơn bình thường.
II. Nguyên nhân
Có thể chia nguyên nhân gây sẩy thai thành các nhóm sau đây:
a. Sẩy thai có tính chất truyền nhiễm

Loại này chủ yếu do một số loại vi khuẩn, virus hoặc độc tố của chúng gây ra, ngoài
ra có thể do một số loại kí sinh trùng gây nên. Trong các bệnh truyền nhiễm gây sẩy thai
thường gặp nhiều là Brucella, Vibriosis. Hiện tượng sẩy thai có thể kế phát từ một số bệnh
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 3
truyền nhiễm khác như bệnh Leptospira, nhiễm khuẩn E.coli, Klehsiella, Streptococci và
Pseudomonas. Loại sẩy thai do kí sinh trùng thường là Trichomonas.
b. Sẩy thai không có tính chất truyền nhiễm
Đây là loại sẩy thai thường xảy ra trong thực tế và do những nguyên nhân sau:
- Sẩy thai do nuôi dưỡng:
Do chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý khai thác và sử dụng không phù hợp với
gia súc có thai như: thức ăn, nước uống không đầy đủ, chất lượng kém, bắt gia súc làm việc
quá sức, ảnh hưởng tới quá trình trao đổi chất, sức đề kháng của gia súc mẹ, làm rối loạn
mối liên hệ giữa nhau mẹ và nhau con từ đó gây ra hiện tượng sẩy thai.
Trong thực tế hiện tượng sẩy thai hay gặp khi thiếu đạm, khoáng và đặc biệt là một số
loại vitamin cần thiết. Khi thiếu vitamin A cơ năng giữa màng nhung của nhau thai và niêm
mạc tử cung gia súc mẹ bị rối loạn và bào thai sẽ bị chết. Khi thiếu vitamin E ở giai đoạn
đầu thai kỳ thì bào thai dễ bị chết, bị tiêu thai hay thai bị canxi hóa, ở giai đoạn sau thì dễ
gây ra hiện tượng đẻ non. Thiếu viatmin D sẽ trở ngại đến quá trình cân bằng và trao đổi,
duy trì giữa Ca, P từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành bộ xương của bào thai.Ngoài
ra, nếu trong thành phần của thức ăn có nấm mốc, bị ôi thiu có thể gây cho con mẹ ngộ
độc dẫn đến tình trạng sẩy thai.
- Sẩy thai do tổn thương:
+ Gia súc mẹ có thể bị đá, bị húc vào bụng, bị trượt ngã do nền chuồng quá trơn, bãi
chăn quá dốc.
+ Khi khám qua trực tràng không đúng kỹ thuật làm làm gia súc giãy dụa nhiều hoặc
khi khám âm đạo để mỏ vịt quá lâu.
+ Do dùng thuốc có tác động làm tăng nhu động cơ trơn.
+ Ngoài ra, có thể do phối giống nhầm khi gia súc đã có thai trong trường hợp động
dục giả.
Những nguyên nhân gây chấn thương trên thường làm vỡ mạch máu ở thành tử cung,

nhau thai, có khi ở cả bào thai gây ra những phản xạ co bóp mạnh đột ngột ở tử cung làm
cho bào thai bị chết và bị đẩy ra khỏi cơ thể mẹ.
- Sẩy thai do gia súc mẹ bị bệnh: loại này thường do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 4
+ Do gia súc bị bệnh ở cơ quan sinh dục. Viêm niêm mạc tử cung, viêm tử cung tích
mủ, u tử cung, sẹo tử cung, tử cung dị dạng, u nag buồng trứng, rối loạn chức năng thể
vàng, viêm cổ tử cung…
+ Bệnh ở hệ nội tiết làm rối loạn sự cân bằng các hormon trong máu.
+ Bệnh ở hệ hô hấp làm ảnh hưởng tới quá trình trao đổi oxy ở nhau thai làm bào thai
bị thiếu oxy.
+ Bệnh ở hệ tim mạch làm rối loạn tuần hoàn giữa nhau thai và bào thai làm cho bào
thai bị thiếu dinh dưỡng.
+ Bệnh ở gan, thận làm cho bào thai bị nhiễm độc.
+ Bệnh ở hệ tiêu hóa như: chướng bụng đầy hơi cấp, viêm dạ dày và ruột, táo bón, tiêu
chảy…làm cho tử cung co bóp bào thai chết.
+ Bệnh ở hệ thần kinh như viêm màng não, viêm não tủy,…
+ Do cơ thể mẹ bị ngộ độc thức ăn, nước uống.
+ Do khi sử dụng thuốc gây mê toàn thân, uống quá nhiều thuốc lợi tiểu, thuốc tẩy
hoặc thuốc kích thích cơ trơn co bóp.
- Sẩy thai do bệnh lý ở nhau thai và bào thai
Trong thực tế thường gặp các bệnh:
Bào thai phát triển không bình thường, thai dị hình; viêm nhau thai; dây rốn dị dạng
hay phát triển quá ngắn, quá dài; nhau thai dị dạng; dịch thai quá nhiều hoặc quá ít.
III. Triệu chứng
Thai chết và trở thành một dị vật nằm lại trong tử cung cơ thể mẹ, từ đó dị vật luôn
kích thích gây ra những phản ứng co bóp của tử cung làm cho bào thai, nhau thai và các
sản phẩm trung gian bị đẩy ra ngoài.
- Đẻ non: xuất hiện những triệu chứng gần như lúc sinh đẻ bình thường: bầu vú căng
to, sưng huyết, âm hộ có hiện tượng sung huyết, phù thũng. Sau khi đẻ non nếu không bị
sót nhau hay viêm nội mạc tử cung và được nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo, gia súc mẹ sẽ

hồi phục sức khỏe nhanh chóng. Con vật sơ sinh khi bị đẻ non yếu ớt, phản xạ bú chậm hay
không có, thân nhiệt thấp và thường khó nuôi.
- Sẩy thai: Trường hợp bệnh xảy ra ở thời kỳ đầu và giữa thì gia súc mẹ biểu hiện
một số triệu chứng: bầu vú hơi căng, sữa thay đổi về màu sắc. Gia súc biểu hiện rặn đẻ, cổ
tử cung hé mở, niêm dịch loãng lẫn dịch thai chảy ra ngoài. Với gia súc mang thai trên
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 5
dưới 1 tháng, triệu chứng của bệnh biểu hiện không rõ. Nếu sẩy thai vào thời gian có thai
kỳ đầu và bào thai được đẩy ra ngoài sớm thì tiên lượng tốt. Sau một thời gian tùy thuộc
vào loài gia súc khác nhau con mẹ có thể động dục trở lại và tiến hành quá trình thụ tinh
bình thường. Ngược lại nếu bị lưu thai hay thai bị thối rữa thì dễ dàng dẫn tới viêm tử
cung, huyết nhiễm trùng…ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh sản sau này và dễ dàng dẫn
đến hiện tượng vô sinh.
IV. Can thiệp
Thường thì can thiệp không hiệu quả cao
- Nếu cổ tử cung đã mở, dịch thai và thai đã đẩy ra ngoài thì tìm mọi cách đưa tất cả các
thai còn lại ra ngoài. Sau đó điều trị dự phòng những bệnh kế phát như sót con, sót nhau,
viêm mủ tử cung,…
- Nếu phát hiện sớm thì tìm cách ức chế những cơn rặn và sau đó duy trì sự phát triển thai.
+ Đối với đại gia súc ức chế cơn rặn bằng cách gây tê tủy sống tiêm novocain 2 – 3%
10 – 15ml.
+ Duy trì sự phát triển cho thai tiêm bắp progesteron:
Đại gia súc: 50 – 100 mg/con
Tiểu gia súc: 25 – 50 mg/con
Sử dụng liệu trình giảm dần
V. Phòng bệnh
Khi phát hiện có hiện tượng sẩy thai trước hết phải can thiệp kịp thời để giảm thiệt hại
về kinh tế. Mặt khác phải điều tra thật tỉ mỉ, cẩn thận để nắm được tình hình bệnh sử của
từng gia súc, xác định nguyên nhân chính gây nên hiện tượng sẩy thai. Cần tìm ra quy luật
sẩy thai của đàn gia súc, từ đó đề ra những biện pháp phòng trị có hiệu quả cao.
Một số biện pháp chung như sau:

- Chọn lựa những gia súc giống không mắc bệnh truyền nhiễm như Brucellosis,
Leptospirosis hoặc các bệnh kí sinh trùng đường sinh dục.
- Thực hiện nghiêm chỉnh quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý và sử dụng khi gia
súc có thai.
- Thi hành đầy đủ mọi quy định kỹ thuật khi khai thác tinh dịch, môi trường pha chế
tinh dịch, khi phối giống.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 6
- Áp dụng những biện pháp kỹ thuật nhằm đề phòng hiện tượng bệnh lý ở sơ quan sinh
dục khi có thai, khi sinh đẻ và sau khi đẻ xong.
- Với tất cả các dạng sẩy thai mà bào thai đã chết, cổ tử cung đã mở (tự nhiên hay can
thiệp) thì phải nhanh chóng áp dụng mọi biện pháp, thủ thuật đưa thai ra khỏi tử cung gia
súc mẹ, tránh làm tổn thương cơ quan sinh dục, không để thai bị thối rữa trong tử cung làm
ảnh hưởng lớn tới cơ quan sinh dục nói riêng và cơ thể nói chung cũng như quá trình sinh
sản về sau của gia súc.
► Câu hỏi củng cố
1/ Hãy nêu biện pháp phòng và can thiệp bệnh sẩy thai trên bò.
BÀI 2
BỆNH SA ÂM ĐẠO
► Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Biết được nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp.
Bệnh thường xảy ra trong thời gian gia súc cái mang thai với đặc điểm là thành của âm
đạo bị lộn trái trở lại và đẩy ra khỏi mép âm hộ tùy vào mức độ âm đạo lộn ra ngoài mà
người ta chia ra 2 thể:
- Sa âm đạo không hoàn toàn có nghĩa là chỉ một phần âm đạo bị lộn trái trở lại và đẩy
ra khỏi mép âm hộ
- Sa âm đạo hoàn toàn có nghĩa là toàn bộ âm đạo bị lộn trái trở lại và đẩy ra khỏi mép
âm hộ.
I. Nguyên nhân
- Nuôi gia súc thời gian kéo dài trong chuồng mà nền chuồng quá thấp về phía đuôi
hoặc có thể do con vật luôn luôn phải leo dốc trong thời gian có thai nên tử cung và thai ép

mạnh lên âm đạo.
- Do chế độ chăm sóc nuôi dưỡng gia súc có thai không hợp lý đặc biệt khẩu phần
thức ăn không đầy đủ thiếu vitamin đặc biệt là vitamin nhóm B, do con vật đã già yếu và
những yếu tố khác làm cho sức khỏe con vật bị giảm sút.
- Bào thai quá to với gia súc đơn thai và quá nhiều thai với gia súc đa thai, áp lực
xoang bụng, xoang chậu quá cao nhất là khi vật nằm lâu trên nền chuồng quá thấp về phía
đuôi.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 7
- Do vật đã đẻ qua nhiều lứa nên chức năng giữ âm đạo ở vị trí bình thường của cơ âm
đạo và hệ thống dây chằng bị giảm sút.
- Do kế phát từ một số bệnh nội khoa như: viêm dạ dày và ruột cấp tính, táo bón, tiêu
chảy, chướng bụng đầy hơi, bội thực,…hoặc do trong quá trình điều trị bệnh dùng thuốc
kích thích không đúng liều lượng làm con vật rặn mạnh, cơ quan sinh dục co bóp tạo điều
kiện cho âm đạo dễ dàng lộn ra ngoài.
II. Triệu chứng
- Sa âm đạo không hoàn toàn:
Phần âm đạo lộn ra ngoài màu hồng to bằng nắm tay, bộ phận này chỉ nhìn thấy khi
con vật khi con vật nằm xuống, còn khi con vật đứng lên và vận động thì phần âm đạo đó
lại thụt vào trong xoang chậu.
- Sa âm đạo hoàn toàn:
Phần âm đạo lộn ra ngoài màu hồng to bằng quả bóng, nhìn rõ cổ tử cung và hiện
tượng đóng nút dịch của cổ tử cung, gia súc mẹ rặn liên tục bộ phận âm đạo lộn ra ngoài
ngày một to lên. Do sự cọ sát của đuôi và sự tiếp xúc với môi trường ngoại cảnh bên ngoài
bộ phận âm đạo bị dính các chất bẩn như phân rác, nước ttiểu, đất cát, niêm mạc âm đạo bị
xây xát, bị nhiễm khuẩn và bị viêm thể tích phần âm đạo lộn ra ngoài tăng cao và từ bộ
phận âm đạo lộn ra ngoài luôn thải ra ngoài một hỗn dịch bao gồm niêm mạc dịch rỉ viêm
và các tổ chức hoại tử, nếu để lâu không can thiệp kịp thời sẽ dẫn đến hiện tượng nhiễm
trùng huyết, con vật lâm vào tình trạng ngộ độc dễ bị sẩy thai, đẻ non.
III. Can thiệp
a. Nguyên tắc của việc điều trị bệnh sa âm đạo

Là nhanh chóng đưa phần âm đạo sa ra ngoài trở về vị trí cũ sau khi đã vô trùng cẩn
thận và đề phòng tái phát và nhiễm trùng cho tử cung và cơ thể nói chung.
b. Hộ lý
Giữ con vật trong tình trạng yên tĩnh tuyệt đối không vận động. Để con vật luôn ở
trong giá cố định với tư thế đầu thấp, đuôi cao, buộc đuôi sang một bên để tránh hiện tượng
làm tổn thương và kích thích phần niêm mạc âm đạo bị sa ra.
c. Thao tác can thiệp
- Rữa âm đạo bằng các dung dịch khử trùng ở nồng độ thích hợp như thuốc tím 0,1%,
axit boric 3%, phèn chua 2%, nước muối 5 – 10%. Sau khi đã rữa sạch thấm khô thì dùng
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 8
vazơlin 2 – 3% hoặc các loại thuốc kháng sinh mỡ như tetracyclin, mỡ penicillin,…bôi lên
khắp niêm mạc âm đạo bị sa ra.
- Sau đó tiến hành thủ thuật bằng tay đưa âm đạo về vị trí cũ. Để tránh hiện tượng làm
tổn thương niêm mạc và gây nhiễm trùng âm đạo, người tiến hành thủ thuật phải cắt ngắn
móng tay và phải vô trùng tay cẩn thận. Khi đưa âm đạo về vị trí cũ cần phải tiến hành từ
từ, dần dần và chỉ đưa vào khi gia súc ngừng rặn.
- Sau khi đưa âm đạo về vị trí cũ cần đề phòng hiện tượng tái phát bằng các biện pháp
sau: hạn chế hiện tượng rặn bằng cách phong bế lõm khum đuôi (đối với đại gia súc và tiểu
gia súc có sừng) bằng novocain 2 – 3% 10 – 15ml hoặc có thể gây an thần cho uống rượu
trắng 500ml/con. Phương pháp cố định đề phòng hiện tượng tái phát tốt nhất là dùng chỉ
mềm bản to khâu 2/3 phía trên mép âm hộ.
- Để tránh hiện tượng nhiễm trùng cho cơ thể dùng các loại kháng sinh tiêm vào bắp
thịt. Ngoài ra chú ý trợ sức, trợ lực cho con vật.
► Câu hỏi củng cố
1/ Hãy nêu biện pháp can thiệp bệnh sa âm đạo trên bò.
BỆNH TRONG THỜI GIAN SINH CỦA BÒ
BÀI 1
BỆNH SINH KHÓ TRÊN BÒ
► Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 9

- Biết được một số nguyên nhân và biện pháp can thiệp bệnh sinh khó trên bò
Trong quá trình sinh của gia súc, thời gian sinh bị kéo dài nhưng bào thai không
được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ được gọi là hiện tượng sinh khó. Hiện tượng sinh khó do rất
nhiều nguyên nhân gây ra và cũng được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
I. Bệnh sinh khó do gia súc mẹ
a. Rặn đẻ yếu ở gia súc
Bệnh rặn đẻ yếu là quá trình bệnh lý thường xảy ra trong thời gian gia súc sinh với
đặc điểm là những cơn co bóp của tử cung, cơn rặn của gia súc mẹ quá yếu không đủ
cường độ để đẩy bào thai ra ngoài.
Nguyên nhân:
- Bào thai quá to, dịch thai quá nhiều hay quá nhiều thai làm tử cung bị dãn quá độ
dẫn đến mất đàn tính không co bóp được.
- Do chế độ chăn sóc nuôi dưỡng gia súc trong thời gian mang thai kém làm cho con
mẹ bị suy dinh dưỡng, sức lực yếu không đủ sức rặn. Nhu cầu dinh dữ dư thừa năng lượng
dẫn đến gia súc cái mập mỡ sẽ ảnh hưởng đến cơ năng của tử cung.
- Do lượng hormone kích đẻ oxytocin của cơ thể tiết ra quá ít không đủ làm cho tử
cung co bóp đủ cường độ đẩy bào thai ra ngoài.
- Do gia súc cái quá già ; mắc bệnh lý mãn tính làm cho nái suy nhược.
Triệu chứng:
- Có thể ngay từ đầu và suốt trong quá trình sinh đẻ con mẹ đều rặn yếu, các cơn
rặn cường độ yếu, khoảng cách giữa hai lần rặn dài, thời gian đẩy thai ra ngoài kéo dài, bào
thai không được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ (rặn đẻ quá yếu thể nguyên phát).
- Với trường hợp rặn đẻ quá yếu do sinh nhiều thai, thai to, tư thế chiều hướng của
bào thai không bình thường thì lúc đầu các cơn rặn của con mẹ diễn ra một cách bình
thường đúng quy luật nhưng sau đó sức rặn của con mẹ yếu dần ( rặn đẻ quá yếu thể thứ
phát).
- Cần lưu ý rằng sự khác biệt giữa bệnh rặn đẻ quá sớm và bệnh rặn đẻ quá yếu là ở
chổ các triệu chứng điển hình của cơ thể mẹ lúc gần đẻ chưa xuất hiện ở bệnh rặn đẻ quá
sớm và đã xuất hiện đầy đủ ở bệnh rặn đẻ quá yếu.
Can thiệp:

- Nguyên tắc là kích thích tăng nhu động tử cung
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 10
+ Xoa bóp từ thành bụng, vú, để kích thích tăng tiết oxytocin.
+ Dùng thuốc kích thích tử cung co bóp bằng cách tiêm oxytocin : tiểu gia súc tiêm
dưới da 10-20 UI/con/lần, đại gia súc 20-40 UI/con/lần; có thể tiêm lặp lại sao 30 phút.
Chú ý: Không sử dụng oxytoxin khi cổ tử cung chưa mở; xương chậu hẹp, thai to,
chiều hướng và tư thế của bào thai bất thường.
- Khi cần thiết dùng thủ thuật tay để hỗ trợ kéo thai ra, chú ý thao tác đảm bảo đúng
kỹ thuật và vô trùng, hạn chế tổn thương tử cung:
+ Chuẩn bị dụng cụ như đỡ đẻ bình thường.
+ Vô trùng bộ phận sinh dục và phần thân sau. Vô trùng tay người can thiệp bằng
thuốc tím 0,1-0,2% cồn Iod 5% hoặc cồn 70
0
. Bôi vazolin (paraphin dầu) vào tay định đưa
vào tử cung.
+ Thao tác can thiệp bằng tay: Dưa tay trực tiếp qua âm đạo, có thể vào tận tử cung,
thân tử cung kéo từng thai một (chú ý vị trí cần nắm để kéo).
+ Nếu đường sinh dục khô có thể đưa vào một lượng paraphin hoặc dầu thực vật để
bôi trơn.
+ Sau khi đỡ đẻ xong đề phòng kết phát viêm tử cung bằng cách bơm vào tử cung
penicillin 2.000.000-4.000.000 UI, streptomycin 2-4g pha vào 20ml nước. Kết hợp với
dung kháng sinh như ampicilin, amoxcilin, spiramycin, tetramycin tiêm toàn thân; tăng
cường trợ lực trợ sức cho gia súc cái.
c. Hẹp xương chậu
Nguyên nhân:
Do bẩm sinh, do chế độ dinh dưỡng quá kém trong giai đoạn hậu bị, tổn thương cơ
học, cho gia súc đi vào sinh sản quá sớm, rối loạn kích thích tố tăng trưởng.
Triệu chứng:
Xuất hiện những cơn rặn mạnh và lien tục nhưng thai cũng không được đẩy ra.
Can thiệp:

- Hẹp tương đối (tay người đỡ đẻ có thể đưa khó khăn qua được cổ tử cung): Dùng
thủ thuật tay và dụng cụ kéo thai, chú ý tăng cường bôi trơn.
- Hẹp tuyệt đối (tay người đỡ đẻ không đưa qua được cổ tử cung): Có thể nên tiến
hành mổ bắt thai, hoặc cắt thai.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 11
* Kỹ thuật mổ ổ bụng bắt thai: Niếu gia súc sinh khó, thai quá to và thai còn sống mà
không thể kéo ra được thì biện pháp tốt nhất là mổ bụng lấy thai kịp thời, cứu cả gia súc mẹ
và con.
* Các trường hợp sau được chỉ định mổ bụng lấy thai:
- Cổ tử cung hẹp, một phần nhau thai đã vào âm đạo nhưng cổ tử cung không mở to
và thai không ra được. Tử cung bị xoắn không sờ vào thai được.
- Rặn đẻ yếu, tiêm thuốc kích thích oxytocin không có hiệu quả.
- Thai quá to hoặc tu thế, chiều hướng, thai không bình thường mà không thể lấy ra
được.
* Không mổ bụng lấy thai trong trường hợp:
- Thai đã chết lâu, thối rửa. Nếu mổ bụng mẹ lấy thai sẽ gây viêm phúc mạc, nhiễm
trùng huyết làm chết gia súc mẹ.
- Gia súc đẻ kéo dài đã quá kiệt sức.
* Yêu cầu cơ bản khi mổ ổ bụng lấy thai
- Phải tiến hành càng sớm càng tốt. Chuẩn bị dụng cụ thuốc men đầy đủ. Thao tác
nhanh, chính xác và hết sức tránh để ruột gian súc mẹ sa ra ngoài kéo dài thời gian.
- Hạn chế dịch tử cung chảy vào xoang bụng, vì như vậy sẽ gây viêm phúc mạc.
Viết khâu tử cung phải thật kín.
- Điều trị chống nhiễm trùng toàn thân sau mổ.
* Phương pháp mổ bắt thai:
+ Đối với bò có 2 phương pháp: Mổ dưới bụng và mổ bên hông.
Vị trí mổ: có thể chọn một trong bốn vị trí sau đây: phía trái, cách tĩnh mạch vú trái
từ 5-8cm. Giữa tĩnh mạch vú trái và đường trắng ở giữa bụng. Đường trắng ở giữa bụng.
Cách tĩnh mạch vú phải từ 5-8 cm.
Mổ vị trí phía phải đường trắng cớ ưu điểm là dạ cỏ không trở ngại cho việc kéo tử

cung ra, nhưng vì vị trí vết mổ ở thành bụng nên dễ làm cho ruột sa ra.
- Chuẩn bị: Đặt con vật về bên trái trên một đệm cỏ khô, dày, sạch, bên trên phủ một
tấm vải sạch, trói hai chân trước với nhau, hai chân sau với nhau. Đè chặt đầu bò xuống.
Nếu có bàn mổ thì đặt bò lên bàn mổ.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 12
- Sát trùng: Cạo sạch long vùng mổ, rửa sạch bằng sà phòng, lau khô rồi bôi khử
trùng bằng công Iod 5%. Xung quanh chổ mổ đặt vải đã vô trùng. Toàn bộ nơi mổ, dụng cụ
mổ và tay người mổ đều được vô trùng cẩn thận theo phương pháp ngoại khoa.
- Gây tê: Gây tê dọc theo vết mổ bằng dung dịch Novocain 2%, tiêm dưới da. Trước
khi con vật nằm cũng cần tiêm gây tê màng cứng tủy sống đối với bò. Đối với heo thường
mổ bên hông và thường gây mê trước khi mổ.
- Tiến hành mổ: Xác định vị trí vết mổ, viết mổ dài 25 – 40 cm thùy theo loài gia
súc. Mở ổ bụng lấy sừng tử cung ra khỏi ổ bụng. Mổ sừng tử cung lấy thai, lấy nhau thai
(nếu nhau đã bong tróc còn nhau chưa bong tróc thì để cho cơ thể gia súc mẹ tự đẩy ra qua
đường sinh dục), may đóng sừng tử cung, đưa sừng tử cung trở vào ổ bụng. May đóng ổ
bụng. Vệ sinh sát trùng vết mỗ bằng cồn Iode 3-5%.
- Hộ lý: tiêm kháng sinh và trợ sức cho bò mỗi ngày; giữa vết thương khô, sạch và
sau 10 ngày sẽ cắt chỉ. Nuôi dưỡng tốt và giữ vệ sinh chuồng trại.
e. Xoắn tử cung
Bệnh thường xuất hiện giai đoạn cuối mang thai, hoặc trước khi sinh một thời gian
ngắn thường xảy ra đối với gia súc đơn thai.
Nguyên nhân:
- Dây treo tử cung giãn quá độ, gia súc mẹ vận động đột ngột và mạnh ( quay tròn )
trong thời gian mang thai cuối.
- Trâu bò nuôi nhốt kéo dài thiếu vận động nên khi thả ra đồng cỏ dễ bị xoắn tử
cung.
- Bệnh vẫn có thể xảy tra đối với gia súc đang sinh do sự di động của thai, sức rặn
và sự lăn trở của gia súc mẹ khi sinh khó.
- Trường hợp cổ tử cung mở chậm so với những con rặn đẩy thai ra làm cho tử cung
quay vòng.

Triệu chứng:
Vị trí xoắn có thể trước hoặc sau cổ tử cung. Gia súc đau bụng từng cơn, trạng thái
không yên tĩnh, đứng lên nằm xuống liên tục, chân đá vào bụng hay chân cào đất, đầu
ngoái lại nhìn bụng. Ăn uống kém, giảm nhai lại.
Trường hợp tử cung xoắn, có thể thấy mép âm hộ bên bị xoắn lõm vào; mức độ
xoắn của tử cung có thể 90
0
, 180
0
đôi khi xoắn 360
0
.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 13
Quá trình bệnh có thể gây nên tình trạng thai bị chết, tử cung bị rách hay thủng, kế
phát viêm phúc mạc, nhiễm trùng huyết.
Can thiệp:
Bằng mọi biện pháp lật tử cung về vị trí bình thường, làm cho đường sinh dục thông
suốt và kéo thai ra. Kiểm tra qua âm đạo để xác định chiều xoắn (do nếp nhăn xiên theo
chuyền xoắn hướng về cổ tử cung).
Có thể can thiệp bằng một trong những biện pháp sau:
- Trường hợp tử cung xoắn về bên phải bắt buộc gia súc mẹ nằm bên trái hoặc
ngược lại, cố định hai chân trước và hai chân sau không ép vào thành bụng. Để gia súc mẹ
nằm tư thế thân sau cao hơn đầu. Người đỡ đẽ nằm sắp dọc theo con vật, cho tay vào âm
đạo và cố gắn giữ chặt chân thai để cố định tử cung. Những người khác lật nhanh gia súc
sang phía ngược chiều với phía tử cung bị xoắn. Khi gia súc mẹ bị lật nhanh, do quán tính
trọng lượng của thai, nên tử cung có thể trở lại trạng thái bình thường. Trường hợp tiến
hành một lần không kết quả thì có thể tiếp tục lần thứ hai, thứ ba.
- Mổ thành bụng, thông qua thành bụng đưa tay vào xoan bụng để sửa tử cung lại vị
trí bình thường.
- Phẩu thuật ngoại khoa mổ bắt thai (xem phần hẹp xương chậu).

II. Bệnh sinh khó do thai
a. Do thai quá to
Trường hợp kích thước xoang chậu và đường sinh dục cái bình thường nhưng kích
thước của thai quá to dẫn đến đẻ khó thì gọi là thai to.
- Nguyên nhân: Do dinh dưỡng quá dư thừa kết hợp gia súc đa thai nhưng mang ít
thai; công tác giống gép đôi giao phối giữa cái thể đực và cái; thời gian mang thai kéo dài.
- Triệu chứng: Xuất hiện những cơn rặn mạnh và liên tục nhưng thai không được
đẩy ra.
Bằng phương pháp khám qua âm đạo và trực tràng có thể phát hiện thấy chiều
hướng tư thế của bào thai bình thường, nhưng kích thước thai quá to thành tử cung căng ra
kẹp chặt lấy bào bào thai. Thai thường bị kẹt tại xương chậu.
- Can thiệp: Tăng cường bôi trơn đường sinh dục gia súc cái (thụt vazolin, dầu thực
vật vào trong tử cung) rồi dung tay kết hợp với dụng cụ sản khoa để kéo thai ra ngoài. Nếu
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 14
không được thì có thể tiến hành biện pháp cắt thai hoặc mổ bắt thai (xem phần hẹp xương
chậu)
b. Do tư thế và chiều hướng thai bất thường
Triệu chứng:
Gia súc cái khi sinh xuất hiện những cơn rặn mạnh và liên tục nhưng thai cũng
không được đẩy ra. Bằng phương pháp khám qua âm đạo hoặc trực tràng có thể phát hiện
thấy chiều hướng tư thế của bào thai bất thường.
Nguyên tắc can thiệp:
- Tăng cường bôi trơn đường sinh dục gia súc cái (bơm vazolin, dầu thực vật vào
trong tử cung).
- Chỉnh sửa thai trở về tư thế và chiều hướng tương đối hoặc bình thường, rồi dùng
tay kết hợp với dụng cụ sản khoa để kéo thai ra ngoài, chú ý đẩy thai thục vào khỏi xương
chậu rồi mới chỉnh sửa được.
Sau khi can thiệp nên điều trị dự phòng viêm tử cung.
• Đẻ khó do tư thế bào thai không bình thường
• Đầu và cổ xoay sang một bên:

Đó là tư thế đầu của bào thai không gác lên hai chân trước mà quay sang một bên
(bên phải hoặc bên trái) do đó gia súc mẹ không đẩy được bào thai ra ngoài, mặc dù các
cơn rặn vẫn bình thường. Biểu hiện của trường hợp này là phần đầu của hai chân trước đã
bộc lộ ra khỏi ém âm hộ nhưng không thấy đầu thai, chân nào bộc lộ ra ngoài ngắn hơn thì
đầu quay sang phía đó, tùy mức độ quay của đầu và cổ thai mà khi khám trực tiếp qua
đường sinh dục ta có thể sờ thấy cổ thai.
- Biện pháp can thiệp: dùng nạng sản khoa đặt vào phía vai đối diện với phía đầu
quay đẩy mạnh vào phía trong rồi kết hợp tay và dụng cụ kéo mỏm thai thẳng ra phía trước
rồi kéo thai ra ngoài.
* Đầu thai gập xuống dưới:
Đó là tư thế đầu của bào thai không gác lên hai chân trước mà đầu thai gập xuống
dưới nằm ở giửa hai chân trước. Tùy mức độ gập của đầu thai mà ta có thể sờ thấy trán
thai, đầu thai hay bờm thai. Biểu hiện bên ngoài ta chỉ nhìn thấy hai chân trước cảu thai mà
không nhìn thấy đầu thai.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 15
Biện pháp can thiệp: Dùng tay hay nạng sản khoa đẩy thai vào phía trong rồi kết
hợp tay và dụng cụ kéo mỏm thai thẳng ra phía trước rồi kéo thai ra ngoài.
* Đầu gối của thai ra ngoài trước
Đây là tư thế một hoặc hai chân trước của thai không duỗi thẳng mà gập lại ở phía
đầu gối. Biểu hiện ra ngoài có thể nhìn thấy một chân trước của thai và mỏm thai bộc lộ ra
ngoài mém âm hộ hoặc chỉ nhìn thấy mỏm thai. Khám phá trực tiếp qua âm đạo sờ thấy
một hoặc hai đầu gối của thai.
Biện pháp can thiệp: dùng tay hay nạng sản khoa cố định vào vai phía đối diện với
chân bị gập, đẩy thai vào phía trong rồi kết hợp tay và dụng cụ kéo chân thai thẳng ra phía
trước rồi kéo thai ra ngoài.
* Vai của thai ra ngoài trước
Đây là tư thế một hoặc hai chân trước của thai không duỗi thẳng mà gập lại ở khớp
vai. Biểu hiện ra ngoài có thể nhìn thấy một chân trước của thai và mỏm thai bộc lộ ra
ngoài mém âm hộ hoặc chỉ nhìn thấy mỏm thai. Khám phá trực tiếp qua âm đạo sờ thấy
một hoặc hai khớp vai của thai.

- Biện pháp can thiệp: dùng tay hay nạng sản khoa cố định vào vai phía đối diện với
chân bị gập, đẩy thai vào phía trong rồi kết hợp tay và dụng cụ kéo chân thai thẳng ra phía
trước rồi kéo thai ra ngoài.
* Chân trước của thai đè lên đỉnh đầu;
Đó là tư thế chân trước của bào thai đè lên đỉnh đầu của thai có thể có các trường hợp
sau:
+ Hai chân trước nằm song song và đè lên đỉnh đầu của thai.
+ Một chân trước nằm trên đỉnh đầu của thai, chân kia nằm ở dưới hàm của bào thai.
+ Hai chân trước bắt chéo nhau nằm trên đỉnh đầu của bào thai
- Biện pháp can thiệp: dùng dây sản khoa buộc vào ống chân của thai, dùng nạng sản
khoa cố định vào trước ngực của thai đẩy thai về phía trước và lên trên rồi kết hợp tay và
dây sản khoa kéo từng chân sang bên cạnh và đẩy hàm dưới của thai lên trên sau đó kết
hợp tay và dụng cụ kéo đầu và chân thai thẳng ra phía trước rồi kéo thai ra ngoài.
* Khoeo thai ra ngoài trước
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 16
Đây là tư thế một hoặc hai chân sau của thai không duỗi thẳng mà gập lại ở khớp
khoeo. Bên ngoài nhìn thấy một chân sau duỗi thẳng móng ngửa. Khám qua đường sinh
dục sẽ sờ thấy một hoặc hai khớp khoeo.
- Biện pháp can thiệp: Dùng tay hay nạng sản khoa cố định vào phía dười đuôi đẩy
thai vào phía trong rồi kết hợp tay và dụng cụ kéo chân thai thẳng ra phía trước rồi kéo thai
ra ngoài.
* Mông thai ra ngoài trước
Đây là tư thế một hoặc hai chân sau không duỗi thẳng mà gặp lại ở khớp háng làm
mông thai có hướng ra ngoài trước. Bên ngoài nhìn thấy một chân sau duỗi thẳng móng
ngửa,khám qua đường sinh dục sẽ sờ thấy mông của thai.
- Biện pháp can thiệp: dùng tay hay nạng sản khoa cố định vào phía dưới đuôi đẩy
thai vào phía trong rồi kết hợp tay và dụng cụ sửa thai thành tư thế khoeo thai ra ngoài
trước rồi tiếp tục can thiệp.
Đẻ khó do hướng của bào thai không bình thường
* Thai nghiêng, ngửa và đầu thai có hướng ra ngoài trước: Đây là tư thế thai nằm

nghiêng hay ngửa và đầu của thai ra ngoài trước.
- Thai nghiêng hay gặp ở trâu bò, thai ngửa hay gặp ở ngựa. Thai nghiên thì đầu
nằm cạnh hai chân, thai ngửa thì đầu và cổ nằm dưới hai chân, trường hợp này khi khám
phá qua âm đạo có thể thấy hai móng chân trước ngửa (thai ngửa) hai móng chân trước
chồng lên nhau (thai nghiêng).
- Biện pháp can thiệp: trước tiên ta bơm thụt dầu thực vật vào tử cung rồi dùng tay
kết hợp với dụng cụ để xoay sửa thai thành tư thế dọc sấp đầu rồi kéo thai ra ngoài. Niếu
thai nằm ngữa, trước tiên xoay thai thành tư thế nằm nghiêng, đầu ra ngoài trước sau đó
tiếp tục kéo thai ra.
* Thai nghiêng, ngữa và đuôi thai có hướng ra ngoài trước: Đây là tư thế thai nằm
nghiêng hay ngửa và đuôi của thai ra ngoài trước. Trường hợp này nhìn thấy ở mép âm
môm một hay hai móng chân úp sấp sờ vào phía trong âm đạo sẽ gặp phải khớp khoeo.
- Biện pháp can thiệp: trước tiên ta thục dầu thực vật vào tử cung, nếu thai nằm
nghiêng mà tư thế đầu thai bình thường, kích thước đường sinh dục không hẹp, thai không
quá to thì có thể kéo ra ngoài mà không cần xoay sửa. Nếu thai nằm ngữa thì phải xoay sửa
thai thành tư thế nằm nghiêng đuôi ra ngoài trước sau đó tiếp tục kéo thai ra.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 17
* Đẻ khó do chiều của bào thai không bình thường
Thai ngang: thai nằm ngang trong tử cung bốn chân đâm thẳng vào cổ tử cung.
Kiểm tra qua đường sinh dục phát hiện được bốn chân và bụng thai.
- Biện pháp can thiệp: Trước tiên ta thục dầu thực vật vào tử cung rồi dùng tay kết
hợp với dụng cụ xoay thai thành tư thế thai nằm nghiêng mông ra ngoài trước hay tư thế
thai nằm nghiêng đầu ra ngoài trước rồi tiếp tục can thiệp giống như trường hợp thai
nghiêng.
Thai vuông góc: Thai nằm dựng đứng trong tử cung, xương sống của thai vuông
gốc với xương sống của mẹ, khám qua âm đạo có thể sờ thấy bờm, cổ hay lưng của thai
thẳng đứng.
- Biện pháp can thiệp: Trước tiên ta thụt dầu thực vật vào trong tử cung rồi dùng tay kết
hợp với dụng cụ xoay thai thành tư thế thai đầu ra ngoài trước, nếu đầu thai nằm gần cửa
vào xoang chậu, trường hợp mông thai nằm gần cửa vào xoang chậu thì xoay thai thành tư

thế đuôi thai ra ngoài trước. Bằng mọi biện pháp trên mà không có kết quả thì phái áp dụng
biện pháp cưa, cắt thai thành từng mãnh nhỏ rồi kéo ra ngoài hoặc dùng biện pháp mổ bụng
lấy thai.
* Đẻ sinh đôi
Đẻ sinh đôi có hai trường hợp xảy ra:
Một thai có chiều hương tư thế bình thường, còn thai kia có chiều hướng tư thế
không bình thường.
Hai thai cùng lọt vào xoang chậu nên thai bị kẹp chặt ở cổ tử cung gây sinh khó.
Thông thường khi sinh đẻ sinh đôi thi một thai đầu ra trước còn thai kia đuôi ra
trước. Vì vậy, khi kiểm tra có thể phát hiện thấy, một cái đầu và bốn móng chân, 2 móng
sấp và hai móng ngửa, trường hợp hai thai đều quay đầu ra trước thì có thể phát hiện ra bốn
móng sấp.
Biện pháp can thiệp: thục dầu thực vật vào tử cung dùng nạng sản khoa đẩy lùi một
thai ra khỏi cửa vào xương chậu, sau đó kết hợp tay và dụng cụ kéo từng thai ra ngoài. Chú
ý khi kéo thai tránh trường hợp kéo đầu con này và chân con kia hoặc một chân con này và
một chân con kia,nếu trường hợp hai thai ở độ sâu chênh lệch nhau thì vừa kéo thai này ra
vừa đẩy thai kia vào .khi gia súc đứng thì kéo thai vào cũng được còn khi gia súc nằm thì
phải kéo thai ở phía trên ra trước.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 18
► Câu hỏi củng cố
1/ Hãy nêu nguyên nhân và biện pháp sinh khó trên bò.
BÀI 2
BỆNH SA TỬ CUNG
► Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Biết được các nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp bệnh sa tử cung
Đây là quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản trong thời gian sau khi
sinh. Đặc điểm của bệnh là thành tử cung bị lộn trái trở lại và đẩy ra khởi mép âm hộ.
I. Nguyên nhân
- Gia súc bị nuôi nhốt lâu dài trong chuồng mà nền chuồng quá thấp về phía đuôi.
- Do chế độ nuôi dưỡng chăm sóc gia súc có thai không hợp lý đặc biệt. Khẩu phần

thức ăn không đầy đủ, thiếu vitamin nhóm B.
- Do con vật đã già yếu và những yếu tố khác làm cho con vật bị suy dinh dưỡng.
- Bào thai quá to với gia súc đơn thai và quá nhiều thai với gia súc đa thai, áp lực
xoang bụng, xoang chậu quá cao nhất là khi vật nằm lâu trên nền chuồng quá thấp về phía
đuôi.
- Do đường sinh dục bị khô mà con vật lại rặn đẻ quá mạnh hay kéo thai quá nhanh.
- Do hậu quả của việc dùng thuốc kích rặn đẻ không đúng chỉ đinh quá liều.
- Do kế phát bệnh bại liêt sau khi sinh.
II. Triệu chứng
Phần tử cung sa ra ngoài màu đỏ hồng to nhỏ khác nhau tùy thuộc vào mức độ bị sa,
ở loài nhai lại nhìn rõ hệ thống nhau mẹ trên niêm mạc tử cung đôi chỗ còn dính cả núm
nhau con, ở ngựa xuất hiện nhiều mạch máu, ở lợn phần tử cung lộn ra ngoài trông giống
như một khúc ruột già.
Gia súc mẹ tỏ vẻ đau đớn, rặn liên tục bộ phận tử cung lộn ra ngoài ngày một to lên.
Do sự cọ sát của đuôi và sự tiếp súc của môi trường ngoại cảnh bên ngoài bộ phận tử cung
bị dính các chất bẩn như phân rác, nước, tiểu, đất cát, niêm mạc tử cung bị sây sát, bị
nhiễm khuẩn và bị viêm, thể tích phần tử cung lộn ra ngoài tăng cao và từ bộ phận tử cung
lộn ra ngoài luôn thải ra ngoài một hỗn dịch bao gồm niêm dịch, dịch rỉ viêm và các tổ
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 19
chức hoại tử, nếu để lâu không can thiệp kịp thời sẽ dẫn đến hiện tượng nhiễm trùng huyết,
con vật lâm vào tình trạng huyết nhiễm trùng và có thể thể trong vòng 4-5 ngày.
III. Can thiệp
Chỉ can thiệp khi cần thiết và nên loại thải nái ở lứa sau.
a. Nguyên lý của việc điều trị bệnh sa tử cung:
Là nhanh chóng đưa phần tử cung ra ngoài trở về vị trí cũ sau khi đã vô trùng cẩn
thận và đề phòng tái phát.
b. Hộ lý:
Để gia súc ở nơi yên tĩnh với tư thế đầu thấp đuôi cao, buộc đuôi con vật sang một
bên .
c. Thao tác :

- Dùng các dung dịch sát trùng ở nồng độ thích hợp như thuốc tím 0,1-0,2%, axit
boric 3%, NaCl 1-2%, tannin 1% rửa sạch bộ phận tử cung sa ra ngoài, ở loài nhai lại phải
bóc hết những núm nhau con, sau đó tiến hành thắt những mạch máu bị đứt, khâu những
chỗ bị rách, bị thủng rồi dùng các loại kháng sinh dạng mỡ bôi lên phần tử cung sa ra
ngoài, dùng dầu thực vật bôi lên phần tư cung sa ra ngoài sau đó dùng thủ thuật tay đưa sa
phần tử cung sa ra ngoài trở về vị trí cũ, cần chú ý khi làm thủ thuật hết phải sức thận trọng
tránh làm tổn thương, làm rách, làm thủng niêm mạc tử cung.
- Cố định tử cung đề phòng tái phát : ức chế hiện tương rặn bằng phương pháp gây
an thần với bò cho uống hoặc tiêm tĩnh mạch cồn 45
0
. Ức chế cơn rặn đối với trâu bò bằng
cách phong bế lõm khum đuôi (gây tê tủy sống ) bằng Novocain 3% với liều 8-10 ml. Khâu
2/3 phía trên âm hộ bằng chỉ bản to mềm để nguyên 5-7 ngày khi gia súc không còn phản
xạ rặn thì tiến hành cắt chỉ.
- Nên loại thải gia súc ở lứa đẻ sau.
► Câu hỏi củng cố
1/ Hãy nêu nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp bệnh sa tử cung trên bò.
BỆNH TRONG THỜI GIAN SAU KHI SINH CỦA BÒ
BÀI 1
BỆNH SỐT SỮA TRÊN BÒ
► Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Biết được nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp bệnh sốt sữa trên bò
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 20
Đây là quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản đặc biệt là bò sữa cao
sản trong thời gian cho sữa với sản lượng cao nhất. Bệnh thường sảy ra ở bò sữa từ lứa đẻ
thứ 3 đến lứa đẻ thứ 6, trong vòng 3 – 5 ngày sau khi sinh. Đặc điểm của bệnh là bệnh xảy
ra một cách đột ngột và nhanh chóng gây nên tình trạng tê liệt lưỡi, hầu, tứ chi gây rối loạn
tất cả các phản xạ có và không điều kiện.
I. Nguyên nhân
Cho đến nay những nguyên nhân gây ra bệnh nói chung chưa được xác định một

cách rõ rang người ta thấy rằng điều kiện để xảy ra bệnh là do sự giảm canxi huyết một
cách đột ngột sau khi gia súc cái sinh.
- Nguyên nhân chính gây ra bệnh là do sự giảm canxi huyết một cách đột ngột, xuất
hiện khi có một lượng máu tập trung ở bầu vú khi hàm lượng canxi trong sữa cao.
- Có ý kiến cho rằng hiện tượng giảm canxi huyết là do kết quả cúa sự rối loạn chức
năng hoạt động của tuyến phó giáp trạng do tuyến này bị xung huyết trong thời gian sinh.
- Cũng có những ý kiến cho rằng đó là do vỏ tuyến thượng thận hoạt động kém hay
do tuyến tụy hoạt động quá mạnh.
II. Triệu chứng
Bệnh phát sinh một cách đột ngột và tiến triển một cách nhanh chóng từ khi xuất
hiện triệu chứng đầu tiên đến khi xuất hiện triệu chứng điển hình không quá 12 giờ .Con
vật đang hoạt động bình thường đột nhiên bỏ ăn, ngừng nhai lại, sau đó con vật ở trong
trạng thái không yên tĩnh, chân đi loạn choạng, đi thụt lùi, có hiện tượng rung toàn bộ hệ
thống cơ vân sau đó mất hoàn toàn nhu động dạ cỏ cũng như các phản xạ tiêu tiểu. Khám
qua trực tràng thấy bàng quang sưng to chứa đầy nước tiểu, thân nhiệt hạ dần xuống tới 35-
36
0
C. Đầu gốc sừng, gốc tai, da, tứ chi lạnh, lưỡi và hầu bị liệt, nước bọt tích đầy trong
miệng nên thở khò khè, con vật luôn thè lưỡi ra ngoài và nước bọt chảy tự do.
Cuối cùng con vật bị liệt hai chân sau không đứng lên được, con vật nằm với tư thế
đặc biệt nằm phủ đầu gục xuống đất bốn chân thu vào bụng, khi cầm mõm nhấc lên và bỏ
ra thì đầu quẹo về một bên ngực. Con vật ở trong tình trạng hôn mê mất hết cảm giác, đồng
tử mắt mở rộng rọi ánh sáng vào con vật không có phản xạ chop mắt, dùng kim chích vào
da con vật không có phản xạ đau. Bệnh tiến triển rất nhanh, nếu không can thịp kịp thời thì
sau 12-48 giờ 60% trường hơp bò mắc bệnh sẽ bị chết.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 21
III. Can thiệp
a. Sử dụng thuốc
- Nhanh chóng bổ sung canxi qua đường tiêm, nếu được nên tiêm tĩnh mạch: CaCl
2

,
gluconat calcium,… 10-20 g/con.
- Trợ tim mạch: cafein 10-15 ml/con
- Tăng hưng phấn thần kinh cơ: strychnine - B1 10 ml- 20 ml/con.
- Tiêm vitamin ADE: 5 ml/con,sử dụng một lần.
b. Bơm không khí vào đầu vú
Phương pháp điều trị đặc hiệu bệnh này khi khẩn cấp là bơm không khí vào trong
tuyến vú bằng bình song liên cầu, bơm đến khi nào trái vú (lá vú) căng lên, cần chú ý là
không bơm căng quá sẽ dẫn đến vỡ lá vú,nếu bơm non quá sẽ không có tác dụng điều
trị,sau khi bơm đủ không khí thì rút kim ra và dùng dây vải mềm cột chặt nắm vú lại để
không khí không thoát ra ngoài.
- Sau khoảng 0,5-1 giờ thì mở dây buộc ra. Thường sau khi bơm không khí vào
khoảng 30 phút con vật sẽ phục hồi, các phản xạ và cảm giác bắt đầu dần dần hồi phục,
thân nhiệt tăng dần, con vật có thể tự đúng lên được.
- Cơ chế của việc bơm không khí vào tuyến vú để điều trị bệnh sốt sữa là: khi bị
giảm calcium huyết một cách đột ngột làm tê liệt tất cả các đầu mút dây thần kinh cảm giác
đặt biệt ở tuyến vú, khi bơm không khí vào không khí sẽ nhanh chóng lan tỏa ra toàn bộ lá
vú kích thích vào đầu mút dây thần kinh cảm giác trở lại hoạt động và ngay lập tức các
kích thích được truyền về vỏ đại não làm cho vật hưng phấn trở lại, hơn nữa khi bơm
không khí vào còn có tác dụng lam tăng huyết áp hạn chế sự giảm calcium huyết.
Chú ý: Trong quá trình điều trị nếu có cho vật uống thuốc điều trị những chứng kế
phát như chướng hơi dạ cỏ thì cần chú ý rằng do lưỡi và hầu bị liêt thuốc rất dễ rơi vào
phổi làm cho vật bị sặc và ngạt thở và khi con vật đứng dậy cần đỡ cho vật đi vài bước để
tránh hiện tượng ngã đột ngột.
c. Chăm sóc hộ lý
Để con vật nằm yên tĩnh, giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, tăng lượng canxi trong khẩu phần
ăn hằng ngày.
► Câu hỏi củng cố
1/ Hãy nêu nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp bệnh sốt sữa trên bò.
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 22

BÀI 2
BỆNH SÓT NHAU TRÊN BÒ
► Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Biết được nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp bệnh sót nhau trên bò
Trong quá trình sinh bình thường sau khi thai được đẩy ra một thời gian nhất định,
từ 2-4 giờ thường không quá 12 giờ nhau thai sẽ được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ, thời gian kể
trên mà nhau thai không được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ thì gọi là bệnh sót nhau. Tùy vào mức
độ của bệnh người ta phân ra các thể sau:
- Thể sót nhau hoàn toàn: Toàn bộ nhau thai còn trong tử cung cơ thể gia súc mẹ.
- Thể sót nhau không hoàn toàn: Một phần nhau thai còn sót lại trong tử cung cơ thể
gia súc mẹ.
I. Nguyên nhân
- Sau khi sổ (đẩy) thai, tử cung co bóp yếu, sức rặn của gia súc mẹ giảm. Đó có thể
là do trong thời gian mang thai gia súc mẹ thiếu vận động nhất là giai đoạn cuối, khẩu phần
thức ăn thiếu khoáng đặc biệt là calcium. Thai quá to, dịch thai quá nhiều tử cung giãn quá
độ làm giảm đàn tính và co bóp của cơ trơn tử cung. Ngoài ra tất cả những trường hợp đẻ
khó điều ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình co bóp của tử cung, làm giảm sức rặn của con
mẹ dẫn tới nhau thai không thể tách ra khỏi niêm mạc tử cung gia suc mẹ.
- Nhau con và nhau mẹ dính chặt với nhau. Khi viêm nội mạc tử cung, viêm nhau
thai, nhau thai con và nhau thai mẹ dính chặt với nhau nên mặc dù tử cung co bóp bình
thường nhưng nhau thai mẹ và nhau thai con không thể tách rời nhau ra được. Ngoài ra, khi
gia súc mẹ mắc bệnh Brucellosis,Vibrisis thì nhau mẹ và nhau con thường dính chặt với
nhau. Đặt biệt đối với loài nhai lại do mối liên hệ giữa nhau mẹ và nhau con theo hình thức
kết nối vững chắt (cài răng lược) do đó sau khi sổ thai chỉ cần bất kỳ một nguyên nhân nào
đó làm giảm sức rặn của con mẹ đều dẫn tới sót nhau.
II. Triệu chứng
- Ở bò sau thời gian thai ra quá 12 giờ mà nhau thai vẫn không được đẩy ra ngoài,
chỉ có cuốn nhau (dây rốn) hoăc một ít núm nhau con được đẩy ra ngoài treo lòng thòng ở
mép âm hộ, con vật tỏ ra khó chịu luôn cong lưng, cong đuôi để rặn, nếu để lâu (sau 24
giờ) không can thịp nhau sẽ bị thối rữa, phân hủy trong tử cung. Từ cơ quan sinh dục được

thải ra ngoài một hỗn dịch gồm dịch thai, niêm dịch và các tế bào núm nhau bị phân hủy và
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 23
có mùi hôi thối khó chịu, cơ thể dễ lâm vào tình trạng nhiễm trùng huyết, con vật sốt cao,
bỏ ăn, chướng hơi, bội thực dạ dày cỏ.
III. Can thiệp
Nếu quá 14 giờ sau khi thai ra mà nhau không được thải ra ngoài thì cần thiết phải
can thiệp. Có hai phương pháp can thiệp:
a. Dùng phương pháp bảo tồn
Có nghĩa là dùng những biện pháp kích thích làm tăng nhu động tử cung để nhau sót
được tự cơ thể gia súc mẹ đẩy ra.
- Tiêm oxytocin tiêm dưới da tiểu gia súc 5-10UI/con, đại gia súc 10 20UI/con, ngày
2 lần để kích thích tử cung co bóp đẩy nhau thai ra ngoài. Cần chú ý các loại thuốc trên
phải sử dụng sớm, sau 24 giờ hiệu quả sẽ rất thấp. Trường hợp nếu tử cung mất trương lực
cần tiêm estrogen, sau 2-3 giờ tiêm oxytocin.
- Hoặc thay thế oxytocin bằng prostaglandin F2α (PDF2α) tiêm bắp đại gia súc
25mg/con, tiểu gia súc 10mg/con;ngày 1-2 lần.
- Bơm hoặc đặt kháng sinh peniclline, neomycin, tetramycine,… vào tử cung đề
phòng viêm tử cung.
Chú ý: Phương pháp bảo tồn dùng cho trâu bò trước 24 giờ sau khi thai ra.
b. Phương pháp dùng thủ thuật bằng tay để bóc nhau
- Chuẩn bị : cố định gia súc cẩn thận. Dùng nước ấm thụt vào trưc tràng để kích
thích thải phân tránh nhiễm bẩn khi tiến hành thủ thuật. Rửa sạch âm hộ, gốc đuôi và hai
bên mông bằng sát trùng nhẹ, buộc đuôi con vật sang một bên. Cắt nhẵn móng tay, khử
trùng tay bằng dung dịch khử trùng và làm trơn tay bằng vazolin (dầu paraphin). Thục
nước muối ấm 3%,thuốc tím 0,1-0,2% 2-3 lít vào tử cung nhằm kích thích sự tách rời giữa
núm nhau con và núm nhau mẹ.
- Tiến hành bóc tách nhau
Tay trái cầm phần nhau hay cuốn rốn đã bộc lộ ra ngoài, nâng lên và kéo nhẹ. Tay
phải luồng theo cuống dây rốn luồn vào giữa nhau thai và niêm mạc tử cung. Khi tìm được
chỗ núm nhau mẹ và nhau con còn dính nhau. Ngón tay trỏ và ngón giữa kẹp lấy núm nhau

mẹ,dùng ngón tay cái tách dần núm nhau con ra khỏi núm nhau mẹ. Tiến hành như vậy
một cách từ từ, cẩn thận từng núm nhau này đến núm nhau khác. Trong khi bóc nhau phải
chú ý phân biệt những núm nhau mặt trơn bong láng là núm nhau mẹ và nhau con còn dính
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 24
vào nhau, còn những núm nhau mặt xù xì nhám là núm nhau mẹ. Khi bóc nhau cần bóc
từng núm nhau một từ gần đến xa, từ trên xuống dưới, bóc lần lượt đến khi hết. Đối với
những núm nhau ở cuối sừng tử cung, nhất là những bò lớn vì nó ở sâu khó bóc. Tay trái
kéo nhẹ phần nhau thai đã bộc lộ ra ngoài để đầu mút sừng tử cung xích gần lại, tay phải
cho sâu vào để bóc những núm nhau còn lại.
Khi bóc nhau cần chú ý những vấn đề sau:
- Để tránh hiện tượng nhiễm trùng, kích thích tử cung co bóp tạo điều kiện cho mối
liên kết nhau mẹ và nhau con lỏng lẻo hơn, trước khi bóc cần thụt từ 1-2 lít nước muối 1%
ở nhiệt độ 40
o
c vào tử cung.
- Phân biệt núm nhau con, núm nhau mẹ, những nơi núm nhau con và núm nhau mẹ
đã tách khỏi nhau và còn dính với nhau.
- Tuyệt đối không được bóc phần núm nhau mẹ, gây hiện tượng xuất huyết, tổn
thương tử cung.
- Quá trình tiến hành thủ thuật bóc nhau đòi hỏi mất nhiều thời gian, phải kiên nhẫn,
cẩn thận, không được vội vàng cẩu thả tránh hiện tượng xây xát, tổn thương niêm mạc tử
cung.
- Nếu con vật rặn mạnh, cổ tử cung co bóp nhiều có thể ức chế hiện tượng rặn bằng
phương pháp phong bế lõm khum đuôi (gây tê tủy sống).
- Sau khi lấy hết nhau thai ra ngoài, sau đó bơm hoặc đặc trực tiếp kháng sinh vào
trong tử cung ngày 1 lần trong 3 ngày liên tục.
► Câu hỏi củng cố
1/ Hãy nêu nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp bệnh sót nhau trên bò.
BÀI 3
HỘI CHỨNG MMA

(Metritis-Mastitis-Agalactica; viêm tử cung - viêm vú - mất sữa)
► Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Biết được nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp can thiệp bệnh viêm tử cung,
viêm vú, mất sữa trên bò
I. Khái niệm
Bài giảng Bệnh sản khoa trên bò 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×