Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan tại thành phố hồ chí minh thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 169 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------------------------------

NGUYỄN TRỌNG TRÌNH

CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số : 60.38.20

Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2006


ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Luận văn Thạc sỹ luật học
Chuyên ngành : Luật hành chính
Mã số : 60.38.20
Họ và tên : Nguyễn Trọng Trình
Cơ sở đào tạo : Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Tên Luận văn : “ Cải cách thủ tục hành chính trong lónh vực hải

quan tại TP. Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp ”
 MỞ ĐẦU :
1. Giới thiệu lý do, mục đích nghiên cứu đề tài


2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
3. Giới hạn nghiên cứu.
4. Ý nghóa lí luận và thực tiễn của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Nguồn tư liệu
7. Bố cục của luận văn.

,

 Chương 1. Cơ sở lý luận về thủ tục hành chính trong lónh vực hải quan
1.1 Khái niệm và đặc điểm của thủ tục hành chính :
1.1.1 Khái niệm thủ tục hành chính
1.1.2 Đặc điểm của thủ tục hành chính
1.2 Các nguyên tắc của thủ tục hành chính :
1.3 Thủ tục hành chính trong lónh vực hải quan. Mục tiêu, yêu cầu, nội
dung cải cách thủ tục hành chính trong lónh vực hải quan :
1.3.1 Thủ tục hải quan và thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan :
1.3.1.1 Thủ tục hải quan :
1.3.1.2 Thủ tục hành chính trong lónh vực hải quan :
1.3.2 Quy định của pháp luật về thủ tục hành chính trong lónh vựcHải quan
1.3.2.1 Thủ tục khai hải quan
1.3.2.2 Thủ tục kiểm tra, giám sát hải quan
1.3.2.3 Thủ tục kê khai tính thuế và nộp thuế.
1.3.2.4 Thủ tục thông quan hàng hóa.
1.3.2.5 Thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lónh vực hải quan
1.3.2.6 Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1.3.3 Mục tiêu, yêu cầu và nội dung cải cách thủ tục hành chính trong lónh
vực hải quan :
1.3.3.1 Mục tiêu của cải cách thủ tục hành hành chính
1.3.3.2 Yêu cầu của cải cách thủ tục hành hành chính

1


1.3.3.3 Nội dung cải cách thủ tục hành chính trong lónh vực hải quan :
 Chương 2 . Thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính tại Hải
quan thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2001 đến nay.
2.1 Giới thiệu chung về Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.1 Sự ra đời và phát triển của Hải quan TP. Hồ Chí Minh.
2.1.1.1 Giai đoạn 1975 - 1976.
2.1.1.2 Giai đoạn 1976 - 1985.
2.1.1.3 Giai đoạn 1985 – 1994.
2.1.1.4 Giai đoạn 1994 - 2004.
2.1.2 Đặc điểm tình hình của Hải quan thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
2.1.2.1 Đơn vị có lực lượng biên chế đông nhất.
2.1.2.2 Địa bàn hoạt động rộng..
2.1.2.3 Khối lượng công việc nhiều.
2.1.2.4 Phức tạp, rủi ro cao.
2.1.2.5 p lực công việc lớn.
2.2 Thực trạng cải cách thủ tục hành chính tại Cục Hải quan thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 2001 đến nay :
2.2.1 Về hoàn thiện tổ chức bộ máy :
2.2.1.1 Đối với các đơn vị thuộc Cục.
2.2.1.2 Đối với các đơn vị Hải quan cửa khẩu.
2.2.1.3 Nhận xét.
2.2.2 Rà soát, hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác
hải quan
2.2.3 Cải cách thủ tục hải quan theo hướng đơn giản hoá giấy tờ
2.2.3.1 Thực hiện đổi mới tờ khai hải quan
2.2.3.2 Đơn giản hoá bộ hồ sơ hải quan
2.2.4 Cải cách thủ tục kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất

khẩu, nhập khẩu từ quy trình dòng ch3y “ một cửa – một chiều ” sang
quy trình phân luồng xanh, vàng, đỏ đến chế độ “ hậu kiểm ”.
2.2.4.1 Quy trình thủ tục hải quan theo dòng chảy “một cửa-một chiều”
2.2.4.2 Quy trình thủ tục hải quan theo mô hình phân luồng xanh, vàng,
đỏ.
2.2.4.3 Cải cách thủ tục kiểm tra giám sát hải quan từ “ tiền kiểm” sang
“ hậu kiểm ”
2.2.5 Cải tiến quy trình thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
2.2.6 Thực hiện thí điểm thủ tục khai báo và thông quan điện tử
2.2.7 Triển khai thực hiện quy trình thông quan tự động đối với hàng hoá
phát chuyển nhanh tại FedEx thuộc Bưu điện Thành phố.
2.2.8 Thực hiện việc cấp thẻ “xanh” và thẻ “siêu xanh” cho doanh nghiệp.
2


2.2.9 Sắp xếp lại các địa điểm làm thủ tục hải quan hợp lý, thuận tiện cho
doanh nghiệp.
2.2.10 Sử dụngtrang bị kỹ thuật trong thủ tục hải quan.
2.2.11 Giải quyết vướng mắc và quan hệ phối hợp.
2.2.12 Thực hiện biện pháp hạn chế tiêu cực trong lónh vực hải quan.
2.3 Một số đánh giá, nhận xét của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong
nước và quốc tế về kết qủa hoạt động và cải cách thủ tục hành chính
trong ngành Hải quan.
2.4 Những vấn đề tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện cải cách thủ
tục hành chính và nguyên nhân.
2.4.1 Những tồn tại, vướng mắc
2.4.1.1 Về thực hiện quy trình thủ tục hải quan.
2.4.1.2 Về xác định mã số hàng hoá và thời gian làm thủ tục
2.4.1.3 Về xác định trị giá tính thuế theo GATT
2.4.1.4 Về quản lý thu thuế.

2.4.1.5 Vấn đề cấp thẻ xanh và thẻ siêu xanh
2.4.1.6 Công tác kiểm tra sau thông quan.
2.4.2 Nguyên nhân của tồn tại và vướng mắc.
2.4.2.1 Nhận thức của cán bộ, công chức hải quan.
2.4.2.2 Vấn đề về thể chế hành chính
2.4.2.3 Trình độ, năng lực của cán bộ, công chức
2.4.2.4 Cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật phục vụ công tác hải quan
 Chương 3. Những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu qủa cải cách thủ tục
hành chính và công tác hải quan tại Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh.
3.1 Tăng cường công tác giáo dục nhận thức và tinh thần trách nhiệm
đối với cán bộ, công chức hải quan về công tác cải cách cách thủ tục
hành chính
3.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến công tác hải quan :
3.2.1. Tiếp tục rà soát các văn bản pháp luật về hải quan để kiến nghị bổ
sung, sửa đổi hoặc bãi bỏ những quy định không phù hợp.
3.2.1.1 Đối với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc
thực hiện Luật hải quan và Luật hải quan sửa đổi, bổ sung.
3.2.1.2 Hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật theo chủ đề phục
vụ cho việc khai thác sử dụng nhanh và hiệu qủa.
3.2.1.3 Cải tiến cách ban hành nội dung văn bản theo hướng đề ra danh
mục cấm để thuận tiện trong thực hiện.
3.2.1 Ban hành các văn bản pháp luật khác có liên quan:
3.2.2.1 Luật sở hữu trí tuệ
3.2.2.2 Sửa đổi, bổ sung Biểu thuế suất của Luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu năm 2005.
3


3.2.2.3 Tiếp tục hoàn thiện Luật hải quan theo hướng đơn giản hoá thủ
tục theo thông lệ quốc tế

3.2.2.4. Nội luật hoá các cam kết quốc tế về hải quan.
3.3 Tăng cường phối hợp gữa các cơ quan có liên quan với hải quan
3.3.1 Phối hợp với các đơn vị trong ngành Tài chính
3.3.1.1 Đối với Kho bạc và Ngân hàng nhà nước
3.3.1.2 Đối với các đơn vị trong ngành Thuế
3.3.1.3 Đối với các đơn vị tham mưu, quản lý thuộc Bộ Tài chính
3.3.2 Phối hợp với các đơn vị trên địa bàn hoạt động của Hải quan
3.3.3 Phối hợp với chính quyền địa phương.
3.3.4 Phối hợp với các đơn vị trong ngành Hải quan
3.4 Đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức hải quan để có đủ trình độ, phẩm
chất, năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
3.5 Cần có chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc cho cán bộ, công chức
hải quan
3.6 Tổ chức toạ đàm với các doanh nghiệp để tháo gỡ vướng mắc
3.7 Tăng cường công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu tố, khiếu nại
của công dân
3.8 Xây dựng và hiện đại hóa hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế.
3.8.1 Về tổ chức bộ máy.
3.8.2 Về trụ sở làm việc
3.8.3 Về trang thiết bị kỹ thuậtvà công nghệ thông tin
 KẾT LUẬN :
 PHẦN PHỤ LỤC

 TÀI LIỆU THAM KHẢO :

4


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài :
Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước ta hiện nay đang đặt ra vấn đề phải tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân; bảo đảm thực sự trong sạch, vững mạnh; hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả; phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và
quốc phịng. Cụ thể hố đường lối, chủ trương đó của Đảng, ngày 17/9/2001 Thủ tướng
Chính phủ đã ra quyết định số 136/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 với 4 nội dung lớn là cải cách thể chế hành
chính, cải cách bộ máy hành chính, đổi mới và nâng cao chất lượng cán bộ cơng chức
và cải cách nền tài chính cơng. Mục tiêu chung của chương trình này là : “ Xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hố, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả, theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống
hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ”. Tiếp theo, Chính phủ đã đề ra 9 mục tiêu cụ thể, trong
đó mục tiêu thứ hai là : “ Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu,
rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành
chính mới theo hướng cơng khai, đơn giản và thuận tiện cho dân ”.
Là một thành phố lớn, một đầu mối giao lưu quốc tế với sức đóng góp hàng năm
21% về GDP, 29,4% giá trị sản xuất công nghiệp, 37% kim ngạch xuất khẩu và 30%
tổng thu ngân sách cả nước [25,90] Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một trung
tâm nhiều mặt của cả nước, giữ vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế
đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại với mức tăng bình quân 14,5%/năm đã đưa
tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố trong 5 năm từ 2001 đến 2005 đạt 41 tỷ USD.
Các hoạt động buôn bán, trao đổi giao lưu, đầu tư quốc tế trên địa bàn Thành phố Hồ


2


Chí Minh ngày càng tấp nập, nhộn nhịp. Khối lượng hàng hoá xuất, nhập khẩu, hành
khách, phương tiện xuất, nhập cảnh làm thủ tục tại các cửa khẩu đường biển, đường
hàng không của Thành phố không ngừng được tăng lên cả về số lượng và tốc độ. Cùng
với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về thương mại và đầu tư, các chế độ về
quản lý xuất, nhập khẩu cũng được đổi mới kịp thời làm cho hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu ngày càng phong phú, đa dạng về loại hình kinh doanh. Trong thành tích
chung đó của Thành phố Hồ Chí Minh có sự đóng góp khơng nhỏ từ các mặt hoạt động
của Hải quan.
Với niềm vinh dự là người thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan
trên địa bàn thành phố có tầm quan trọng này, Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh
có nhiệm vụ phải thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước, đặc biệt là pháp luật về hải quan để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển
kinh tế của Thành phố và cả nước. Thực tiễn những năm qua cho thấy ngành Hải quan
nói chung và Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, bảo đảm đạt và vượt chỉ tiêu thu
thuế xuất, nhập khẩu hàng năm, tích cực đấu tranh phịng, chống bn lậu, giữ vững an
ninh kinh tế, bảo vệ và tạo thuận lợi để nền sản xuất trong nước phát triển, từng bước
hoà nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực.
Kết quả của cải cách hành chính và đổi mới công tác hải quan được Tổng cục
Hải quan triển khai thực hiện từ năm 1994 đến năm 2001đã tạo ra những chuyển biến
mới trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ và xây dựng lực lượng của Ngành. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tích đã đạt được, trong hoạt động hàng ngày của hải quan vẫn
còn một số quy định, việc làm chưa đạt yêu cầu của chính sách mở cửa, chưa thật sự
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình đất nước và thế giới có nhiều biến đổi.
Một số quy trình thủ tục hải quan chưa được sửa đổi, cải tiến kịp thời; có cán bộ, cơng
chức hải quan còn gây phiền hà, sách nhiễu với tổ chức và công dân trong hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh. Đây là những biểu hiện trái với yêu cầu
của cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan nên cần có những biện pháp



3

tích cực để khắc phục và xố bỏ. Bên cạnh đó, đường lối đổi mới và xu thế hội nhập
quốc tế đang là một thách thức lớn đòi hỏi Hải quan Việt Nam phải tự hồn thiện mình,
phải quyết liệt hơn trong việc cải tiến phương thức, nội dung công tác mà trước hết là
thủ tục hành chính để thích ứng với các yêu cầu nhiệm vụ, làm tròn chức năng quản lý
nhà nước về hải quan và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về hải quan mà nước ta
đã tham gia ký kết, trong đó có vấn đề quan trọng là đơn giản hoá thủ tục hải quan theo
thông lệ quốc tế. Điều này phù hợp với nội dung tại Thông báo số 25 TB-VPCP ngày
06/02/2004 của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính năm 2004 là : “ Tiếp tục rà
soát để sửa đổi, loại bỏ các thủ tục hành chính vẫn đang gây phiền hà, cản trở công
việc làm ăn của dân và doanh nghiệp. trước hết là lĩnh vực hải quan, thuế, đầu tư, xây
dựng cơ bản …”.
Trong bối cảnh nêu trên, nghiên cứu vấn đề “ Cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực hải quan tại Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp ” thực sự là
yêu cầu khách quan bức xúc. Kết qủa nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần hồn thiện
lý luận về cải cách thủ tục hành chính của ngành Hải quan nói chung và Cục Hải quan
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng; đồng thời đánh giá đúng được thực trạng của công
tác này làm cơ sở đề xuất các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
trong lĩnh vực hải quan tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu :
Từ khi xã hội loài người xuất hiện nhà nước, các nhà khoa học trên thế giới đã
quan tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của hoạt động quản lý với cơ cấu tổ chức
bộ máy nhà nước; những vấn đề về cải cách bộ máy hành chính và thủ tục hành chính
nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động của nhà nước. Nhiều tác phẩm và cơng trình của
các nhà khoa học Liên xô (cũ) trong những năm 50-70 của thế kỷ 20 đã có tầm ảnh
hưởng lớn đến việc nghiên cứu, kế thừa và vận dụng ở nước ta như “ Thủ tục hành
chính ở Liên xơ ” của Xalisepva N.G (Nxb Pháp lý -1964), “ Luật thủ tục hành chính ”
của Xơrơkin V.Đ (Nxb Pháp lý -1972)…Trong Giáo trình Luật hành chính xuất bản

năm 2000, khi nói về hoạt động quản lý xã hội và quản lý nhà nước, TS. Nguyễn Cửu


4

Việt đã viết : “…Quản lý các công việc của nhà nước (hay “quản lý nhà nước” hiểu
theo nghĩa rộng) được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước….Quản lý nhà nước ở
đây không phải là quản lý cái tổ chức chính trị gọi là nhà nước mà là sự quản lý có tính
chất nhà nước, do nhà nước thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, trên cơ sở quyền
lực nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước ”[84,88]. Đây
chính là hoạt động chấp hành, điều hành của các cơ quan nhà nước được tiến hành trên
cơ sở và để thi hành luật nhằm thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng của
nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với quan điểm trên cho thấy hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước hoàn toàn phụ thuộc vào tổ chức, bộ máy nhà nước và các
cơ quan nhà nước. Vì vậy, vấn đề cải cách, hồn thiện bộ máy nhà nước chính là để
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Cải cách hành chính là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây
dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được bắt đầu triển khai thực hiện từ năm 1994 theo Nghị quyết 38/CP ngày
04/5/1994 của Chính phủ. Tiếp theo đó là Nghị quyết Trung ương VIII và Quyết định
136/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Để tham mưu cho Chính phủ xây dựng và
cụ thể hố các chương trình về cải cách bộ máy hành chính, nhiều cơng trình khoa học
và bài viết nghiên cứu trao đổi về lĩnh vực này đã được công bố như : Cải cách nền
hành chính Quốc gia ở nước ta của GS.TS Nguyễn Duy Gia (Nxb Chính trị Quốc gia.
Hà Nội,1995); Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt nam do TS.Nguyễn
Trọng Tiến chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia -2001); Cải cách hành chính để quản lý
hành chính và phục vụ công dân tốt hơn của TS. Đinh Văn Mậu (Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, tháng 7/2000); Quá trình cải cách hành chính ở Việt nam trong thời kỳ đổi
mới của TS. Ngơ Quang Thắng (Tạp chí Giáo dục lý luận, tháng 4/2005); Đẩy mạnh

cải cách hành chính nhà nước góp phần xây dựng và hồn thiện Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của TS. Lê Đình Vọng (Tạp chí Thanh tra, tháng 7/1996); Cải
cách nền hành chính nhà nước trong 10 năm đổi mới của PGS.TS Nguyễn Hữu Tri


5

(Tạp chí Quản lý nhà nước, tháng 3/1997); Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của tổ chức, bộ máy hành chính Nhà nước theo Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
của Đỗ Quang Trung (Tạp chí Tổ chức Nhà nước, thắng/2003); Một số vấn đề cần tiếp
tục cải cách nền hành chính ở nước ta của PGS.TS Trần Đình Ty (Tạp chí Thanh tra,
tháng 7/2001); Một số ý kiến về cải cách bộ máy quản lý hành chính hiện nay của TS.
Trần Nho Thìn (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 10/2000); Một số giải pháp để
xây dựng đội ngũ cơng chức hành chính hiện nay của Tơ Tử Hạ (Tạp chí Tổ chức Nhà
nước, số 5/2003); Bàn thêm về giải pháp cải cách bộ máy hành chính nhà nước hiện
nay của Th.S. Bùi Đức Bền (Tạp chí Quản lý nhà nước, số 8/2000); Cải cách hành
chính : Thành quả và định hướng tiếp tục đổi mới của Nguyễn Cúc (Tạp chí Cộng sản
số 22+23, tháng 8/2003)….
Cùng với cả nước bước vào thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới toàn diện,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức được vai trị,
ý nghĩa của cải cách hành chính và nhu cầu bức xúc hàng ngày của nhân dân trên mọi
lĩnh vực nên đã có những chủ trương cải tiến lề lối làm việc nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở các cấp ngay từ năm 1989, khởi đầu bằng
Quyết định số 392/QĐ-UB ngày 04/7/1989 và Chỉ thị số 21/CT-UB ngày 05/7/1989 về
việc thành lập Đoàn nghiên cứu cải tiến thủ tục hành chính, xố bỏ các giấy tờ không
cần thiết, tạo dễ dàng thuận tiện cho nhân dân trên địa bàn Thành phố. Từ đó đến nay,
nhiều cơng trình, đề án nghiên cứu nhằm cụ thể hoá các chủ trương của Thành uỷ và
UBND thành phố Hồ Chí Minh đối với hoạt động cải cách thủ tục hành chính đã được
triển khai thực hiện, trong đó có một số cơng trình, đề án quan trọng như : Cải cách

hành chính theo cơ chế “ một cửa, một dấu ”; mơ hình “ Khốn biên chế và kinh phí
quản lý hành chính ”; “ Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước ”; “ Sử
dụng hệ thống quản lý theo kết quả ”; Ứng dụng hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất
lượng ISO 9002 vào dịch vụ hành chính cơng ”; và đề án “ Thành lập các khu hành
chính tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh”.


6

Đối với ngành Hải quan, năm 1994 khi triển khai thực hiện Nghị quyết 38/CP
của Chính phủ, Tổng cục Hải quan đã xác định cơng tác cải cách hành chính là nhiệm
vụ trung tâm nhằm “ xoá bỏ quan liêu, cửa quyền, phiền hà, sách nhiễu, tạo thuận tiện,
nhanh chóng cho hoạt động xuất, nhập khẩu, đầu tư, du lịch …đảm bảo quản lý chặt
chẽ hơn, giữ vững kỷ cương phép nước về hải quan ”. Để đạt được mục tiêu đó, bên
cạnh thực hiện nhiệm vụ thường xuyên là quản lý nhà nước về hải quan, Tổng cục Hải
quan đã quan tâm đến việc xây dựng các đề án, các cơng trình khoa học làm cơ sở lý
luận và thực tiễn cho công tác cải cách thủ tục hành chính của Ngành. Một số cơng
trình đã có kết qủa như : Hoàn thiện thể chế và xây dựng, ban hành Luật Hải quan thay
thế cho Pháp lệnh Hải quan 1990; Vấn đề xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch,
vững mạnh để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới; Vấn đề đào tạo đội
ngũ cán bộ, công chức hải quan; Vấn đề Hải quan Việt Nam gia nhập và thực hiện các
cam kết quốc tế về hải quan; Có cơng trình đang được tiếp tục nghiên cứu và hoàn
thiện như : Những giải pháp nhằm đơn giản hố thủ tục hải quan theo thơng lệ quốc tế;
Vấn đề quản lý hải quan theo phương pháp quản lý rủi ro v.v… và gần đây nhất là
Chương trình cải cách, phát triển và hiện đại hố ngành Hải quan đến năm 2010.
Trong lĩnh vực hải quan tại Thành phố Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu, tổng kết
kinh nghiệm và kết qủa công tác cải cách thủ tục hành chính trong những năm qua chỉ
mới thực hiện dưới hình thức báo cáo chun đề và báo cáo cơng tác hàng năm nên
chưa có được một sự nghiên cứu đầy đủ, toàn diện kể cả về lý luận và thực tiễn. Năm
2004-2005 có 02 đề tài “ Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan tại

Thành phố Hồ Chí Minh ”của Th.S Đàm Đức Tuyền và “ Đấu tranh phịng chống tội
phạm bn lậu tại Hải quan thành phố Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay ”của Th.S
Nguyễn Đăng Phú. Những đề tài này có nội dung nói về cơng tác hải quan nhưng hồn
tồn khơng đề cập đến cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Tình hình
trên cho thấy nội dung của Luận văn này ngoài sự kế thừa sẽ có những điểm mới dưới
góc độ luật học về quan hệ pháp luật hành chính đối với hoạt động của hải quan tại
Thành phố Hồ Chí Minh.


7

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành
chính trong lĩnh vực hải quan tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Để
thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây :
-

Nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận về cải cách hành chính, cải cách thủ tục

hành chính và thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan.
-

Đánh giá thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan tại

Thành phố Hồ Chí Minh.
-

Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực

hải quan tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.

4. Phạm vi nghiên cứu :
Nội dung hoạt động của hải quan được hầu hết các điều luật của Luật Hải quan
quy định. Bên cạnh đó, hoạt động của hải quan còn được điều chỉnh bởi một số ngành
luật khác trong nước và quốc tế. Vì vậy, trong khn khổ của Luận văn chúng tôi giới
hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu là nội dung của Luật hải quan, các Công ước, Điều
ước quốc tế có liên quan đến thủ tục hải quan mà Hải quan Việt nam đã ký kết hoặc
cam kết thực hiện.
Công tác cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan đã có một q trình
thực hiện lâu dài, có những nội dung đã được cải cách và vẫn phải tiếp tục cải cách để
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của Ngành trong giai đoạn mới. Để các số liệu được cụ
thể và chính xác, chúng tôi giới hạn nghiên cứu trong phạm vi hoạt động của Cục Hải
quan thành phố Hồ Chí Minh và từ khi Luật Hải quan ra đời, có hiệu lực đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới và phát
triển kinh tế, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống hoá, tổng hợp, phân tích, đối chiếu
và so sánh để thực hiện đề tài.


8

6. Nguồn tư liệu :
Nội dung của Luận văn có liên quan đến một mảng cơng tác lớn trong Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước của Chính phủ giai đoạn 2001-2010 nên
có được một nguồn tư liệu rất phong phú. Đó là chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng qua các Văn kiện Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII,IX và X về
đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; các văn bản pháp luật có liên quan đến cơng tác hải quan trong nước và quốc tế;
các chủ trương, nghị quyết của Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về

cải cách hành chính tại địa phương; các giáo trình về luật hành chính; các cơng trình
nghiên cứu khoa học, bài viết nghiên cứu, trao đổi của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước
và các nhà khoa học về cải cách nền hành chính nhà nước ở nước ta; các Điều ước
quốc tế có liên quan đến hải quan; những đánh giá, nhận xét của các doanh nhân, tổ
chức kinh tế trong nước và nước ngoài đối với Hải quan Việt Nam từ khi có Luật Hải
quan ra đời và thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Ngồi ra, các báo cáo sơ kết, tổng
kết cơng tác năm, báo cáo kết qủa cải cách thủ tục hành chính của ngành Hải quan và
Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh là nguồn cung cấp các số liệu có giá trị làm sinh
động thêm cho đề tài.

7. Kết cấu của Luận văn :
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn được bố cục thành 3 chương như sau :
Chương 1 : Cơ sở lý luận về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Chương 2 : Thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính tại Cục Hải quan
thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2001 đến nay.
Chương 3 : Các giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
hải quan tại Thành phố Hồ Chí Minh.
------------


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN
1.1 Khái niệm và đặc điểm của thủ tục hành chính :
1.1.1 Khái niệm thủ tục và thủ tục hành chính :
Khi nghiên cứu các hoạt động diễn ra trong đời sống hàng ngày người ta nhận ra
rằng các hoạt động đó đều được thực hiện bằng những hành động nối tiếp nhau theo

thứ tự thời gian và cách thức nhất định. Trình tự và cách thức đó được gọi là thủ tục.
Thủ tục ấy cũng được coi là hình thức đối với nội dung hoạt động. Đối với hoạt động
quản lý cũng vậy, nó được diễn ra và tồn tại hình thức của thủ tục quản lý. Vậy thủ tục
là gì ?
Trong khoa học pháp lý khái niệm thủ tục thường được áp dụng ở khía cạnh thực
hiện quy phạm của luật vật chất. Theo C.Mác, thủ tục là hình thức sống của đạo luật và
luật vật chất có hình thức thủ tục riêng của nó. Cho nên, thủ tục ở đây được hiểu là
trình tự và cách thức thực hiện những hành động nhất định nhằm đạt tới những hệ qủa
pháp lý mà phần quy phạm vật chất dự kiến trước. Trong quản lý nhà nước, ngồi tính
kế tiếp, liên tục của hành động (trình tự), cịn có cả phương pháp và cách thức hành
động. Phương pháp và cách thức hành động này có ý nghĩa rất quan trọng và được quy
định bởi luật – đó là luật hành chính.
Như vậy, khái niệm thủ tục bao hàm khái niệm trình tự và cách thức hiện các
hành động đó. Từ vấn đề nêu trên cho thấy, thủ tục hành chính là tồn bộ những thủ tục
của hoạt động quản lý được luật hành chính quy định.
Hiện nay, cả trong nước và trên thế giới khái niệm thủ tục hành chính chưa có
quan điểm thống nhất về mặt phạm vi. Có tác giả cho rằng thủ tục hành chính là trình
tự mà luật hành chính quy định, theo đó các cơ quan nhà nước giải quyết các tranh
chấp về quyền và xử lý vi phạm pháp luật. Một số tác giả khác coi đó là trình tự do luật
hành chính quy định, trên cơ sở đó các cơ quan quản lý nhà nước được giải quyết mọi


10

vụ việc cá biệt cụ thể. Cũng có quan điểm khác (quan điểm thứ ba) cho rằng thủ tục
hành chính là trình tự và cách thức do luật hành chính quy định nhằm thực hiện mọi
hình thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, tức là bao gồm khơng chỉ trình tự
và cách thức thực hiện hoạt động sáng tạo pháp luật. Quan điểm này được nhiều nhà
nghiên cứu luật của Việt Nam ủng hộ vì phạm vi của khái niệm thủ tục hành chính
rộng hơn và hợp lý hơn.

1.1.2 Đặc điểm của thủ tục hành chính :
Từ các quan điểm nêu trên cho thấy thủ tục hành chính có 3 đặc điểm sau :
- Thứ nhất, thủ tục hành chính phải được luật hành chính quy định chặt chẽ. Đây
cũng chính là đặc điểm quan trọng nhất của thủ tục hành chính bởi, trong thực tiễn
quản lý có rất nhiều loại hoạt động, có những hoạt động được luật hành chính điều
chỉnh nhưng cũng có loại hoạt động khơng được các quy phạm của luật hành chính quy
định. Vì thế, chỉ những hoạt động cụ thể nào được quy phạm pháp luật hành chính điều
chỉnh mới được coi là thủ tục hành chính.
- Thứ hai, xuất phát từ việc chủ thể có quyền xem xét và ra quyết định theo trình
tự mà luật hành chính quy định là cơ quan quản lý nhà nước nên thủ tục hành chính
chủ yếu được thực hiện ngồi trình tự tồ án. Đây chính là sự khác biệt giữa thủ tục
hành chính với thủ tục giải quyết các vụ kiện tại các toà án dân sự, kinh tế và lao động.
Điều này cũng cho thấy hoạt động tố tụng ở các tồ án có mục đích thực hiện phần chế
tài hoặc phần quy định của quy phạm vật chất của luật hành chính và nhiều ngành luật
khác nếu được hiểu theo nghĩa rộng của loại quan điểm thứ ba nêu trên.
- Thứ ba, các quy phạm thủ tục hành chính khơng chỉ quy định trình tự thủ tục
thực hiện quy phạm vật chất của luật hành chính mà cịn quy định trình tự thủ tục thực
hiện đối với các quy phạm vật chất của các ngành luật khác như luật đất đai, tài chính,
dân sự, khống sản, lao động, hải quan …Chúng được thể hiện rõ nhất trong loại thủ
tục giải quyết các tranh chấp và xử lý các loại vi phạm pháp luật khác nhau do các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện.


11

1.2 Các nguyên tắc của thủ tục hành chính :
Thủ tục hành chính Việt Nam được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc được
Hiến pháp Việt Nam quy định trực tiếp hoặc gián tiếp, được các văn bản pháp luật
khác cụ thể hoá và bổ sung. Sau đây là những nguyên tắc cơ bản của thủ tục hành
chính :

1.2.1 Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa :
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa của thủ tục hành chính có cơ sở là Điều 12
của Hiến pháp 1992: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa …”. Ngun tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa có mục
đích bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Áp dụng
nguyên tắc này vào thủ tục hành chính có nghĩa là chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm
quyền do luật định mới được thực hiện các thủ tục hành chính nhất định, và phải thực
hiện đúng trình tự được pháp luật quy định với những biện pháp và hình thức được
pháp luật cho phép. Thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa còn là sự bảo đảm
quyền khiếu nại của các chủ thể tham gia quan hệ thủ tục hành chính.
1.2.2 Ngun tắc khách quan :
Ngun tắc này cịn gọi là nguyên tắc chân lý khách quan, vì thực tế khách quan
là thước đo chân lý. Nguyên tắc này có quan hệ trực tiếp đến nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa và nguyên tắc xử lý công khai, minh bạch. Trong hoạt động quản lý nhà
nước và trong quan hệ pháp luật hành chính nếu khơng bảo đảm ngun tắc này, cơ
quan có thẩm quyền rất dễ bị ngộ nhận, ra quyết định quản lý không đúng và do đó sẽ
khơng có pháp chế hoặc vi phạm pháp luật.
1.2.3 Nguyên tắc công khai, minh bạch :
Đây là nguyên tắc chung của thủ tục hành chính. Nghĩa là, khi giải quyết các vấn
đề cụ thể thuộc các lĩnh vực như thủ tục cấp giấy phép xây dựng, đăng ký hộ khẩu, xin
cấp thị thực xuất cảnh, nhập cảnh, cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục hải quan hay thủ
tục ban hành các quyết định quản lý nhà nước quan trọng (trừ những vấn đề thuộc bí
mật quốc gia cần hạn chế) v.v…cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành phải công


12

khai thông báo, hướng dẫn tỉ mỉ cho đương sự biết để thực hiện. Nguyên tắc công khai,
minh bạch nếu được đảm bảo thì sẽ thực hiện tốt nguyên tắc chân lý khách quan và
mối quan hệ này sẽ tác động thúc đẩy lẫn nhau.

1.2.4 Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật giữa các bên tham gia thủ tục
hành chính :
Nguyên tắc này chủ yếu được áp dụng trong thủ tục giải quyết các tranh chấp về
quyền hoặc các vi phạm pháp luật. Trong loại thủ tục này, các bên, khơng phân biệt đó
là cơng dân hay cơ quan nhà nước, không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc … đều
có quyền và nghĩa vụ như nhau như quyền chứng minh, đưa chứng cứ biện hộ cho
mình, quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục hành chính xem xét kỹ
lưỡng mọi u cầu của mình; có quyền tham gia vào mọi giai đoạn của thủ tục giải
quyết tranh chấp.
1.2.5 Nguyên tắc đơn giản, tiết kiệm :
Đây là một nguyên tắc quan trọng nhằm bảo đảm cho mọi cơng dân có thể tham
gia các thủ tục hành chính để bảo vệ quyền của mình hoặc của tổ chức, công dân khác.
Thực hiện nguyên tắc đơn giản, tiết kiệm sẽ làm giảm các chi phí về tiền, phương tiện,
người, thời gian của Nhà nước và do đó nâng cao được chất lượng hoạt động quản lý
nói chung và của thủ tục ban hành các quyết định nói riêng, nhất là bảo đảm cho việc
giải quyết các vụ việc được kịp thời. Thực tế cho thấy thời gian qua việc bỏ hẳn một số
loại phí, thuế đối với công dân hoặc giảm một số bước, cấp trong giải quyết thủ tục
hành chính, thủ tục khiếu nại đồng thời tăng quyền và trách nhiệm của một số cơ quan
nhà nước đã thể hiện cụ thể việc thực hiện nguyên tắc này.
1.2.6 Nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời :
Nguyên tắc này được thể hiện trong các văn bản pháp luật quan trọng về các loại
thủ tục hành chính cụ thể, được quy định dưới dạng nguyên tắc chung; đồng thời được
cụ thể hoá bằng các chương, điều về thời hiệu xử lý, thời hạn thi hành quyết định xử lý,
thời gian thực hiện các bước thủ tục hành chính v.v…Trong hoạt động quản lý nhà


13

nước, việc ban hành các quyết định quản lý nhà nước càng phải tuân thủ nguyên tắc
này.

1.2.7 Nguyên tắc thể hiện trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc
thực hiện đúng đắn và nghiêm túc thủ tục hành chính :
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Các quy định của Hiến
pháp nước ta đã có những quy định về bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân,
quyền tự do thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và
nhân phẩm, quyền tự do cư trú, đi lại v.v…Vì vậy, các quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước ban hành không đúng thủ tục do luật định có thể bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi
bỏ và người có trách nhiệm trong việc ban hành các quyết định đó có thể bị truy cứu
trách nhiệm. Trong các văn bản pháp luật về thủ tục hành chính đều có những điều cụ
thể về xử lý những người có thẩm quyền vi phạm các quy định của thủ tục hành chính.
1.2.8 Nguyên tắc hạn chế số cấp xử lý :
Nguyên tắc này rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với các thủ tục
hành chính khi giải quyết các cơng việc cụ thể. Thực tiễn cho thấy việc giảm bớt số cấp
xử lý thì nhiều cơng việc giải quyết được nhanh chóng, đơn giản hơn và hiệu qủa quản
lý vì thế cũng được nâng cao hơn. Đây chính là tiền đề để thực hiện cải cách hành
chính theo hướng “ một cửa, một dấu ”.
1.3 Thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Mục tiêu, yêu cầu, nội dung
cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan :
1.3.1 Thủ tục hải quan và thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan :
1.3.1.1 Thủ tục hải quan :
Luật hải quan được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ IX thơng qua ngày 29/6/2001
và được Chủ tịch nước công bố bằng Lệnh số 10/2001/L-CTN ngày 12/7/2001. Luật có
hiệu lực từ ngày 01/01/2002. Luật hải quan gồm 8 chương và 82 điều, quy định chế độ
quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh,
phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài; quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan Hải quan Việt Nam. Sau


14


gần 4 năm thực hiện, trước những yêu cầu đổi mới của đất nước, ngày 14/6/2005 tại kỳ
họp thứ 7 Quốc hội khố XI đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
hải quan. Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Như vậy, so với Pháp lệnh hải quan
1990, Luật hải quan ra đời và nay là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải
quan đã làm thay đổi căn bản các quy định về thủ tục hải quan và chế độ quản lý nhà
nước về hải quan. Vậy, thủ tục hải quan là gì ?
Tại điều 4 của Luật hải quan về giải thích từ ngữ, thủ tục hải quan được hiểu như
sau :
Thủ tục hải quan là công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan
phải thực hiện theo quy định của Luật hải quan đối với hàng hoá , phương tiện vận tải.
Về nội dung của thủ tục hải quan, điều 16 Luật hải quan và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật hải quan quy định :
1. Khi làm thủ tục hải quan người khai hải quan phải :
a) Khai và nộp tờ khai hải quan; nộp, xuất trình chứng từ thuộc hồ sơ hải quan;
trong trường hợp thực hiện thủ tục hải quan điện tử, người khai hải quan được khai và
gửi hồ sơ hải quan thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử của Hải quan.
b) Đưa hàng hoá, phương tiện vận tải đến địa điểm được quy định cho việc kiểm
tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải.
c) Nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật
2. Khi làm thủ tục hải quan, công chức hải quan phải :
a) Tiếp nhận và đăng ký hồ sơ hải quan; trong trường hợp thực hiện thủ tục hải
quan điện tử, việc tiếp nhận và đăng ký hồ sơ hải quan được thực hiện thông qua hệ
thống xử lý dữ liệu điện tử của Hải quan.
b) Kiểm tra hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải.
c) Thu thuế và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
d) Quyết định việc thơng quan hàng hố, phương tiện vận tải.
Như vậy, theo quy định của điều này, chủ thể tham gia thủ tục hải quan được
chia thành 2 nhóm: người khai hải quan (bao gồm chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận



15

tải hoặc người được chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải uỷ quyền) và công chức hải
quan.
1.3.1.2 Thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan :
Hoạt động của hải quan là hoạt động quản lý nhà nước, tức là hoạt động chấp
hành, điều hành nhằm thực hiện Luật hải quan trên thực tế. Do vậy, gần như toàn bộ
hoạt động của hải quan được thể hiện trong quan hệ pháp luật hành chính. Điều này
cho thấy thực chất của thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan cũng chính là các thủ
tục được Luật hải quan quy định nhưng đã được cụ thể hố và mang tính chất hành
chính. Ví dụ : Khi thực hiện nhiệm vụ khai báo hải quan, ngoài những nội dung đã
được điều 16 của Luật hải quan quy định về trách nhiệm của người khai hải quan và
trách nhiệm của công chức hải quan, Luật còn quy định về thời gian nộp tờ khai, bộ hồ
sơ hải quan, quyền và nghĩa vụ cũng như trình tự các bước tiến hành thủ tục khai báo
và làm thủ tục hải quan.
Có thể nhận thấy một cách rõ ràng là thủ tục hải quan và thủ tục hành chính
trong lĩnh vực hải quan ở mức độ nào đó có sự đồng nhất nhưng xét về phạm vi có sự
khác nhau. Thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan có phạm vi rộng hơn và bao
trùm lên tồn bộ các khâu cơng tác của hải quan, thể hiện tính chất của hoạt động quản
lý, hoạt động chấp hành, điều hành. Bên cạnh đó, chủ thể tham gia quan hệ thủ tục
hành chính trong lĩnh vực hải quan khơng chỉ giới hạn ở 2 nhóm là người khai hải quan
và cơng chức hải quan mà cịn được mở rộng hơn, có cả người bị hại, người làm chứng
và cả người đại diện quyền lợi cho các bên như trong thủ tục giải quyết khiếu nại và xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan .
1.3.2 Quy định của pháp luật về thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan :
Theo Luật hải quan, các loại thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan được thể
hiện trong các khâu nghiệp vụ chủ yếu của hải quan, gồm có :
-

Thủ tục khai hải quan.


-

Thủ tục kiểm tra, giám sát hải quan.

-

Thủ tục kê khai tính thuế và nộp thuế.


16

-

Thủ tục kiểm tra sau thông quan.

-

Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.

-

Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Gần đây có thêm “ thủ tục hải quan điện tử ”, là một hình thức thủ tục bao gồm
hầu hết các loại thủ tục nói trên nhưng được thực hiện qua mạng điện tử của cơ quan
hải quan. Ngoài những thủ tục nêu trên, Luật hải quan còn dành Chương IV để quy
định về quyền hạn và trách nhiệm của hải quan trong việc bắt giữ, khám xét, khởi tố
nhằm thực hiện nhiệm vụ phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hố qua
biên giới. Những hoạt động đó cũng phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục hành chính do

pháp luật quy định.
Sau đây là những quy định của pháp luật về các thủ tục hành chính mang tính
thường xuyên trong lĩnh vực hải quan :
1.3.2.1 Thủ tục khai hải quan :
Khai hải quan là một nội dung rất quan trọng trong công tác hải quan, là yêu cầu
bắt buộc và là căn cứ để thực hiện thủ tục hải quan. Vì vậy, nó được Luật hải quan quy
định ngay tại điểm a, khoản 1 điều 16 khi nói về trách nhiệm của người khai hải quan.
Hình thức khai hải quan từ trước đến nay chủ yếu vẫn được thực hiện bằng việc khai
trên hồ sơ giấy. Tuy nhiên, do yêu cầu cải cách và hiện đại hóa, ngành Hải quan đã
triển khai áp dụng thí điểm hình thức khai hải quan qua mạng điện tử đối với một số
địa phương có điều kiện như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phịng, Hà Nội….Cho dù
bằng hình thức nào của thủ tục khai hải quan, vấn đề quan trọng nhất vẫn là thời hạn
khai và nộp tờ khai. Tuỳ theo từng loại đối tượng phải khai hải quan mà điều 18 Luật
hải quan quy định cụ thể như sau :
-

Hàng hoá nhập khẩu được thực hiện trước ngày hàng hoá đến cửa khẩu hoặc

trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hàng hoá đến cửa khẩu.
-

Hàng hoá xuất khẩu được thực hiện chậm nhất là 08 giờ trước khi phương

tiện vận tải xuất cảnh.


17

-


Hành lý mang theo người nhập cảnh, xuất cảnh được thực hiện ngay khi

phương tiện vận tải đến cửa khẩu nhập và trước khi tổ chức vận tải chấm dứt việc làm
thủ tục nhận hành khách lên phương tiện vận tải xuất cảnh. Hành lý gửi trước hoặc sau
chuyến đi của người nhập cảnh được thực hiện như quy định đối với hàng hoá nhập
khẩu (khoản 1 điều 18).
-

Hàng hoá, phương tiện vận tải quá cảnh được thực hiện ngay khi hàng hoá,

phương tiện vận tải đến cửa khẩu nhập đầu tiên và trước khi hàng hoá, phương tiện vận
tải qua cửa khẩu xuất cuối cùng.
-

Phương tiện vận tải đường biển xuất cảnh, nhập cảnh được thực hiện chậm

nhất 02 giờ sau khi cảng vụ thông báo phương tiện vận tải đã đến vị trí đón trả hoa tiêu
và 01 giờ trước khi phương tiện vận tải xuất cảnh.
-

Phương tiện vận tải đường hàng không xuất cảnh, nhập cảnh được thực hiện

ngay khi các phương tiện vận tải đến cửa khẩu và trước khi tổ chức vận tải chấm dứt
việc làm thủ tục nhận hàng hoá xuất khẩu, hành khách xuất cảnh.
-

Phương tiện vận tải đường sắt, đường bộ và đường sông xuất cảnh, nhập

cảnh được thực hiện ngay khi các phương tiện vận tải đến cửa khẩu nhập đầu tiên và
qua cửa khẩu cuối cùng để xuất cảnh.

Cùng với điều 18, một số điều khác của Luật hải quan cịn quy định về trình tự,
hình thức và nội dung của thủ tục khai hải quan như : Khoản 1 và 2 điều 19 quy định
trách nhiệm của công chức hải quan khi làm thủ tục tiếp nhận, đăng ký và kiểm tra hồ
sơ hải quan, thời gian hoàn thành việc kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải;
điều 20 quy định về nội dung và hình thức khai hải quan thống nhất theo quy định của
Bộ Tài chính ( khai bằng hồ sơ giấy hoặc khai điện tử ); điều 22 quy định về bộ hồ sơ
hải quan; điều 23 về quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan.
1.3.2.2 Thủ tục kiểm tra, giám sát hải quan :
Kiểm tra, giám sát hải quan là hoạt động thể hiện chức năng quản lý nhà nước của
hải quan. Đây cũng chính là nguyên tắc chung và xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động
của hải quan đã được điều 15 của Luật hải quan quy định.


18

a) Kiểm tra hải quan : Theo điều 4 Luật hải quan, kiểm tra hải quan được hiểu
là việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng từ có liên quan và kiểm tra thực tế hàng hoá
phương tiện vận tải do cơ quan hải quan thực hiện. Thuật ngữ “ kiểm tra hải quan ”
theo thông lệ quốc tế đồng nghĩa với “ Custom Inspection ” và một phần với “ Custom
Control ”. Trên cơ sở đó, Phụ lục A1của Công ước KYOTO định nghĩa : “ Kiểm tra hải
quan là các biện pháp được Hải quan sử dụng nhằm bảo đảm rằng hàng hoá được quản
lý theo đúng quy định của pháp luật ”.
 Nội dung, hình thức kiểm tra hồ sơ hải quan được điều 28 Luật hải quan quy
định như sau :
1. Hồ sơ giấy được kiểm tra, đăng ký theo một trong các hình thức sau đây :
a) Hồ sơ hải quan của chủ hàng chấp hành tốt pháp luật hải quan được đăng ký
sau khi cơ quan hải quan kiểm tra việc ghi đủ nội dung yêu cầu trên tờ khai hải quan,
số lượng các chứng từ kèm theo tờ khai hải quan;
b) Hồ sơ hải quan không thuộc quy định tại điểm a, khoản 1 Điều này được đăng
ký sau khi cơ quan hải quan đã tiến hành kiểm tra chi tiết. Khi tiếp nhận hồ sơ hải

quan, công chức hải quan kiểm tra việc khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai hải
quan, chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự phù hợp của nội dung khai hải quan và chứng
từ thuộc hồ sơ khai hải quan; đăng ký hồ sơ hải quan theo quy định của pháp luật;
trong trường hợp không chấp nhận đăng ký hồ sơ khai hải quan thì phải thơng báo cho
người khai hải quan biết.
2. Hồ sơ điện tử được kiểm tra, đăng ký, phân loại thông qua hệ thống xử lý dữ
liệu điện tử của Hải quan.
 Việc kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu dựa trên kết qủa khai báo
hải quan đã được cơ quan Hải quan cho đăng ký. Điều 29 Luật hải quan quy định căn
cứ và thẩm quyền quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu
để thông quan :
- Về căn cứ : Căn cứ để quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hố xuất
khẩu, nhập khẩu là q trình chấp hành pháp luật của chủ hàng; chính sách quản lý


19

hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu của Nhà nước; tính chất, chủng loại, nguồn gốc hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu; hồ sơ hải quan và các thơng tin khác có liên quan đến hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Về thẩm quyền : Thủ trưởng cơ quan hải quan nơi tiếp nhận và xử lý hồ sơ hải
quan quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và thay đổi
hình thức kiểm tra được quy định tại điều 30 Luật hải quan.
Hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được điều 30 Luật hải
quan quy định là :
1. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được miễn kiểm tra thực tế khi thuộc một trong
các trường hợp :
a) Hàng hoá xuất khẩu, trừ hàng hoá xuất khẩu sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu
và hàng hố xuất khẩu có điều kiện.
b) Hàng hố từ nước ngoài đưa vào khu thương mại tự do, cảng trung chuyển,

kho ngoại quan; hàng hoá quá cảnh; hàng hoá cứu trợ khẩn cấp; hàng hoá chuyên dùng
trực tiếp phục vụ quốc phịng, an ninh; hàng hố viện trợ nhân đạo và hàng hố tạm
nhập tái xuất có thời hạn.
c) Hàng hố nhập khẩu là máy móc, thiết bị tạo tài sản cố định thuộc diện được
miễn thuế của dự án đầu tư.
2. Ngoài những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu của chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về hải quan, hàng hoá thuộc các
trường hợp đặc biệt khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng được miễn
kiểm tra thực tế.
3. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của chủ hàng đã nhiều lần vi phạm pháp luật
về hải quan; hàng hoá thuộc diện miễn kiểm tra thực tế quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều này mà phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan phải được kiểm tra
thực tế.
4. Hàng hố khơng thuộc quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, căn cứ vào
kết qủa phân tích thơng tin từ cơ sở dữ liệu, từ trinh sát hải quan, từ cơ quan, tổ chức,


20

cá nhân và Hải quan các nước mà xác định có khả năng vi phạm pháp luật về hải quan
phải được kiểm tra thực tế. Đối với các trường hợp được nêu tại khoản 3 và 4 nói trên,
việc kiểm tra thực tế được áp dụng với tồn bộ lơ hàng mà không kiểm tra theo xác
suất.
5. Việc kiểm tra thực tế hàng hố do cơng chức hải quan kiểm tra trực tiếp hoặc
kiểm tra bằng máy móc, thiết bị kỹ thuật, các biện pháp nghiệp vụ khác với sự có mặt
của người khai hải quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ sau khi đăng ký hồ sơ
hải quan và hàng hoá đã được đưa đến địa điểm kiểm tra.
6. Hàng hoá là động vật, thực vật sống, khó bảo quản; hàng hố đặc biệt khác
được ưu tiên kiểm tra trước.
Trong thực tiễn công tác hải quan khi tiến hành kiểm tra thực tế hàng hố khơng

phải lúc nào cũng có mặt người khai hải quan hoặc đại diện hợp pháp của họ như
khoản 5 Điều này quy định mà có những trường hợp cơ quan Hải quan phải kiểm tra
thực tế hàng hoá vắng mặt người khai hải quan. Điều 31 Luật hải quan quy định những
trường hợp cụ thể đó là :
-

Để bảo vệ an ninh.

-

Để bảo vệ vệ sinh mơi trường.

-

Hàng hố có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

-

Hàng hoá quá thời hạn quy định mà người khai hải quan không đến làm thủ
tục hải quan.

-

Theo đề nghị của người khai hải quan.
b) Giám sát hải quan :

Giám sát hải quan (Custom Control) được Công ước KYOTO định nghĩa là “ các
biện pháp được áp dụng để đảm bảo tuân thủ pháp luật và các quy định mà Hải quan có
trách nhiệm kiểm sốt ”. Cịn theo điều 4 Luật Hải quan Việt nam thì : “ Giám sát hải
quan là các biện pháp nghiệp vụ do cơ quan hải quan áp dụng để bảo đảm sự nguyên

trạng của hàng hoá, phương tiện vận tải đang thuộc đối tượng quản lý hải quan ”. Như
vậy, với cách hiểu trên, khái niệm về “ giám sát hải quan ” của ta hoàn toàn phù hợp


×